Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương bảy mươi và bảy mươi mốt - NGŨ THƯỜNG CHÍNH ĐẠI LUẬN THiÊN
Chương bảy mươi và bảy mươi mốt - NGŨ THƯỜNG CHÍNH ĐẠI LUẬN THiÊN
25/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Thái hư rộng thẳm, năm vận xoay vần; suy thinh không giống, tổn ích cùng theo. Xin cho biết thế nào là bình khí? Vì sao mà có tên?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Mộc gọi là Phu hòa; Hỏa gọi là Thăng minh; Thổ gọi là Bị hóa; Kim gọi là Thẩm bình; Thủy gọi là Tĩnh thuận (1).

 - Bất cập thời gọi là gì?

 - Mộc gọi là Ủy hòa; Hỏa gọi là Phục minh; Thổ gọi là Tỵ giam; Kim gọi là Tùng cách; Thủy gọi là Hạc lưu (2).

 - Thái quá thời gọi là gì?

 - Mộc gọi là Phát sinh; Hỏa gọi là Hách hy; Thổ gọi là Đôn phụ; Kim gọi là Kiên thành; Thủy gọi là Lưu diễn (3).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết các chứng hậu phát sinh do ba khí trên đó như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Về năm Phu hòa, lệnh của nó là phong; Tàng của nó là Can; nó sơ thanh (tức Kim); nó khai khiếu lên mắt, nó nuôi ở cân. Nếu bệnh, sẽ lý cấp, chi mãn; Vị của nó thuộc toan.

 Về năm Thăng minh, lệnh của nó là nhiệt; Tàng của nó là Tâm; Tâm sợ hàn (Thủy); nó chủ về lưỡi, nó nuôi ở huyết; nếu bệnh, sẽ nhuận khiết (tức thịt rùng và rút gân); Vị của nó thuộc khổ.

 Về năm Bị hóa, lệnh của nó là thấp; Tàng của nó là Tỳ; Tỳ sợ phong (tức phong Mộc); nó chủ về miệng, nó nuôi nhục. Nếu bệnh, sẽ thành chứng bĩ; Vị của nó thuộc cam.

 Về năm Thẩm bình, lệnh của nó là táo; Tàng của nó là Phế; Phế sợ nhiệt; nó chủ về mũi, nó nuôi ở bì mao. Nếu bệnh, sẽ phát khái (ho); Vị của nó thuộc tân.

 Về năm Tĩnh thuận, lệnh của nó là hàn; Tàng của nó là Thận, Thận sợ thấp (Thổ), nó chủ về hai đường âm (tiền, hậu âm). Nếu bệnh, sẽ thành chứng quyết; Vị của nó thuộc hàm.

 Cho nên, sinh mà chớ sai, trưởng mà chớ phạt, hóa mà chớ chế, thâu mà chớ hại, tàng mà chớ ức (nén xuống). Như thế gọi là bình khí. (4).

***

 Về năm Ủy hòa, tức là Mộc vận bất cập. Do đó, cái khí "sở thắng", nó sẽ thắng được sinh khí, Kim khí đã thắng thời Mộc không thể phát triển được chính lệnh của mình. Do đó Thổ không còn úy kỵ gì nữa. Mộc suy thời Hỏa khí cũng không thể thịnh; Phàm bệnh hay phát sinh tại Can tàng.

 Về năm Phục minh, tức là Hỏa vận bất cập; Hỏa vận bất cập, nên cái khí của Thủy tàng lại được tự do tán bố; Kim cũng không còn phải sợ, cho nên thâu khí được tự chủ chính lệnh. Do đó Thổ khí cũng không được thịnh, và bệnh hay phát sinh tại Tâm tàng.

 Về năm Tỵ giam, tức là năm Thổ vận bất cập. Vì Thổ bất cập, nên Mộc nó thắng lại được, khiến hóa khí không còn thi triển được chính lệnh. Cũng do đó mà thâu khí phải bình. Mộc với Hỏa đã được hoành hành nên mưa gió có luôn. Mà bệnh hay phát sinh tại Tỳ tàng.

 Về năm Tùng cách, tức là năm Kim vận bất cập. Vì Kim bất cập, nên Mộc không còn sợ hãi. Bệnh hay phát sinh tại Phế tàng.

 Về năm Hạc lưu, tức là năm Thủy vận bất cập. Vì Thủy bất cập, nên Dương khí lại thắng mà được tự do phát triển; cũng do đó mà hóa lệnh của Thổ cũng được xương thịnh, và Hỏa không còn úy kỵ, nên khí dương nhiệt mới có thể tràn lan bốn cõi. Bệnh hay phát sinh tại Thận tàng.

 Xem đó thời biết: Thừa sự nguy mà tiến hành không phải mời mà tự đến. Nếu bạo ngược không có đức, thời tai hại tới ngay. Nhỏ thời báo phục nhỏ, nặng thời báo phục nặng, đó là cái thường của khí (5).

***

 Về năm Phát sinh, tức  là tuế Mộc thái quá. Vị của nó toan, cam, tân; nó tượng về mùa xuân; Kinh của nó là túc Thiếu dương, Quyết âm; Tàng của nó là Can và Tỳ; bệnh của nó là nộ, khí nghịch và thổ lợi. Nếu không chủ ở đức, thời Kim khí lại phục, tà sẽ thương Can.

 Về năm Hách hy, tức là tuế Hỏa thái quá. Vị của nó là khổ, tân, hàm; nó tượng về mùa hạ. Kinh của nó là thủ Thiếu âm, Thái dương, thủ Quyết âm Thiếu dương; Tàng của nó là Tâm với Phế; bệnh của nó là tiếu (hay cười), ngược, lở láy, cuồng vọng và mắt đỏ. Nếu chính lệnh bao lạt, Tàng khí sẽ lại phục, tà sẽ thương Tâm.

 Về năm Đôn phụ, tức là tuế Thổ thái quá. Vị của nó là cam, hàn, toan; nó tượng về mùa Trưởng hạ; kinh của nó là túc Thái âm, Dương minh; Tàng của nó là Tỳ và Thận; bệnh của nó là phúc mãn, tứ chi rã rời, gió nhớn thổi đến, tà sẽ thương Tỳ.

 Về năm Kiên thành, tức là tuế Kim thái quá. Vị của nó là tân, toan, khổ; tượng của nó là Phế và Can; bệnh của nó là suyễn, khát, khó thở, không thể nằm ngửa. Nếu khí nóng quá nhiều, tà sẽ thương Phế.

 Về năm Lưu diễn, tức là năm Thủy vận thái quá. Vị của nó là hàm, khổ, cam; tượng của nó là mùa đông; kinh của nó là túc Thiếu âm; Thái dương; Tàng của nó là Thận và Tâm; bệnh của nó là trướng (bụng to vượt lên). Nếu trưởng khí (hòa) không hóa được, tà sẽ thương Thận.

 Cho nên nói: Nếu đức không giữ được thường, thời "sở thắng" sẽ lại phục; nếu chính lệnh giữ được thường, thì "sở thắng" cũng hóa. Tức là nghĩa đó (6).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Trời bất túc ở Tây bắc, tả hàn mà hữu lương (mát) đất bất mãn ở Đông nam, hữu nhiệt mà tả ôn... là vì cớ sao? (7)

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là do cái khí Âm Dương, cái lý cao hạ và cái khác của Thái, Thiếu mà sinh ra (VIII).

 Đông Nam thuộc dương. Dương thời tinh giáng xuống ở dưới, cho nên hữu nhiệt mà tả ôn, Tây Bắc thuộc âm. Âm thời tinh phụng lên trên, cho nên tả hàn mà hữu lương. Vì vậy, đất có cao thấp, khí có ông lương. Ở nơi cao thời khí hàn, ở nơi thấp thì khí nhiệt (9).

 Cho nên, đến ở nơi hàn lương thì có bệnh trướng, đến ở nơi ôn nhiệt thì hay có bệnh lở. Hạ đi, thời trướng khỏi, hãn đi, thời lở khỏi. Đó là cái lẽ thường mở đóng của tấu lý, và sự khác nhau của Thái, Thiếu (10).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Đối với sự thọ, yểu như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Nơi nào được âm tinh thượng phụng thời người thọ, nơi nào bị dương tinh giáng xuống thì người yểu (11).

 - Về bệnh nên trị thế nào?

 - Thuộc về khí của Tây bắc, thời tán đi mà làm cho hàn; thuộc về khí của Đông Nam, thời thâu lại mà làm cho ôn, liệu trị khác nhau vậy (12).

 Cho nên nói: Khí hàn, khí lương... liệu trị bằng hàn lương, lại dùng thêm phép tẩm vào nước... Khí ôn, khí nhiệt... liệu trị bằng ôn nhiệt, phải làm cho nguyên dương mạnh để cố thủ ở bên trong... Miễn sao cho khí hòa đồng, mới có thể yên. Nếu "giả" thì làm trái lại (13).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Cùng là khí trong một châu, mà sinh, hóa, thọ, yểu, không giống nhau, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cái lý cao thấp, do địa thế mà gây nên. Ở nơi tùng cao (cao vọt, như cao nguyên, hoặc rừng núi) thì Âm khí chủ trị; ở nơi ô hạ (đất trũng, thấp, như miền giáp bể, đồng chiêm v.v...) thời Dương khí chủ trị. Dương thắng thời khí đến trước thiên thời (hậu thiên). Đó là cái lẽ thường của đạo lý, và là cái đạo của sự sinh hóa (14).

 Hoàng Đế hỏi:

 - Cùng có thọ, yểu khác nhau chăng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Ở nơi cao thời khí thọ; ở nơi thấp thời khí yểu. Đất vì lớn nhỏ mà khác nhau. Nhỏ thì khác nhỏ, lớn thì khác lớn (15).

 Cho nên về phép trị bệnh, phải hiểu rõ thiên đạo, địa lý, âm dương canh thắng, khí đến tiên hậu, người được thọ yểu, và cái kỳ hạn của sự sinh hóa... Mới có thể biết được hình khí của con người (16).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có năm không vì "vận" và "phương" mà sinh bệnh. Tàng khí cũng có khí không ứng, không dụng là thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là do sự "chế" của thiên khí mà khí của con người cũng theo...(17)

 - Xin cho hiểu rõ?

 - Thiếu dương Tư thiên, thời Hỏa khí "hạ lâm", Phế khí theo lên... Do đó, phát ra các chứng khái (ho), xì (hắt hơi), cừu nục (đổ máu ra đằng mũi); Tỵ chất (mũi ngạt, hoặc mọc mụn trong mũi), khẩu thương (lở ở miệng); hàn nhiệt, phù thũng (sưng phù ở chân)...Tâm thống và vị quản thống, quyết nghịch, trong cách không thông... Bệnh phát rất chóng (18).

***

 Dương minh Tư thiên, táo khí hạ lâm, Can khí ứng lên theo; Thổ sẽ bị tai sảnh; bệnh phát ra hiếp thống mắt đỏ; run rẩy, cân nuy, không đứng được lâu (19).

 Khí bạo nhiệt đưa đến; Thổ bị thử khí nung nấu, Dương khí uất phát, tiểu tiện biến sắc; hàn nhiệt như chứng ngược, quá lắm thì Tâm thống (20).

***

 Thái dương Tư thiên thời hàn, hạ lâm, Tâm khí ứng lên theo; Kim sẽ bị tai sảnh; bệnh phát ra Tâm nhiệt, phiền, ách Can, hay khát, đau ở sống mũi và hắt hơi, hay bi, hay vươn vai. Vì nhiệt khí vọng hành, nên hay quên. Quá lắm thì phát Tâm thống (21).

 Thổ sẽ ẩm ướt. Thấp khí làm biến cả mọi vật, gây nên chứng thủy ẩm, trung mãn, không ăn được, bì tý, nhục a; cân mạch không lợi, quá lắm thời sưng thũng và hậu ung (mọc mụn ở phía sau) (22).

***

 Quyết phong Tư thiên, phong khí hạ lâm, Tỳ khí ứng lên theo. Bệnh phát sinh các chứng: thân thể nặng, cơ nhục nhão nát, ăn kém, miệng không biết ngon, phong râm ở trên, nên thêm các chứng mắt hoa, tai ù (23). Hỏa tràn lan khí nóng, nên đất cũng biến thành khí thử (24).

***

 Thiếu âm Tư thiên, nhiệt khí hạ lâm, Phế khí ứng lên theo. Bệnh sẽ phát: suyễn, ẩu, hàn, nhiệt, xị, đau xương sống mũi, đổ máu cam, mũi ngạt; khí nóng bức tràn lan, quá lắm thì phát lở láy, mụn nhọt. Đất bị khí "táo", khiến người hiếp thống và hay thở dài (25).

***

 Thái âm Tư thiên, thời thấp khí hạ lâm, Thận khí ứng lên theo. Bệnh phát sinh ra trong hung không thông lợi, âm nuy. thận khí quá suy, Dương khí không thể phát triển. Nếu gặp Đông lệnh, sẽ gây thêm chứng yêu chùy (xương sống) đau, không thể trở mình, hoặc quyết nghịch (26).

 Đất sẽ "tàng" khí âm, gây chứng Tâm hạ lũ thống, Thiếu phúc thống, kém ăn. Thừa lên Kim thì thôi. Nếu Thủy tăng, vị sẽ biển ra hàm. Dùng phép hành thủy, sẽ khỏi (27).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Hằng năm, có các loài vật không sinh dục, vận chủ không toàn, do khí gì gây nên?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bởi sáu khí, năm loại, cùng thắng, chế lẫn nhau. Được khí tương đồng thời thịnh, gặp khí tương thịnh thời suy, đó là lẽ thường trong đạo, sinh hóa của trời đất, không có gì khác lạ.

 Cho nên, khí chủ có sở chế, tuế lập có sở sinh. Địa khí thời chế về "thắng kỷ", thiên khí thời chế về "kỷ thắng".

 Hoàng Đế hỏi:

 - Khí thủy bắt đầu mà sinh hóa, khí tán mà có hình, khí bố (tán bố) thời phồn dục (rậm, tốt), khí chung (cuối cùng) thời tượng... Cái nguyên lý chỉ như một. Nhưng năm vị sinh ra, sinh hóa có hậu, bạc, thành thục có nhiều, ít, chung thủy không giống nhau, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Do địa khí chế ngự đó. Phàm vật không có thiên khí thời không sinh, không có địa khí thời không trưởng (28).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết chi tiết ra làm sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Hàn, nhiệt, táo, thấp, sự hóa không giống nhau, cho nên Thiếu dương Tại toàn, khí hàn độc không sinh ra. Vị nó tân; về liệu trị, dùng các vị khổ toan (29).

***

 Dương minh Tại toàn thời thấp độc không sinh ra. Vị nó toan, khí nó thấp. Chủ trị nó là tân, khổ, cam (30).

 Thái dương Tại toàn thời nhiệt độc không sinh ra. Vị nó khổ. Chủ trị của nó là đạm và hàm (31).

 Quyết âm Tại toàn thì thanh độc không sinh ra. Vị nó cam. Chủ trị của nó là toan và khổ, khí nó chuyên, vị nó chính (32).

 Thiếu âm Tại toàn thời hàn độc không sinh ra. Vị nó tân, chủ trị của nó là tân, khổ, cam (33).

 Thái âm Tại toàn thời táo độc không sinh ra. Vị nó hàn, khí nó nhiệt, chủ trị của nó là cam, hàn (34).

 Hóa thuần thời hàm giữ gìn, khí chuyên thời tân hóa mà điều trị (35).

***

 Cho nên: muốn dùng "bổ" ở trên dưới, thời phải dùng phép thuận; muốn dùng "trị" ở trên dưới, thì phải dùng phép nghịch. Nhận xem hàn, nhiệt, thịnh, suy ở đâu để điều hòa. Cho nên nói: "Thượng thủ, hạ thủ, nội thủ, ngoại thủ", để cầu nơi hữu quá (có lỗi; tức có bệnh); lại xét bệnh nhân có thể thắng được độc thời dùng hậu dược (vị thuốc khí vị nùng hậu); không thắng được độc thời dùng bạc dược (vị thuốc khí đạm bạc) (36).

***

 Nếu bệnh khí tương phản, thời bệnh ở trên, trị ở dưới, bệnh ở dưới trị ở trên, bệnh ở trung (giữa) trị ở bên cạnh (37).

 Trị bệnh nhiệt bằng vị hàn, dùng "ôn" cho dẫn hành; trị hàn bằng vị nhiệt, dùng "lương" cho dẫn hành; trị ôn bằng vị thanh, dùng "lãnh" cho dẫn hành; trị thanh bằng vị ôn, dùng "nhiệt" cho dẫn hành, cho nên hoặc tiêu, hoặc tước, hoặc thổ, hoặc hạ, hoặc bổ, hoặc tả... Bệnh lâu, bệnh mới cùng một phương pháp (38).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh ở trong mà không thực, không kiên, không tụ, không tán... Thế là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 -  Không có tích thời cầu ở Tàng; hư thời bổ; dùng thuốc để trừ đi, dùng ăn để giúp theo; dùng phép tẩm vào nước để lấy hãn... Miễn sao trong ngoài đều hòa, bệnh sẽ được hết (39).

 Hoàng Đế hỏi:

 - Thuốc có thứ có chất độc, có thứ không có chất độc. Về việc uống, có quy chế nhất định không?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh có lâu, mới; phương có lớn, nhỏ; thuốc có chất độc hay không chất độc; về phương pháp dùng, vốn có quy chế thường. Vị thuốc có chất đại độc, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, giảm bớt được sáu phần thì thôi, đừng dùng nữa. Vị thuốc có chất độc thường dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, bớt được bảy phần thời thôi đừng dùng nữa. Vị thuốc có chất tiểu độc, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, bớt được tám phần thì thôi đừng dùng nữa. Vị thuốc không có chất độc, dùng để trị bệnh, bệnh mười phần, bớt được chín phần, thì thôi, đừng dùng nữa. Cơm gạo, cá, thịt, các thức quả, các thức rau... dùng làm thức ăn cho bổ dưỡng thêm, bệnh hết thời thôi, không nên nhiều quá, e làm thương đến chính khí. Nếu bệnh vẫn chưa khỏi, lại dùng thuốc theo như phương pháp trên (40).

 Phải trước xét nhận ở tuế khí, đừng làm hại đến khí hòa, đừng đã thịnh lại giúp cho thịnh thêm, đừng đã hư lại làm cho hư thêm... Khiến người mắc tai vạ, đừng chuốc lấy tà, đừng làm mất chính khí, khiến người bị yểu vong (41).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc bệnh tuy lâu ngày, khí đã thuận mà vẫn không khỏe, bệnh hết mà người vẫn gầy... Như thế là thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Không thể thay khí hóa, không thể trái bốn mùa. Giờ kinh lạc đã thông, huyết khí đã thuận chỉ nên làm cho hồi phục lại cái Tàng nào bất túc, cho được điều hòa như nhau; bổ dưỡng thêm, điều hòa thêm yên lặng, để đợi thời, giữ khí cho cẩn thận, đừng để sai lệch... Như thế, sinh khí sẽ được lâu dài và thân hình sẽ được mạnh khỏe (42).

Chú giải

 (1) Đây nói về bình khí của năm vận, đều có tên riêng. Mộc khí được bình thời có thể tán bố cái khí dương hòa để sinh muôn vật, nên gọi là Phu hòa, tinh Hỏa bốc lên, có đức sáng tỏ; Thổ chủ về sinh hóa muôn vật, mà lan khắp bốn phương; Kim chủ về túc sái, nhưng được hòa bình thời không làm càn; thể chất của Thủy thanh tĩnh mà nhu thuận. Những chữ đặt tên trên đây đều hình dung cái năng lực, cái tính tốt của năm vận, tức năm hành.

 (2), (3) Cả về danh từ của thái quá và bất cập dưới đây cũng vậy, đều là hình dung cái sự kém sút hoặc quá đáng của các năm, chủ về các hành đó.

 (4) Ý đoạn trên này nói: Về năm Mộc vận được sinh khí, mà không có khí túc sái của Kim; về năm Hỏa vận được trưởng khí, mà không có khí khắc phạt của Thủy; về năm Thổ vận được Hóa khí, mà không có cái khí thắng của Mộc; về năm Kim vận được thâu khí (cái khí thâu liễm), mà không có sự tặc bại của Hỏa; về năm Thủy vận được Tàng khí (cái khí thu cất, kín đáo), mà không có sự át ức của Thổ. Như thế là năm bình khí.

 (5) Đây nói tổng quát lại cả đoạn trên. Ý nói: Phàm năm vận mà bất cập, thì cái khí "sở thắng" sẽ thừa nguy mà đến... Chỉ còn có "râm thắng" mà thôi, không còn chút gì là "hòa, tường" nữa. Do đó, con nó mới lại phục thù, gây thêm tai hại v.v...

 (6) Đây tổng kết lại đoạn trên. Nếu cậy mạnh mà không giữ được đức thường, thời cái khí "sở thắng" nó lại báo phục; tức là cái nghĩa "đã võ" mà lại thu tà, vì nó không còn phải kiêng sợ gì nữa. Nếu chính lệnh hòa bình đều giữ được lẽ thường, thì cái khí "sở thắng" sẽ đồng hóa với mình, còn lo gì sinh bệnh.

 (7) Trời có âm dương, đất có âm dương. Cho nên bàn về năm vận của trời mà lại nói về bốn phương của đất... Tả hàn, hữu lương, tả nhiệt, hữu ôn v.v... Đó là theo về Quải tượng củ Hậu thiên. Bởi về Quải của Hậu thiên, Ly ở Nam, Khảm ở Bắc, Chấn ở Đông, Đoài ở Tây. Vì trời đất khai tịch rồi mới có bốn phương.

 (VIII) Trên đây nói khí Âm Dương, tức là nói về khí hàn nhiệt của bốn phương: cao hạ... tức là nói về đất có nơi cao, nơi thấp; thái thiếu tức chỉ về tứ tượng. Nhân khí tượng của bốn phương bao giờ cũng khác nhau.

 (9) Trên đây nói chữ "tinh", tức là tinh Thủy do Thái ất sinh ra. Thiên khí bao bọc ở dưới. Tinh khí thông suốt lên trời. Cho nên âm dương ứng tượng nói: "Giời có tinh, đất có hình...". Bởi trời là dương mà tinh là âm. Âm tinh giáng xuống dưới, thì Dương khí thăng lên trên. Vì vậy, hữu nhiệt mà tả ôn; âm tinh phụng lên trên, thời Dương khí tàng ở dưới; cho nên tả hàn mà hữu lương. Tây bắc là nơi cao. Đông nam thời khí hãm (trũng, xuống) cho nên nơi cao thì khí hàn, nơi thấp khí nhiệt.

 (10) Đây lại nói về tinh khí do bên trong mà cũng có hạ, thượng, thăng, giáng. Con người nếu sinh ra ở phương hàn lương, Âm khí phụng lên trên, thì Dương khí tàng xuống dưới, cho nên hay có sự bệnh trướng. Nếu ở vào địa phương ôn nhiệt, Âm khí không giáng, thời Dương khí thăng lên, cho nên hay có bệnh mụn lở. Vậy dùng phép "hạ" thời âm tinh giáng xuống, mà Dương khí tự thăng lên, bệnh trướng sẽ khỏi; dùng phép "hãn" thì âm dịch thăng lên mà Dương khí tự giáng xuống, chứng lở sẽ khỏi. Đó là tinh khí ra vào ở khoảng cơ tấu, trên, dưới, thăng, giáng, một mở, một đóng đều là cái lẽ thường tự nhiên. Con người sinh ra ở trong khoảng khí giao của trời đất, có sự hàn nhiệt của bốn phương khác nhau, ta phải theo khí đó mà liệu trị cho điều hòa, thì tật bệnh sẽ không bởi đâu mà sinh ra được.

 (11) Cái nơi được âm tinh thượng phụng, thời nguyên khí cố tàng (bền bỉ và kín đáo), cho nên người ở đấy phần nhiều thọ; cái nơi bị dương tinh giáng xuống, thì nguyên dương ngoài tiết (tiết ra ngoài), cho nên người ở đấy phần nhiều yểu. Trên đây nói "âm tinh" và "dương tinh" v.v... ta nên biết: Đất cũng có "tinh" mà trời cũng có "tinh". Nhưng ở đất thì gọi là âm mà ở trời thì gọi là dương. Chỉ khác nhau có thế thôi.

 (12) Tây Bắc khí hàn, hàn giữ bền ở bên ngoài, thì nhiệt bị uất ở bên trong, cho nên phải làm tan bỏ cái hàn ở bên ngoài, mà làm cho mát khí nhiệt ở bên trong. Đông nam khí nhiệt thì Dương khí tiếtt ra bên ngoài, khí ở trong hư hàn, cho nên phải thâu liễm khí Nguyên dương, mà làm ôn lại sự lạnh ở trong. Vì vậy, nên mới nói: bệnh dù giống nhau mà phép trị liệu lại khác.

 (13) Khí ở Tây bắc hàn lương, thì người ở đấy khí dương nhiệt bị át uất vào trong, cho nên phải dùng hàn lương để trị liệu... Dùng nước để tẩm cho ra hãn, tức làm tấu lý mở ra, để Dương khí được thông xướng. Khí ở phương Đông Nam ôn nhiệt, thì tấu lý của con người mở rộng... Dương khí sẽ tiết ra nhiều; cho nên phải dùng ôn nhiệt để trị liệu, là cho Nguyên dương thêm mạnh, để cố thủ ở bên trong. Đó là mở ra thì đóng lại, đóng lại thì mở ra; thuộc về cái khí thăng trưởng, thì thâu liễm mà bế tàng lại, thuộc về cái khí thâu tàng thì thăng để mà phát tán đi. Miễn sao cho khí được hòa đồng và quân bình mới là hoàn thiện. Nếu người ở phương Tây Bắc mắc phải hàn tà hiện ra chứng trạng giả nhiệt, lại nên dùng ôn nhiệt để liệu trị. Nếu người ở phương Đông Nam, mắc phải nhiệt tà mà hiện ra chứng trạng giả hàn, lại nên dùng hàn lương để  liệu trị. Đó câu "giả, giả, phải chi", là nghĩa thế.

 (14) Đây lại nói về khí của một phương, mà cũng có âm dương, hàn, nhiệt không giống nhau. Như ở những nơi núi đồi, gò đống thì nhiều khí âm hàn; ở nơi thấp trũng bằng phẳng thì nhiều khí dương nhiệt. Về phần dương thắng, thời cái khí của bốn mùa, trước thiên thời mà đến (như chưa đến mà xuân đã ôn v.v...); về phần âm thắng, thì cái khí của bốn mùa, sau thiên thiên thời mới đến (như đã sang xuân mà vẫn hàn). Phàm hàn, thử, vãng lai, đều do đất mà gây nên. Đó là sự phân biệt về địa lý cao hạ và hậu bạc, và là lẽ thường của âm dương. "Cái đạo sinh hóa", tức là nói về cái khí sinh, trưởng, hóa, thâu, tàng. Dương khí chủ trị, thời khí nhiều sinh trưởng; Âm khí chủ trị, thời khí nhiều thâu tàng.

 (15) Ở nơi cao, khí ở đó thâu tàng, nên phần nhiều thọ; ở nơi thấp, khí ở đó phát việt, nên phần nhiều yểu. Khí của một châu có lớn, nhỏ khác nhau. Nên thọ yểu cũng khác nhau.

 (16) Thiên đạo tức là sự hóa, vận của trời; địa lý tức là bốn phương của đất. Âm, dương thay đổi nhau để thắng; năm vận, sáu khí có thái quá và bất cập, lại có thấp thắng uất phục... Kỳ hạn sinh hóa... tức là nói về sự sinh hóa của khí... Cũng như trên kia thường nói "sinh khí, hóa khí" v.v...

 (17) ... Tàng khí...tức là khí của năm Tàng, "không ứng, không dụng" tức là không ứng với sự hiệu dụng của năm vận. Đó là vì cái khí Tư thiên chế (trị) như vậy, mà khí của con người cũng hóa theo.

 (18) "Theo lên..." là nhân cái khí Tư thiên hạ lâm, nó sợ sự "thắng thế" nên phải theo. Bởi cái khí của năm vận, gốc ở trong mà vận ra bên ngoài; cái khí Tư thiên vị (định vị) ở trên mà lâm xuống dưới. Phàm những bệnh khái, xì v.v... đều là bệnh của Phế... Khẩu thương, hàn nhiệt v.v... đều là chứng Hỏa nhiệt. Đó là vận khí của Kim mà lại theo Hỏa hóa. nên mới chứng hậu như vậy.

 (19) Linh khu nói: bệnh do Quyết âm Tâm bao lạc sinh ra, Tâm thống, phiền Tâm (trong lòng buồn bực), vị quản thống (đau cuống dạ dày) v.v...Đó là do Mộc khắc Thổ mà gây nên. Thổ, bộ vị ở trung ương, trung cách không thông thời trên dưới quyết nghịch. Phong khí nhanh chóng nên mắc bệnh cũng nhanh chóng.

 (20) Cái thế của năm hành ở dưới đất, mà công dụng theo với thiên khí ở trên. Mộc theo thiên khí để hóa, nên trở xuống làm tai sảnh cho Thổ. Các bệnh phát sinh như hiếp thống v.v... đều là bệnh thuộc Can.

 (21) Dương minh Tư thiên thì Thiếu âm quân hỏa Tại toàn, cho nên đại nhiệt đến mà Thổ bị thử khí nung nấu. Vì dương nhiệt quá, nên tiểu tiện biến sắc, và hàn nhiệt như ngược. Tức có nghĩa như: "Mùa hạ bị thương về thử khí thì mùa thu sẽ biến thành hài, ngược". Tâm thống, tức là Tâm hỏa nung nấu ở trong.

 (22) Hàn khí hạ lâm, tàng khí lên theo; tinh Hỏa bốc lên, tinh Thủy dẫn xuống. "Tâm phiền v.v..." đều là những chứng do hỏa bốc lên mà sinh ra. Phế, là cái lọng che của Tâm... Phàm những chứng "đau ở sống mũi v.v..." đều do hỏa nhiệt hun lên Kim mà sinh ra. Hỏa là dương, Thủy là âm, "hay vươn vai" tức là một đằng thì Dương khí dẫn lên, một đằng thì Âm khí dẫn xuống. Hai bên giằng co nhau mà sinh ra. "Hay quên" là do hàn khí báo phục, khiến thần khí bị thương mà gây nên.

 (23) Thái dương Tư thiên thì Thái âm thấp thổ Tại toàn, cho nên "thổ khí ẩm ướt". Về năm Thìn, Tuất, Thái dương Tư thiên thì khách khí của hàn Thủy gia lâm lên "tam chi khí". Vì vậy nên thấp khí mới làm biến mọi loài sinh vật. Các chứng "thủy âm v.v..." đều do Thủy thấp gây nên. Thái dương hàn thủy chủ khí, mà kinh mạch lại vòng ở lưng, nên mới sinh ra chứng hậu ung.

 (24) Các chứng "thân thể nặng và mắt hoa" v.v... đều thuộc về Tỳ và Can.

 (25) Quyết âm phong mộc Tư thiên, thì Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn. Mộc với Hỏa tương sinh, nên Hỏa mới tràn lan khí nóng và đất cũng biến thành khí thử.

 (26) Thiếu âm Tư thiên thì Dương minh táo kim Tại toàn, cho nên đất bị khí táo. Hiếp thống v.v... Đều thuộc về bệnh của Can, Đởm.

 (27) Thấp khí tức là sự biến của thấp Thổ. "Trung hung không thông lợi..." là do Thủy khí từ dưới lấn lên. "Âm nuy", là do Thận khí suy ở dưới. Dương khí sinh ra ở Thận âm mà vận dụng ra phu biểu. Vì Thận khí đại suy nên Dương khí không thể phát triển; do đó mới sinh ra tay chân quyết nghịch. Dương về Đông lệnh, Thận tàng, chủ khí, mà lại "yêu chùy đau v.v...". Vì Thận khí theo cả lên trên, mà bỏ hư ở phía dưới, nên mới thành chứng trạng như vậy.

 (28) Thái âm Tư thiên thì Thái dương hàn thủy Tại toàn. Cho nên đất mới "tàng" khí âm. "Tâm hạ bĩ v.v..." đó là bởi cái khí Thủy, Hỏa ở trên dưới không giao hợp được với nhau mà sinh ra. "Thiếu phúc thống", là do Thận mắc bệnh ở bộ phận dưới; "kém ăn..." là do Thủy lấn lên Thổ mà gây nên. Thận là gốc, Phế là ngọn. Đều là hai cơ quan tích thủy. "Lấn lên Kim thì thôi", tức là Thủy khí lấn lên Phế thì thôi. Tâm khí thông lên lưỡi, Tâm hòa thì phân biệt được năm vị. "Thủy tăng, vị sẽ hàm..." tức là Thủy lại lấn lên Tâm. Bởi Thủy khí thái quá, mà gây nên bệnh. Cho nên dùng phép "hành thủy" thì bệnh sẽ khỏi.

 Trở lên trên là nói về cái khí của năm vận, nhân khí của trời chế lại; mà cái khí của năm Tàng năm hành lại theo đó mà "thượng đồng thiên hóa".

 Trương Giới Tân nói: Năm hành đều có cái chế. Mỗi khi cái "chế khí" nó xâm tới, thì cái "thụ chế" tất phải ứng theo. Đó là "Kim theo Hỏa hóa"; táo quá lắm thì phong tất ứng theo. Đó là Mộc theo Kim hóa". Phong quá lắm thì bụi đất lầm trời, đó là "Thổ theo Mộc hóa". Thấp quá lắm thì mưa tuôn tầm tã, đó tức là "Thủy theo Thổ hóa". Khí hàn quá lắm thì sấm chớp tiếp theo... đó là Hỏa theo Thủy hóa. Cho nên Dịch nói: "Mây theo rồng, gió theo hổ...". Vì, rồng bẩm thụ Đông phương Mộc khí, cho nên mây mới theo; hổ bẩm thụ Tây phương Kim khí, cho nên gió mới theo. Đó là cái lý "thừa, chế" cùng theo nhau, ta phải thấu hiểu cho tinh mới được.

 (29) Đây nói về cái khí của năm vận, chủ về sinh hóa ra muôn vật, mà bị cái Tại toàn để "chế" lại, không phải trời đất không sinh trưởng đâu. "Khí thủy (bắt đầu) mà sinh hóa..." tức là được có sinh khí. "Khí tán v.v..." tức là được có trưởng khí. "Khí bổ v.v..." tức là được có hóa khí. "Khí chung v.v..." tức là cảm cái khí thâu tàng, vật cực và biến thành. Đó là cái khí của năm vận, chủ về sinh, hóa, thâu, tàng... tức lúc bắt đầu đến lúc cuối cùng, cái nguyên lý cũng chỉ như một. "Địa khí chế ngự" v.v... tức là nói về sáu khí Tại toàn. Khí của trời đất trên đây nói, tức là nói về cái khí Âm Dương hàn thử. Nên mới nói: không có thiên khí thì không sinh, không có địa khí thì không trưởng.

 (30) Hàn, nhiệt, táo, thấp v.v... là sáu khí Tư thiên, Tại toàn, nó với năm vận không cùng sự hóa. Vì vậy, cái sở chủ về "sinh, hóa, phồn, dục" của năm vận, nhân khí đất để "chế" lại, nên mới có nhiều, ít, hậu, bạc khác nhau. Thiếu dương tướng hỏa Tại toàn, cho nên những loài "hàn độc" không sinh ra, vì là hàn với nhiệt không đồng hóa. Tỷ như về năm Tân Tị, Tân Hợi, hàn thủy hóa vận, gặp Thiếu dương Tại toàn nhờ có địa khí chế lại, khiến cho các loài hàn độc không sinh ra được... Đó là do địa khí chế thắng được "hóa vận". Về năm sắc, năm vị, đều do năm vận làm chủ. Như Thiếu dương Tư thiên thì "sắc trắng hiện ra"... thế là "sắc" theo thiên chế (tức là do Tư thiên chế lại). Thiếu dương Tai toàn "Vị nó tận", thế là Vị theo "địa chế". Thiếu dương Tại toàn thì Quyết âm Tư thiên, nên phải dùng các vị khổ toan làm chủ trị.

 (31) Dương minh táo kim Tại toàn, cho nên các vật loại thấp độc không sinh ra được. Toan, là vị của Mộc. Như gặp những năm Nhâm Tý, Nhâm Ngọ mà Dương minh Tại toàn địa khí chế lại, mà cái Mộc vận lại theo địa hóa, cho nên vị nó chủ toan. Dương minh không theo tiêu, bản mà theo cái sự hóa của trung kiến là Thái âm thấp Thổ, cho nên khí nó chủ về thấp, mà cái vị sở chủ là tân, cam. Cam cũng do theo Thổ mà hóa mà sinh ra.

 (32) Thái dương hàn thủy Tại toàn, cho nên những loài nhiệt độc không sinh ra, bởi là nó không đồng hóa. Như về năm Quý Sửu, Quý Vị, Hỏa chủ về hóa vận, Hỏa sợ Thủy chế, mà Hỏa vị lại nhờ theo địa khí, cho nên vị của nó "khổ, đạm" phụ với "cam", thành cái vị sở chủ là đạm và hàm.

 (33) Quyết âm Tại toàn, thì thanh (tức lạnh) độc không sinh ra. Thổ sợ Mộc chế, cho nên vị nó cam, mà cái vị sở chủ là  toan và khổ. Quyết âm không theo tiêu bản, mà theo sự Hỏa hóa của Thiếu dương trung kiến; mà cái khí vị Tại toàn lại theo cái "sở chủ" của trung kiến là khổ nhiệt, cho nên khí của nó chuyên mà vị của nó chính.

 (34) Thiếu âm quân hỏa Tại toàn, cho nên hàn độc không sinh ra. Kim sợ Hỏa chế, nên vị của nó tân. Thiếu âm ở dưới thì Dương minh ở trên. Ở trên Dương minh, táo khí chủ trị, mà "trung kiến" là Thái âm Dương minh. Theo cái khí Hỏa của trung kiến thấp Thổ, cho nên cái vị sở chủ của nó là tân, khổ, cam. Tức là kiêm cả thổ vị do trung kiến.

 (35) Thái âm thấp thổ Tại toàn, cho nên những vật loại táo độc không sinh ra. Thủy sợ Thổ chế, nên vị của nó hàm. Thái âm ở dưới thì Thái dương ở trên, cho nên khí của nó nhiệt. Đó là bởi Thái dương tùng cả bản lẫn tiêu, Vị theo địa hóa, mà khí theo thiên hóa. Nên cái vị sở chủ của nó là cam và hàm.

 (36) Đây lại nói rõ thêm: Cái hóa khí do năm vị sinh ra, lại nhân "thắng, chế" mà hòa theo. "Hóa thuần v.v..." là nói về Dương khí theo cái hóa của trung kiến thấp thổ. Táo với thấp cùng hợp, nên sự hóa "thuần nhất". Kim theo Thổ hóa, cho nên cái "vị hàm kia" phải cố thủ một nơi, không dám tràn lan, chính là sợ sự chế của Thái âm đó. "Khí chuyên..." là nói về Quyết âm theo cái chủ khí của Thiếu dương trung kiến... Cho nên cái vị tân của nó, cùng với các vị cam, toan, khổ đều chủ trị. Bởi tân bị Hỏa chế, nên cũng phải theo Hỏa hóa. Phàm hàn, nhiệt, táo, thấp v.v... đều thuộc về sáu khí Tại toàn. Toan, khổ, cam, tân, hàm... Nó là năm Vị của năm vận. Lấy cái sự "hóa thuần" của táo với thấp, thì cái vị "hàm" kia đành phải cố thủ; vì cái khí của tướng hỏa chuyên, nên "tân" cũng đành phải hóa theo. Đó là vì địa khí chế lại, nên "Vị" cũng theo về khí hóa.

 (37) "Trên, dưới" ở đây là nói về Tư thiên và Tại toàn. Như Thiếu dương Tại toàn thì Quyết âm Tư thiên. Nên dùng những vị khổ, toan để bổ; tức là để giúp cho cái khí ở trên dưới. Như cái khí Tư thiên, bị "phong râm sở thắng..." thì lấy vị tân, lương để bình trị; bị "nhiệt râm sở thắng..." thì lấy vị hàm, hàn để bình trị. Như mọi thứ khí Tại toàn, mà hàn râm ở trong, thì điều trị bằng vị cam, nhiệt; hỏa râm ở trong, thì điều trị bằng vị hàm lãnh. Đó tức là đối với khí râm thắng, thì lại nên dùng phép "phản nghịch" để điều trị. Lại phải xem hàn, nhiệt, thịnh, suy ở nơi nào để điều trị. Như thịnh thì trị mà suy thì bổ, thì cái khí trên dưới sẽ được điều hòa. Cái khí Tư thiên, Tại toàn thăng, giáng ở trên dưới; các khí năm vận ra vào ở trong ngoài. Phải xem xét nơi nào có bệnh để điều trị. Nếu bệnh nhân có thể thắng được độc thì dùng hậu dược, không thì dùng bạc dược. Đó là phương pháp liệu trị tuế vận.

 Từ Chấn Công nói: Có thể dùng những vị đại hàn để trị chứng nhiệt râm, những vị đại nhiệt để trị chứng hàn râm... Như thế tức là "thắng được độc".

 (38) "Khí tương phản v.v..." là nói về cái bệnh khí do trên, dưới, trong, ngoài phát sinh, tương phản nhau. Vậy về phép trị cũng phải dùng phép tương phản. Như "bệnh ở trên thì trị ở dưới..." vì khí nghẽn lên trên, nên cần phải giáng xuống; "bệnh ở dưới mà trị ở trên" vì khí trệ ở dưới, cần phải là cho thăng lên; "bệnh ở giữa mà trị ở bên cạnh..." vì bệnh dù phát sinh ở trong, nhưng kinh mạch lại dẫn đi ở tả hữu, thì hoặc cứu hoặc thích, hoặc úy, hoặc án... đều phải thi hành ở ngoài cạnh. Không những thế, bệnh thuộc nhiệt, cần phải trị liệu bằng hàn dược, nhưng nếu dùng hàn ngay thì tất trái ngược với bệnh, vậy phải mượn vị "ôn" để cho dẫn đi trước đã; bệnh thuộc hàn cần phải trị liệu bằng nhiệt dược. Nhưng nếu dùng nhiệt ngay thì tất trái ngược với bệnh, vậy phải mượn vị "lương" để cho dẫn đi trước đã; bệnh thuộc ôn, cần phải trị liệu bằng thanh dược. Nhưng nếu dùng thanh dược ngay thì tất trái ngược với bệnh, vậy phải mượn vị "lãnh" để cho dẫn đi trước đã; bệnh thuộc thanh, cần phải trị liệu bằng ôn dược. Nhưng nếu dùng ôn ngay, thì tất trái ngược với bệnh, vậy phải mượn vị "nhiệt" để cho dẫn đi trước đã.... Không những thế mà thôi. Phàm muốn dùng các phương pháp tiêu, tước, thổ, hạ, bổ, tả v.v... đều phải lương sự thuận nghịch để thi hành, chứ không vì bệnh mắc đã lâu nay hay là mới mắc, mà thay đổi phương pháp.

 (39) Đây nói bệnh gây nên bởi khí của năm vận và phương pháp liệu trị nó. Thực, kiên, tụ, tán... thuộc về bệnh trạng "cầu ở Tàng..." như: về năm Phu hòa, thuộc Can tàng, sẽ bệnh lý cập chi mãn v.v... Bởi cái khí của năm vận, trong hợp với năm Tàng. Vậy nếu không phải là bệnh tích, thì phải cầu ở Tàng. Tàng khí hư thì bổ, trước dùng thuốc để trục tà, rồi dùng các thực phẩm để dưỡng chính (khí). "Tẩm nước", phép này đã có giải ở trên.

 (40) Phàm dùng thuốc, nếu quá thì sẽ sinh ra "thiên thắng", vậy dù là thuốc bổ, dù là không có chất độc, cũng chỉ dùng tới khi bệnh bớt chín phần thì thôi không dùng nữa.

 (41) Tuế có sáu khí, phải trước biết sáu khí đó ứng với mạch của con người như thế nào. Tỷ như: Thái âm ở vào thời kỳ nào thì mạch trầm; Thiếu âm ở vào thời kỳ nào thì mạch câu; Quyết âm ở vào thời kỳ nào thì mạch huyền; Thái dương ở vào thời kỳ nào thì mạch đại mà trường; Dương minh ở vào thời kỳ nào thì mạch đoản mà sắc; Thiếu dương ở vào thời kỳ nào thì mạch đại mà phù... Vậy sáu mạch đó thuộc về thiên hòa. Nếu không biết vậy mà cho là hàn nhiệt, dùng thuốc để công hàn khiến cho nhiệt mạch không biến mà bệnh nhiệt đã sinh ra; hoặc dùng thuốc để chế nhiệt khiến cho hàn, mạch không biến mà hàn tất lại nổi dậy... Cho nên phàm dùng thuốc để trị bệnh, phải trước biết tuế khí, đừng làm hại thiên hòa, là lẽ đó. Lại nên biết bệnh có hư có thực. Như là khí đã thực mà lại dùng thuốc bổ, thế tức là "thịnh thịnh"; như chính khí đã hư mà lại dùng thuốc tả, thế là "hư hư".

 (42) Đây nói về thân hình con người cũng phải nhờ sự tư dưỡng của khí vận. Ở con người, nếu thần đi thì "cơ" nghỉ, khí ngừng thì hóa tuyệt; vậy "thần, khí" phải chú ý điều dưỡng. Nhưng thần khí như chủ nhân, hình hài là khí vũ... Hình với thần đều được hoàn toàn mới có thể sống trọn tuổi trời. Như vậy thì "hình" cũng cần phải điều dưỡng. "Hóa" tức là "khí hóa" của năm vận; "bốn mùa" tức là nói về cái khí làm chủ của bốn mùa. Tỷ như: về năm Phu hòa, Tàng của nó là Can, nó nuôi cân; về năm Thăng minh, Tàng của nó là Tâm, nó dưỡng huyết; về năm Bị hóa, Tàng của nó là Tỳ, nó nuôi nhục; về năm Thẩm bình, Tàng của nó là Phế, nó nuôi bì mao; về năm Tĩnh thuận, Tàng của nó là Thận, nó nuôi cốt tủy... Vậy thì bì, nhục, cân, cốt của hình, đều nhờ sự tư dưỡng của hóa vận, ta không thể thay được. Lại như: khí mùa xuân nuôi cân, khí mùa hạ nuôi huyết mạch, khí mùa trưởng hạ nuôi cơ nhục, khí mùa thu nuôi bì mao, khí mùa đông nuôi cốt tủy... Vậy bì, nhục, cân, cốt của con người, đều phải do sự tư dưỡng của bốn mùa, ta không thể trái được. Mạch lạc là con đường cho khí huyết lưu hành, mà vinh âm, dương huyết thì là thần khí, nếu kinh lạc đã thông, huyết khí đã thuận, thì sẽ làm cho hồi phục lại sự bất túc của thần khí, tự nhiên được mạnh khỏe như thường.


Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >