Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương sáu mươi năm - TIÊU BẢN LUẬN THIÊN
Chương sáu mươi năm - TIÊU BẢN LUẬN THIÊN
23/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh có tiêu (ngọn), bản (gốc), thích ở nghịch, ở tùng (thuận), nghĩa đó như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Về phương pháp thích, phải phân biệt âm dương, trước sau cùng ứng, nghịch tùng đều hợp, tiêu bản cùng thay đổi (1).

 Cho nên nói rằng: Có khi ở tiêu mà cầu nó ở tiêu; có khi ở bản mà cầu nó ở bản; có khi ở bản mà cầu nó ở tiêu, có khi ở tiêu mà cầu nó ở bản.

 Cho nên về phép điều trị, có khi lấy ở tiêu mà được, có khi lấy ở bản mà được, có khi nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được. Vậy nếu biết nghịch với tùng đó là chính pháp không còn gì hơn; biết được tiêu bản muôn làm muôn đúng, không biết tiêu bản, làm càn ra chi… (2).

***

 Nói về cái đạo âm dương, nghịch tùng và tiêu bản… Mới nghe nhỏ, mà sau thật lớn, nói một điều mà biết được cái hại của trăm bệnh.

 Ít mà là nhiều, nông mà là sâu, có thể nói một mà biết được một trăm.

 Do nông mà biết được sâu, xét gần mà biết đượ xa.Nói tiêu với bản, không nên tương phản.

 Trị “phản” là nghịch, trị “đắc” là tùng (3). Trước mắc bệnh mà sau nghịch, trị ở bản; trước nghịch mà sau mắc bệnh, trị ở bản (4). Trước hàn mà sau sinh bệnh, trị ở bản; trước mắc bệnh mà sau sinh hàn, trị ở bản (5). Trước nhiệt mà sau mắc bệnh, trị ở bản (6); trước nhiệt mà sau tiết tả, trị ở bản; trước tiết tả mà sau sinh bệnh khác, trị ở bản; hãy điều hòa trước đã, rồi hãy trị bệnh khác (7). Trước mắc bệnh mà sau sinh thêm chứng trung mãn, trị ở tiêu; trước trung mãn mà sau sinh chứng phiền Tâm, trị ở bản. Bởi ở trong thân thể con người, có khách khí, lại có đồng khí (VIII). Tiểu, đại không lợi, trị ở tiểu; tiểu, đại lợi, trị ở bản (9).

 Bệnh phát sinh mà hữu dư, bản mà là tiêu, trước hãy trị bản, rồi mới trị tiêu; bệnh phát sinh mà bất túc, tiêu mà là bản, trước hãy trị tiêu, rồi mới trị bản (10). Cẩn thận xét xem “gian” hay “thậm”, lấy ý của mình để điều trị. Nếu “gian” thì tính hành, “thậm” thì độc hành. Tỷ như: trước tiểu, đại không lợi, mà rồi mới sinh bệnh khác, phải trị ở bản (11).

***

 Bệnh có tương truyền, tỷ như Tâm bệnh, trước Tâm thống qua một ngày thì phát chứng khái; qua ba ngày hiếp chi thống; qua năm ngày vít lấp không thông, thân đau mình nặng; qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về đúng trưa (12).

***

 Bệnh ở Phế, suyễn khái, qua ba ngày mà hiếp chi mãn và thống, lại qua một ngày mà thân nặng mình đau, lại qua năm ngày mà trướng, lại qua mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa Hè chết lúc mặt trời mọc (13).

***

 Bệnh ở Can, đầu váng mắt hoa, hiếp chị mãn, qua ba ngày, mình nặng, thân đau; qua năm ngày, sẽ phát trướng; lại qua ba ngày, yêu, tích và Thiếu phúc đau, ống chân nhức; lại qua ba ngày không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, mùa Hạ chết về sáng sớm (14).

***

 Bệnh ở Tỳ, thân đau, mình nặng. Qua một ngày mà trướng; qua hai ngày, Thiếu phúc, yêu, tích đau, xương ống chân nhức; qua ba ngày, bối, lữ và cân thống, tiểu tiện bế; qua mười ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về lúc người đi ngủ yên, mùa Hạ chết về lúc nửa buổi (15).

***

 Bệnh ở Thận, Thiếu phúc và yêu, tích thống, xương ống chân nhức, qua ba ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế; qua ba ngày, phúc trướng, qua ba ngày lưỡng hiếp chi thống; lại qua ba ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa đông chết về lúc sáng rõ, mùa Hạ chết về  lúc tối đã lâu (16).

***

 Bệnh ở Vị, trướng mãn, qua năm ngày, thiếu phúc và yêu, tích thống, xương ống chân nhức; qua ba ngày, bối, lữ, cân thống, tiểu tiện bế; qua năm ngày thân thể nặng nề; qua sáu ngày, không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về nửa đêm, mùa Hạ chết về xế chiều (17).

***

 Bệnh ở Bàng quang, tiểu tiện bế, qua năm ngày, Thiếu phúc trướng, yêu, tích thống, xương ống chân nhức; qua một ngày phúc trướng, lại qua một ngày thân thể thống; lại qua hai ngày không khỏi, sẽ chết. Mùa Đông chết về gà gáy, mùa Hạ chết về chiều tà (18).

***

 Các bệnh trên do sự “thắng, khắc” mà truyền đều có cái trường hợp chóng chết, dù có phép thích cũng không sao cứu chữa được. Hoặc tương truyền đến cách một Tàng, thì thôi, không truyền san Tàng khác nữa, như thế mới có thể thích. Tỷ như: Tâm bệnh truyền Can, Can bệnh truyền Tỳ, đó là con đi lấn mẹ… Đến Can Tàng, Tỳ Tàng thì thôi, không lại do sự “thắng, khắc” để truyền sang Tàng khác. Như thế mới có thể dùng phép thích. Lại tỷ như: Tâm bệnh truyền Tỳ, Phế bệnh truyền Thận, đó là mẹ đi lấn con, nhờ được cái sinh khí của mẫu Tàng, còn là chứng không đến nỗi chết. Lại như Tâm bệnh truyền Thận, Phế bệnh truyền Tâm, Can Tàng truyền Phế v.v… Đó là do nơi “sở bất thắng” mà lại, bệnh nhẹ, cũng có thể dùng phép thích.

Chú giải

 (1) Trên đây nói âm dương, tức là sáu khí do âm dương phân phối ra. Thiếu dương tiêu là dương mà bản là Hỏa; Thái âm tiêu là âm mà bản là thấp; Thiếu âm tiêu là âm mà bản là nhiệt; Thái dương tiêu là dương mà bản là hàn; Dương minh tiêu là dương mà bản là táo; Quyết âm tiêu là âm mà bản là phong; Thiếu dương, Thái âm theo về bản; Thiếu âm, Thái dương theo bản, theo tiêu. Dương minh, Quyết âm không theo tiêu, bản mà theo về "trung" (giữa). Theo bản thời sự "hóa" sinh ra bởi bản; theo tiêu, bản thì có cái hóa của tiêu, bản, theo về "trung" thì lấy "trung khí" làm hóa. "Trước sau cùng ứng" là nói về bệnh có trước sau; "nghịch với tùng..." là nói có khi nghịch thủ mà được, có khi tùng thủ mà được v.v...

 (2) "Có khi ở tiêu mà cầu nó ở tiêu...". Tỷ như bệnh ở sáu khí Tam âm, Tam dương, thì cứ cầu ngay ở trong sáu kinh để trị tiêu. "Có khi ở bản mà cầu nó ở bản...", tỷ như mắc phải cái tà khí "lục dâm" là phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa..., thì cứ cầu ngay ở trong sáu khí đó để trị bản. "Có khi ở bản mà lại cầu ở tiêu", tỷ như hàn làm thương đến kinh Thái dương, đó chính là bản bệnh của Thái dương, thế mà lại được cái "nhiệt hóa" củ "tiêu dương", thì phải cầu ngay ở tiêu mà dùng lương dược để trị cái tiêu nhiệt. "Có khi ở tiêu mà lại cầu ở bản", tỷ như bệnh ở kinh Thiếu âm, mà lại được cái bản nhiệt của quân hỏa, thì phải cầu ngay tới bản để tả bớt hỏa. Cho nên trăm bệnh phát sinh, có khi sinh ra tự bản, có khi sinh ra tự tiêu, có khi lấy ở bản mà được, có khi lấy ở tiêu mà được, có khi nghịch thủ mà được, lại có khi tùng thủ mà được... Nhưng phương pháp đó, đại khái như: Bệnh hàn thì làm cho nhiệt, bệnh nhiệt thì làm cho hàn, bệnh kết thì làm cho tán, bệnh tán thì làm cho thâu, bệnh lưu (tích) thì phải công (đánh phá), bệnh táo thì phải nhuận v.v..."Tùng thủ mà được...", tỷ như: Dùng hàn vì nhiệt, dùng nhiệt vì hàn, bệnh tắc lại dùng tắc, bệnh thông lại dùng thông v.v... Phải phục cái "sở chủ" của nó, mà thi hành trước ngay cái "sở nhân" của nó, lúc đầu giống nhau, về sau sẽ khác, có thể phá tích, có thể tiêu kiên, khá khiến khí hòa, khá khiến tất khỏi...

 (3) Tương phản mà trị gọi là "nghịch trị", tương đắc mà trị gọi là "tùng trị"... Tương đắc như: Nhiệt với nhiệt tương đắc, hàn với hàn tương đắc v.v...

 (4) "Nghịch" là nói về cái khí thắng khắc; "Trước mắc bệnh" là nói ở trong mình vốn đã có một chứng bệnh. "Trước nghịch, trước hàn, trước nhiệt...". Đó là nói về sáu khí của trời. "Trước mắc bệnh mà sau nghịch", tỷ như: Trong thân người trước vốn có bệnh Tỳ thổ, mà sau lại cảm phong tà, làm thương thêm cho Tỳ thổ... Thì nên trước hãy điều trị Tỳ thổ, rồi sẽ trị đến phong tà. Lại như trước bị cảm phong tà của trời, nó khắc thương đến trung thổ, khiến cho Tỳ Tàng mắc bệnh... Thì nên trước hãy điều trị bỏ phong tà, rồi sau mới điều trị đến Tỳ thổ v.v...

 (5) "Trước hàn" là do cái khí "hàn dâm" (chữ dâm có ý như quá đáng) nó thắng, do thân người cảm nhiễm phải mà sinh bệnh. Vậy nên phải trị hàn tà trước. Nếu trước mắc bệnh mà sau mới sinh hàn, thì nên trị cái "bản bệnh" ở con người trước, mà rồi hàn khí sẽ tự giải.

 (6) "Trước nhiệt" là do cái khí "nhiệt dâm" nó thắng, do thân người cảm nhiễm phải mà sinh bệnh. Vậy phải trị cái "bản nhiệt" trước. Nếu con người cảm nhiễm phải nó mà sinh chứng trung mãn. Bởi cái tà "lục dâm" bắt đầu làm thương sáu khí, nếu phát chứng trung mãn thì bệnh khí đã lọt vào trong, nên phải trị ngay bên trong.

 (7) Tiết tả là một chứng hậu sinh ra bởi thấp thổ... "Còn bệnh khác..." Thì tỷ như: Thấp tà sở thắng dân sẽ mắc bệnh Tâm thống, tai điếc v.v... Nên điều trị chứng hư tiết trước, làm cho Tỳ thổ được điều hòa đã, rồi mới điều trị bệnh khác.

 (VIII) Chí chân nhân yếu luận nói: "Phàm các chứng trướng, bụng lớn... đều thuộc về nhiệt...", vậy như trước mắc bệnh nhiệt mà sau sinh chứng trung mãn, thì nên trước điều trị chứng trung mãn; như trước mắc bệnh trung mãn mà cái khí thấp nhiệt lấn lên trên Tâm, gây nên chứng Tâm phiền, thì cũng nên trị chứng trung mãn đã, mà sau chứng phiền tự khỏi. Như trước nhiệt mà sau sinh chứng trung mãn, đó là vì cảm cái khí "nhiệt dâm" của trời mà gây nên chứng trung mãn. Như trước mắc bệnh mà sau sinh chứng trung mãn, đó là cái khí nhiệt tự ở trong thân mình mà sinh ra chứng trung mãn. Cho nên nói: "Người có khách khí, có đồng khí...". "Khách khí" tức là lục khí ở trời; "Đồng khí" tức là ở trong thân con người cũng có lục khí ấy mà "tương đồng" với lục khí của trời.

 (9) Như trung mãn mà đại tiểu không lợi, nên làm cho lợi đại tiểu trước; nếu tiểu đại đã lợi, thì lại trị trung mãn. Bởi tà khí lọt vào trong bụng, tất phải do đại tiểu mà tiết ra.

 (10) "Hữu dư" là nói về tà khí, "bất túc" là nói về chính khí. Tà khí tức là "lục dâm", chính khí tức là sáu khí của Tam âm, Tam dương. Lục vị chỉ luận nói: "Ở trên Thiếu dương, hỏa khí chủ trị; ở trên Dương minh, táo khí chủ trị; ở trên Thái dương, hàn khí chủ trị; ở trên Quyết âm, phong khí chủ trị; ở trên Thiếu âm, nhiệt khí chủ trị; ở trên Thái âm, thấp khí chủ trị... Đó tức là bản. Ở dưới bản, tức là tiêu của khí. Đó đều lấy phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa sáu khí làm bản, mà lấy sáu khí của Tam âm, Tam dương làm tiêu. Cho nên nói: "Bệnh phát sinh là hữu dư..." Đó là chỉ về cái khí phong, hàn, thử thấp, táo, hỏa... Nó hữu dư... Vậy nên trước phải làm cho tán bỏ tà khí, rồi mới điều lý đến âm dương. "Nếu bệnh phát sinh mà bất túc", thì phải điều lý âm dương trước, rồi mới điều trị đến bản khí. Bởi tà khí thịnh thì thực, tinh khí đoạt thì hư. Vì vậy, nếu tà khí hữu dư thì trước hãy tán bỏ tà; tinh khí bất túc, thì trước hãy bổ lấy chính... Đó là cái Cương lĩnh của tiêu, bản vậy.

 (11) Đây nói trong khoảng tiêu, bản, lại còn phải điều lý ở chỗ "gian", "thậm". Phàm tà sở dĩ phạm vào được tất phải do chính hư "gian" là chỉ về hai điểm "hữu dư, bất túc" của tà với chính. Nếu hai điểm ấy kiêm có cả, thì phải kiêm trị, tỷ như ở trong tán tà mà lại phải kiêm cả bổ chính, hoặc ở trong bổ chính mà lại phải tán cả tà. Đến như "thiên thậm" thì phải chuyên trị một mặt. Như tà khí "thậm" thì chuyên tán tà, chính hư "thậm" thì chuyên bổ chính. Đó là yếu đạo của phép trị liệu...

 (12) Đây nói về cái thời kỳ chết do sự khắc của năm Tàng. Tỷ như Tâm bệnh, vì Tàng chân thông với Tâm nên bắt đầu thời Tâm thống; Hỏa lại lấn Kim, qua một ngày truyền tới Phế, nên phải chứng khái; lại qua ba ngày, tức là bốn ngày, Phế tà thắng Mộc, nên hiếp chi thống, vì Can mạch vòng lên hiếp lặc; lại qua năm ngày, tức cộng là chín ngày. Can tà thắng Thổ, cho nên vít lấp không thông, thân đau, mình nặng, đó là Tỳ không vận hóa, và Tỳ chủ về cơ nhục nên mới có chứng hậu như vậy; lại qua ba ngày nữa, tức cộng là 12 ngày, nếu bệnh không khỏi thì sẽ chết. Nếu là mùa Đông thì chết về nửa đêm, mùa Hạ thì chết về đúng trưa, vì nửa đêm thuộc Thủy, mà nửa đêm về mùa Đông thì Thủy càng thắng, dùng Thủy đó để khắc Hỏa, nên thế nào cũng chết; đúng trưa thuộc Hỏa, mà đúng trưa về mùa Hạ thì Hỏa càng thắng... Nhân lúc đó Tâm hỏa đã tuyệt, không còn tương ứng được, nên tất cũng phải chết.

 (13) Bệnh phát ở Phế, qua ba ngày thì truyền sang Can, nên có chứng hiếp chi mãn và thống; lại qua một ngày truyền tới Tỳ, nên có chứng thân nặng mình đau; lại qua một ngày truyền tới Vị, nên có chứng trướng. Lại qua 10 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết về lúc mặt trời lặn, vì lúc đó thuộc giờ Thân, Thân tuy thuộc Kim, nhưng Kim đã suy không thể còn vãn hồi; mùa Hạ chết về lúc mặt trời mọc, vì lúc đó thuộc giờ Dần. Mộc vượng Hỏa sắp sinh, Phế khí đã tuyệt, không đợi đến có thật hỏa mà cũng chết.

 (14) Bệnh ở Can, ba ngày tới Tỳ, lại qua năm ngày tới Vị, lại qua ba ngày tới Thận... Sớm mùa Hạ là khoảng giờ Dần, Mão, lúc đó Mộc khí tuyệt không sinh ra được nữa; mùa Đông, lúc mặt trời lặn về khoảng giờ Thân, Dậu... Vừa kịp Kim khí vượng nên Mộc khí tuyệt.

 (15) Qua hai ngày, truyền tới Vị; lại qua hai ngày, tới Thận; lại qua ba ngày tới Bàng quang... Mùa Đông lúc người ngủ yên là giờ Hợi, tức là Thổ bại mà Thủy thắng; nửa buổi thuộc giờ Dần, tức là Mộc vượng mà Thổ tuyệt.

 (16) Bệnh ở Thận, qua ba ngày, truyền tới Bàng quang; qua ba ngày tới Vị; lại qua ba ngày tới Can... Lúc sáng rõ, thuộc giờ Thìn, tức là Thổ vượng mà bị Mộc tắc, tối đã lâu thuộc giờ Hợi, tức là Thủy tuyệt không còn có thể sinh được nữa.

 (17) Bệnh ở Vị qua năm ngày tới Thận, ba ngày nữa tới Bàng quang, năm ngày nữa tới Tỳ... Quá nửa đêm là thời kỳ Thổ bại mà Thủy thắng; xế chiều là thời kỳ chủ trị của Dương minh, thổ bị tuyệt không còn sinh được nữa.

 (18) Đây cũng là một chứng phát sinh do Thủy tà truyền vào Tàng, Thủy ràn, Thổ bại mà chết. Gà gáy thuộc giờ Sửu, tức là thời kỳ Thổ khắc Thủy; chiều tà thuộc giờ Thân, tức là thời kỳ Kim suy không sinh được Thủy.

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >