Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 29, 2024, 05:00:24 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 ... 4 5 [6]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nội kinh tố vấn  (Đọc 30531 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #75 vào lúc: Tháng Bảy 11, 2018, 04:30:11 PM »

Chương bảy mươi bảy

SỚ NGŨ QUÁ LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế nói rằng:

 - Phàm trước khi chẩn mạch, nên hỏi có phải là trước quý mà sau hèn? Nếu vậy, thời dù không trúng tà, bệnh do trong sinh ra. Bệnh đó gọi là thoát doanh. Nếu trước giầu mà sau nghèo… Bệnh đó gọi là Thất tinh. Năm khí lưu niên, bệnh nó dồn lại. Y công chẩn bệnh, không biết bệnh danh. Đó là một lỗi.

 Phàm muốn chẩn bệnh, phải hỏi sự uống, ăn, cư xử, bạo lạc hay bạo khổ, trước sướng sau khổ, những trường hợp đó đều làm thương tinh khí; tinh khí kiệt tuyệt, khiến cho hình thể rã rời. Bạo nộ thời thương âm, bạo hỷ thời thương dương, quyết khí thượng hành, mạch mãn thời hình khứ. Ngự y chẩn bệnh, không biết như vậy. Đó là hai lỗi.

 Phàm chẩn bệnh, phải biết so sánh những bệnh kỳ hằng, biết được là giỏi. Bệnh đó không biết, sao được là biết chẩn. Đó là ba lỗi.

 Chẩn bệnh phải chú vào “tam thường” (tức là tinh, khí, thần). Vậy phải hỏi trước quý sau tiện? Hoặc mới bị thất thế, bị nguy nan? Nếu bị những trường hợp như vậy, thời tinh thần sẽ bị thương; dù không phạm phải tà khí, cũng tất sinh ra bì tiêu, cân khuất, khó lòng sinh tồn. Y giả không xét ở chỗ đó mà chữa liều, đó là bốn lỗi.

 Phàm chẩn bệnh lại phải biết khí huyết suy vượng như thế nào. Như người đương giầu có mà bị sa sút, thời thần hồn bị thương. Vì đó, chủ của Tâm là mạch, chủ của Can là cân, như bị cắt đứt… Vậy phải tìm ở nguyên nhân chứng hậu để điều trị. Nếu bỏ lỡ, đó là năm lỗi.

 Cho nên nói rằng: Thánh nhân trị bệnh, phải biết rõ lẽ âm dương của trời đất, sự kinh  kỳ của bốn mùa… Rồi do đó mà hoặc dùng châm, cứu, biếm thạch và độc dược; lại phải biết rõ bản thủy của bệnh mà tham xét với “bát chính, cửu hậu…” Thời bệnh không còn đâu xót được nữa (1).

Chú giải

 (1) “Bát chính” tức là tám khí thuộc về bốn mùa. “Cửu hậu” tức là “chín hậu mạch” thuộc ba bộ Xích, Quan, Thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 04:52:36 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #76 vào lúc: Tháng Bảy 11, 2018, 04:45:15 PM »

Chương bảy mươi tám

CHUNG TỨ THẤT LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế dạy Lôi Công rằng:

 - Kinh mạch mười hai, lạc mạch ba trăm sáu mươi lăm... Những cái đó, phần nhiều mọi người đều hiểu và các y giả cũng đều biết tuân theo. Nhưng sở dĩ trị liệu vẫn không được mười vẹn mười, chỉ vì tinh thần không chuyên, ý chí không vững, khiến cho trong ngoài lẫn lộn, mới gây nên tai vạ.

 Vậy, nếu chẩn mà không biết cái lý nghịch thuận của âm dương, đó là một điều lỗi.

 Chưa hiểu thấu những nghĩa sâu xa của thầy dạy, mà đã dùng liều biếm thạch, châm cứu... Khiến cho mang hận về sau. Đó là hai điều lỗi.

 Không xét rõ là sang hay hèn, giầu hay nghèo, thân thể ấm hay lạnh, uống ăn đủ hay thiếu, tính người dũng hay khiếp... Các điều đó đều có thể là nguyên nhân của bệnh cả. Thế mà y giả lại không biết, đó là ba điều lỗi.

 Chẩn bệnh không biết hỏi đến các nguyên nhân như vừa thuật trên, chỉ nhắm mắt án tay ngay vào Thốn khẩu, rồi nói hươu nói vượn, dối người, dối mình. Đó là bốn điều lỗi.

 Hỡi ơi! Đạo trời sâu xa, ngành ngọn bao la, gần như gang tấc, lớn đến hải hà, nếu không học hỏi, làm thầy được à?
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 04:54:28 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #77 vào lúc: Tháng Bảy 11, 2018, 05:18:15 PM »

Chương bảy mươi chín

ÂM DƯƠNG LOẠN LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tam dương là "kinh" Nhị dương là "duy", Nhất dương là du bộ. Nhân đó biết chung thủy của năm Tàng (1).

***

 - Tam dương là biểu, Nhị âm là lý, Nhất âm là chí tuyệt (cuối cùng), hợp với hối sóc, sẽ đầy đủ cái chính lý về sự sinh trưởng (2).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Về Tam dương, Thái dương là kinh. Tam dương mạch đến thủ Thái âm, huyền, phù mà không trầm (3).

***

 Phàm gọi là Nhị dương, tức là Dương minh. Mạch đến thủ Thái âm huyền mà trầm, cấp, không cổ, vì nhiệt phát bệnh, sẽ chết (4).

 Nhất dương là Thiếu dương. Mạch đến thủ Thái âm, trên liền với Nhân nghinh, huyền, cấp, không dứt... Đó là bệnh ở Thiếu dương. Chuyển về âm thì chết (5).

***

 Tam âm là một cơ quan chủ của sáu kinh. Nó giao với Thái dương, nếu mạch phụ (cổ), không phù thế là không liên lạc được với Tâm và Thận.

 Nhị âm đến Phế, khí sẽ về Bàng quang, ngoài liền với Tỳ, Vị (6).

 Nhất âm đến một mình, kinh tuyệt, khí phù không "cổ" và câu mà hoạt (7).

 Sáu mạch đó, lúc là âm, lúc là dương, thay đổi giao hỗ với nhau, thông với năm Tàng, hợp với âm dương, đến trước là chủ, đến sau là khách.

 Nhị dương, Nhất âm, chủ bệnh, không thắng, Nhất âm, mạch nhuyễn mà động, chín khiếu đều trầm (VIII).

***

 Tam dương, Nhất âm; Thái dương mạch thắng, Nhất âm không thể ngăn, bên trong làm rối loạn năm Tàng, bên ngoài hiện ra chứng kinh, hãi (9).

 Nhị âm, Nhị dương, bệnh ở Phế. Thiếu âm mạch trầm, thắng Phế, thương Tỳ, ngoài thương tứ chi.

 Nhị dương đều đến, bệnh ở Thận, chửi mắng đi liều, điên tật và cuồng (10).

***

 Nhị âm, Nhất dương, bệnh sinh ra bởi Thận. Âm khí dẫn lên phía dưới Tâm quản; không khiếu vít lấp không thông, tứ chi rã rời (11).

 Nhất âm, Nhất dương mạch đại, thế là âm khí đến Tâm, trên dưới không thường, ra vào không biết, cổ họng khô ráo. Bệnh tại Tỳ thổ (12).

***

 Nhị dương, Tam âm, đều có cả chí âm. Âm không tới được với dương, dương không tới được với âm. Âm, dương đều tuyệt, phù là huyết giả, trầm là ung nùng.

 Âm dương đều thịnh, dưới tới âm dương, trên từ tỏ rõ, dưới tới tờ mờ, chẩn quyết sống chết, hợp với đầu năm (13).

 
Chú giải

 (1) Tam dương là đạo của trời. Ở trời nó là Chí dương, ứng với bốn mùa, có cái công dụng về việc "khai", ở hai mùa xuân và hạ, về việc "hạp" ở hai mùa thu và đông và việc "khu" (tức khu chuyển) cho khí hàn thử vãng lai. Hợp với thân thể con người thì Thái dương chủ "khai" mà là kinh, Dương minh chủ "hạp" mà là duy, Thiếu dương chủ "khu" mà là Du bộ. Do đó mà biết được sự "chung thủy" của năm Tàng. Đó là nhân bốn mùa của trời để ứng với Can mộc chủ về đầu năm và Thận thủy chủ về cuối năm.

 (2) Tam dương tức là Thái dương, nó là cái khí Chí dương mà chủ về biểu, Nhị âm tức là Thiếu âm, nó là cái khí Chí âm mà chủ về lý; Nhất âm tức là Quyết âm: Quyết âm là Thiếu dương ở trong âm, nó là một cơ quan giao tiếp "âm tận, dương sinh", nên mới nói là "chí tuyệt". Coi đó cũng như hai ngày "hối" và "sóc" giao nhau có chứa cái diệu lý là dương sinh ra ở âm và âm dương tương trưởng.

 (3) Đây nói về khí của Thái dương tại biểu mà hợp với trời, tại trên mà ứng lên Thốn khẩu, với thủ Thái âm, Thiếu âm tương hợp. Thủ Thái âm tức là Phế; Phế chủ biểu mà chủ cả về thiên; Tâm là khí dương Quân hỏa, ứng với khí Thái dương của nhật, phát sinh từ trong nước; Phế chủ khí mà phát nguyên từ Thận... Vì vậy, mạch của Tam dương dẫn tới thủ Thái âm, thì âm dương cùng hợp, đều do âm mà "khu chuyển" ra dương. Huyền là mạch của khu. Phù mà không trầm là do Thái dương, Thái âm chủ về "khai".

 (4) Dương minh chủ về "hạp", đến thủ Thái âm; huyền mà trầm, cấp không cổ v.v. Đó là cái cơ quan "khai" của Thái dương lại phải theo cái "hạp" của Dương minh, nên mới không thể cổ động cho được ra ngoài. Vì vậy, gặp khi nhiệt, khiến cho Dương minh Thái âm phát bệnh thì đều chết. Đó là bởi: khí của Thái âm chủ khai mà lại trầm, thế là thiên khí không vận hành được rồi. Dương minh chủ về Kim khí thanh lương, lại bị khí nhiệt "sở thương" (nó làm hại), nên đều là chứng chết. Trên đây là nói về khí của Dương minh không tương hợp với thiên khí, cũng không tương hợp cả với Thái dương.

 (5)Thiếu dương chủ "khu". "Khu" là một cơ quan do âm để ra dương, lại do dương để vào âm, trong ngoài ra vào, không lúc nào ngừng. Như mạch đến thủ Thái âm, trên liền với Nhân nghinh, huyền cấp không ngừng, thế là Thiếu dương chỉ theo cái "khai" của Thái dương mà không thể "khu chuyển" để lại vào. Thế là Thiếu dương bị Thái âm nó gây nên bệnh. Nếu chuyển ở âm mà không thể "khu chuyển" ra dương, thế là khí của Thiếu dương bị tuyệt ở trong.

 (6) Nhị âm tức là Thiếu âm. Thiếu âm chủ Thủy. Nhị âm đến Phế, tức là Phế với Thận tương hợp. Vì vậy nên khí về Bàng quang mà thông đạt tới cả Tỳ, Vị.

 (7) Nhất âm tức là Quyết âm. Quyết âm là sinh dương ở trong âm. "Kinh nguyệt" tức là âm mạch thực ở trong; "khí phủ" tức là cái khí sinh dương phù ra ngoài; "không cổ" là vì Quyết âm chủ "hạp", "không câu" là vì Quyết âm chủ về Tướng hỏa mà không phải là Tâm hỏa. "Hoạt" tức là triệu chứng của âm dương kinh khí trong ngoài ra vào cùng va chạm với nhau.

 (VIII) Đây nó về Vị với Can gây nên bệnh. Can thắng mà Vị bại. Vị kinh chủ bệnh, mà Can lại để "võ", thì Mộc khắc được Thổ, tức là Vị không thắng được Can. Về mạch, nên nhuyễn mà động. Nhuyễn là bệnh tại Vị mà Vị khí chửa tuyệt. Động là Mộc khí vượng mà đương lúc tới "võ" Thổ. Vì vậy, Vị khí không chuyển thì chín khiếu đều trầm trệ không thông, đó là chủ bại mà khách thắng.

 (9) Tam dương tức là Thái âm Bàng quang, Nhất âm tức là túc Quyết âm Can. Bàng quang chủ bệnh, mà Can lại để "võ". lúc đó Bàng quang là biểu, Can là lý, Bàng quang tà thịnh, đã có cái tình thế từ biểu lọt vào lý, Can không thể ngăn cản, khiến cho trong thì rối loạn năm Tàng, ngoài thời hiện chứng kinh hãi... Đó là một hiện trạng Bàng quang thắng mà Can bại.

 (10) Đây nói Tâm với Đại trường sinh bệnh, Tâm thắng mà Đại trường bại; Thận với Vị sinh bệnh, Vị thắng mà Thận bại. Nhị âm, ở thủ thì là Thiếu âm Tâm, ở túc thì là Thiếu âm Thận. Nhị dương, ở thủ là Dương minh Đại trường, ở túc thì là Dương minh Vị.

 Về Tâm với Đại trường: Tâm có bệnh mà Đại trường lấn theo, thì là Kim tới "võ" Hỏa, Hỏa sẽ khắc được Kim, nên mới là bệnh ở Phế, vì Phế với Đại trường là biểu lý, mạch của thủ Thiếu âm Tâm huyền hồng, mà giờ mắc bệnh, thì hư mà trầm. Nó đã thắng Phế, lại làm thương Tỳ, bởi Tỳ là con của Hỏa, mẹ hư thì con bị thương. Tỳ chủ về tứ chi. Tỳ bị thương thì tứ chi cũng bị thương. Thế là chủ thắng mà khách thua.

 Về Thận với Vị: Thận kinh mắc bệnh, và Vị Tàng lấn theo, thì bệnh sẽ đều tăng. Nhưng Thổ khắc được Thủy, bệnh tình rút lại vẫn quay về Thận, Thủy sẽ do đó mà bị suy, Hỏa sẽ thừa thế mà thêm thịnh... Các chứng mắng chửi điên cuồng sẽ đồng thời phát sinh. Điên tật là do Hỏa bốc lên; cuồng là do âm không thắng được dương.

 (11) Nhị âm tức là túc Thiếu âm Thận kinh; Nhất dương tức là thủ Thiếu dương Tam tiêu, Thận với Tam tiêu sinh bệnh, thì Thận thuộc Thủy, Tam tiêu thuộc Hỏa, Tam tiêu với Tâm bao lạc làm biểu, lý, bệnh phát sinh do Thận mạch, mà cái khí Thiếu âm dẫn lên phía dưới Tâm quản, thế là Thủy tới "võ" Hỏa. Bởi Thận mạch suốt lên Can, cách vào trong Phế, còn chẽ nhánh do trong Phế, chằng vào Tâm, và rót vào trong hung. Nhưng âm khí dẫn lên, Vị không thể chế, Trường, Vị, không khiếu đều bị vít lấp không thông. Mà Thận mạch vòng xuống chân, mạch của Tam tiêu thì dẫn ra tay, nên tứ chi rã rời...

 (12) Nhất âm tức là túc Quyết âm Can kinh. Nhất dương tức là túc Thiếu dương Đởm kinh. "Đại" là một thứ mạch đương động mà bỗng lại ngừng. Can Đởm mắc bệnh, mạch sẽ nên đại, cái khí của Quyết âm tất phải dẫn lên Tâm, vì Tâm là con của Mộc. Nhưng cái khí của Can, Đởm, trên lên đến đầu, dưới xuống tới yêu và túc, ở giữa thì là hiếp và phúc, cho nên bệnh phát trên dưới không thường. Đến như miệng không biết sự vào ra (tức bất tri vị), là do Tỳ bệnh gây nên.

 (13) Nhị dương tức là túc Dương minh Vị; Tam âm tức là thủ Thái âm Phế. Nhưng Tỳ cũng thuộc về túc Thái âm nên mới có nói "có cả Chí âm" (Tỳ). Ba kinh Vị, Tỳ, Phế mắc bệnh, thì về âm kinh, không thể ra để hòa với dương; về dương kinh, không thể vào để hòa với âm, khiến cho hai khí Âm Dương, đều bị trở tuyệt. Vì vậy, dương không vào được với âm thì mạch phù; phù thì bên trong có chứng huyết giả. Âm không ra được với dương thì mạch trầm, trầm thì bên ngoài sinh ra các chứng ung nùng. Chứa đến âm dương đều thịnh, thì về con trai, phát bệnh dưới tới sản môn... Về con gái, dưới cũng tới âm đạo. Đều là bệnh lớn. Mà trên từ nơi tỏ rõ, dưới từ chỗ tờ mờ... Đều do âm dương ly tuyệt gây nên. Muốn quyết sống chết, hợp với đầu năm v.v... Như Giáp Dần là tháng giêng, thì Ất Mão là tháng hai v.v... Chết về tháng nào, có thể do hợp với kinh mà tính.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 04:55:23 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #78 vào lúc: Tháng Bảy 12, 2018, 11:29:43 AM »

Chương tám mươi

PHƯƠNG THỊNH SUY LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Lôi Công hỏi rằng:

 - Về khí nhiều ít, thế nào là nghịch? Thế nào là tùng?

 Hoàng Đế dạy rằng:

 - Dương theo tả, âm theo hữu, lão theo trên, thiếu theo dưới. Vì vậy, xuân hạ theo về dương thời sống, theo về thu đông thời chết. Trái lại, thời theo về thu đông là sống. Vì vậy, khí dù nhiều ít mà nghịch, đều thành chứng quyết (1).

***

 Chứng quyết thuộc Thiếu âm, khiến người mộng càn, quá lắm thời mê.

 Phế khí hư thời khiến người mộng thấy bạch vật (các vật trắng, thuộc loài kim), thấy chém người máu chảy; nếu đắc thời, thời mộng thấy chiến binh (2).

 Thận khí hư thời khiến người mộng thấy thuyền và người bị đắm đuối; nếu đắc thời, thời mộng nằm trong nước, như bị sợ hãi.

 Can khí hư thời mộng thấy cỏ cây nảy nở; nếu đắc thời, thời mộng tựa dưới gốc cây không dám đứng dậy.

 Tâm khí hư mộng thấy đi cứu đám cháy; nếu đắc thời, thời mộng thấy lửa sáng rực trời.

 Tỳ khí hư thời mộng thấy uống ăn không đủ; nếu đắc thời, thời mộng đắp tường, lợp nhà.

 Đó là thuộc về năm Tàng khí hư, Dương khí hữu dư, Âm khí bất túc. Vậy hợp với năm chẩn, điều với âm dương, để xét về kinh mạch (2).

***

 Vì vậy, chẩn có đại pháp (phép lớn). Ngồi đứng có thường, ra vào có lối, để giúp ích cho thần minh; phải rất thanh tĩnh, xem suốt trên dưới, coi ở bát chính, xét năm trung bộ, án mạch động tĩnh; theo riết để nhận về hoạt, sắc, hàn, ôn; đạo có xét rõ mới được dài lâu. Và tới được cõi mười vẹn cả mười (thập toàn) (3).

Chú giải

 (1) Khí mà thuộc dương, thì ở bên tả là thuận; khí mà thuộc âm, thì ở bên hữu là thuận, người già ăn kém, nên ở trên là thuận; người thiếu dục nhiều, nên ở dưới là thuận. Vì vậy, về xuân hạ, hoặc bệnh hoặc mạch, theo về dương là sống; nếu lại âm bệnh, âm mạch như thu đông thì sẽ chết. Trái lại thì thu đông theo về âm thì sống. Nếu lại dương bệnh dương mạch như xuân hạ thì chết. Vì vậy, khí ở con người không cứ gì nhiều ít, nếu nghịch thì sẽ thành chứng quyết.

 (2) Đây nói về âm khí bất túc thì sinh ra chứng nhiệt quyết, mà lấy "vọng mộng" của năm Tàng làm chứng nghiệm. Năm Tàng thuộc về âm. Âm khí hư thì hình ra "vọng mộng". Như Phế khí hư thì mộng thấy bạch vật, vì Phế thuộc Kim, Kim sắc trắng, thấy người bị chém, là cái công dụng của Kim. Nếu gặp mùa thu đông mà Kim vượng giúp Phế, thì Phế chưa suy lắm, sẽ mộng thấy "binh chiến" đó là vì Tàng khí thực. Thận thuộc Thủy, nên mộng thấy "đắm đuối". Nếu gặp mùa đông mà Thủy đến giúp Thận, thì Thận chưa suy lắm, thì mộng thấy nằm ở trong nước; sở dĩ "như bị sợ hãi" là do Tàng khí không yên mà sinh ra. Can chủ Mộc, nên mộng thấy cây nảy mọc, đó là vì cùng một loài. Nếu gặp mùa xuân, mà Mộc lại giúp Can thì Can chưa suy lắm, thì mộng thấy tựa dưới gốc cây, sở dĩ không dám đứng dậy, cũng là do Tàng khí không yên. Tâm thuộc Hỏa, nên mộng thấy chạy chữa đám cháy. Nếu gặp mùa hạ, thì Hỏa tới giúp Tâm, Tâm chưa suy lắm, nên mộng thấy lửa sáng rực trời. Đó cũng vì Tàng khí thực mà không yên. Tỳ thuộc Thổ, nên mộng thấy uống, ăn không đủ, nếu gặp về tứ quý, mà Thổ tới giúp Tỳ, Tỳ chưa suy lắm, nên mộng thấy đắp tường, lợp nhà... Đó đều do năm Tàng khí hư, Dương khí hữu dư, Âm khí bất túc, sở dĩ có mộng hiện như vậy và gây thành chứng quyết.

 (3) Đây nói về hình khí nên tương đắc, không nên tương thất, mới được là thập toàn. Nhưng hình là hữu hình, mà khí là vô hình. Về khí, cần phải do ở mạch để nghiệm. Vì vậy, hình nhược khí hư thì chết. Vì cả hai đều là bất túc, cũng chết bởi hình lấy mạch là chủ. Nếu mạch khí hữu dư mà hình khí bất túc, thì huyết khí đã đủ, thần khí sẽ xung, chắc có cơ sống được. Vì vậy, chẩn có đại pháp. Phàm làm y công, tự mình ngồi dậy phải có thường, ra vào phải có lối, khiến cho thần minh thư xướng, thanh tĩnh vững vàng... Vậy sau mới án đến mạch của bệnh nhân, động, tĩnh, hoạt, sắc, hàn, ôn, đại, tiểu... đều rõ ràng không sai, thế mới là thập toàn.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 04:56:08 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #79 vào lúc: Tháng Bảy 12, 2018, 04:36:40 PM »

Chương tám mươi mốt

GIẢI TINH VI LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Lôi Công hỏi rằng:

 - Khốc (khóc thành tiếng), khấp (khóc ngầm) mà lệ (nước mắt) không ra hoặc ra mà ít "thế" (nước mũi) là vì sao?

 Hoàng Đế dạy rằng:

 - Tâm là chuyên tinh của năm Tàng. Nó khai khiếu lên mắt, hiện ra sắc là phần tươi tốt của tâm. Vì vậy, phàm người có đức, thời khí hòa hiện ra mắt; có việc lo buồn, thời rầu rĩ tỏ ra sắc.

 Vì vậy, bi ai thời "khấp hạ" (khóc có lệ rơi). Khấp hạ là do Thủy sinh. Thủy do tông mạch; tích thủy tức là Chí âm. Chí âm là tinh của Thận. Sở dĩ lệ không rơi, là do tinh nó cũng giằng co, nên Thủy không xuất được (1).

 Nghĩ như: tinh của Thủy là chí, tinh của Hỏa là thần; Thủy Hỏa tương cảm, thần chí đều bi, do đó Thủy mới từ trong mắt chảy ra. Cho nên "ngạn" có nói "Tâm bi", gọi là "chí bi". Vì chí với Tâm tinh, đều dồn lên mắt.

 Vì vậy, đều bi, thời thần khí truyền vào Tâm tinh, nên không truyền lên chí, mà chí độc bi, cho nên khấp mà lệ ra (2).

***

 "Thế" phát sinh ra tự não (óc). Não thuộc âm; Tủy, là một chất làm đầy ở trong xương. Não thấm (rích) ra thành thế. Chí là chủ của xương. Vì vậy, thủy chảy mà thế theo, là nó theo về đồng loại.

 "Thế" với "khấp" (tức lệ) ví như anh với em, nếu mạch "cấp" thời đều chết, nếu sống thời đều sống. Nếu chí mà sớm bi, thời "thế" và "khấp" sẽ đồng thời đằm đìa (3).
 
 Lôi Công hỏi rằng:

 - Có người khốc khấp mà "lệ" không ra; có khi "lệ" ra mà ít "thế", là vì sao?

 Hoàng Đế dạy rằng:

 - Khấp mà lệ không ra, là do khốc mà không thật bi. Không khấp là do thần không bi; thần không bi thời chí không bi. Âm dương cũng giằng co nhau, khấp (lệ) sao ra một mình được. Đại phàm, về chí mà bi, thời uất khí xung âm, xung âm thời chí rời khỏi mắt; chí đã rời thời thần không giữ tinh. Tinh thần rời khỏi mắt, thời "thế" và "khấp" đồng thời ra (4).

***

 - Va, gã (Lôi Công) không nhớ ở Kinh (Linh khu) dạy ư? Phàm chứng quyết, thời mắt không còn trông thấy. Vì người mắc chứng quyết, thời Dương khí dồn lên trên, Âm khí dồn xuống dưới, Dương khí dồn lên trên thời hỏa sáng một mình; Âm khí dồn xuống dưới thời chân lạnh và bụng trướng, xem đó thời biết "một thủy" không thắng được "năm hỏa", cho nên thành mục manh (5).

***

 Vì vậy, ra gió thời lệ rơi. Bởi gió nó thổi vào mắt khiến cho Dương khí không giữ với tinh, một mình dương hỏa thiêu vào mắt, nên mới lệ rơi (6).

 Muốn so sánh, thời như: hỏa mạnh sinh phong sẽ biến thành mưa... âu cùng một loài vậy (7).

 
Chú giải

 (1) Bi ai động đến Tâm chí, cho nên "khấp hạ" mà Thủy sinh ra. Tinh của Thận Tàng, Thủy do tông mạch mà trên thông lên Tâm, ngoài rớt ra mắt, cho nên nói: "Mắt là nơi tụ hội của tông mạch". Nếu chí không bi, thì tinh bị "giằng" ở dưới, khiến cho Thủy không thể dẫn lên. Đây có ý nói tinh thủy ở dưới, phải có động đến Thận chí, rồi mới có thể dẫn lên.

 (2) Đây nói thần sinh ra ở tinh, chí sinh ra ở Tâm; Trong Ly có hư, trong Khảm có mãn, đó là Thủy Hỏa trên dưới hỗ giao với nhau. Linh khu nói: "Cái sở sinh nó lại gọi là tinh; hai tinh cùng xen nhau gọi là thần...". Vậy là thần khí sinh ra bởi Tâm. Cho nên nói: "Đều bi", thì thần khí truyền lên Tâm, thế là nói: cái thần khí ở Tâm tàng, vốn sinh ra tự Thận Tàng. Lại nói: Tâm có cái "sở ức" (1) gọi là ý, ý có "sở tồn" (2) gọi là chí. Vậy thế là chính cũng sinh ra bởi Tâm. Cho nên nói: "tinh, trên không truyền với chí..." tức là nói tinh không truyền với chí, mà chí "độc bi" ở trên, nên mới khấp xuất.

 1) Sở ức: Cái điều gì hoặc nghĩ tới, nhớ tới.

 2) Sở tồn: Nhớ ở trong bụng. Trong bụng lúc nào cũng nghĩ đến.

 (3) Thế với khấp đều phát sinh từ Thận. Vậy từ mạch của Thận hiện ra, "cấp" như gõ vào đá, thì sẽ đều chết. Nếu là sống, thì đồng thời đều chảy ra.

 (4) Đây lại nói rõ thêm "khấp" phát ra từ thần rồi đến chí, mà "thế" thì phát ra từ chí rồi mới đến thần. Cho nên thần không bi thì chí không bi, mà tinh không ra. Chí động thì thần không "thủ", mà thế, khấp đều ra. Vậy là thần "thủ" thì chí yên, chí động thì thần động. "Âm dương cùng giằng co", là nói về thần chí của thủy hỏa, chủ trì ở trong thì tinh không tiết ra. "Uất uất xung âm", đó là nói về chí xung lên trên não. Ở con ngời, mục hệ trên nối với não, cho nên chí xung lên âm thì chí rời đi, mà chạy ra mắt; chí đã rời đi thì thần không "độc thủ" được tinh, khiến cho tinh thần đều rời đi chạy ra cả mắt, do đó mới thành thế khấp đầm đìa.

 (5) Quyết là một chứng thủy hỏa không tương giao mà tương nghịch. Tinh khí của cốt là đồng tử. Tinh khí của Thận không thông lên mắt, nên mắt không trông thấy. Tâm là Thái dương ở trong dương, mà là chuyên tinh của năm Tàng cho nên dương dồn lên trên, không được âm khí để điều hòa, thì Hỏa sẽ sáng một mình ở trên; Thận là Thủy Tàng nhận chứa tinh của năm Tàng; âm mạch hợp ở dưới chân mà tụ ở Túc tâm. Cho nên âm dồn xuống dưới, không được Dương khí để điều hòa, thì chân lạnh và bụng trướng, "một thủy" tức là thủy của Thái dương, theo khí mà vận hành ra ngoài phu biểu... Thủy với hỏa của Thiếu âm, để ứng với nhật nguyệt của trời, đều cùng hội họp mà không thể rời. Vì vậy âm dương quyết nghịch, thì con mắt bị thong manh (còn đồng tử mà không trông thấy).

 (6) Gió tức là Dương khí của trời. Dương khí của con người tức là thần khí. Hỏa khí, cũng là Dương khí ở con người. Thần khí trong giữ với tinh, Dương khí ngoài thông với mắt. Gặp gió thì khí theo gió động, mà thần không giữ tinh. Đến nỗi tinh thần đều rời bỏ mắt, nên lệ mới chảy ra.

 (7) "Hỏa mạnh sinh phong v.v" là nói khí sinh ra bởi thần, thần sinh ra bởi tinh, tinh lại theo thần khí mà vận hành. Nghĩ như: nhật, nguyệt, tinh, thủy của trời, theo trời mà vận hành chẳng nghỉ. Tinh thần của con người cũng theo khí mà hoàn chuyển không ngừng. Hai mắt của con người ứng với nhật nguyệt của trời để mà ngày đêm khai hạp.

 Án: Bản kinh 81 thiên, bàn về y đạo, theo cái số sở dụng của "thiên, địa, nhân", là "tam, lục, cửu". Bởi người sinh ra ở trong khoảng khí giao của trời đất, thông với đạo của trời, ứng với lý của đất; đất ở bên dưới người, đại khí cử lên, không nương tựa vào đâu... Đó là trời bọc ở ngoài đất, mà vận hành không lúc nào ngừng. Số bắt đầu ở "nhất", mà thành ở "tam", mà gấp đôi sẽ thành "lục"; tam mà gấp ba, sẽ thành "cửu". Đó là cái số do từ "vô cực" mà sinh ra Thiên Địa Âm Dương vậy. Thánh nhân vần xoay trời đất, nắm giữ âm dương; thở hút tinh khí, độc lập giữ thần; tự nuôi dưỡng tinh, khí, thần để sánh với trời; lại hút tinh, khí, thần của trời để tự nuôi... Tới được cái cõi không còn phải sinh, không còn phải hóa, với đạo cùng hợp, siêu ra ngoài vòng trời đất, lại trở về vô cực, mà không còn biết đến đâu là cùng. Vì vậy, soạn thuật mấy vạn lời nói, mà bảy thiên cuối lại chuyên bàn về thiên đạo, để ứng với cái số "cửu cửu" (81), nói rõ "Tinh, Khí, Thần", ngõ hầu trở lại Thiên chân. Mong cho thiên hạ muôn đời, thoát khỏi vòng tật ách, cùng tới cõi trường sinh... Kẻ sĩ học đạo, há không nên đêm ngày sử dụng và nghiên cứu bộ Tố vấn này để cho đạt được đức hiếu sinh của Hoàng Đế hay sao?

(HẾT QUYỂN THỨ X)
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 02:56:32 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #80 vào lúc: Tháng Bảy 26, 2018, 03:45:37 PM »

Mục lục

Lời đầu sách: 5

Tiểu dẫn: 7

Lời dịch giả: 11

Chương một THƯỢNG CỔ CHÂN THIÊN LUẬN: 13

Chương hai TỨ KHÍ ĐIỀU THẦN LUẬN: 21

Chương ba SINH KHÍ THÔNG THIÊN LUẬN: 29

Chương bốn KIM QUỸ CHÂN NGÔN LUẬN: 39

Chương năm ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN: 50

Chương sáu ÂM DƯƠNG LY HỢP LUẬN: 82

Chương bảy ÂM DƯƠNG BIỆT LUẬN: 88

Chương tám LINH LAN BÍ ĐIỂN LUẬN: 106

Chương chín LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬN: 110

Chương mười NGŨ TÀNG SINH THÀNH THIÊN: 128

Chương mười một NGŨ TÀNG BIỆT LUẬN: 137

Chương mười hai DỊ PHÁP, PHƯƠNG NGHỊ LUẬN: 140

Chương mười ba DI TINH BIẾN KHÍ LUẬN: 143

Chương mười bốn THANG DỊCH, GIAO LỄ LUẬN: 146

Chương mười lăm NGỌC BẢN LUẬN YẾU THIÊN: 149

Chương mười sáu CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬN: 152

Chương mười bảy MẠCH YẾU TINH VI LUẬN: 156

Chương mười tám BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN: 166

Chương mười chín NGỌC CƠ CHÂN TÀNG: 172

Chương hai mươi TAM BỘ, CỬU HẬU LUẬN: 182

Chương hai mươi mốt KINH MẠCH BIỆT LUẬN: 187

Chương hai mươi hai TÀNG KHÍ PHÁP THỜI LUẬN: 190

Chương hai mươi ba TUYÊN MINH NGŨ KHÍ THIÊN:195

Chương hai mươi bốn HUYẾT KHÍ HÌNH CHÍ THIÊN: 197

Chương hai mươi lăm BẢO MỆNH TOÀN HÌNH LUẬN: 199

Chương hai mươi sáu BÁT CHÍNH THẦN MINH LUẬN: 202

Chương hai mươi bảy LY HỢP CHÂN TÀ LUẬN: 205

Chương hai mươi tám THÔNG BÌNH HƯ THỰC LUẬN: 208

Chương hai mươi chín THÁI ÂM, DƯƠNG MINH THIÊN: 213

Chương ba mươi DƯƠNG MINH MẠCH GIẢI THIÊN: 216

Chương ba mươi mốt NHIỆT BỆNH THIÊN: 218

Chương ba mươi hai THÍCH NHIỆT THIÊN: 221

Chương ba mươi ba BÌNH NHIỆT BIỆT LUẬN: 224

Chương ba mươi bốn NGHỊCH ĐIỀU LUẬN THIÊN: 227

Chương ba mươi lăm NGƯỢC LUẬN THIÊN: 230

Chương thứ ba mươi sáu THÍCH NGƯỢC THIÊN: 236

Chương ba mươi bảy KHÍ QUYẾT LUẬN THIÊN: 239

Chương ba mươi tám KHÁI LUẬN THÊN: 241

Chương ba mươi chín CỬ THỐNG LUẬN THIÊN: 244

Chương bốn mươi PHÚC TRUNG LUẬN THIÊN: 248

Chương bốn mươi mốt THÍCH YÊU THỐNG THIÊN: 252

Chương bốn mươi hai PHONG LUẬN THIÊN: 256

Chương bốn mươi ba TÝ LUẬN THIÊN: 259

Chương bốn mươi tư NUY LUẬN THIÊN: 263

Chương bốn mươi lăm QUYẾT LUẬN THIÊN: 266

Chương bốn mươi sáu BỆNH NĂNG LUẬN THIÊN: 271

Chương bốn mươi bảy KỲ BỆNH LUẬN THIÊN: 275

Chương bốn mươi tám ĐẠI KỲ LUẬN THIÊN: 280

Chương bốn mươi chín MẠCH GIẢI THIÊN:287

Chương năm mươi THÍCH YÊU LUẬN THIÊN: 292

Chương năm mươi mốt THÍCH TỄ THIÊN: 294

Chương năm mươi hai THÍCH CẤM LUẬN: 296

Chương năm mươi ba THÍCH CHÍ LUẬN THIÊN: 300

Chương năm mươi tư CHÂM GIẢI THIÊN: 302

Chương năm mươi nhăm TRƯỜNG THÍCH TIẾT LUẬN THIÊN: 305

Chương năm mươi sáu BÌ BỘ LUẬN THIÊN: 308

Chương năm mươi bảy KINH LẠC LUẬN THIÊN: 312

Chương năm mươi tám KHÍ HUYẾT LUẬN THIÊN: 314

Chương năm mươi chín KHÍ PHỦ LUẬN THIÊN: 320

Chương sáu mươi CỐT KHÔNG LUẬN THIÊN: 323

Chương sáu mươi mốt THỦY NHIỆT HUYỆT LUẬN THIÊN (Thích pháp): 328

Chương sáu mươi hai ĐIỀU KINH LUẬN THIÊN: 333

Chương sáu mươi ba MẬU THÍCH LUẬN THIÊN: 344

Chương sáu mươi tư TỨ THỜI THÍCH NGHỊCH, TUNG LUẬN THIÊN: 351

Chương sáu mươi năm TIÊU BẢN LUẬN THIÊN: 357

Chương sáu mươi sáu THIÊN NGUYÊN ĐẠI KỶ LUẬN: 365

Chương sáu mươi bảy NGŨ VẬN HÀNH ĐẠI LUẬN THIÊN: 375

Chương sáu mươi tám LỤC VI CHỈ ĐẠI LUẬN THIÊN: 389

Chương sáu mươi chín KHÍ GIAO BIẾN LUẬN THIÊN: 404

Chương bảy mươi và bảy mươi mốt NGŨ THƯỜNG CHÍNH ĐẠI LUẬN THiÊN: 423

Chương bảy mươi hai và bảy mươi ba LỤC NGUYÊN CHÍNH KỶ ĐẠI LUẬN THIÊN: 442

Chương bảy mươi tư CHÍ CHÂN YẾU ĐẠI LUẬN THIÊN: 505

Chương bảy mươi năm TRỨ CHÍ GIÁO LUẬN THIÊN: 552

Chương bảy mươi sáu THỊ THUNG DUNG LUẬN THIÊN: 554

Chương bảy mươi bảy SỚ NGŨ QUÁ LUẬN THIÊN: 556

Chương bảy mươi tám CHUNG TỨ THẤT LUẬN THIÊN: 558

Chương bảy mươi chín ÂM DƯƠNG LOẠN LUẬN THIÊN: 559

Chương tám mươi mốt GIẢI TINH VI LUẬN THIÊN: 568
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 04:58:07 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 ... 4 5 [6]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn