Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương hai mươi mốt KINH MẠCH BIỆT LUẬN
Chương hai mươi mốt KINH MẠCH BIỆT LUẬN
17/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Người ta: động, tĩnh, dũng, khiếp... mạch có biến đổi không?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phàm người, gặp những sự kinh, khủng, nộ, động, tĩnh v.v... mạch cũng đều biến. Vì vậy, đi đêm thì hơi thở phát ra ở Thận, khí bốc lên gây bệnh cho Phế. Có sự vấp ngã mà sợ, hơi thở phát ra ở Can, khí bốc lên làm hại Tỳ. Có sự sợ hãi, hơi thở phát ra ở Phế, khí bốc lên làm hại Tâm. Lội nước, lăn ngã, hơi thở phát ra ở Thận và xương. Gặp trường hợp đó, người dũng, khí hành được thì vô sự; nếu là người khiếp, khí ngừng lại, sẽ mắc bệnh.

 Cho nên, về phép chẩn mạch, xem người dũng hay khiếp và nhận cả ở cốt, nhục, bì, phu... sẽ hiểu được bệnh tình, để giúp thêm về phép chẩn.
 
 Uống ăn no quá, hãn phát ra ở Vị; sợ quá mất tinh thần, hãn phát ra ở Tâm; mang nặng đi xa, hãn phát ra ở Thận; chạy vội, sợ hãi, hãn phát ra ở Can; làm lụng vất vả, hãn phát ra ở Tỳ.

 Cho nên Xuân, Thu, Đông, Hạ bốn mùa, Âm Dương đều không làm hại người. Sở dĩ sinh bệnh, chỉ vì quá độ, trái mất lẽ thường.

 Khí vị của thức ăn, sau khi vào Vị, tán "tinh" vào Can, tràn khí vào cân.

 Khí vị của thức ăn, sau khi vào Vị, các khí "trọc" dẫn lên Tâm, tràn chất "tinh" vào mạch.

 Mạch dẫn theo kinh. Kinh khí dẫn lên Phế. Phế tổng hợp trăm luồng mạch, du chuyển tinh khí ra bì mao. Mao (khí) với mạch (huyết) hợp tinh, dẫn khí về Phủ (Phủ thuộc dương, khí là dương); Phủ chứa thần minh, để giúp ích cho bốn Tàng.

 Khí cốt ở quân bình; sự quân bình hiện lên khí khẩu, nhờ đó để quyết tử sinh.

 Thức uống sau khi vào Vị bao chất tinh khí tràn lan ra, du chuyển sang Tỳ; Tỳ lại lọc những chất tinh túy hơn, để du chuyển lên Phế; nhờ đó làm cho thủy đạo được thông lợi, du chuyển xuống Bàng quang, tức thì thủy tinh tán bố năm kinh đều đi khắp. Đó là hợp với bốn mùa, năm Tàng Âm Dương quỹ độ. Tức là lẽ thường của mạch.

 Khí ở Thái dương đến một mình, gây nên chứng quyết, suyễn, hư, khí nghịch. Đó là do Âm bất túc, Dương hữu dư, cả biểu, lý đều nên tả, thích ở huyệt Hạ du.

 Khí ở Thiếu dương đến một mình, quyết khí, mạch kiên về phía trước bỗng biến thành đại. Nên thích ở huyệt Hạ du. Thiếu dương đến một mình như vậy là do khí Nhất dương thái quá.

 Mạch ở Thái âm bựt mạnh, phải xét ở chân Tàng; mạch của năm Tàng đều thiếu khí. Vị khí không quân bình... đó thuộc về Tam âm. Nên thích ở huyệt Hạ du, bổ dương tả âm.

 Nếu Nhất dương một mình nghịch lên, thành chứng Thiếu dương quyết.

 Dương dồn lên cả bộ phận trên, mạch của bốn Tàng khác đều mạnh, khí trở về Thận, nên trị ở kinh lạc, tả dương bổ âm.

 Mạch của Nhất âm một mình đến, tức chủ trị do Quyết âm, vì chân Tàng hư nên trong Tâm đau ê ẩm; quyết khí bức bách, khiến toát mồ hôi. Nên điều độ uống ăn, hòa hợp được vị và thích ở Hạ du.

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tàng tượng của các Tàng thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng:

 Thái dương Tàng, tượng Tam dương mà phù; Thiếu dương Tàng, tượng Nhất dương, hoạt mà không thực; Dương minh Tàng, tượng Nhị dương mà phù đại. Thái âm Tàng, mạch bật lên như phục cổ; Nhị âm bật đến, dù là Thận, chỉ trầm mà không phù (1).

Chú gải

 (1) Đại ý thiên này, muốn biết bệnh mạch, trước phải biết kinh mạch. Nhưng muốn biết kinh mạch, nên chia rõ kinh với khí khác nhau như thế nào.


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >