Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 29, 2024, 08:39:53 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 2 [3]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chu Văn An và Y Học Yếu Giải  (Đọc 12990 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #30 vào lúc: Tháng Một 09, 2019, 04:25:44 PM »

Bệnh án số 13

 Một người con trai, lúc đầu phát nóng, ít ăn, sau một thời gian hơn 2 tháng, biến thành nóng âm. Không rõ trước chữa thế nào mà đến nay bệnh đã quá nặng, mời tôi đến chữa. Tôi thấy bệnh nhân hình thể gầy khô, xương bọc lấy da, mình nóng như rang, lưỡi môi khô nẻ, tinh thần mê man như say rượu. Hỏi bệnh thì nói đã hơn 4 tháng, xem mạch thì mạch không động tới hai bộ quan. Nhà bệnh đã rước sư tụng kinh, các thầy thuốc đã đều bó tay mà chịu. Tôi nói: bệnh đã đến như vậy thì sợ chữa không kịp. Nhưng nhà bệnh cố van nài nhờ chữa, may mà có cơ cứu sống được chăng. Tuy mắt thấy khó thật, nhưng lương tâm không nỡ bỏ qua, bất đắc dĩ tôi cũng thử kê cho một phương để xem bệnh chuyển ra sao. Tôi nghĩ bệnh sốt lâu vong âm, tân dịch đã khô kiệt, nếu dùng thuốc tầm thường thì sợ không đủ sức, nên cho một thang "Tiếp âm" thật lớn, cho vào một cái ấm đất to, sắc đặc như cao cho uống một nước để nghe xem sao, rồi tiếp tục dần dần cho uống luôn, thì bệnh lùi dần, tinh thần tỉnh dần, bắt đầu ngủ được, rồi muốn ăn. Tuy nói tiếng còn nhỏ, nhưng mạch đã hơi hữu lực (có sức). Uống năm ngày thì hết ấm thuốc cao này, rồi sau cho uống tiếp Bát vị (dùng cổ phương xen với Đại bổ nguyên), khoảng 5 tháng thì bình phục hoàn toàn.

Phương Tam vị tiếp âm

Hà thủ ô: 4 lạng (ngâm nước Đậu đen, đồ và phơi 9 lần).

Sinh địa củ to: 4 lạng (tẩm rượu, đồ và phơi 9 lần).

Kỷ tử: 2 lạng (tẩm rượu sao qua).

Lấy sữa người mới vắt ra uống với thuốc cao trên.

* Phân tích phương thuốc "Tam vị tiếp âm":

 Hà thủ ô bổ Thận, bổ huyết. Thục địa bổ Thận âm và tinh huyết, Kỷ tử tư âm nhuận táo sinh tân dịch. Sữa người bổ âm, thêm dinh dưỡng.

 Phương này đại bổ chân âm, thêm tân dịch tinh huyết, có tác dụng tăng thủy dịch, làm dịu  nóng, chống khô khát, thích dụng để tiếp bổ sau bệnh ôn nhiệt, hay nhọc mệt hư lao, âm hư gầy gò, mất nước thiếu máu.
« Sửa lần cuối: Tháng Một 09, 2019, 04:28:56 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #31 vào lúc: Tháng Một 09, 2019, 05:02:14 PM »

Bệnh án số 14

 Vào cuối mùa xuân, một người phụ nữ bị bệnh thật lạ, mời tôi đến chữa. Khi đến, tôi chưa kịp ngồi thì một người hàng xóm ra nói: "Mạch không còn nữa, bệnh chết đến nơi rồi, hà tất phải bàn bạc gì nữa". Thế rồi cả nhà khóc òa lên. Duy chỉ có người cha bệnh nhân cứ đến xin tôi xem cho một chút, để xem như thế nào.

 Tôi xem thấy bệnh nhân mình cứng đờ, chân tay đều lạnh, mắt nhắm, miệng chảy dãi, nằm im không chuyển động, không nói năng gì cả, thân thể còn ấm nhưng mạch Phục hết (chìm thật sâu). Lúc bấy giờ, khó mà dùng phép vọng (trông), văn (nghe) được nữa, hỏi người nhà bệnh thì họ nói là tình trạng như thế đã 3 ngày nay rồi, mà nhắm mắt đã 10 hôm nay, đại tiểu tiện 3 hôm nay không thấy đi, 2 hôm nay không ăn uống gì, và 3 hôm nay miệng thường chảy dãi ra; vả lại từ hôm qua đến nay thì sinh quyết lạnh. Nghe đầu đuôi như vậy, tôi lại xem mạch lại một lần nữa; ấn tay tận xương thì may thấy mạch còn hơi có lực, ấn tay vừa thì vị khí hãy còn, nhấc tay thì không thấy, nhưng đè sâu thì mạch vẫn còn. Tôi nói: "Còn có thể sống". Bèn cho một thang Đại thừa khí thật mạnh. Người cha bệnh nhân có vẻ lo ngại, thuốc hòa đều rồi chỉ cho uống một nửa. Tôi nói: "Nếu ông e ngại thì hãy cho nhỏ vào dần dần". Người cha bệnh nhân theo lời cho rót vào một ít, mới vào được độ 10 giọt mà đã bớt chảy dãi, rồi dần dần cho uống hết một bát thì nói được. Cho uống hết một nước thuốc thì chân trái hơi động được, hết hai nước thuốc thì trở mình được và thở dài. Đến đêm khuya lại báo tin mừng cho tôi biết là bệnh đã bớt. Tôi nói: "Ông không nghi ngại thì bệnh sẽ khỏi". Tôi bảo về  theo y đơn cũ sắc thêm nửa thang, mạnh dạn cho uống đến khi tỉnh thì thôi. Người cha theo lời cho uống hết thang thì bệnh khỏi. Tiếp sau, tôi cho uống Bát vị bỏ Phụ tử để điều lý, hơn một tháng thì bình phục.

 Đó là sáng dùng Đại hoàng mà chiều dùng Quế, Phụ, hà tất phải câu nệ việc đó, chỉ cần nhận định được xác đáng thì dùng mới quả quyết, nếu còn hơi e ngại, nhận thức chưa chắc chắn, thì chớ nên coi thường, phải rất cẩn thận.

Thang Tân tăng đại thừa khí

Đại hoàng: 2 đồng cân.

Hậu phác: 2 đồng cân.

Hoạt thạch: 1 đồng cân.

Mộc thông: 1đồng cân.

Phác tiêu: 1 đồng cân.

Nước 1 bát, sắc vài dạo, uống lúc nóng.

 Đại khái, người xưa chỉ trị hỏa để trục tà, còn tôi thì vừa trục tà, ở 2 kinh âm (lý) với 2 thang như trên, mà đái ỉa như thường. Mới nghiệm Đại hoàng là xứng đáng danh hiệu Tướng quân, có công cứu chết được sống lại. Nếu dùng thích đáng thì hiệu quả chẳng kém Sâm, Quế tí nào. Đại phàm đối với người cao lương bất đắc dĩ mà dùng, đối với bệnh người nghèo, nếu quả thực là bí mà dùng thì rất thích hợp. Bệnh này, nếu tôi được chữa từ đầu thì chả cần phải dùng thuốc mạnh như vậy. Nhưng nay cướp đã xâm nhập vào trong nhà rồi thì phải mở cửa sau mà đuổi nó ra. Phải dùng tướng mạnh mới kịp, chẳng phải những người lính yếu mà có thể đánh thắng được; chữa bệnh như dùng binh, lời ví dụ này rất đúng.

* Phân tích phương thuốc "Tân tăng thừa khí thang":

- Đại hoàng hạ lợi, tả hỏa nhiệt, tiêu tích trệ, thông huyết ứ. Hậu phác hạ khí, tiêu trướng đầy, đờm thấp tích trệ. Phác tiêu làm mềm phân kết, tẩy sổ cho mát ruột, dịu nóng. Hoạt thạch thanh nhiệt lợi tiểu, khỏi uất nóng. Mộc thông thông uất trệ ở Tam tiêu và đại tiểu tràng, bàng quang, lợi đại tiểu tiện, thanh nhiệt tiêu viêm. Phương này giải trừ tà nhiệt uất bế ở nội tạng, để khỏi hôn mê và vong âm trong bệnh ôn nhiệt.
« Sửa lần cuối: Tháng Một 09, 2019, 05:08:36 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #32 vào lúc: Tháng Một 09, 2019, 05:31:51 PM »

Bệnh án số 15

 Một người phụ nữ ngoài 30 tuổi, đã sinh 4 lần, vào cuối mùa xuân bị bệnh đơn nhiệt ghê lạnh, suốt mình đều đỏ, nổi ban lờ mờ, mê sảng, nói nhảm luôn mồm, không thích tiếp xúc với ai cả. Đã dùng mọi thứ thuốc đều vô hiệu. Bệnh ngày càng nặng thêm, nào cứu chân âm, nào trị ôn thần, bùa dấu mọi khoa, đều là vô hiệu.

 Nhà bệnh mới tôi đến chữa nhưng vẫn chưa tin tưởng. Tôi cho uống "Thoái độc" 2 thang thì bệnh lùi, 5 thang thì bệnh khỏi. Nhưng sau khi khỏi thì lại thành chứng ngớ ngẩn, tôi lại cho uống "Dẫn thần thang" thì giải được.

Thoái độc đơn

- Đan sâm: 4 đồng cân.

- Huyền sâm:  4 đồng cân.

- Cam thảo: 2 đồng cân.

- Thổ phục linh: 2 đồng cân.

- Đậu xanh: 2 đồng cân.

- Thêm Lá tre, Gạo nếp làm thang.

Dẫn thần thang

Thục địa: 4 đồng cân.

Phục thần: 2 đồng cân.

Hoài sơn: 2 đồng cân.

Liên nhục: 3 đồng cân.

Đại táo: 1 đồng cân.

Thạch xương bồ: 5 phân.

Viễn chí: 7 phân.

* Phân tích bài thuốc:

1. Thoái độc đơn

- Đan sâm bổ Tâm lương huyết, hoạt huyết, thanh nhiệt, tiêu sưng viêm. Huyền sâm bổ Thận tư âm, mát máu, hạ nhiệt, chữa sốt cơn, đơn sưng phát ban, sốt cao mê sảng, nóng âm kéo dài, khô khát táo bón, bệnh ôn nhiệt hôn mê kinh giật, không nói, mất trí... Cam thảo thanh nhiệt giải độc. Thổ phục linh trừ thấp nhiệt, tiêu độc, lợi tiểu, trị ban lở sưng ngứa. Đậu xanh giải nhiệt độc. Lá tre thanh nhiệt giải cơ biểu uất nóng, khỏi phiền khát mê sảng. Gạo nếp nhuận Phế mát da, trợ Tỳ dưỡng Vị.

* Phương này có tác dụng tư âm lương huyết, hoạt huyết tiêu độc, thanh nhiệt hỏa thấp, giải trừ ôn độc ở phần dinh huyết, tiêu thũng hóa ban, bổ thủy phối hỏa.


2. Dẫn thần thang

 Thục địa tư âm bổ tinh huyết. Hoài sơn bổ Tỳ Thận, dưỡng Tâm Phế, mạnh tiêu hóa, ích tinh khí. Phục thần bổ Tâm an thần định chí. Viễn chí bổ Tâm Thận, khôi phục ý thức, chữa hay quên mất trí, đần độn. Xương bồ khai khiếu tỉnh thần, cường Tâm ích trí, chữa ngớ ngẩn không nói, mê muội, yếu liệt. Đại táo nhuận Phế dưỡng Tâm, an thần dễ ngủ giải phiền, điều hòa dinh vệ khí huyết.

* Phương này có tác dụng thông giao Tâm Thận, điều trị các bệnh chứng về tâm thần hỗn loạn, không nói, điếc tai, ngớ ngẩn, mất trí, hay quên, ít ngủ, phiền táo, sau bệnh ôn nhiệt, hay Tâm Thận suy tổn, tinh thần hư nhược.
« Sửa lần cuối: Tháng Một 09, 2019, 05:42:23 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #33 vào lúc: Tháng Một 10, 2019, 09:27:21 AM »

Bệnh án số 16

 Một cháu lên 7 tuổi, nóng đã một tháng, lên kinh đã 30 - 40 lần, mấy hôm nay chả nói chả khóc gì cả. Khi lên cơn thì người quằn quại tựa như con giun, da thịt rung động, các gân co giật, hình thể khô róc, mắt trợn, chỉ thấy tròng trắng, chói đèn cũng chẳng liếc; ỉa toàn phân đen, đái són từng giọt. Đã dùng những thứ thuốc mà đều vô hiệu, bố mẹ bệnh nhi coi như là không thể sống được.

 Tôi đến thấy người nhà đang đem bệnh nhi đặt bỏ ra một nơi, có người hàng xóm bảo: "Hãy tạm dời để ở nơi chém tù nhân để tiên sinh thử chữa xem". Tôi nói: "hãy để thong thả" rồi tôi xem lại rất kỹ: bệnh tuy đã lâu, lúc lên cơn thì thấy chứng diễn ra ngàn hình muôn vẻ, nhưng sau khi cơn lùi, thì thần sắc hãy còn được ít nhiều, may còn chút hy vọng. Tôi bèn lập một phương gọi là "Thần tiên cứu khổ" chỉ mong uống vào mà khóc được một tiếng là còn cơ cứu được. Sau khi dần dần nhỏ luôn từng giọt, cho uống hết một nước thuốc, thì quả thực bệnh nhi kêu "e" lên được một tiếng rồi thôi. Tiếp tục cho uống luôn 5 thang thì hơi tỉnh, 10 thang thì rút nóng. Tiếp theo cho uống Bát tiên thì nóng trở lại. Lại cho uống thang trước thì sốt lại bớt. Sau lại cho uống Lục vị thì lại sốt trở lại, phải dùng lại phương thuốc lúc đầu thì mới khỏi nóng hẳn.

 Như thế trước sau, ba phen phải dùng tới 20 - 30 thang (Thần tiên cứu khổ) thì mọi chứng đều khỏi. Tuy nhiên vẫn không nói được. Người cha bệnh nhi nói: "Chỉ cần cho con sống được là may, còn không nói được thì cũng không quản ngại". Sau hai tháng cho uống "Đạt khiếu thang" một nước thuốc thì nói được, cơ thể lại bình phục như cũ. Từ đó bố mẹ cháu đổi tên cho cháu là "Sống Sót". Nay cháu đã 10 tuổi.

Thần tiên cứu khổ đan

Sinh địa: 3 đồng cân.

Huyền sâm: 3 đồng cân.

Cam thảo: 1 đồng cân.

Huyền minh phấn: 1 đồng cân.

Thạch cao: 1 đồng cân.

Vỏ đậu xanh: 1 đồng cân.

Đạt khiếu thang (Nội kinh nói: "Tà vào trong thì câm" thật đúng)

Sinh địa: 3 đồng cân.

Hoài sơn: 1,5 đồng cân.

Mẫu đơn bì: 1 đồng cân.

Thạch xương bồ: 5 phân.

Trạch tả: 1 đồng cân.

Liên tử tâm: 5 phân.

Sơn thù: 1 đồng cân.

Thêm Cỏ bấc sắc uống.

 Đây là ôn bệnh phát sinh từ năm Mậu Tuất, Kỷ Hợi (1358 - 1359). Đầu tiên cháu này mắc phải bệnh ấy, mà mọi nơi cũng đều bị bệnh như thế cả. Cho nên tôi theo phép chữa ôn dịch mà chữa bệnh khỏi theo tay. Còn các thày thì không biết, chỉ khi nào thấy bệnh dịch đã lây truyền, nhà nào cũng mắc, làng nào cũng mắt thì mới rõ. Do đó phần nhiều không phân biệt được, nhiệt cho là hàn, hàn cho là nhiệt. Đến cuối mùa xuân năm Canh Tý (1360) tôi đã công bố một y án về kinh nghiệm điều trị. Ở những nơi thiếu thuốc, thiếu thầy, người ta đã từng theo đó, mua thuốc về tương tế lẫn nhau, mà đã cứu sống được vô kể.

* Phân tích phương thuốc:

1. Thần tiên cứu khổ đan

- Sinh địa, Huyền sâm tư âm lương huyết, thanh nhiệt tiêu viêm, sinh tân dịch, khỏi phiền khát, chống sốt cao hôn mê co giật. Thạch cao giải ôn độc ở kinh Dương minh, hạ nhiệt, giải khát. Huyền minh phấn bài xuất ôn độc ở Vị phủ, hạ lợi, thanh nhiệt. Cam thảo, vỏ Đậu xanh thanh nhiệt giải độc.

 Phương này có tác dụng trị bệnh ôn dịch toàn diện, vừa bồi bổ chân âm, thêm tân dịch, làm mát máu, chống khô khát sốt cao, vừa bài độc hạ nhiệt, để ôn độc khỏi uất bế ở trong, làm tiêu hao tân dịch và truyền vào phần huyết sinh mê sảng, phát ban hay xuất huyết.


2. Đạt khiếu thang

- Sinh địa lương huyết thanh nhiệt. Hoài sơn bổ Tỳ Thận, dưỡng Tâm Phế, giúp tiêu hóa, thêm tân dịch. Mẫu đơn bì tả Can hỏa, chặn bốc nóng sưng viêm, hoạt huyết thanh nhiệt. Sơn thù bổ Can Thận, liễm tinh khí. Trạch tả tư Thận lợi tiểu, thanh nhiệt giáng hỏa. Liên tâm thanh Tâm hỏa, giải uất nhiệt ở thượng tiêu, an thần dễ ngủ. Cỏ bấc thanh Tâm hỏa lợi tiểu tiện, khỏi phiền nhiệt. Xương bồ khai khiếu, phát âm thanh mạnh thần chí.

Phương này có tác dụng bổ Thận thủy, thanh Tâm hỏa, trừ dư nhiệt uất bế sinh nóng âm trằn trọc hay ngớ ngẩn không nói, thích ứng với các trường hợp chân âm không đủ do bẩm sinh hay tân dịch hao kiệt do bệnh ôn nhiệt gây nên.
« Sửa lần cuối: Tháng Một 10, 2019, 09:33:54 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #34 vào lúc: Tháng Một 20, 2019, 06:47:41 PM »







Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 2 [3]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn