Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương sáu mươi mốt - THỦY NHIỆT HUYỆT LUẬN THIÊN (Thích pháp)
Chương sáu mươi mốt - THỦY NHIỆT HUYỆT LUẬN THIÊN (Thích pháp)
23/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Thiếu âm sao lại chủ về Thận? Thận sao lại chủ về thủy?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Thận, thuộc về Chí âm; Chí âm là nơi để chứa thủy, Phế thuộc về Thái âm, Thiếu âm mạch thuộc về mùa đông. Cho nên gốc nó ở Thận mà ngọn nó là Phế. Đều là những nơi chứa nước.

 - Thận tại sao lại có thể tụ được thủy mà sinh ra bệnh?

 - Thận là cửa của Vị, vì "quan môn" không lợi nên mới tụ thủy và theo về cùng loài của nó (1).

 - Làm quá sức nhọc mệt; thì Thận hãn toát ra. Thận hãn toát ra mà gặp gió, trong không thể lọt vào Tàng Phủ; ngoài không thể vượt ra bì phu. Khách (2) ở Huyền phủ, dẫn đi trong bì, truyền làm chứng phù thũng, gốc nó ở Thận, gọi là phong thủy, Huyền phủ tức là lỗ hổng cho hãn toát ra.

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Thủy du năm mươi bảy nơi, nó chủ về gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Thận du năm mươi bảy huyệt, là nơi tụ của tích âm, thủy do đó mà ra vào. Tại cầu thượng có 5 hàng, mỗi hàng có 5 huyệt, đều là Thận du. Cho nên, thủy dẫn xuống thành phù thũng, ở Đại phúc thành chứng thở suyễn, không thể nằm. Vì "tiêu, bản" đều mắc bệnh, nên mới có chứng "suyễn thở" và "phù thũng", do thủy khí không Du chuyển mà gây nên (3).

***

 Trên Phục thổ có hai hàng, mỗi hàng 5 huyệt. Đó là Khí nhai của Thận, và là nơi giao kết tại chân của ba kinh âm.

 Trên "khỏa" đều có một hàng, mỗi hàng sáu huyệt. Đó là đường lối dẫn xuống của Thận mạch, gọi là Thái xung. Tất cả 57 huyệt đó đều là âm lạc của Tàng, mà thủy "khách" vào đó.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Mùa xuân thích ở lạc mạch, phận nhục, là vì cớ sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Mùa xuân, hành Mộc mới bắt đầu thống trị, Can khí mới sinh. Can bẩm thụ cái khí phong Mộc, nên "cấp, tật" (kíp, chóng); Kinh mạch do Đông lệnh phục tàng ở sâu, giờ gặp xuân khí mới ra, nên khí còn ít. Vậy dùng châm, không thể vào sâu, để lấy ở kinh, mà chỉ lấy "nông" ở nơi lạc mạch phận nhục (4).

***

 - Mùa hạ thích ở thịnh kinh và phận tấu, là vì sao?

 - Về mùa hạ, hành Hỏa mới trị thì Tâm khí mới sinh trưởng. Mạch còn non, khí còn yếu. Dương khí ứ ràn, nhiệt hun phận tấu, bên trong lấn vào tới Kinh. Cho nên phải thích ở kinh phận tấu. Làm đứt hẳn lối đi của tà ở ngoài bì phu vì là nó còn ở chỗ nông. Trên nói là "thịnh kinh", vì dương đương thịnh ở đó.

 - Mùa thu, thích ở kinh du, là vì sao?

 - Về mùa thu, hành Kim mới trị thì, Phế khí sắp thâu sái, Kim khí sắp phát triển, Dương khí ở nơi hợp, Âm khí mới sinh ra. Thấp khí nhiễm vào thân thể, Âm khí chưa toàn thịnh, chưa thể vào sâu, cho nên thích ở Du để tả Âm tà, thích ở hợp để hư Dương tà. Dương khí mới suy, nên thích ở Hợp (5).

***

 - Mùa đông, thích ở tỉnh, vinh là vì sao?

 - Về mùa đông, hành Thủy mới trị thì Thận mới "bế" (đóng, như đóng cửa), Dương khí suy ít, Âm khí thịnh nhiều. Cự dương phục trầm, dương mạch cũng lánh dương phận để quy phụ về bên trong. Cho nên thích ở tỉnh để hạ khí âm nghịch xuống, thích ở vinh để làm cho Dương khí được đầy đủ. Cho nên có câu rằng: "Mùa đông thích ở tỉnh, vinh; mùa xuân không sinh chứng cửu nục" là vì lẽ đó (6).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phu tử nói trị nhiệt bệnh 59 Du, là những gì? Xin cho biết rõ.

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Trên đầu năm hàng, mỗi hàng có 5 huyệt để làm vượt bỏ nhiệt nghịch của chư dương. Đại chữ, Ưng du, Khuyết bồn, Bối du, tám huyêt đó (vì mỗi huyệt chia làm hai bên, mỗi bên một huyệt, mới thành tám), để tả bỏ nhiệt ở trong hung. Khí nhai, Tam lý, Cự hư, Thượng hạ liêm, tám huyệt đó (cũng như trên) để tả bỏ nhiệt trong Vị. Vân môn, Ngu cốt, Ủy trung, Tủy không, tám huyệt đó (như trên) để tả bỏ nhiệt ở tứ chi.

 Bên cạnh Du của năm Tàng, đều có 5 huyệt, 10 huyệt đó để tả bỏ nhiệt của năm Tàng. Phàm 59 huyệt trên đó, đều theo nhiệt ở tả hữu để tả.

 - Người bị thương về khí hàn mà truyền thành bệnh nhiệt, là vì sao?

 - Vì hàn quá thì sẽ thành nhiệt (7).

Chú giải

 (1) Thận chủ về hạ tiêu, Bàng quang làm Phủ, khai khiếu ra Nhị âm (tiền âm, hậu âm). Cho nên Thận khí hóa thì Nhị âm thông lợi; Thận khí không hóa thì Nhị âm bí vít. Nhị âm vít thì nước uống vào Vị sẽ bị ràn... Cho nên trên đây nói: "Thận là cửa của Vị". Cửa đóng thì khí bị dừng lại; khí dừng lại thì nước bị ứ; nước ứ lại sẽ thành quá nhiều; nước quá nhiều thì khí sẽ ngập tràn. Nên mới nói: "Quan môn không lợi, sẽ tụ thủy mà theo về cùng loài của nó".

 (2) Vật gì nguyên không có mà đến, gọi là khách, trái với chủ. Như phong khách ở bì phu, vì bì phu vốn không có phong, giờ phong từ ngoài mới nhập vào, nên gọi là khách. Trong Đông y dùng chữ "khách" để giải thích bệnh rất nhiều, vì nó có ý nghĩa hay, nên đây giải nghĩa rõ, để sau đây dùng nguyên văn cho tiện.

 (3) Trên đây nói về "tiêu bản" đều mắc bệnh. Thận là bản mà Phế là tiêu. Tại Phế thì thành chứng thở suyễn, tại Thận thì thành chứng phù thũng; Phế bị khí nghịch nên không thể nằm. Bởi Thận du vòng qua Cầu cốt mà đi trở xuống, lại vòng qua phúc mà trở lên trên Phế, giờ về thủy khí lưu ở kinh du, mới gây nên chứng hậu như vậy, phàm thứ huyết hữu hình thì lưu hành ở trong mạch, thứ khí vô hình thì lưu hành ở ngoài mạch. Vì vậy, cái thủy hữu hình cũng lưu hành ở khoảng khí phận vô hình, cái thủy khí vô hình lại lưu hành ở trong mạch hữu hình. Thủy theo kinh mà xuất hiện ở trên dưới, mà thủy khí cũng theo kinh mà lưu ở trong mạch. Cho nên, về chứng phù thũng ở Đại phúc, đó là do con đường "xuât, nhập, nội, ngoại" của thủy; còn thở suyễn không thể nằm, đó là do "thủy khí nghịch lên ở trong mạch".

 (4) Về phương pháp thích, có thích ở bì, nhục, cân, cốt sâu nông khác nhau. Bệnh có phù trầm nên thích có thiển, thâm. Bốn mùa cũng vậy, phải theo khí sâu nông để dùng châm sâu nông. Như trên đây là thích ở nông.

 (5) Về mùa thu muôn vật đều "sái", cái khí thanh tú sắp thắng viêm nhiệt. Dương khí mới "giáng" và lưu ở cái Phù nó hợp. Còn cái Âm khí của Tàng mới sinh mà chưa thịnh. Về tiết Lập thu, Thái âm thấp Thổ chủ khí, cho nên thấp khí mới nhiễm vào thân thể, nhưng vì Âm khí chưa thịnh nên chưa có thể dùng châm để thích vào sâu, chỉ thích ở Du thượng để tả bỏ cái thấp của Thái âm, thích ở Hợp để làm "hư" bớt cái tà khí ở dương Phủ.

 (6) Trở lên nói về thích chứng phong thủy 57 Du, mà lại có sự phân biệt của bốn mùa.

 (7) Ở đất là hành Thủy, ở trời là khí hàn; hàn cực thì sinh nhiệt. Vậy nhiệt sinh ra bởi hàn. Nên bài này gọi là: Thủy nhiệt huyệt luận.

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >