Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương mười tám - BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN
Chương mười tám - BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN
17/01/2019
KINH VĂN

Hoàng Đế hỏi rằng:

- Mạch của bình nhân (người vô bệnh) như thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng:

- Người ta một lần hô (thở ra), mạch động tới hai lần, một lần hấp (hút vào), mạch cũng động tới hai lần. Nhân sự hô hấp để định hơi thở và xen (nhuận) với lúc ngừng thở, mạch động tới năm lần, như thế là bình nhân. Bình nhân tức là người vô bệnh (1).

***

Nên lấy người vô bệnh để chẩn mạch cho người có bệnh. Nhưng lúc chẩn, phải giữ hơi thở của mình cho điều hòa, mới biết được mạch "động" của người kia đúng hay không đúng.

Phàm người, một hô, mạch động ba lần, một hấp, mạch động ba lần... đó là táo cấp (tức thái quá) ở Xích bộ có nhiệt, là bệnh ôn; nếu Xích bộ không nhiệt, mạch lại có vẻ hoạt, đó là bệnh phong; nếu lại có vẻ sắc, đó là bệnh tý (bệnh thuộc âm).

Phàm người, một hô, mạch động bốn lần, một hấp, mạch động bốn lần trở lên, đó là tử mạch; nếu mạch tuyệt không "chí" cũng chết, mạch lúc thưa, lúc sác cũng chết.

Phàm bình nhân, khí phát sinh từ Vị; Vị là thường khí của bình nhân. Người không có Vị khí gọi là "nghịch". Nghịch cũng chết. Mạch án về mùa Xuân, có Vị khí mà mạch hơi huyền là bình huyền nhiều. Vị ít, đó là bệnh ở Can; chỉ huyền, không có Vị khí, sẽ chết. Có Vị khí mà mạch thể có vẻ mao, tới mùa Thu sẽ phát bệnh; nếu mao nhiều, bệnh sẽ phát ngay.

Chân khí của Tàng phân tán khắp ở Can, tức là những khí ở cái cân, mạc (gân và da màng) bao bọc ở bên ngoài Can (2).

***

Mạch án về mùa Hạ, có Vị khí, mà hơi "câu" (mạch tượng của mùa Hạ) là bình. Nếu câu nhiều, Vị khí ít là Tâm bệnh; chỉ câu mà không có Vị khí, sẽ chết. Có Vị khí mà mạch thể có vẻ "thạch", tới mùa Đông sẽ phát bệnh; nếu "thạch" nhiều, bệnh sẽ phát ngay.

Chân khí của Tàng thông lên Tâm, vì Tâm tàng cái khí của huyết mạch.

Mạch án về mùa Trưởng hạ, có Vị khí mà hơi nhuyễn nhược là bình. Nếu "nhược" nhiều, Vị khí ít là Tỳ bệnh. Mạch thể chỉ có "đại" mà không có Vị khí, sẽ chết. Nhuyễn nhược mà lại kiêm có vẻ thạch, tới mùa Đông sẽ phát bệnh. Nếu "nhược" nhiều, sẽ phát bệnh  ngay.

Chân khí của Tàng thấm nhuần ở tỳ, vì Tỳ Tàng cái khí của cơ nhục.

Mạch án về mùa Thu, có Vị khí mà hơi mao, là bình. Nếu mao nhiều, Vị khí ít là Phế bệnh, nếu chỉ thấy mao, không có Vị khí, sẽ chết. Mạch mao mà lai kiêm Huyền, tới mùa Xuân sẽ phát bệnh; nếu Huyền nhiều, sẽ phát bệnh ngay.

Chân khí của Tàng cao ở tận Phế, để dẫn hành vinh, vệ và Âm Dương.

Mạch án về mùa Đông, có Vị khí mà hơi Thạch, là bình. Nếu Thạch nhiều, Vị khí ít là Thận bệnh, nếu chỉ Thạch, không có Vị khí sẽ chết.Thạch mà lại kiêm cả Câu, sẽ phát bệnh vê mùa Hạ nếu Câu nhiều sẽ phát bệnh ngay.

Chân khí của Tàng thấp ở Thận, Thận Tàng cái khí của cốt tủy.

Đại lạc của Vị, tên là Hư lý, nó suốt lên cách, chằng ngang vào Phế, vòng xuống phía dưới tả nhũ (vú bên trái), lúc nó động có thể "ứng y" (áo mặc sát vào mình, khi mạch động, chạm lên áo = hình dung sự động mạnh). Mạch đó để nghe Tông khí (tức Vị khí).

Nếu suyễn nhiều (Phế), mà mạch ở Hư lý thường bị tuyệt, đó là bệnh tại Chiên trung và Hoành lạc bị tích trệ; nếu tuyệt hẳn không "chí", sẽ chết; nếu động quá đến nỗi "ứng y", đó là Tông khí muốn tiết ra ngoài (tức là mạch chết).

Muốn biết mạch Thốn khẩu, thái quá với bất cập; nếu mạch ở Thốn khẩu chỉ "đoản" đúng vào ngón tay, đó thuộc về bệnh đầu thống; mạch ở Thốn khẩu đúng vào ngón tay mà "trường", đó thuộc về bệnh đau ở xương ống chân; mạch ở Thốn khẩu đúng vào ngón tay mà bật mạnh dồn lên, đó thuộc về bệnh đau ở vai và lưng; mạch ở Thốn khẩu Trầm mà Kiên, tức là bệnh ở bộ phận trong; mạch ở Thốn khẩu Phù mà thịnh, tức là bệnh ở bộ phận ngoài; mạch ở Thốn khẩu Trầm mà Nhược, thuộc về bệnh  hàn, nhiệt và Sán, Giả, đau ở Thiếu phúc; mạch ở Thốn khẩu Trầm mà hoành, thuộc về dưới hiếp có tích và trong bụng có vật tích nằm ngang mà đau; mạch ở Thốn khẩu Trầm mà lại có suyễn (thở gấp, hổn hển), thuộc về chứng hàn nhiệt (sốt rét, sốt nóng).

Mạch thịnh, Hoạt mà Kiên, là bệnh ở bộ phận ngoại; mạch tiểu Thực mà Kiên là bệnh ở bộ phận nội; mạch tiểu, nhược và sắc là cửu bệnh; mạch phù hoạt mà tật là tân bệnh; mạch cấp là có chứng "sán, giả" đau ở Thiếu phúc; mạch hoạt là phong; mạch sắc là Tỳ; mạch hoãn mà hoạt là chứng nhiệt trung; mạch thịnh mà khẩn là chứng trướng.

Mạch thuận theo Âm Dương, bệnh dễ khỏi; mạch trái ngược Âm Dương, bệnh khó khỏi; mạch thuận với sinh khí của bốn mùa, bệnh dễ khỏi; mạch trái với sinh khí của bốn mùa mà lại "không gián Tàng", bệnh khó khỏi (3).

Cánh tay có nhiều mạch máu xanh, gọi là thoát huyết; mạch ở Xích bộ hoãn và sắc, gọi là giải nọa (bệnh tại Tỳ); lúc nằm yên mà mạch thịnh, cũng gọi là thoát huyết; Xích bộ sắc mà mạch lại hoạt là chứng nhiều mồ hôi; Xích bộ hàn mà mạch lại tế, sẽ là chứng hậu tiết (ăn xong, đi tả ngay); mạch ở Xích bộ thô và thường nóng, thuộc về chứng nhiệt trung.

Phàm thấy mạch ở cổ động lên bần bật, thở suyễn và khái, chứng thuộc về Thủy. Mi mắt hơi thũng phồng lên như ngọa tàm (con tàm nằm), chứng thuộc về Thủy. Nước tiểu vàng đỏ, ưa nằm, là chứng hoàng đản. Ăn rồi mà bụng vẫn như đói, là chứng Vị đản. Mặt sưng phù ra, là chứng phong. Bọng chân sưng nặng là chứng Thủy,. Lòng trắng mắt vàng… cũng là chứng hoàng đản.

Đàn bà, mạch thuộc kinh Thái âm động nhiều, là có thai (4).

Mạch có khí hoặc thuận hoặc nghịch với bốn mùa. Dù chưa hiện mạch của bản Tàng, Xuân Hạ mà mạch lại xấu (giống như tế), Thu Đông mà mạch lại phù đại… như thế là nghịch với bốn mùa.

Chứng phong nhiệt mà mạch lại Tĩnh (nên phù động), chứng tiết và thoát huyết mà mạch lại thực (nên hư tán), bệnh ở trong mà mạch lại hư (nên trầm thực), bệnh ở ngoài mà mạch lại kiên sắc (nên thăng phù)… đều khó chữa, vì trái với bốn mùa.

Con người lấy thủy cốc làm gốc, nếu tuyệt thủy cốc thời tất phải chết. Mạch không có Vị khí (tức khí của thủy cốc) cũng chết. Phàm gọi là không có Vị khí, là chỉ thấy có chính mạch của chân Tàng mà không có vẻ hòa hoãn là Vị khí xen vào. Không những thế, mà Can không huyền, Thận không Thạch v.v… cũng là không được Vị khí.

Mạch ở kinh Thái dương đến, hồng đại mà trường; mạch ở kinh Thiếu dương đến, lúc sác, lúc sơ, lúc đoản, lúc trường; mạch ở kinh Dương minh đến, Phù đại mà đoản.

Tâm vô bệnh, mạch hiện ra: lườn lượt không đứt như chuỗi ngọc, như dây chuyền… Thuộc về mùa Hạ, lấy Vị khí làm gốc. Nếu có bệnh, mạch khớp khớp chấp nối, có lúc hơi cong. Nếu trước cong mà sau không động, như cầm lưỡi câu… Như thế là Tâm chết.

Phế vô bệnh, mạch hiện ra êm đềm như chiếc lá rơi… Thuộc mùa Thu, lấy Vị khí làm gốc.

Nếu có bệnh, không lên không xuống, như phẩy lông gà… Nếu lại như vật nổi lềnh bềnh, không gốc không rễ, như gió thổi chiếc lông, trống không tán loạn… như thế là Phế chết.

Can vô bệnh, mạch hiện ra mềm mại dịu dàng như vuốt ngọn tràng (tràng, tre dài dùng làm tràng, trên đầu nhỏ và lướt mềm). Thuộc mùa Xuân, lấy Vị khí làm gốc. Nếu có bệnh, đầy đặc mà hoạt, như nắm trường Can (trường Can tức là “tràng”, nhưng đây nắm vào thân chứ không vuốt ngọn, có vẻ cứng rắn hơn)… Nếu lại cấp mà cứng, như giương dây cung (huyền), như thế là Can chết.

Tỳ vô bệnh, mạch hiện ra hòa nhu mà tương ly, bước đi như gà (trong hòa nhu mà có vẻ cách nhau không liền). Thuộc mùa Trưởng hạ, lấy Vị khí làm gốc. Nếu có bệnh, đầy đặc mà vững chắc, không có hòa nhu, chuyển Du kém sức (tức Tỳ khí không tán bố ra các Tàng  khác). Nếu lại cứng và sắc như đầu mỏ quạ, như móng chân chim, thánh thót như nhà dột, cuồn cuộn như nước trôi, như thế là Tỳ chết.

Thận vô bệnh, mạch hiện ra chìm nặng mà linh động như nổi mà trong không, án nặng tay thời kiên. Thuộc mùa Đông, lấy Vị khí làm gốc. Nếu có bệnh, như lôi dây sắn, càng án mà càng kiên; nếu lại giằng mạnh như giật dây, trình trịch như ném đá… như thế là Thận chết.

Chú giải

 (1) Cứ lẽ một hô hai lần động, một hấp hai lần động, cộng lại chỉ có bốn lần. Nhưng còn cái lúc ngừng lại hô hấp nọ tiếp với hô hấp kia, trong khoảng xen nhau đó, cũng lại có một động. Một động đó không ở vào hô hấp chính, nên gọi là “nhuận” và tính là năm động, chữ “động” cũng gọi là chí.

 (2) Về câu này, ý nói: Can Tàng vốn có chân khí, nhưng chỉ về mùa xuân mới phát hiện ra ở Can. Can có chứa các khí ở cân, mạch, cho nên chủ về Mộc; Mộc chủ về xuân. Can chủ về cân, nên căn bệnh phát hiện về mùa xuân, mà mạch huyền.

 (3) Gián là xen, cách; Gián Tàng là do tương sinh mà truyền cho nhau; Không gián Tàng là do tương khắc mà truyền cho nhau. Tỷ như: Cái tà ngoại dâm, bắt đầu phạm vào bì mao, thì bên trong hợp với Phế; Phế muốn truyền cho Can, mà Thận xen (gián) vào; Thận muốn truyền cho Tâm, mà Can xen vào; Can muốn truyền cho Tỳ, mà Tâm xen vào; Tâm muốn truyền cho Phế; mà Tỳ xen vào; Tỳ muốn truyền cho Thận, mà Phế xen vào v.v…

 (4) Chẩn ở Xích bộ của đàn bà, nếu Thiếu âm Thận mạch ở tay trái động nhiều, là có thai con trai.

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >