Trang chủ arrow Bài viết arrow PHO SÁCH VÕ CÔNG CỔ
PHO SÁCH VÕ CÔNG CỔ
20/09/2006
 
 Hè năm 1987, hai con người say mê võ thuật là cố võ sư Ðỗ Hóa (Nguyên Phó Tổng biên tập báo Thể thao ngày nay) và cố võ sư Kim Dũng (ở Bình Ðịnh) đến chùa Quang Hoa (An Nhơn, Bình Ðịnh) để đàm đạo võ thuật với thượng tọa Thích Bửu Thắng; một nhân vật giỏi võ có tiếng ở Quy Nhơn. Trong cuộc gặp này có cả thượng tọa Thích Hạnh Hòa trụ trì chùa Long Phước. Hôm đó, xách tráp theo hầu thầy Hạnh Hòa có một nhà sư trẻ mới 20 tuổi là Thích Vạn Thanh. Nghe các thầy bàn luận chuyện võ công, Vạn Thanh thích chí ghé tai thầy mình nói nhỏ:
 
- Bữa nào sư phụ mời các thầy về chùa mình xem con múa võ!.

Thầy Hạnh Hòa trợn mắt:

- Con biết gì mà dám múa rìu qua mắt thợ ?

Vạn Thanh đáp:

- Thầy cứ tin con đi.

Dù chưa bao giờ thấy đệ tử cầm đến đao kiếm nhưng thầy Hạnh Hòa tin vào người đệ tử củ mỉ cù mì của mình. Thế là ông mở hội võ lâm mời bạn bè khắp nơi tụ về chùa Long Phước. Hôm ấy, anh hùng hào kiệt chốn võ lâm đều trợn tròn mắt khi chứng kiến nhà sư trẻ Vạn Thanh nhuần nhuyễn khiển các món binh khí như thương, đao, kiếm... Trong con mắt của các võ sư, điều làm họ bất ngờ chính là những đường nét khác lạ trong những bài biểu diễn của Vạn Thanh. Hỏi tới xuất xứ thì nhà sư trẻ chỉ cười. Ðợi các vị khách ra về, lúc ấy Vạn Thanh mới thưa thật với thầy Hạnh Hòa rằng ngay từ lúc 16 tuổi đã được thượng tọa Thích Tịnh Quang, trụ trì chùa Lộc Sơn (xã Nhơn Thọ, huyện An Nhơn, Bình Ðịnh), truyền dạy võ nghệ. Ngay cả khi được gửi đến chùa Long Phước ở và học đạo giáo, anh vẫn kiếm cớ đi về thăm nhà nhưng kỳ thật là đến chùa Lộc Sơn (cách Quy Nhơn gần 40 km, theo hướng đi Plâyku) học võ. Vừa nói, Vạn Thanh vừa trình cho thầy xem cuốn vở học trò chi chít chữ Hán gồm những bài đao, thương... mà mình ghi lại từ những lần học khẩu quyết mà sư phụ truyền dạy. Và đó chính là Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp mà giới làng võ đồn đại!

Vài ngày sau cái hôm biểu diễn ấy, hai võ sư Ðỗ Hóa và Kim Dũng quay lại chùa Long Phước. Cả hai thông báo rằng đã thuyết phục được ông Lê Thi, giám đốc Sở TDTT Bình Ðịnh lúc ấy, cho phép mở CLB võ thuật ở chùa Long Phước. Và đó là ngôi chùa đầu tiên ở Việt Nam mở lò võ. Từ lò võ chùa Long Phước đã lần lượt xuất hiện hầu hết các võ sĩ cho đội tuyển võ cổ truyền Bình Ðịnh với những tên tuổi thành danh tại các giải vô địch quốc gia như Nguyễn Ðức Thắng với bài U linh thương (thời Lý), Nguyễn Văn Cảnh với bài Tru hồn kiếm (thời Lý), Võ Văn Tính với bài Chấn lôi âm tiên (thời Hậu Lê), Trần Duy Linh với bài Lôi long đao (thời Trần)...

Thầy Vạn Thanh tên thật là Nguyễn Ðông Hải, còn rất trẻ, chỉ mới 35 tuổi, sinh ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, Bình Ðịnh. Năm 12 tuổi, Ðông Hải đã xuất gia vào chốn cửa thiền. Sư phụ Tịnh Quang lúc ấy chỉ nhận vỏn vẹn hai đệ tử, một là Vạn Lạc hiện trụ trì chùa Lộc Sơn, và người thứ hai là Vạn Thanh. Sau bốn năm chuyên tâm học kinh kệ, một đêm nọ Vạn Thanh được sư phụ gọi riêng ra và bảo:

- Thầy thấy con có tư chất, tính tình điềm đạm, có thể học võ được. Nhưng điều quan trọng là con có thích học không?.

Vạn Thanh đáp:

- Ðược thầy thương, truyền dạy, con rất thích ạ.

Thế là lúc nửa đêm, khi gà gáy, một thầy một trò huỳnh huỵch luyện thập bát ban. Xen giữa những buổi thị phạm là những bài học khẩu quyết bằng tiếng Hán cổ, là những lần thầy cầm tay trò tô theo từng nét bút những chữ Hán loằng ngoằng, là những câu chuyện kể về lai lịch của Lục tướng tằng vương... lẫn xuất xứ của môn phái Long hổ không hồng.

Vào thời Hậu Lê, ở kinh thành Thăng Long có một nhà sư rất giỏi võ nghệ. Ông đã bỏ công suốt một đời để lặn lội sưu tầm góp nhặt binh thư võ thuật của các bậc danh tướng. Với sở học của mình cộng với những gì sưu tầm được, ông soạn ra pho bí kíp Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp (tạm dịch nghĩa là: Sao chép binh thư võ thuật của những vị tướng qua nhiều đời khác nhau). Hoàn tất pho sách, sợ bị thất truyền, ông lập ra môn phái Long hổ không hồng: long và hổ tượng trưng cho “uy” và “mãnh”; không hồng là bao la như ánh mặt trời. Theo môn quy của Long hổ không hồng, mỗi đời chỉ nhận và truyền dạy cho một đệ tử, và tên hiệu của những người trong môn phái đều phải bắt đầu bằng chữ “Hư”. Nhà sư sáng lập Long hổ không hồng có tên hiệu là Hư Minh.

Chiến tranh loạn lạc thời Trịnh-Nguyễn phân tranh khiến đệ tử các đời của Long hổ không hồng đi dần xuống phía Nam, và đến thời nhà Tây Sơn thì đã truyền được đến đời thứ tám cho Nguyễn Trung. Như với tên hiệu Hư Linh Èn. Sau khi Gia Long lên ngôi, bộ Lục tướng tằng vương... bị hủy diệt như số phận chung của những pho sách võ khác của đất Bình Ðịnh. Và kể từ đây nó chỉ được truyền lại qua trí nhớ của các đời đệ tử Long hổ không hồng. Tính đến thượng tọa Thích Tịnh Quang là đời thứ 12 với tên hiệu Hư Linh Thông (mất năm 1990), và truyền nhân thứ 13 chính là Vạn Thanh - Hư Linh Tử.

Dù chỉ được truyền lại theo khẩu quyết, nhưng Lục tướng tằng vương... cũng được Hư Linh Tử ghi lại gần 150 bài. Tuy nhiên, để nắm được hết lẽ huyền diệu của pho bí kíp này, anh biết cái mình còn thiếu: vốn chữ Hán cổ còn yếu, sở học về triết lý phương Ðông còn non. Thế là năm 26 tuổi, Hư Linh Tử một mình một tay nải vào Sài Gòn tìm học ở khoa Ðông - Nam ¸ các trường đại học Sư phạm, Tổng hợp. Sau hơn bốn năm đèn sách Hư Linh Tử đã dần dần lĩnh hội được Lục tướng tằng vương.... Giờ đây, anh cũng mới thấu hiểu mỗi bài võ trong Lục tướng tằng vương... đều có hai mục đích: chiến đấu và rèn sức khỏe.

Năm 1997 tròn 30 tuổi, Vạn Thanh - Hư Linh Tử hết duyên với cửa Phật. Anh hạ sơn và từ đây trở thành võ sư Nguyễn Ðông Hải - Hư Linh Tử. Cuối năm 1999, Ðông Hải - Hư Linh Tử về làm huấn luyện viên trưởng đội tuyển võ cổ truyền của Sở Thể dục thể thao Bình Ðịnh. Bao nhiêu sở học nắm được từ Lục tướng tằng vương... anh dốc hết cho các học trò, đem lại rất nhiều huy chương vàng quốc gia.

 Nguyên Thọ

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >