Trang chủ arrow Tản mạn arrow CHÚA JESUS
CHÚA JESUS
24/12/2006
Image

Giê-xu, theo các sách Phúc âm, là một người Do Thái tôn trọng luật pháp Moses (kinh Torah), là nhà thuyết giáo và người chữa bệnh bằng phép mầu, cũng là người thường bất đồng với giáo quyền Do thái, và cuối cùng, là người bị đóng đinh trên thập tự giá theo phán quyết của chính quyền Đế Quốc La Mã.



 

Tên Giê-xu bắt nguồn từ Iesous (Ιησους) trong tiếng Hy Lạp, được dịch từ Yehoshua trong tiếng Hebrew(יהושע) hay Joshua trong tiếng Anh và Giô suê trong tiếng Việt).Từ "Cơ Đốc" (Christ) không phải là tên nhưng là một danh hiệu. Trong tiếng Hy Lạp Christos có nghĩa là "người được xức dầu", được dịch từ tiếng Hebrew Messiah.

Theo ký thuật của các sách Phúc Âm, Giê-xu xưng mình là Con Người ("Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ mà gối đầu". Mat. 8.20), cũng được gọi là "Con Thiên Chúa" ("Thật người này là Con Thiên Chúa". Mat. 27.54). Ngoài ra, ngài còn có một số danh xưng khác như "Đấng Tiên tri", "Chúa" và "Vua dân Do thái". Đa số tín hữu Cơ Đốc tin rằng các danh xưng này dùng để tôn vinh thần tính của Chúa Giê-xu.

Hầu hết tín hữu Cơ Đốc giáo tin rằng Giê-xu là Thiên Chúa, là Đấng Messiah mà sự xuất hiện của ngài đã được tiên báo trong Cựu Ước. Họ tin rằng ngài là Thiên Chúa hoá thành nhục thể, là Ngôi thứ Hai trong Ba ngôi. Cũng như tin rằng ngài được thai dựng bởi Chúa Thánh Linh, xuống thế gian để cứu nhân loại khỏi tội lỗi và sự chết bởi máu của ngài đã đổ ra khi bị đóng đinh trên thập tự giá như là sinh tế chuộc tội cho loài người. Và tin rằng ngài đã sống lại từ kẻ chết và sau đó trở lại Thiên Đàng.

Khác với Đức Tin của người Cơ Đốc Giáo, người Hồi Giáo tin rằng Giê-xu là một trong những nhà tiên tri được Thiên Chúa sai đến và là Đấng Messiah. Vì có vai trò đặc biệt trong các tôn giáo này, Giê-xu được nhìn nhận là một trong những nhân vật quan trọng nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong lịch sử nhân loại.

Theo kinh Tân Ước, Giê-xu sinh tại Bethlehem. Mẹ của Giê-xu, Mary ( Mariah hoặc Mari ), là một đồng trinh đã mang thai bởi quyền năng siêu nhiên của Chúa Thánh Linh.  Joseph ( Giuse hoặc Giôxép), chồng của Mary, chỉ được nhắc đến trong thời thơ ấu của ngài, dẫn đến những suy đoán rằng ông qua đời trước khi Giê-xu bắt đầu đi giảng dạy. Theo các sách Phúc Âm, khi Giê-xu sinh ra, các mục đồng, được thiên sứ báo tin, đến thờ lạy và ba Nhà thông thái (còn gọi là ba Nhà chiêm tinh hay ba Đạo sĩ) từ phương Đông xa xôi, được dẫn dắt bởi ngôi sao lạ, tìm đến để tôn thờ ngài.

Các sách Phúc Âm được tập chú vào quãng đời ba năm cuối khi Giê-xu sống trên thế gian, đặc biệt là tuần lễ cuối cùng trước khi bị đóng đinh trên thập tự giá. Thời kỳ này theo ước tính ở khoảng giữa các năm 27 và36. Cũng theo ước tính này, Giê-xu sinh ra trong khoảng năm 8–4 TCN.

Phúc âm Mark 6.3 ký thuật rằng "Giê-xu là con của Mary, anh của James, Joseph, Giu-đa và Simon". Josephus, sử gia Do Thái, và Eusebius, sử gia Cơ Đốc, có nhắc đến James như là em của Giê-xu. Tuy nhiên, Jemore cho rằng James (Giacôbe hoặc Gia-cơ) chỉ là em họ của ngài. Cách giải thích này đặt nền tảng cho truyền thống của Công Giáo La Mã và Chính Thống Giáo Đông Phương tin rằng Mary đồng trinh trọn đời.

Giê-xu trải qua thời niên thiếu tại làng Nazareth thuộc xứ Gallilé. Chỉ có một sự kiện xảy ra trong thời gian này được ghi lại là khi cậu bé Giê-xu theo gia đình lên Jerusalem trong một chuyến hành hương. Bị thất lạc khỏi cha mẹ, cuối cùng cậu bé Giê-xu 12 tuổi được tìm thấy trong Đền thờ, đang tranh luận với các học giả.

Ngay sau khi chịu lễ  Báptêm (phép rửa) bởi Giăng Báp-Tít (John the Baptist), Giê-xu bắt đầu đi rao giảng, khi ấy khoảng ba mươi tuổi. Theo Phúc Âm Lu-ca, Giê-xu và Giăng Báp-tít là anh em họ vì Mary và Elizabeth, mẹ của Giăng, là hai chị em.

Theo Kinh Thánh, Giê-xu đã cùng các Môn đồ đi khắp xứ Gallilé để giảng dạy và chữa bệnh. Cung cách giảng dạy với thẩm quyền và uy lực cùng kỹ năng điêu luyện khi Giê-xu sử dụng các Dụ Ngôn để giải bày chân lý đã thu hút rất nhiều người. Họ tụ họp thành đám đông và tìm đến bất cứ nơi nào ngài có mặt. Đôi khi đám đông trở nên mất trật tự và ngài buộc phải ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Giê-xu cũng tìm đến và thuyết giáo tại các hội đường Do Thái Giáo (synagogue).

Giê-xu áp dụng các phương pháp khác nhau khi giảng dạy, phép Nghịch lý, phép Ẩn dụ và các truyện dụ ngôn. Ngài thường tập chú vào Vương Quốc của Thiên Chúa hay Vương quốc Thiên đàng. Nổi tiếng nhất là Bài Giảng Trên Núi, trong đó Các Phúc Lành (Beatitudes) được đề cập đến. Trong số những ngụ ngôn, được biết đến nhiều nhất là các câu chuyện kể về Người Samariah nhân lành và Người con trai hoang tàng.Giê-xu có nhiều Môn đồ, thân cận nhất là Mười hai sứ đồ (apostle), Peter (Phêrô hoặc Phi-e-rơ) được Công giáo La Mã cho là sứ đồ trưởng. Theo linh Tân Ước, Giê-xu làm nhiều phép mầu như chữa bệnh, đuổi tà ma và khiến Lazarus sống lại từ kẻ đã chết.

Giới lãnh đạo Do Thái giáo bao gồm các nhóm quyền lực đối nghịch nhau như nhóm Sadducee và nhóm Pharisé thường bất đồng với Giê-xu. Ngài vẫn thường vạch trần tính chuộng hình thức cũng như tinh thần đạo đức giả của người Pharisee. Nhiều người xem Giê-xu như một nhà cải cách xã hội, những người khác tỏ ra nhiệt tình với ý tưởng ngài là vị vua đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của Đế quốc La Mã, trong khi giới cầm quyền xem Giê-xu như một thế lực mới đang đe dọa những định chế tôn giáo và chính trị đương thời. Nhiều người tin nhận ngài là Đấng Messiah đến để cứu chuộc nhân loại.

Giê-xu cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Pass over), ngài vào Đền thờ, đánh đuổi những người buôn bán, những kẻ đổi tiền và lật đổ bàn của họ và quở trách họ "Nhà ta được gọi là nhà cầu nguyện nhưng các ngươi biến thành hang ổ của bọn trộm cướp". Sau đó, Giê-xu bị bắt giữ theo lệnh của (Sanhedrin) và Thượng Tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu rừng Gethsemane, ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giê-xu nhờ cái hôn của Judas Iscariot một phản đồ của ngài.

Toà Công luận cáo buộc Giê-xu tội phạm thượng và giao ngài cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình – không phải vì tội phạm thượng, nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giê-xu. Tuy nhiên, theo các sách Phúc Âm, một tấm bảng có hàng chữ "Vua dân Do thái" được treo trên thập tự giá theo lệnh của Pilate; INRI ( Tiếng La Tinh) là các mẫu tự viết tắt cho câu "Giê-xu người Nazareth, vua dân Do Thái".

Sau khi Giê-xu qua đ Joseph người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn ngài với sự chứng kiến của Mary, Mary Magdalene và những phụ nữ khác.

Tín hữu Cơ Đốc tin rằng Giê-xu sống lại ba ngày sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Cơ Đốc là Sự Phục Sinh của Chúa Jesus Cơ Đốc, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục Sinh(Easter).

Không ai chứng kiến được sự phục sinh của Giê-xu, song một vài phụ nữ khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ngài (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ngài trong đó. Theo Tân Ước, một Thiên Sứ đang đợi tại ngôi mộ để báo cho họ biết là Giê-xu đã sống lại. Phúc Âm Mark (Macô hoặc Mác) thuật lại Mary Magdalene sau đó đã gặp ngài. Phúc Âm Giăng không nhắc đến thiên sứ nhưng thuật rằng khi Mary Magdalene đến bên ngôi mộ trống, Giê-xu đã hiện ra cùng bà. Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng ngài gặp gỡ nhiều người tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi thăng thiên.

Hầu hết tín hữu Cơ Đốc chấp nhận câu chuyện phục sinh, như được ký thuật trong Tân Ước, là sự kiện lịch sử và xem đây là tâm điểm cho Đức Tin của họ mặc dù theo quan điểm của một số tín hữu thuộc trào lưu tự do (liberalism), đây chỉ là câu chuyện có tính ẩn dụ. Phần lớn tín hữu Cơ Đốc tin rằng Giê-xu đã làm nhiều dấu kỳ phép lạ và các Tông đồ được ban cho quyền lực siêu nhiên bởi Chúa Thánh Linh để chữa lành bệnh tật cho nhiều người và nói được nhiều thứ tiếng khác nhau sau khi Chúa Giê-xu thăng thiên.

Thế giới mà Giê-xu sống luôn luôn biến động, được đánh dấu bởi những bế tắc nối tiếp nhau cả về văn hoá và chính trị. Về văn hoá, vì người Do Thái phải vật lộn với nền triết học và các giá trị của văn minh Hi Lạp và với sự mâu thuẫn nội tại của kinh Torah, vì trong khi kinh Torah mặc khải các chân lý có giá trị cho toàn thể nhân loại thì các luật lệ của nó chỉ áp dụng riêng cho người Do Thái. Tình thế này dẫn dắt họ đến những cách giải kinh mới chịu ảnh hưởng của tư tưởng Hi Lạp và nhằm đáp ứng quyền lợi của người không thuộc chủng tộc Do Thái đã gia nhập Do Thái giáo.

Vào thời điểm Giê-xu sinh ra, lãnh thổ Do Thái thuộc Đế quốc La Mã, nhưng đặt dưới quyền cai trị của vua Herod "lớn". Vào năm 4, hoàng đế La Mã Augustus phế truất Herod Archelaus, con của Herod "lớn" và đặt các xứ Judea, Samaria và Idumea dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền La Mã, được giám sát bởi một quan tổng đốc, người này có quyền bổ nhiệm chức Thượng Tế của Do Thái giáo. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 64. Xứ Galilee, nơi Giê-xu lớn lên, vẫn dưới quyền cai trị của Herod Antipas (một người con khác của Herod "lớn"). Khi ấy, Nazareth, nay được khai quật bởi các nhà khảo cổ, là một làng quê nhỏ bé với vài trăm cư dân, không có hội đường Do Thái giáo (synagogue), cũng không có cơ sở công cộng nào. Không có một chút Vàng, Bạc hay sản phẩm nhập khẩu được tìm thấy ở đây trong cuộc khai quật.

Vài phe nhóm tranh giành ảnh hưởng với nhau trong cộng đồng Do Thái như nhóm Saducee, có quan hệ mật thiết với giới tư tế và Đền thờ, trong khi nhóm Pharisee có nhiều ảnh hưởng trong vòng các học giả, giáo sư và lãnh đạo các hội đường. Các nhóm này chống đối sự chiếm đóng của Đế quốc La mã nhưng vào thời Giê-xu họ vẫn cố kềm chế để không có phản ứng công khai nào.

Nhiều người kỳ vọng vào sự xuất hiện của một vị vua Do Thái (Messiah), hậu duệ của Vua David để giải phóng họ khỏi sự cai trị của người La Mã. Theo đức tin Do Thái, lịch sử được điều khiển bởi Thiên Chúa, có nghĩa là sự chiếm đóng của người La Mã là một phần trong hoạch định của Ngài. Vì vậy đế quyền La Mã cần được thay thế bởi một vị vua Do Thái nhờ sự can thiệp siêu nhiên. Những người thuộc nhóm quá khích tin rằng chẳng bao lâu Vương quốc Do Thái sẽ được phục hồi và họ chuẩn bị các phương tiện để chống người La Mã. Các phản ứng của người La Mã cuối cùng dẫn đến sự phá đổ Đền thờ và sự suy vong của các nhóm người kể trên.


Nguyễn Hạnh  ( Theo tư liệu Công Giáo )
Amen


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >