Trang chủ arrow Tông phái arrow VÕ THUẬT BÌNH ĐỊNH ( KỲ ĐẦU )
VÕ THUẬT BÌNH ĐỊNH ( KỲ ĐẦU )
26/09/2006

 

“Ai về Bình Định mà coi,
Con gái Bình Định đánh roi đi quyền”.



Câu ca dao tuy mộc mạc mà đã khái quát được vùng đất võ Bình Định. Nằm cách Kinh thành Huế hơn 400 cây số về phía đông nam, có ba mặt núi non hiểm trở, với bốn mặt núi sông biển vây phủ, lại thêm thiên tai bão lụt thường xuyên, người dân miền này muốn sinh tồn phải cần thích ứng với miền đất hiểm trở, đầy bất trắc. Ðấy là mảnh đất khắc nghiệt để cho hạt giống ngoan cường- võ thuật Bình Định nẩy nở. Hơn nữa việc buôn bán đòi hỏi phải trèo đèo lội suối, đối mặt với thú dữ nên võ nghệ cần được phổ biến và phát huy. Không những đàn ông mà ngay cả đàn bà, trẻ con cũng phải học võ phòng thân và bảo vệ tài sản.
 
Năm Canh Thìn (1470), niên hiệu Hồng Ðức nguyên niên 洪德元年, vua Chiêm là Trà Toàn 阇全 đem quân đánh phá đất Hóa châu, và sai người sang Tàu cầu viện nhà Minh. Vua Lê Thánh Tông 黎聖宗 tự cầm quân, đem đại binh 20 vạn quân đánh Chiêm thành, phá được kinh đô là thành Ðồ Bàn 闍盤 (Vijara) và chiếm đất đến đèo Cù mông. Từ đấy, miền nầy được sát nhập vào đạo Quảng Nam 廣南, đặt tên là phủ Hoài nhơn 懷仁gồm ba huyện là Bồng Sơn 蓬山, PhùLy 扶离 và Tuy Viễn 綏遠.

Dân các tỉnh Bắc kỳ, nhất là người Hà Đông 河東 và các tỉnh miền Bắc, Trung phần lớn vào đây lập nghiệp. Họ đến đây thay thế số người Chiêm Thành 占城 đã rút về phía nam. Ðể sinh tồn, họ góp nhặt vốn võ nghệ của quê hương, pha trộn với lối võ nghệ người Chiêm, của muông thú... rồi ứng chế cho thích hợp với hoàn cảnh, địa thế. Ðầu tiên, hai thế võ được thông dụng là lối đánh bằng tay chân gọi là quyền và lối đánh bằng cây gọi là roi. Họ dùng khúc cây vừa làm đòn gánh vừa là vũ khí hộ thân. “Gánh, có thể chịu sức nặng gấp ba lần trọng lượng của mang xách mà vẫn đi được xa. Ðòn gánh làm bằng gốc tre già, vừa chắc vừa dẻo, tiện cả hai mặt: gánh thì êm vì đòn nhún theo nhịp đi; đánh lại bền vì cây roi không bị gãy hay giập bể. Ðó là những năm tháng dài, hình thành một nền võ thuật mới mẻ, độc đáo, được cả nước quen gọi là võ Bình Định”.

Từ cuối năm Mậu Ngọ 戊午 (1558), Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá, lập nên xứ Nam Hà, cho đến năm Tân Mão 辛卯(1771), Khởi nghĩa của ba anh em Tây Sơn 西山bùng nổ.Trong ngót 200 năm, võ Bình Định đã tiến một bước dài, phát triển đầy đủ các môn binh khí và trở nên qui củ. Khởi nghĩa chú Lía nổ ra trong thời kỳ này còn lưu lại một bài vè dài 1336 câu, chia làm 6 đoạn, phản ánh phần nào võ nghệ ở Bình Định thời bấy giờ.

Kết hợp nội dung bài vè và lời truyền tụng của dân chúng về cuộc đời của Liá, nhân vật tiếng tăm ấy có tên thật là Võ Văn Ðoan 武文端, nhưng người đời quen gọi thân mật là chú Lía, quê nội ở huyện Phù Ly nay là Phù Mỹ, cha mất sớm, Lía theo mẹ về quê ngoại tại làng Phú Lạc, tổng Thời Hòa, huyện Tuy Viễn, sau là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, quận Bình Khê (nay đổi huyện Tây Sơn). Nhà nghèo, mẹ thường đau yếu, Liá lại còn nhỏ không làm ra tiền để nuôi mẹ. Nhiều lần Lía đến các nhà phú hộ xin bát cơm thừa hay xin được họ thuê mướn, nhưng bị từ chối và còn bị mắng nhiếc thậm tệ. Lía tự nhủ: "Dốc lòng cố giữ lòng thành, Mà trời chẳng giúp phải đành lòng tham" (vè chú Lía) nhỏ nhặt sắn khoai để cứu sống mẹ qua cơn ngặt nghèo.

Một hôm, Lía vào trộm gà vịt của một nhà phú hộ, bị bắt qủa tang, họ trói và đánh đập tàn nhẫn trước khi giải cho hương chức để chịu một trận đòn thừa chết thiếu sống khác. Từ đấy Lía nuôi trong lòng mối hận thù kẻ giàu có và bọn cường hào ác bá.

Có một hương sư, thương cho tình cảnh của Lía, bèn mướn chăn trâu. Ngày ngày Lía thả trâu ăn cỏ trên các sườn đồi. Nhân có các võ sư thường đem môn sinh đến mé núi dạy võ, Lía ghé mắt học lóm và tiếp thu rất nhanh, thấy đâu nhớ đó. Nhờ có sức mạnh phi thường, thêm năng khiếu về võ nghệ, lại thông minh sáng tạo, một hôm thấy con cá lóc nhảy từ dưới thấp lên ruộng cao, Lía học được ngay:

Lía ta thấy vậy tức cười
Khen con cá lóc vô hồi tài ba
Chớ chi cá lóc dạy ta
Học theo miếng đó, thiệt là mang ơn
và chịu khó tập luyện thành thạo:
Nhảy cao như Lía thiệt tài
Nóc nhà nhảy khỏi ai ai cũng nhường

Từ ấy bọn chăn trâu trong vùng tôn Lía làm "vua", chỉ có thằng Mướp không chịu phục, muốn đấu võ với Lía, ai thắng mới chính thức lên ngôi vị:

Mướp ta cầm một khúc cây
Ðánh nam đỡ bắc múa may loạn trào
Nhưng hắn không đủ sức chống đỡ ngọn roi khốc liệt
Ðường côn toàn vẹn trăm bề
Múa lên giông tố tiếng nghe vù vù

Nên Lía đã lỡ tay đập vỡ đầu thằng Mướp chết ngay tại chỗ.

Lía hoảng sợ, bỏ vào rừng trốn biệt. Bọn lục lâm từng nghe danh Lía, bèn mời về sơn trại. Sau đó Lía cầm đầu một đảng cướp nổi tiếng. Nhưng Lía chỉ đánh cướp những nhà giàu có mà gian ác hay những nhà của bọn tham quan ô lại. Nếu chủ nhà biết điều, nộp tiền của và không chống cự, Lía chỉ lấy hai phần ba của cải, một phần để lại cho chủ. Tài sản cướp được, Lía đem về sơn trại một nửa, nửa kia phân phát cho dân nghèo trong vùng. Lía cấm đàn em không được sách nhiễu dân chúng, cấm chận đường cướp giật bừa bãi hoặc thu tiền mãi lộ. Ðối với bọn cường hào có thành tích hà hiếp dân đen, Lía cho thủ hạ trừng trị làm gương. Nhờ thế tuy là tướng cướp, Lía vẫn được dân chúng ủng hộ và che giấu. Chính quyền địa phương tuy tốn nhiều thì giờ và công sức mà vẫn không dẹp được đảng cướp của Lía. Các nhà giàu trong tỉnh lo sợ, bèn mướn võ sư canh giữ tài sản và tập luyện võ nghệ cho gia nhân, tạo cho tỉnh nhà một số đông người rành võ nghệ và gây thành phong trào học võ.

Nhưng rồi Lía cũng chán đời thảo khấu, nhất là biết được mẹ già qua đời vì buồn phiền về Lía, Lía buồn bã giã từ sơn trại ở vùng Phú Phong huyện Bình khê, đi về mạn bắc định tìm đến một nơi xa lạ, sống đời lương thiện. Thế nhưng, việc võ nghệ là nghiệp chướng đeo đuổi mãi. Trên đường ra Quảng ngãi, Lía phải qua Truông Mây dài độ vài cây số, hai bên mây rừng bao phủ dày đặc. Truông Mây, còn gọi là Hóc Sấu, nằm trên hai thôn, đầu bắc là Phú thuận, đầu nam là Vĩnh hòa, thuộc Tổng Hạ, huyện Bồng sơn phủ Hoài nhơn (còn có tên là phủ Qui Nhơn và Qui Ninh), nay thuộc xã Ân Đức, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Ðịa thế Truông Mây rất hiểm trở, phía đông và đông nam gặp nhánh sông Kim Sơn chảy từ Nam ra Bắc, quanh năm nước xanh lè như màu lá, phía tây núi non trùng điệp và có hòn Núi Một tách ra, sừng sững như chiếc bình phong. Nơi đây Lía bị một bọn cướp chặn đường nên phải ra tay. Hàng chục tên cướp ngã gục. Chúng hoảng sợ, vội phi báo với chủ trại là cha Hồ và chú Nhẫn. Lại một phen Lía phải tỉ thí với hai tên đầu sỏ toán cướp:

Cự đương một đánh với hai
Tả xung hữu đột bụi bay mù trời

Gặp ngọn roi thần của Lía, bọn chúng phải bái phục:

Lía càng sung sức hoành hành
Cha Hồ chú Nhẫn thất kinh đuối rồi

Và rước về sơn trại rồi nhường chức thủ lãnh cho Lía.Trong thời kỳ này đã có những cao thủ thuộc giới nữ lưu:

Mụ Mân khoảng độ bốn hai
Làu thông võ nghệ ít ai sánh bì

Ðến nỗi trình độ võ như cha Hồ chú Nhẫn hiệp sức lại vẫn không thắng nổi:

Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai
Ðuối tay kéo chạy như bay khác nào

Nhưng khi gặp đường roi của Lía, mụ Mân không thể áp đảo được:

Lía ta bình tĩnh đối đang
Mụ Mân tuy giỏi khó toan vẫy vùng
Rồi Lía dùng độc chiêu để hạ địch thủ:
Cầm chừng mụ đánh một hồi
Lía gạt đao gãy, đá bồi một chân

Và cũng từ ngày được tôn làm chủ soái Truông Mây, Lía đã ra lệnh cho thủ hạ phải triệt để áp dụng tôn chỉ của mình. Truông Mây không còn là chỗ cướp bóc bừa bãi khách bộ hành nữa mà trái lại còn bảo vệ người qua đường khỏi bị ác thú hãm hại. Nhờ vậy đảng cướp được dân chúng có cảm tình, được nhiều người gia nhập và tiếng đồn về Lía vang dội khắp vùng:

Lía ta nổi tiếng anh hào
Sơn hà một góc thiếu nào người hay
Bạc tiền thừa đủ một hai
Chiêu binh mãi mã càng ngày càng đông
Làm cho bốn biển anh hùng
Mến danh đều tới phục tùng chân tay

Mục tiêu đánh cướp của Lía nhằm vào những:

Kẻ nào tàn ác lâu nay
Lía sai cướp của đoạt tài chẳng dung
Nhà giàu mấy tỉnh trong vùng
Thảy đều kinh sợ vô cùng lo toan
Nhất nhì những bậc nhà quan
Nghe chàng Lía dọa kinh hoàng như điên
Nhà nào nhiều bạc dư tiền
Mà vô ân đức, Lía đều đoạt thâu

Có binh hùng tướng mạnh, Lía cho sửa sang sơn trại thành đồn lũy, luyện tập đàn em thành thạo các môn quyền, roi, đao, kiếm, siêu, thương, cung, ná...

Lía nay ở chốn sơn trung
Ngày đêm luyện tập ung dung chén nồng

Lực lượng vũ trang có tổ chức, biết tự túc tự cường:

Lâu la mấy vạn tụ đông
Võ rừng làm rẫy vun trồng bắp khoai
Triều đình phái một đội quân đông đảo đến đánh dẹp
Truyền cho mười vạn binh hùng
Dưới cờ đại tướng binh nhung lên đàng

Lía đã đón quan binh bằng chiến thuật bất ngờ, nhanh như một đường roi bí hiểm:

Lâu la kén đủ năm ngàn
Thình lình cướp trại đánh ngang quân trào...
Ðại tướng thoát trận thoát nàn
Về trào chịu tội mất thành binh tan

Lần này, không thể xem thường Lía như đám giặc cỏ, triều đình phải cử một tướng lĩnh tài ba:

Ðô đốc võ nghệvẹn toàn
Quân binh hùng dũng chiến tràng đua tranh
Lía bèn giục ngựa ra thành
Quyết cùng đô đốc giao tranh so tài
Ðôi bên xáp chiến cả ngày
Bất phân thắng bại khen thay anh hào
 
Nhưng rồi Lía không làm sao giữ nổi thành trong thời gia dài:

Tính toan thành khó giữ nào
Bởi chưng quân ít không sao chống kình
Lía ngầm muốn tính bỏ thành
Ngặt vì binh tướng trào đình phủ vây
Lía đã dùng ngón võ tuyệt vời để thoát thân:
Cơn nguy chuyển hết sức thần
Dùng miếng "cá lóc" giậm chân nhảy liền
Quân trào vây kín khắp miền
Lía vọt ra khỏi rất nên kỳ tài
 
Trên đây là những câu trích trong vè Chú Lía cho thấy võ học Bình Định ở thời kỳ này đã thịnh hành và đóng vai trò then chốt trong chiến đấu.Tuy Triều đình đã dẹp yên đảng cướp ở Truông Mây, nhưng tình cảm của dân chúng đối với chú Lía mãi mãi đi vào văn học:

Chiều chiều én liệng Truông Mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong thành
        
Từ năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa ở Gò Tô đất Tây sơn đến năm Nhâm Tuất (1802), vua Quang Toản bị bắt ở huyện Phượng nhãn tỉnh Bắc ninh, nền võ học Bình Định mở ra một kỷ nguyên mới. Ðó là võ Tây Sơn.

Tam kiệt Tây Sơn gồm Nguyễn Nhạc 阮岳(?-1793) anh cả, Nguyễn Huệ 阮僡(1753-1792) anh thứ, và Nguyễn Lữ 阮呂(?-1788) em trai út, người làng Kiên Mỹ đất Tây Sơn, sau này là thôn Kiên Mỹ, xã Bình Khê (nay đổi huyện Tây Sơn).

Họ Nguyễn Tây Sơn nguyên là họ Hồ, dòng dõi Hồ Qúy Ly 胡季犛. Ông tổ bốn đời là Hồ Phi Khanh 胡丕卿 ở huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Năm Ất Tỵ (1655), Trịnh Nguyễn giao tranh 鄭阮分爭lần thứ năm, quân Nguyễn tấn công Nghệ An. Hồ Phi Khanh cùng một số dân chúng bị quân Nguyễn bắt đem vào phủ Qui Ninh huyện Tuy Viễn để khai hoang. Ông đến ở làng Bằng Châu (nay thuộc xã Ðập Ðá huyện An Nhơn) được họ Ðinh đỡ đầu, gây dựng. Ðời con là Hồ Lang, dời về làng Phú Lạc xã Bình Thành. Ðời cháu là Hồ Phi Phúc, dời qua làng kế cận là Kiên Mỹ. Nơi đây, ba anh em Tây Sơn ra đời, trước theo họ cha, sau đổi ra họ mẹ là họ Nguyễn.

Lúc nhỏ, anh em Tây Sơn được học chữ Hán với thầy giáo Hiến, một bậc tài danh bất mãn vì chế độ thối nát, nạn Trương Phúc Loan chuyên quyền, tham tàn. Sau đó, anh em Tây sơn học võ với võ sư Ðinh Văn. Nhưng thường gọi là ông Chảng, người làng Bằng Châu. Thầy võ là người bộc trực, gan dạ và ngang ngạnh nhất vùng, chẳng hề kiêng nể bọn cầm quyền. Ông tự phong "Chảng chảng ngang thiên". Câu ví von của người đương thời "Ngang quá ông Chảng" nay đã trở thành tục ngữ. Ba anh em được thầy yêu qúy, dạy cho nhiều thế võ bí truyền. Thấy được sự lợi hại của võ Bình Định, tam kiệt Tây Sơn đã đem võ thuật vào chiến thuật trong cuộc khởi nghĩa và phát huy võ học Bình Định đến mức cực thịnh.
 
Trong binh đội Tây Sơn, mỗi chiến sĩ là một võ sĩ. Sự huấn luyện quân đội, cơ bản là tập võ nghệ. Người lính phải biết sử dụng tất cả, hoặc một số các binh khí truyền thống sau đây:

1.- Quyền: lối đánh võ bằng tay chân, còn gọi là thảo bộ. Quyền gồm nhiều thảo bộ, chẳng hạn như : thảo bộ Phượng Hoàng, Tứ Hải, Thiền Sư, Ngọc Trản, Thần Ðồng, Lão Mai, Ðộc Thọ... Hễ quyền giỏi thì roi cũng giỏi. Vì vậy quyền là môn võ tối cần. Quân Tây Sơn đã dùng chiến pháp sở trường này trong khi xung phong giáp lá cà, thanh toán chiến trường.

2.- Roi: lối đánh võ bằng gậy, còn gọi là côn. Roi không nên lớn quá hoặc nhỏ quá, phải vừa cỡ tay nắm người sử dụng thì đường roi mới mạnh và nhanh. Có hai loại: roi trường và roi đoản. Roi trường là roi trận, dài khoảng 2,50 mét, đầu lớn là đốc roi, đầu nhỏ là ngọn roi. Người sử dụng roi trường ngồi trên ngựa và chỉ đánh một đầu. Roi đoản là roi đấu, dài "tề mi 齊眉" tức là ngang lông mày người sử dụng (chừng 1,60 mét). Roi đấu cầm ở giữa thân roi nên có thể đánh cả hai đầu. Chẳng hạn đầu roi bổ xuống như trời giáng khiến đối thủ lo chống đỡ , nhưng đó chỉ là cú đánh hư. Trong lúc ấy, nhanh như chớp đốc roi thúc mạnh vào hạ thế đối thủ, đó mới là cú đánh thực. Ngày xưa, các võ sĩ thường vắt vai một khăn lông to và dài, gặp khi bất trắc, có thể dùng khăn thế roi, gọi là roi nhuyễn tiên, không phải là để đánh mà để "vung roi" che mắt đối thủ rồi xông vào hất tung binh khí.

3.- Song sĩ: hai cây gỗ cứng kẹp dọc cẳng tay, ló ra ở hai đầu. Khi đấm hay thúc cùi chỏ thì đầu nào của song sĩ cũng có thể ấn sâu vào cơ thể của đối thủ.

4.- Ðao: để chém và đâm. Nếu đao có lưỡi bè ra rất lớn thì gọi là đại đao.

5.- Kiếm: gồm độc kiếm và song kiếm, lưỡi dài nhưng không quá 1 mét.

6.- Siêu: giống như đao, nhưng cán dài. Thế võ kết hợp giữa kiếm và roi.

7.- Thương, giáo, mác, lao đều có cán dài, dùng để đâm, đánh và phóng.

8.- Xà mâu, đinh ba, bừa cào đều có cán dài nhưng đầu có nhiều nhánh, đường võ chậm chạp, ít thông dụng.

9.- Lăng, khiên: tròn dẹp, có tay nắm ở tâm điểm; dùng để che đỡ khi lâm trận.

10.- song chùy: hình cầu bầu dục, xẻ răng cưa như cạnh khế, có cán nắm, dùng để đánh, cũng ít sử dụng.

11.- Dây xích bằng sắt dùng để quất, lợi thế như một cây roi.

12.- Cung, ná, nỏ dùng để bắn tên khi đối thủ còn ở xa.

Một đặc điểm của võ Tây Sơn là mỗi thế võ đều có bài thiệu đi kèm, tức là phần lý thuyết được diễn thành thơ có vần, có điệu cho dễ đọc, dễ nhớ. Người học võ, phải thuộc lòng bài thiệu, đọc đến đâu múa đến đó, lý thuyết ăn khớp với thực hành. Lối học võ này rất tiện cho việc luyện tập nhiều người cùng một lúc, được áp dụng trong trường huấn luyện quân đội của Tây Sơn.

Thời ấy còn sáng chế ra điệu trống trận Tây Sơn. Người đánh, cùng một lúc sử dụng nhiều trống, tối đa 12 cái, và phải dùng thế võ côn quyền mới đánh được. Ðánh bằng dùi cả hai đầu, gọi là roi trống, vừa đánh cả hai bàn tay, cổ tay, cùi chỏ, vai... làm cho tiếng trống phát ra những âm thanh khác nhau, nghe rất hùng tráng. Lúc ra trận, dùng hai trống lớn, đánh theo võ nhạc trận, âm thanh vang xa, dồn dập, khích động.

Chiến thuật của Tây Sơn là áp đảo đối phương từ tầm xa đến tầm gần. Xa thì có đại bác đặt trên mình voi. Khi cách mục tiêu chừng 100 mét thì dùng súng trường. Gần thì đến lượt cung nỏ, rồi hỏa hổ. Cuối cùng là xung phong cận chiến, dùng các thế võ để giải quyết chiến trường theo nguyên tắc "nhất nhân địch quần nhân".

Như vậy, đội quân Tây Sơn quí hồ tinh dũng bất quí hồ đa. Binh đội gọn nhẹ, di chuyển nhanh chóng, thích hợp với lối tác chiến thần tốc. Ðánh nhanh đánh mạnh, hư thực không rõ, bất ngờ thọc sâu vào kẽ hở của địch quân. Chiếm mục tiêu thì dùng tượng binh 象兵 làm lá chắn, vừa là pháo đài di động cho bộ binh tiến lên. Ðó là kỹ thuật tác chiến của Tây Sơn, ảnh hưởng bởi bản chất con nhà võ.

Tương truyền các tướng Tây Sơn đều là những tay võ xuất chúng. Nguyễn Huệ sở trường về roi. Nguyễn Lữ xuất sắc về côn quyền, đã sáng chế ra Hùng Kê quyền, lấy từ các thế võ của gà đá. Võ Văn Dũng rất giỏi về đao, người đời có câu truyền tụng

Phá sơn trung tặc, dị
Thắng Văn Dũng đao, nan

Ðặng Văn Long (có sách chép là Mưu) lại quán thông cả cương quyền (ngạnh công) lẫn miên quyền (nhuyễn công) với đôi tay mạnh và cứng như sắt nên người đời thường gọi là Ðặng thiết tí. Bùi Thị Xuân thì không ai bì kịp về môn kiếm.

         
Tóm lại, võ Tây sơn là võ truyền thống của Bình Định đã được tập hợp và tinh luyện để đưa vào quốc phòng. Võ trở thành chiến lược độc đáo của Tây Sơn, thời huy hoàng nhất của võ học Bình Định.
                  
Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Ánh dẹp nhà Tây Sơn và lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Gia Long. Không những nhà vua trả thù dã man đối với Tây Sơn mà còn có cả một kế sách lâu dài, nhằm tận diệt tất cả những gì có liên quan đến Tây Sơn. Vì vậy võ Tây Sơn không còn được lưu hành nữa. Các nhà võ rút lui vào bóng tối, chỉ âm thầm truyền dạy cho con cháu. Các bài thiệu cũng phải dấu trong trí nhớ và chỉ truyền miệng trong phạm vi gia đình. Ðiệu trống Tây Sơn im bặt trong những ngày lễ hội đông người. Thời kỳ này kéo dài suốt các triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và đầu đời Tự Ðức. Vì thế nền võ học Tây Sơn đã bị thời gian làm mai một rất nhiều.
        
Từ khi vua Tự Ðức lên ngôi (1847), quân Pháp luôn luôn tìm cách gây hấn với nước ta để có cớ xâm chiếm. Năm 1858, liên quân Pháp và Tây ban nha đánh chiếm bán đảo Sơn trà, Ðà nẵng. Năm 1859, thành Gia định thất thủ. Năm 1861, mất Ðịnh tường (Mỹ tho), đảo Côn lôn và Biên hòa. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam kỳ là Vĩnh long, An giang, Hà tiên.

Trước tình thế khẩn trương, cần tăng cường quân đội để bảo vệ những phần đất còn lại. Ðối với Tự Ðức, đề phòng Tây Sơn không còn là việc thiết thực nhưng họa xâm lăng của Pháp thì sờ sờ trước mắt. Vì thế năm 1867, nhà vua cho thành lập trung tâm tuyển chọn võ quan ngay trên miền đất võ. Ðó là trường thi Hương võ Bình Định tại thôn An thành, tổng Thời đôn, huyện Tuy viễn phủ An nhơn, nay là thôn An thành xã Nhơn lộc huyện An nhơn và chỉ cách trường thi Hương Văn (tại Hòa nghi, xã Nhơn hòa) vài cây số xuyên qua các thôn Trường cửu, Quang châu dọc theo hữu ngạn nam phái sông Côn.

Vốn sẵn truyền thống yêu thích võ nghệ, nay được nhà vua mở trường thi, tuyển chọn nhân tài, các mạch võ ẩn tàng hơn sáu mươi lăm năm qua, giờ đây bùng lên trổ hoa kết trái. Các lò võ ở Bình Định mọc lên như nấm. Những đêm trăng, trong sân nhà hay trên dãy gò hoang vắng, tốp năm tốp ba, võ sinh miệt mài tập luyện.

Rồi kinh đô thất thủ (1885), vua Hàm Nghi bôn đào và xuống chiếu Cần vương. Võ Bình Định đã góp phần vào việc chống Pháp. Lãnh tụ phong trào Cần vương ở Bình Định, anh hùng Mai Xuân Thưởng, là một người văn võ song toàn. Trong bài Ðiếu Mai Nguyên Súy (soái) tức Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Bá Huân, một danh sĩ đương thời, đã hết lòng khâm phục:

Ðan tâm chỉ vị cứu lương dân
Hoành sóc ngâm thi hữu kỹ nhân
Nhất phó hung khâm hoành vũ trụ
Tam niên cầm kiếm định phong trần…
Tống Phước Hổ dịch:
Lòng son chỉ muốn cứu lương dân
Vung giáo, ngâm thi mấy kẻ bằng
Một tấm lòng trung trùm vũ trụ
Ba năm đàn kiếm sạch phong trần

Dưới cờ khởi nghĩa của Mai nguyên soái, ở Bình khê có một dòng võ mà cả ba thế hệ gồm hàng trăm võ sĩ, võ sinh đã theo thầy đứng trong hàng ngũ nghĩa quân. Ðó là lò võ Lê Thượng Nghĩa, sư tổ của Hồ Tá Quốc. Hồ Tá Quốc đã ca tụng tay kiếm lợi hại của thầy trong việc cứu nước, qua bài tặng Lê công Thượng Nghĩa:

Lão sư thân thủ nhược du long
Lẫm liệt tu mi khí lực hùng
Tích nhật Cần vương đồng tá quốc
Tây trù trảm tận hiển hùng phong

Ðào Văn dịch:


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >