Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 02, 2024, 02:34:02 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 ... 3 4 [5] 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Linh khu  (Đọc 30475 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #60 vào lúc: Tháng Mười 24, 2017, 03:16:15 PM »

61. Năm điều cấm (Ngũ cấm)


Nội dung: Nêu lên ý nghĩa của 5 điều cấm, 5 đoạt, 5 nghịch, 5 quá, 9 nên và trọng tâm nói về 5 cấm, nói về đến ngày cấm châm thì nên tránh châm phần nào đó của cơ thể. Còn nói về 5 chứng của nguyên khí đại hư, và lúc này tuyệt đối không dùng phép tả. Ngoài ra đối với 5 loại nghịch mạch, chứng tương phản, cũng không được châm. Tuy nhiên cũng không có nội dung của 9 nên, có lẽ mất.

Hoàng đế: 5 điều cấm trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là gặp ngày cấm thì cấm không được châm vùng nào đó.

Hoàng đế: 5 đoạt trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là cấm không được châm tả 5 chứng nguyên khí đại hư.

Hoàng đế: 5 quá trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là khi châm bổ hay tả, thủ thuật không được quá độ.

Hoàng đế: 5 nghịch trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là 5 trạng thái bệnh nặng mà có mạch chứng tương phản.

Hoàng đế: 9 nên trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là phải nắm lý luận của 9 loại kim, để sử dụng cho đúng.

Hoàng đế: Ngày mà không được châm vùng nào đó, ở 5 điểm cấm là những ngày nào?

Kỳ Bá:

- Đến ngày Giáp Ất không châm vùng đầu, không dùng phép "Phát mông" (châm huyệt Thính cung vào giờ Ngọ khi điếc, mù), để châm ở tai.

- Đến ngày Bính Đinh không được dùng cách châm "Chấn si" (châm Thiên dung, Liêm tuyền là chính để chữa chứng dương khí nghịch lên ngực, ho suyễn ngực đầy, sợ nhìn khói) để châm ở vai hầu, Liêm tuyền.

- Đến ngày Mậu Kỷ (Canh và tứ quý) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (chí) không châm ở vùng bụng, cũng không dùng cách châm "Khứ chảo" (dùng phi châm để làm ra nước ở các chứng khớp tứ chi, lưng gối không lợi, âm nang có nước) để tả thủy.

- (Mậu Kỷ là thổ của Thiên can, tứ quý Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ của Địa chi. Thìn là tháng 3 là Quý xuân, Mùi tháng 6 là Quý hạ, Tuất tháng 9 là Quý thu, Sửu tháng 12 là Quý xuân. Một trong 4 quý đều gọi là tứ quý.

- Thiên can ứng với cơ thể là Giáp Ất là đầu, Bính Đinh là vai hầu, Mậu Kỷ là chân tay, chân tay hợp với tứ quý là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Canh Tân là đùi gối, Nhâm Quý là cẳng chân. Thiên can ứng vào ngày nào thì ngày đó không châm vùng đó (Mã Nguyên Đài).

- Đến ngày Canh Tân không châm ở khớp và vùng đùi, gối. Đến ngày Nhâm Quý không châm ở cẳng chân. Đó là 5 điều cấm.

Hoàng đế: 5 đoạt là gì?

Kỳ Bá: 5 đoạt là 5 chứng đại hư:

- Bệnh lâu, người gày khô, là đoạt thứ nhất. Sau khi chảy máu lớn là đoạt thứ hai. Sau khi mất nhiều mồ hôi là đoạt thứ ba. Sau khi ỉa chảy lớn là đoạt thứ tư. Mới đẻ hoặc sau chảy máu lớn là đoạt thứ năm. Đó là 5 đoạt và không được tả.

Hoàng đế: 5 nghịch là gì?

Kỳ Bá: 5 nghịch là 5 chứng có mạch chứng tương phản: Bệnh nhiệt (đáng lẽ là mạch hồng đại) mà mạch tĩnh, sau khi ra mồ hôi (đáng lẽ là mạch tĩnh) mà mạch động thịnh là chứng nghịch thứ nhất. Bệnh ỉa chảy (đáng lẽ là mạch tĩnh) mà mạch lại to là chứng nghịch thứ hai. Trước tý (chân tay tê dại, bệnh lâu không khỏi) có các bó cơ bị loét, sốt, mà có mạch thiên tuyệt là chứng nghịch thứ 3. Bệnh tà thâm nhập vào trong, làm người gày, sốt, mặt khô sắc trắng bệch, ỉa máu có máu cục, có máu cục là bệnh cực nguy là nghịch thứ 4. Bệnh hàn nhiệt lâu, người gày khác thường (đáng lẽ là mạch tế, nhược) mà mạch thực hữu lực là nghịch thứ 5.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 08:57:42 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #61 vào lúc: Tháng Mười 25, 2017, 04:05:52 PM »

62. Các huyệt động (Động du)


Nội dung: Tại sao 3 trong 12 kinh có động mạch đập không ngừng. Mạch thốn khẩu của kinh Thái âm phế đập, do Phế khí vận hành ở kinh Thái âm tay có quan hệ với hơi thở, do thở không ngừng nên mạch ở cổ tay đập không ngừng. Mạch nghân nghinh của Dương minh chân đập do khí đổ về Phế, khí mạch còn lên đầu rồi từ đầu đi xuống qua nhân nghinh, nên nhân nghinh đập không ngừng. Mạch Thái khê của kinh Thiếu âm chân do nhánh của mạch Xung cùng với đại lạc của kinh Thiếu âm chân đều bắt đầu ở dưới thận đi ra ở Khí xung, đi dọc ở mặt trong đùi xuống dưới thân, đường đi của nó hợp với kinh thận, đổ vào các lạc, nuôi dưỡng cẳng chân làm cho mạch Thái khê đập.

Hoàng đế: Tại sao các kinh Thái âm tay, Thiếu âm chân, Dương minh chân trong 12 kinh lại đập không ngừng?

Kỳ Bá: Đó là quan hệ mật thiết giữa Vị khí và mạch đập. Vị là biển của 5 tạng 6 phủ, khí trong của nó đổ vào Phế, Phế khí tuần hành theo kinh Thái âm tay rồi đi toàn thân. Phế khí ra vào (theo hơi thở) có quan hệ mật thiết với hơi thở, do đó người thở ra mạch đập, hít vào mạch lại đập, thở liên tục thì mạch đập không ngừng.

Hoàng đế: Khí (mạch Thái âm tay) qua thốn khẩu (thịnh suy không đều nhau), khí mạch tiến lên thì khí thế rất mạnh, khí này đến từ đâu? khí mạch thoái thì khí suy dần, vậy có tiềm phục ở đâu? Nó đến đi theo đường nào và cuối cùng nó ra sao?

Kỳ Bá: Mạch khí rời tạng phủ đi ra, kinh mạch thế như mũi tên cùng cây cung vút đi, như nước ở trên đổ xuống, lúc khí qua thốn khẩu đến Ngư tế thì mạch khí (từ thịnh chuyển thành suy), khí dư của nó suy tán đi ngược lên, nên thế của nó yếu.

Hoàng đế: Nguyên nhân gì làm kinh Dương minh đập?

Kỳ Bá: Vị khí lên đổ vào Phế, khí mạch của nó xung lên đầu, đi dọc theo họng lên các khiếu, dọc theo hệ mắt để vào lạc của não, đi ra ở trán để xuống huyệt Khách chủ nhân (của kinh Thiếu dương chân) dọc theo Giáp xa, hợp với Dương minh chân xuống Nhân nghinh, đó là nơi Vị khí tách ra đi vào Dương minh (Nhân nghinh) làm Dương minh (Nhân nghinh) đập liên tục. Do động mạch Thái âm xuống ra ở thốn khẩu, động mạch của Dương minh lên ở Nhân nghinh, nên khí Âm Dương trên dưới thông nhau và mạch động của chúng như nhau. Nếu bệnh ở Dương nhưng mạch dương (Nhân nghinh) lại nhỏ là nghịch, bệnh ở Âm mà mạch âm (thốn khẩu) lại to là nghịch. Do vậy mạch Âm Dương động hoặc tĩnh, tương ứng với mạch to hay nhỏ, duy trì cân bằng như kéo co, 2 bên cân đối, nếu đã có thiên là có bệnh.

(Bình thường là: Bệnh ở Dương mạch nhân nghinh to, bệnh ở Âm mạch thốn khẩu nhỏ).

Hoàng đế: Nguyên nhân gì làm kinh Thiếu âm chân động?

Kỳ Bá: (Đó là do mạch Xung và Thiếu âm chân hợp lại cùng đi). Mạch Nhâm là bể của 12 kinh, cùng đại lạc của Thận bắt đầu từ dưới Thận, đi ra ở khí nhai (khí xung) dọc theo mặt trong đùi chếch vào khoeo chân, đi dọc mặt trong cẳng chân, hợp với kinh Thiếu âm chân đi vào sau mắt cá trong, rồi đi vào dưới bàn chân. Nhánh của nó chếch vào mắt cá (trong), để ra ở bờ trên lồi củ xương gót (và mặt trên bàn chân) vào giữa ngón chân cái đổ vào lạc, để làm ấm cẳng chân, mạch (Thái khê) cũng đập đều.

Hoàng đế: Dinh khí, vệ khí tuần hoàn ở toàn thân, trên dưới thông với nhau, như một vòng kín không biết đâu là đầu, nay đột nhiên gặp phải phong tà, hoặc gặp phải rét đậm, (tà khí lưu ở tứ chi làm) chân tay rã rời. Đường đi của các kinh mạch Âm Dương, các chỗ hội nơi khí huyết, các kinh truyền cho nhau đều có thể bị ngoại tà làm cho bất thường (bế tắc). Vậy khí từ đâu đi và về đâu để rồi lại tuần hoàn không ngừng?

Kỳ Bá: Tứ chi là nơi hội của các kinh Âm Dương, ở đây còn có lạc mạch - nơi liên lạc của khí. Tứ giai (ở đầu, ngực, bụng, chân) là đường đi của Dinh khí, Vệ khí. Nên dù lạc có bị tắc, thì kinh vẫn thông (đường đi của 4 giai vẫn thông, duy trì sự tương thông của các kinh Âm Dương), đợi cho ngoại tà ở tứ chi giải hết thì khí sẽ lại tuần hoàn đủ như cũ, chuyển tiếp cho nhau như vậy khép kín.

Hoàng đế: Đúng. Có tác dụng hiệp đồng của tứ chi và tứ giai, chúng thông với nhau, nên đảm bảo được tuần hoàn thành một vòng khép kín, và không ngừng.

* (4 giai: Ở đầu là Bách hội, ở ngực là các huyệt du ở lưng, và hai bên ngực, ở bụng là Hoang du, Thiên khu, ở chân là Khí xung, Thừa sơn, dưới mắt cá).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 08:59:54 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #62 vào lúc: Tháng Mười 26, 2017, 10:39:48 AM »

63. Ngũ vị


Nội dung: Nói về nơi đến của ngũ vị khi vào cơ thể, nếu dùng quá độ thì có thể bị bệnh.

Hoàng đế: Ngũ vị vào mồm, mỗi vị đến nơi riêng, mỗi vị gây bệnh riêng. Chua đến gân, nếu ăn nó quá nhiều sẽ gây đái không thông. Mặn vào huyết, nếu ăn nó quá nhiều làm ta khát. Cay vào khí, nếu ăn nó quá nhiều làm cho Tâm khí hư. Đắng vào xương, nếu ăn nó quá nhiều làm người ta nôn. Ngọt vào cơ, nếu ăn nó quá nhiều làm người ta rạo rực. Biết chúng, nhưng không biết tại sao lại như vậy.

Thiếu Du: Vị chua vào Vị, do khí của nó sáp trệ, có tác dụng thu liễm - tác dụng này phát huy ở nhị tiêu (thượng, trung tiêu) nên không thể xuất nhập được, không ra được thì lưu ở trong Vị, khi trong Vị ôn hòa (thì không lưu lại) và đổ xuống Bàng quang, (do) Bàng quang mỏng và nếu gặp chua nó sẽ co cuộn lại, cho nên nó không thông và nước không có đường ra nên bí đái. Bộ phận sinh dục ngoài (âm khí) của người là nơi hội tụ nhiều gân, (Can chủ cân, chua vào Can trước) vì vậy ăn chua thì đi vào cân.

Hoàng đế: Vị mặn vào máu, ăn quá mặn làm cho khát, tại sao?

Thiếu Du:  Vị mặn vào Vị, khí của nó lên trung tiêu đổ vào mạch, khí huyết sẽ cùng vận hành với nó, huyết gặp mặn sẽ ngưng (ngưng thì huyết táo) cần dịch ở trong Vị đến tư nhuận, tư nhuận càng nhiều thì dịch của Vị càng kiệt, sẽ gây nên họng khô (do thiếu tân dịch) làm cuống lưỡi khô và thường khát. Huyết mạch (nơi khí huyết vận hành) đều xuất phát từ trung tiêu nên vị mặn vào (trung tiêu hóa thành tân dịch), rồi đi vào huyết.

Hoàng đế: Vị cay vào khí, ăn quá cay làm cho người Tâm khí hư, vì sao?

Thiếu Du: Vị cay vào Vị, khí của nó lên thượng tiêu, thượng tiêu là nơi tiếp thu (tinh hoa) khí và nuôi dưỡng phần dương của thân thể, khí cay của gừng, hẹ chúng bốc lên làm cho khí dinh, vệ thỉnh thoảng lại tiếp thu (kích thích) của nó, khí này lưu lại tại Tâm hạ (Vị) gây nên Tâm khí hư. Vị cay và vệ khí cùng vận hành (có tác dụng mở thấu lý, truyền thông dương khí) nên vị cay vào Vị rồi phát tán và làm ra mồ hôi.

Hoàng đế: Vị đắng vào xương, nếu ăn quá đắng làm nôn, vì sao?

Thiếu Du: Vị đắng vào Vị, khí của ngũ cốc đều không thể thắng vị đắng, vị đắng xuống vùng hạ quản làm cho cả thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu đều không thông (làm chức năng Vị rối loạn, Vị khí không hòa) và nôn. Răng là tận của xương (một bộ phận của xương) nên vị đắng đã vào Vị, rồi lại nôn ra qua miệng răng, làm cho ta cảm giác đắng đã vào xương.

Hoàng đế: Vị ngọt vào cơ nhục, nếu ăn quá ngọt, làm cho người ta rạo rực, vì sao?

Thiếu Du: Vị ngọt vào Vị, khí của nó nhỏ yếu, không thể lên được đến thượng tiêu mà lưu ở Vị cùng với thức ăn, làm người được nhu nhuận. Nếu Vị khí nhu thì hoãn, khí hoãn thì ký sinh trùng trong ruột sẽ quẫy, chúng quẫy thì khí trong người rạo rực không yên. Vị ngọt thuộc Tỳ (Tỳ chủ cơ nhục) nên nó đi ra ngoài để vào cơ nhục, do đó ngọt vào cơ nhục.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:01:30 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #63 vào lúc: Tháng Mười 26, 2017, 04:28:52 PM »

64. Hai mươi nhăm lọai hình người (Âm Dương nhị thập ngũ nhân)


Nội dung: Căn cứ vào Âm dương ngũ hành, quy thành 5 loại hình người, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi loại hình lại chia ra 5 loại dựa theo Âm Dương, nhỏ to, phải trái, trên dưới, tổng cộng là 25 loại hình người. Nói rõ về màu da, thân thể, cá tính, thái độ, sự thích ứng với thời tiết, đặc biệt là chia ra theo 3 kinh dương tay, chân, đặc điểm sinh lý xuất hiện ở trên, ở dưới, do khí huyết thịnh suy và qua đó xem xét sự thay đổi, sự thịnh suy của nội tạng và khí huyết. Mặt khác lại phân tích nguyên tắc châm, tiêu chuẩn lấy huyệt, thủ thuật châm đối với các loại hình người khác nhau.

Hoàng đế: Có người thuộc âm, có người thuộc dương, làm thế nào để phân biệt?

Bá Cao: Trong vũ trụ, trong phạm vị trên dưới và 4 phương (6 hợp), sự vật được phân loại theo Ngũ hành, loại hình của người cũng ứng với Ngũ hành. Mỗi loại hình lại chia làm 5 loại hình nữa, cộng có 25 loại hình - mỗi loại có tiêu chuẩn của nó, còn 2 loại người thuộc Âm thuộc Dương không tính ở trong sự phân loại này.

- Hình thái của người thuộc Âm Dương khác với người khác, chia ra làm 5 loại (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, âm dương bình hòa) thì đã rõ.

- Còn hình thái của 25 loại hình người, mỗi loại có đặc điểm riêng do khí huyết khác nhau. Người ta có thể từ biểu hiện bên ngoài để đoán thay đổi của nội tạng, như vậy là thế nào?...

Kỳ Bá: Mới đầu cần xác lập 5 loại hình thái: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, sau đó phân biệt 5 sắc, tìm chỗ khác trong điểm giống nhau của 5 loại hình, và như vậy là có được đặc trưng của 5 loại hình người.

Hoàng Đế: "Ta mong được nghe thầy nói đầy đủ hơn nữa"

Kỳ Bá:

- Người hình Mộc tương ứng với âm Giốc, giống như thượng đế (dân sống ở phương Đông), có đặc điểm là da mai mái (thương sắc), đầu nhỏ, mặt dài, vai to, lưng thẳng, thân nhỏ, chân tay tốt. Họ có tài, rất lao tâm khổ tứ, thiểu lực, ưu tư nhiều, làm việc cần mẫn. Họ thích ứng với thời tiết Xuân Hạ tốt hơn Thu Đông, khi cảm khí hàn lương thì dễ sinh bệnh. Họ thuộc Quyết âm chân (Can mộc), thường là ung dung tự đắc (Đà đà nhiên).

* Loại hình Mộc còn chia làm 4 loại hình, trên, dưới, phải, trái nữa. Phía trên bên trái là người thuộc (Âm) Đại giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân trái (Đởm) và đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên trái. Họ tự nguyện nhường không tranh giành hơn kém (Di di nhiên).

- Người thuộc (Âm) Tả giốc dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân phải (Đởm), và đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới kinh bên phải. Họ nói chung phục tùng người khác (Tùy tùy nhiên).

- Người thuộc (Âm) Để giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên phải. Họ là loại tiên tiến (Thôi thôi nhiên).

- Người thuộc (Âm) Phán giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân trái, đặc điểm sinh lý của nó biểu hiện ở phía dưới của kinh chân trái. Hành vi của họ thường là chính trực.

* Người hình Hỏa, tương ứng âm Thượng chủy, như người sống ở phương Nam (Xích đế), có đặc điểm là sắc đỏ, cơ lưng to rộng, mặt gày, đầu nhỏ, vai lưng, hông bụng, phát triển tốt (cân đối đẹp), bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, đi đứng vững vàng, không có tiếng động, nắm vấn đề, hiểu vấn đề nhanh, khi đi hai vai động đậy, cơ lưng đầy. Họ có chí khí, coi nhẹ tiền tài, thiếu lòng tin, nghĩ nhiều, thấy rõ vấn đề, mắt đẹp, tâm nóng vội, không thọ, đột tử. Họ thích ứng với thời tiết Xuân Hè tốt hơn Đông Thu, cảm khí hàn lương của Thu Đông thì dễ bị bệnh. Họ thuộc Thiếu âm tay (Hỏa), rất chân thật.

* Loại hình Hỏa còn chia làm 4 loại hình nữa: Người thuộc (Âm) Chất chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay trái, đặc điểm sinh lý của nó biểu hiện ở phía trên của kinh trái. Họ nói chung hiểu biết hời hợt không sâu.

- Người thuộc (Âm) Thiếu chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay phải, đặc điểm sinh lý hiện ở phía dưới của kinh bên phải. Họ là những người lạc quan yêu đời.

- Người thuộc (Âm) Hữu chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới của kinh bên phải. Họ là những người không cam chịu thua người khác.

- Người thuộc (Âm) Chất phán, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới của kinh bên trái. Họ dễ bỏ qua những lo phiền, thường vui vẻ, nhẹ nhàng, tự đắc.

* Người hình Thổ ứng với âm "Thượng cung" như người sống ở thời "Thượng cổ hoàng đế" ở trung châu, có đặc điểm là da vàng, mặt tròn, đầu to, vai lưng đẹp, bụng to, đùi cẳng chân đẹp, bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, bắp thịt nhiều, trên dưới cân đối, đi đứng vững vàng không có tiếng động, chân nhấc lên không cao. Họ rất hay an tâm, hay làm lợi cho người. Không thích quyền thế, và thích phụ thuộc vào người khác. Họ thích ứng với thời tiết Thu Đông tốt hơn Xuân Hè (sợ nóng), khi bị ôn nhiệt của Xuân Hè thì dễ bị bệnh. Họ thuộc Thái âm chân (Thổ) rất thành thực, trung hậu.

- Người thuộc (Âm) "Đại cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên trái. Họ là người rất thuận hòa, hòa nhã.

- Người thuộc (Âm) "Gia cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên trái. Họ là loại người đoan trang thận trọng.

- Người thuộc (Âm) "Thiếu cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên phải. Họ là loại người uyển chuyển (như cái bản lề).

- Người thuộc (Âm) "Tả cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới kinh bên trái. Họ là loại người rất chăm chỉ cần mẫn, không sợ khó.

* Người hình Kim, tương ứng với âm "Thượng thương", giống như người "Bạch đế" (sống ở phương Tây), có đặc điểm là mặt vuông, sắc trắng, đầu nhỏ, vai lưng bụng đều nhỏ, bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, gót chân to ra như mọc thêm xương, toàn thân xương nhẹ. Người thanh liêm, tính nóng vội, có thể tĩnh, có thể động, khi động thì mãnh liệt, thích làm việc chính quyền. Họ thích ứng với thời tiết Thu Đông tốt hơn Xuân Hè, nếu cảm phải khí (ôn nhiệt) Xuân Hè thì đỡ bị bệnh. Họ thuộc Thái âm tay (Kim), kiên trinh bất khuất.

- Người thuộc (Âm) "Đệ thương", hình dáng cơ thể ví với Dương minh tay trái, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía trên kinh bên trái, họ là người rất trong sạch.

- Người thuộc (Âm) "Hữu thương", dáng  hình cơ thể ví với Dương minh tay trái, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía dưới kinh bên trái, họ là người thanh thái thoải mái, không dễ bị câu nệ.

- Người thuộc (Âm) "Tả thương", dáng hình cơ thể ví với Dương minh tay phải, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía trên kinh bên phải, họ là người có thể thấy rõ phải trái.

- Người thuộc (Âm) "Thiếu thương", dáng  hình cơ thể ví với Dương minh tay phải, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía dưới kinh bên phải, họ là người nghiêm túc thận trọng.

* Người hình Thủy, tương ứng với âm "Thượng vũ", giống như người "Hắc đế" (người sống ở phương Bắc), có đặc điểm là sắc đen, mặt không bằng (lồi lõm), đầu to, chỗ tuyến nước bọt sau mép (góc hàm - di) hình lăng, vai nhỏ, bụng to, chân tay hiếu động, đi thì lắc người đoạn thắt lưng xương cụt dài, lưng cũng dài hơm mọi người. Họ không cung kính ai cũng không sợ hãi ai, thích lừa dối người, hay giết người, có thể thích ứng với thời tiết Thu Đông hơn Xuân Hè, bị khí (ôn nhiệt) Xuân Hè sẽ dễ sinh bệnh. Họ thuộc Thiếu âm chân (Thủy), Hành động không có giới hạn nào.

- Người thuộc (Âm) "Đại vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân phải, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên phải, họ thường có vẻ mặt đắc ý.

- Người thuộc (Âm) "Thiểu vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân trái, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên trái, họ là người khuất tất, không thẳng thắn.

- Người thuộc (Âm) "Trúng vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân phải, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía dưới của kinh bên phải, họ tính thật thà thanh liêm.

- Người thuộc (Âm) "Chí vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân trái, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên trái, họ có lòng yên tĩnh, đạo đức cao thượng

* Trên đây là 25 loại hình người biến từ Ngũ hành ra, nhiều người khó nhận ra, nhiều người dễ nhận ra, thường là hình dáng bên ngoài, còn bỏ sót không quan tâm đến khí huyết thịnh suy ở trong.

Hoàng đế: Có người hình dáng thuộc về loại hình của Ngũ hành, nhưng sắc da lại không phù hợp vì sao?

Kỳ Bá: Theo quy luật của Ngũ hành, người có hình thắng sắc (như hình Mộc lại có sắc vàng - Thổ) hoặc sắc thắng hình (như sắc thắng Kim ở người hình Mộc). Khi gặp 5 kỵ, nếu bị tà khí tấn công thì sẽ bị bệnh, và nếu có sai lầm trong điều trị, thì bệnh phát nhanh và rất đáng lo. Nếu hình và sắc tương ứng thì phú quý đại lạc (vì khí chất điều hòa).

Hoàng đế: Làm thế nào để biết 5 kỵ, khi có hình sắc tương khắc?

Kỳ Bá: 5 kỵ đều có ở 25 loại hình. Tiêu chuẩn của cách tính 5 kỵ là bắt đầu từ 7 tuổi, và cứ thêm 9 năm một, như (7 + 9 = 16) tuổi, (16 + 9 = 25) tuổi, (25 + 9 = 34) tuổi, 43 tuổi, 52 tuổi, 61 tuổi. Đó là những năm đại kỵ của người, cần giữ gìn sức khỏe. Nếu mắc bệnh, mà điều trị có sai sót, thì có thể làm bệnh nặng lên và rất đáng lo. Những năm ấy cần dưỡng sinh cẩn thận, không làm việc gian tà. Đó là năm kỵ. (7 là thiếu của dương, 9 là lão của dương, số dương lớn nhất (cực) là số 9, và cực thì phải biến, nên sau 7 tuổi, cứ thêm 9 năm là năm kỵ).

Hoàng đế: Dựa vào sự phân tích ở trên về đặc điểm sinh lý phản ánh ra ngoài của sự thịnh suy của khí huyết ở phần trên, phần dưới của 3 kinh dương chân tay để dự đoán thịnh suy của hình khí là thế nào?

Kỳ Bá: Đặc điểm hình dáng thể hiện ở phần trên kinh Dương minh chân là: Nếu khí huyết thịnh thì râu ở hai bên má dài và đẹp; Nếu huyết thiểu khí đa, thì có râu nhưng ngắn; Nếu khí thiểu huyết đa thì có râu nhưng ít; Nếu khí huyết đều ít thì không có râu ở má và nếp da ở hai bên mép nhiều. Đặc điểm hình dáng thể hiện phần dưới kinh Dương minh chân; Nếu khí huyết thịnh thì lông mu dài và đẹp, lông có thể mọc đến ngực; Nếu huyết đa khí thiểu thì lông mu đẹp, ngắn, cùng lắm là mọc đến rốn, khi đi thì nhấc cao chân, đi bước dài, cơ ngón chân ít, hai bàn chân thường lạnh; Nếu huyết ít khí nhiều thì cơ ở chi dưới dễ bị loét do lạnh cóng; Nếu khí huyết đều ít thì không có lông mu hoặc thưa thớt, khô dễ gẫy và thường sinh hai chân liệt mềm vô lực, hoặc quyết lạnh, hoặc teo cơ.

- Đặc điểm hình dáng thể hiện ở phần trên kinh Thiếu dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì râu quai nón dài đẹp; Huyết ít khí nhiều thì râu ít; Huyết nhiều khí ít thì râu quai nó đẹp, ngắn; Khí huyết đều ít thì không có râu; Nếu bị hàn thấp thì dễ bị bệnh tý, đau xương, móng khô.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thiếu dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì lông chân dài và đẹp, mắt cá ngoài to; Nếu huyết nhiều khí ít thì lông cẳng chân ngắn đẹp, da mắt cá ngoài chắc, dầy; Nếu huyết ít khí nhiều thì lông cẳng chân ít, da mắt cá ngoài mỏng mềm; Nếu huyết khí đều ít thì không có lông, mắt cá ngoài gày, không có thịt.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thái dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì lông mày đẹp, lông mày có nhiều, lông dài; Nếu huyết nhiều khí ít thì lông mày xấu, mặt có nhiều nếp da nhỏ; Nếu huyết ít khí nhiều thì mặt có nhiều thịt; Nếu khí huyết hòa thì sắc đẹp da nhuận.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thái dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì gân gót chân dày, gót chân có da dày, chắc; Nếu khí ít huyết nhiều thì gân gót gày, không có thịt; Nếu khí huyết đều ít thì hay chuột rút, dưới gót chân đau.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Dương minh tay là: Nếu khí huyết thịnh thì ria đẹp; Nếu khí nhiều huyết  ít thì ria xấu; Nếu khí huyết đều ít thì không có ria (ria:râu mọc ở phần trên môi dưới mũi).

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Dương minh tay là: Nếu khí huyết thịnh thì lông lách đẹp (Dương minh - Thái âm tay = biểu lý) cơ ở mô ấm áp; Nếu khí nhiều huyết  ít thì ria xấu; Nếu khí huyết đều ít thì bàn tay gày và lạnh.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thiếu dương tay là: Nếu khí huyết thịnh thì lông mày đẹp, dài, sắc tai đẹp (đều vùng Thiếu dương); Khí huyết đều ít thì tai khô sắc da xấu.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thiếu dương tay là: Nếu khí huyết thịnh thì nắm tay cơ nhiều và ấm; Nếu khí huyết ít thì bàn tay lạnh, gày, ít thịt, nếu khí ít huyết nhiều thì bàn tay mỏng gày, và nhiều lạc mạch nổi rõ.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thái dương tay là: Nếu huyết khí thịnh thì nhiều râu, mặt nhiều thịt và (bằng) đầy đặn; Nếu huyết khí đều ít thì mặt gày, sắc xấu.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thái dương tay là: Nếu huyết khí thịnh thì cơ gan bàn tay đầy; Nếu khí huyết đều ít thì cơ gan bàn tay mỏng gầy và lạnh.

Hoàng đế: Châm cho 25 loại hình người này, có quy định gì không?

Kỳ Bá: Người lông mày đẹp là mạch Thái dương chân khí huyết nhiều; Lông mày xấu là khí huyết ít, trong đó cơ đầy, sắc da nhuận đẹp là khí huyết có thừa; Nếu cơ dầy, sắc da không nhuận là khí có thừa huyết không đủ; Nếu cơ dầy, mà sắc da không nhuận là khí huyết đều không đủ. Xem xét hình của nó để biết khí có thừa hay thiếu để điều hòa lại. Nếu làm được như vậy là biết phân biệt thuận nghịch vậy.

Hoàng đế: Châm để chữa các kinh Âm Dương tay chân thế nào?

Kỳ Bá: Xem mạch thốn khẩu (ở cổ tay), mạch nhân nghinh (ở cổ) [biết thịnh suy của Âm (cổ tay) Dương (nhân nghinh)] để điều hòa lại, rồi sờ theo đường kinh để xem khí huyết ngưng trệ ở đâu, nếu nơi nào có ngưng kết thì chỗ đó có thống tý, nếu nặng có thể không đi lại được, gọi là ngưng sáp. Với (trạng thái khí huyết bị) ngưng sáp, cần làm khí đến để ôn nó (làm dương khí thông, làm khí huyết thông thì hết ngưng sáp), khi mạch hòa thì (hết đau và) thôi dùng cách châm đó. Với trạng thái lạc mạch bị uất kết, mạch kết thì hết thông hòa (thông suốt), dùng cách châm tả huyết để huyết hành lại. Cho nên nói: (Do vị trí bệnh không giống nhau nên tà) khí có thừa ở trên, phải dẫn đạo xuống dưới (bằng cách lấy huyệt ở dưới) (chính) khí ở trên không đủ (cần lấy huyệt ở trên), day huyệt, châm lưu kim để đợi khí, nếu lưu kim lâu khí vẫn chưa đến (không có đắc khí) thì nhân nhi nghênh chi (căn cứ vào nguyên nhân để châm chếch sang phải, sang trái, hoặc tiến, hoặc lui kim, hoặc ấn xuống, hoặc nhấc lên để đạt đắc khí). Muốn vậy trước hết phải rõ đường đi của kinh để có phương pháp chữa tốt. Nếu có hàn và nhiệt đấu tranh với nhau cần truyền đạo (phần thiên thắng) để hành khí huyết. Nếu có chứng khí uất kết lâu ngày nhưng huyết không kết, cần căn cứ tình hình cụ thể để có điều trị cụ thể.

Tóm lại: Cần nắm được 25 loại hình người, xem đặc điểm hình dáng của cơ thể biểu hiện ra ở trên, ở dưới, các kinh bên phải, bên trái, do khí huyết thịnh suy để có chẩn đoán tốt, chính xác, rồi mới định phép châm để điều hòa khí huyết chữa bệnh, chắc sẽ đem lại kết quả tốt.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:04:52 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #64 vào lúc: Tháng Mười 29, 2017, 03:16:43 PM »

Quyển thứ mười

65. Năm âm thanh, năm vị (Ngũ âm, ngũ vị)


Nội dung: Phần đầu tiếp thiên 64 về 25 loại hình người, nó rõ quan hệ giữa 5 âm thanh với các loại hình, cách chữa và nên lấy kinh nào khi chữa. Tác dụng quan trọng của ngũ cốc, 5 gia súc, 5 loại quả, 5 loại vị phối hợp với 5 màu, 5 thời tiết trong việc điều hòa khí của ngũ tạng và kinh mạch. Phần sau nói rõ vì sao nữ, hoạn quan, thiên hoạn không có râu, và quan sát sắc mặt, râu, lông mày, để nắm đặc trưng sinh lý của khí huyết thịnh suy, cuối cùng nói đến khí huyết trong các mạch nhiều ít, làm căn cứ cho việc bổ ít tả nhiều khi chữa bệnh bằng châm.

- Người thuộc "Hữu thủy" và "Thiếu thủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Thái dương tay phải (thuộc Hỏa). Người thuộc "Tà thương" của âm thanh Kim và "Tả thủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Dương minh tay trái (Kim). Người thuộc "Thiếu thủy" của âm thanh Hỏa và "Đại cung" của âm thanh Thổ, cần điều hòa phần trên của kinh Dương minh tay trái (Kim). Người thuộc "Hữu giốc" và "Đại giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của kinh Thiếu dương chân (Mộc). Người thuộc "Đại chủy" và "Thiếu chủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Thái dương tay (Hỏa). Người thuộc "Chúng vũ" và "Thiếu vũ" của âm thanh Thủy, cần điều hòa phần dưới của kinh Thái dương chân (Thủy). Người thuộc "Thiếu thương" và "Hữu thương" của âm thanh Kim, cần điều hòa phần dưới của kinh Thái âm tay phải (Hỏa). Người thuộc "Chi vũ" và "Chúng vũ" của âm thanh Thủy, cần điều hòa phần dưới của Thái dương chân phải (Thủy). Người thuộc "Đại cung" và "Thiếu cung" của âm thanh Thổ, cần điều hòa phần dưới Dương minh chân phải (Thổ). Người thuộc "Phán giốc" và "Thiếu giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của Thiếu dương chân phải (Mộc). Người thuộc "Đệ thương" và "Thượng thương" của âm thanh Kim, cần điều hòa phần dưới Dương minh chân phải (Thổ). Người thuộc "Đệ thương" của âm thanh Kim "Thượng giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của Thái dương chân trái (Thủy).

Bị chú: Ở đây chủ yếu là dùng cung hành của âm thanh để điều hòa kinh cùng hành. Ví dụ lấy âm Hỏa để điều hòa Thái dương tay thuộc Hỏa.

- Nhưng cũng có đoạn không giống như vậy: "Thiếu thương" và "Hữu thương" thuộc âm thanh Kim, nhưng lại điều hòa phần dưới Thái dương tay thuộc Hỏa, hoặc "Đệ thương" "Thượng thương" điều hòa phần dưới Dương minh chân phải, nhưng thiên trước lại nói "người thuộc âm Đệ thương, ví với phần trên Dương minh chân phải".

* Nói chung các Y gia đều cho là chép nhầm, hoặc là do kinh khí của kinh bên phải, trái, phần trên, phần dưới thông nhau gây nên - cần nghiên cứu thêm).

- Người thuộc "Thượng chủy" và "Hữu chủy" của âm thanh Hỏa, ứng với lúa mạch, dê, quả hạnh, Thiếu âm tay, tạng Tâm, sắc đỏ, vị đắng, mùa Hè (của hành Hỏa).

- Người thuộc "Thượng vũ" và "Đại vũ" của âm thanh Thủy ứng với đậu to, lợn, hạt dẻ, Thiếu âm chân, tạng Thận, sắc đen, vị mặn, mùa Đông (của hành Thủy).

- Người thuộc "Đại cung" "Thượng cung" của âm thanh Thổ, ứng với tắc (một giống cao lương), bò, táo, Thái âm chân, tạng Tỳ, sắc vàng, vị ngọt, mùa trưởng Hạ (thuộc hành Thổ).

- Người thuộc "Thượng thương" "Hữu thương" của âm thanh Kim, ứng với thứ lúa nếp, gà, đào, Thái âm tay, tạng Phế, sắc trắng, vị cay, mùa Thu (Của hành Kim).

- Người thuộc "Thượng giốc" "Đại giốc" của âm thanh Mộc, ứng với vừng, chó, mận, Quyết âm chân, tạng Can, sắc xanh, vị chua, mùa Xuân (Của hành Mộc).

Phụ chú: Tóm tắt của người dịch.


(Nói chung: Người thuộc âm thanh của hành nào thì dùng các thứ ở hành đó để chữa).

- Người thuộc "Đại cung" âm thanh Thổ, "Thượng giốc" âm thanh Mộc, cùng điều hòa phần trên của Dương minh chân.

- Người thuộc "Hữu giốc", "Đại giốc" thuộc âm thanh Mộc, cùng điều hòa phần trên của Dương minh chân trái.

- Người thuộc "Thiếu vũ", "Đại vũ" âm thanh Thủy, cùng điều hòa phần dưới của Thái dương chân phải.

- Người thuộc "Tả thương", "Hữu thương" âm thanh Kim, cùng điều hòa phần trên của Dương minh tay trái.

- Người thuộc "Gia cung", "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa  phần trên của Thiếu dương chân trái.

- Người thuộc "Chát phán" của âm thanh Hỏa, "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa phần dưới của Thiếu dương chân trái.

- Người thuộc "Đại vũ" âm thanh Thủy, "Đại giốc" âm thanh Mộc, "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa phần trên của Thiếu dương chân phải.

(Người thuộc âm thanh Hỏa): Hữu chủy, Thiếu chủy, Chất chủy, Thượng chủy, Phán chủy.

(Người thuộc âm thanh Mộc): Hữu giốc, Đệ giốc, Thượng giốc, Đại giốc, Phán giốc.

(Người thuộc âm thanh Kim): Hữu thương, Thiếu thương, Đệ thương, Thượng thương, Tả thương.

(Người thuộc âm thanh Thổ): Thiếu cung, Thượng cung, Đại cung, Gia cung, Tả giốc cung.

(Người thuộc âm thanh Thủy): Chúng vũ, Chí vũ, Thượng vũ, Đại vũ, Thiếu vũ.

Bị chú:

1. Đoạn này nói về Ngũ âm và mạch, nhưng có nhiều chỗ không thống nhất như "Tả giốc, Đại giốc cùng điều hòa phần trên Dương minh chân trái". Giốc thuộc âm thanh Mộc, đáng phải điều hòa kinh Mộc, nay lại điều hòa kinh Thổ. "Gia cung, Đại cung, cùng điều hòa phần trên Thiếu dương chân trái" cùng thuộc âm Thổ, nhưng lại điều hòa kinh Mộc.

2. Đoạn trước nói 12, đoạn này nói 9 loại người cộng 21, còn thiếu 4 mới đủ 25, cộng có âm Giốc (Mộc) 12, âm Chủy (Hỏa)6, âm Cung (Thổ) 8, âm Vũ (Thủy) 7. Phần trùng lặp có: Phần trên của Dương minh tay trái, phần dưới của Thái dương chân phải, phần dưới của Dương minh chân phải, phần dưới của Dương minh chân trái.

(Đây là những điều khó hiểu, chưa giải thích được - Trương thị loại kinh)

Hoàng đế: (Khí huyết thịnh thì râu dài, đẹp) nay nữ không có râu, có phải không có khí huyết hay không?

Kỳ Bá: Mạch Xung, Nhâm bắt đầu từ bào cung, đi lên dọc trong cột sống, là bể của 12 kinh mạch, nhánh nổi đi ở mặt ngoài cơ thể, dọc theo bụng để lên trên, hội ở họng, rồi lách ra để đến môi. Khi khí huyết thịnh thì da đầy đặn, cổ ấm, nếu chỉ huyết thịnh thì thấm ra da và mọc lông. Đặc điểm của nữ là khí có thừa, huyết không đủ, hàng tháng có kinh nguyệt, mạch Xung Nhâm không đủ nuôi dưỡng môi nên không có râu.

Hoàng đế: Có người đàn ông bị thương ở phần sinh dục, dương vật không cương được, không giao hợp được, song vẫn còn râu, tại sao? còn thái giám (hoạn quan) sau khi hoạn rồi thì lại không mọc râu nữa, tại sao?

Kỳ Bá: Vì hoạn quan đã mất "Tông cân" (tinh hoàn), làm mạch Xung bị thương tổn, sau khi máu bị chảy ra không tuần hoàn lại như cũ được nữa, lưu kết trong da, làm cho mạch Xung Nhâm không nên được môi nên không mọc râu được.

Hoàng đế: Ở người đẻ ra đã suy sinh dục, không bị hoạn cũng không có kinh như nữ mà vẫn không mọc râu tại sao?

Kỳ Bá: Do tiên thiên bất túc, nên mạch Xung Nhâm không thịnh "Tông cân" không thành (phát triển), có khi không có huyết (vì Nhâm Xung không thịnh) nên không nuôi dưỡng môi được, vì vậy không mọc râu.

Hoàng đế: Quan sát sắc mặt, lông mày, râu, có thể thấy sự thịnh suy của khí huyết, như sắc mặt vàng đỏ thì có khí nhiệt, sắc mặt xanh trắng thì nhiệt khí ít, sắc mặt đen, là nhiều huyết ít khí, lông mày đẹp là Thái dương nhiều huyết, râu quai nó là Thiếu dương nhiều huyết, râu đẹp là Dương minh nhiều huyết, đó là hiện tượng bình thường.

* Trong nước ta thường là: Thái dương thường nhiều huyết ít khí, Thiếu dương thường nhiều khí ít huyết, Dương minh thường nhiều huyết nhiều khí, Quyết âm thường nhiều khí ít huyết, Thiếu âm thường nhiều huyết ít khí, Thái âm thường nhiều huyết ít khí, đó là hiện tượng bình thường.

Bị chú: 3 thiên Ngũ âm, Ngũ vị, huyết khí hình chí (Tố vấn) cửu châm, nói về vấn đề này có chỗ khác, các tác giả Mã Nguyên Đài, Trương Cảnh Nhạc cho sách Tố Vấn là đúng.


(Dương cực Âm sinh, Âm cực Dương bắt đầu)
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:19:30 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #65 vào lúc: Tháng Mười 31, 2017, 06:18:13 AM »

66. Nguyên nhân gây bệnh (Bách bệnh sử sinh)


Nội dung: Nói về nguyên nhân sinh ra bệnh tật, bệnh ngoại cảm chủ yếu là do phong, hàn, thử, vũ, thanh, thấp, và tình chí thất thường gây bệnh nội thương. Vị trí bệnh có thể ở Âm, ở Dương; ở trong; ở ngoài; ở trên; ở giữa; ở dưới. Nói rõ mấu chốt gây ra bệnh ngoại cảm là chính khí suy, ngoại tà thừa lúc xâm nhập gây bệnh, và tác dụng phòng bệnh của dưỡng sinh, tà khí khi vào cơ thể thì đi từ ngoài vào trong, khi tà lưu ở trong sẽ thành tích, chướng đau, và đưa ra nguyên tắc chữa bệnh bổ tả ở nơi bị bệnh.

Hoàng đế: Nguyên nhân gây bệnh là phong, vũ, hàn, thử, thanh, thấp, giận, vui. Vui giận không điều độ làm tổn thương tạng, phong vũ làm tổn thương phần trên, thanh thấp làm tổn thương phần dưới. Tổn thương của khí ở 3 bộ (thượng, trung, hạ) không giống nhau, nên hiểu như thế nào?

Kỳ Bá: Khí ở thượng, trung, hạ không giống nhau, hoặc bắt đầu từ Âm (lý) hoặc bắt đầu từ Dương (biểu). Nguyên tắc của nó như sau: Nếu vui giận không chừng sẽ thương tạng, tạng bị thương là bệnh bắt đầu từ Âm, thanh thấp thừa hư xâm nhập là bệnh bắt đầu từ phần dưới, phong vũ thừa hư xâm nhập là bệnh bắt đầu từ phần trên. Đó là 3 phần có bệnh (nguyên nhân và vị trí ) khác nhau. Còn nếu tà khí liên tục xâm nhập vào trong thì triệu chứng biến hóa không ngừng, khó ghi hết.

Hoàng Đế: Ta vẫn chưa rõ ràng về vấn đề biến hóa đa dạng của các chứng bệnh, vì thế ta muốn hỏi thầy là người hiểu biết và mong được nghe rốt ráo về đạo ấy.

Kỳ Bá: Các tà khí phong vũ, hàn nhiệt, không thể xâm phạm vào cơ thể được nếu không phải là cơ thể hư nhược. Còn người đột ngột bị mưa to gió lớn mà không bị bệnh, là vì chính khí không hư, thể chất khỏe, nên tà khí không xâm phạm được. Muốn sinh bệnh phải có chính khí hư, lúc đó phong tà nhân chính khí hư mà tác động vào (lưỡng hư tương bác), và hư tà xâm nhập vào cơ thể để sinh bệnh.

- Hai cái thực gặp nhau (khí hàn bình thường - chính khí vượng) thấy ở phần lớn người có cơ săn chắc, nên tà khí khó xâm phạm. Nói chung, bệnh do (lúc tà xâm nhập thường do) thời tiết bất thường và không thể suy, nó tạo ra thế tà thực, chính hư và gây bệnh lớn. Tà khí khi vào ở trong người (mỗi loại có chỗ riêng của nó), dựa vào chỗ lưu trú của nó mà có tên là ở trên,ở dưới, ở trong, ở ngoài. Tóm lại chia làm 3 viên (bộ phận), bệnh ở Biểu do tà khí - bệnh ở Lý do tích tụ - bệnh ở Âm do tình dục làm thương tạng.

- Tà khí tấn công người bắt đầu từ da, da mềm hoãn thì thấu lý khai, nếu khai thì tà khí từ chân lông đi vào, rồi vào sâu thêm, làm cho lông dựng lên, lúc đó người gai rét và da đau. Nếu tà khí vẫn lưu lại và không bị đuổi đi, thì nó sẽ truyền vào lạc mạch, khi tà khí ở trong lạc mạch thì cơ bị đau, nếu cơ lúc đau lúc không là biểu hiện tà lại vào sâu nữa và kinh lớn đã bị tấn công. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi, thì nó sẽ truyền vào kinh, khi tà kí truyền vào kinh sẽ có rét run, sợ lạnh, và trong lòng kinh sợ không yên. Nếu tà khí vẫn không bị đuổi đi, thì nó tụ ở Du, khi đó kinh khí của 6 kinh không thông đến tứ chi, làm chi khớp đau, sống lưng cứng. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ vào đoạn tủy sống của mạch Xung. Khi tà khí ở đó, thì chân tay nặng nề, người đau. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ truyền vào trong trường vị, lúc đó thủy khí đình lại ở Vị và bụng kêu óc ách, bụng trướng. Nếu hàn nhiều thì bụng sôi, ỉa chảy, ăn không tiêu, nếu nhiệt nhiều thì ỉa lỏng (máu mũi, mót rặn, lị). Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ truyền ngoài trường vị, giữa mô nguyên, lưu ở trong mạch, nếu lưu lại ở lâu, sẽ tích lại thành chứng tích. Tóm lại là tà khí vào cơ thể thì nó hoặc lưu ở tôn mạch, hoặc lưu ở lạc mạch, hoặc lưu ở kinh mạch, hoặc lưu ở mạch vận chuyển tân dịch, hoặc lưu ở đoạn trong ống tủy của mạch Xung, hoặc ở gân bám ở xương cùng, hoặc ở mô nguyên của trường vị, ở trên nối với gân mềm của bụng. Có thể thấy tà khí vào trong cơ thể, không chỗ nào nó không đến được, biến hóa khôn lường, khó mà nói hết.

Hoàng đế: Xin nói rõ thêm.

Kỳ Bá: Tà khí lưu ở nhiều mạch nhỏ của tôn lạc sẽ thành chứng tích, thành hòn cục, nó có thể di động lên, xuống, đến, đi. Do tà khí tích lại tôn lạc ở vùng nông và mềm của cánh tay, nên không thể hạn chế trạng thái tích và lưu nó ở đó, do vậy nó đến và đi di động vào gần giữa trường vị. Nếu có thủy thì sẽ thấm và tưới vào cho bên trong làm cho có tiếng như nước chảy. Nếu có hàn thì sinh ra bụng chướng và sôi bụng, thỉnh thoảng đau như dao đâm. Nếu tà khí lưu lại ở kinh Dương minh thì sẽ tích ở quanh rốn, khi ăn no sẽ to ra, khi đói thì bé lại. Nếu tà khí lưu lại ở cân mềm trong bụng, ăn no thì yên tĩnh (do tân dịch thấm ra ngoài), lúc đói thì lại đau (do khô tân dịch). Nếu tà khí ở đoạn trong ống tủy của mạch Nhâm, khi ấn sờ bụng thấy cảm giác động, nhấc tay lên bệnh nhân có cảm giác nóng chạy xuống hai bên đùi, như bị nóng bỏng ở đó. Nếu tà khí lưu ở cân xương cùng, ở sau trường vị, khi đói có thể thấy tích tụ, khi ăn no tích tụ (bị che lấp) nhìn không thấy và tay sờ cũng không thấy - Nếu tà lưu lại ở mạch vận chuyển tân dịch, sẽ làm cho mạch bị tắc, tân dịch không đi xuống được, các khiếu sẽ khô tắc lại. Đó là tình hình tà khí từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới (bệnh bắt đầu từ Dương).

Hoàng đế: Nguyên nhân của chứng tích từ lúc bắt đầu đến khi hình thành là gì?

Kỳ Bá: Bắt đầu sinh ra là do bị khí hàn, và tích hình thành là do bị khí hàn quyết nghịch lên.

Hoàng đế: Quá trình hình thành như thế nào?

Kỳ Bá: Khí hàn quyết nghịch xuống dưới, là chân đau, bàn chân đau, và vận động thất thường, gây cẳng chân lạnh, cẳng chân lạnh làm huyết mạch ngưng trệ, vì vậy khí hàn đi lên trường vị, làm cho chướng bụng (dương khí không hóa), bụng chướng làm chấp ở ngoài ruột bị dồn ứ không tán đi được, dần dần thành tích. Cũng do đột nhiên ăn quá nhiều làm ruột đầy, sinh hoạt ăn ngủ thất thường, dùng sức quá độ làm lạc mạch bị tổn thương. Nếu dương lạc bị tổn thương (lạc đi lên) thì huyết tràn ra ngoài, máu tràn ra ngoài thì chảy máu mũi. Âm lạc (lạc đi xuống) nếu bị thương thì máu chảy tràn vào trong, máu tràn vào trong thì ỉa máu. Lạc của trường vị bị thương thì máu tràn ra ngoài ruột, ngoài ruột có hàn, chấp và máu đấu nhau, quần tụ lại không tan và sinh tích, lại do đột ngột bị trúng hàn, lại bị nội thương do lo giận quá làm khí nghịch lên, khí nghịch lên như vậy sẽ làm cho sự vận chuyển của 6 kinh bị tắc không thông, làm cho khí ôn không hành,huyết ngưng kết lại ở trong không tan được, tân dịch cũng sinh ra sáp trệ (không thấm, tưới toàn thân), tụ lại dần dần và thành tích.

Hoàng đế: Bệnh sinh ra ở Âm (tạng) thì thế nào?

Kỳ Bá: Âu sầu lo nghĩ quá độ, làm Tâm bị thương, bị ngoại hàn lại ăn đồ lạnh ở trong (trùng hàn) làm Phế bị thương, giận dữ làm Can bị thương, say rượu rồi giao hợp, ra mồ hôi mà gặp gió, sẽ làm Tỳ bị thương. Dùng sức quá độ hoặc giao hợp xong, hoặc ra mồ hôi mà đi tắm, sẽ làm Thận bị thương.

Trên đây là trạng thái bệnh của trong, ngoài, 3 phần (trên, giữa, dưới của cơ thể).

Hoàng đế: Chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Xem chỗ đau sẽ biết vị trí của bệnh (Âm, Dương, Biểu, Lý). Bệnh có hữu dư và bất túc. Đáng tả thì tả, đáng bổ thì bổ, không nên vi phạm quan hệ giữa thời tiết và tạng, đó là nguyên tắc điều trị có hiệu quả và thích đáng nhất.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 09, 2020, 12:08:58 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #66 vào lúc: Tháng Mười Một 01, 2017, 05:06:58 AM »

67. Cách châm (Hành châm)


Nội dung: Nói về thể chất của người bệnh khác nhau, khí Âm Dương có thịnh có suy, nên cảm ứng đắc khí của châm không thống nhất. Người thiên về Dương - trùng dương (tức khí của 6 kinh và khí Tâm Phế có thừa), có phản ánh rất nhạy với châm, người có Âm ở trong Dương, có phản ánh tương đối chậm chạp, người có Âm Dương điều hòa thì phản ánh không nhạy và không chậm chạp, người Âm nhiều Dương ít thì đắc khí chậm, rút kim ra rồi mới có phản ứng, hoặc vê kim nhiều lần mới đắc khí. Còn phản ánh xấu sau khi rút kim hoặc hãm mà bệnh lại nặng lên thì đều là do kỹ thuật của thầy thuốc không thích đáng, chúng không có liên quan gì với thể chất và trạng thái Âm Dương của người bệnh.

Hoàng đế: Khi châm cho người ta, do họ có thể chất khác nhau, khí huyết có suy có thịnh, nên có phản ứng khác nhau như: Khi (tâm) thần (kích) động, vừa châm đã có phản ứng,hoặc khi châm vào khí tương phùng, châm đúng lúc thì có phản ứng, hoặc khi rút kim ra rồi mới bắt đầu có phản ứng, hoặc phải châm nhiều lần, kích thích nhiều lần mới có phản ứng, hoặc khí rút kim rồi thì có khí nghịch (phản ứng xấu), hoặc châm làm bệnh nặng lên. Xin giải thích cho 6 vấn đề này.

Kỳ Bá: Người thiên về Dương (trùng Dương) thần của họ dễ động (phản ứng), nên dễ đắc khí khi châm.  Người thiên về Dương (trùng Dương) là người nhiệt tình cao, không chịu khuất phục, nói nhanh, đi thì nhấc cao chân, khí của Tâm Phế có thừa, khí Dương vận hành lanh lợi thịnh và vượng lên trên. Vì vậy thần động thì khí hành trước (khí động thì rất nhạy với châm.

Hoàng đế: Tại sao có người thiên về dương mà thần không hành trước (không mẫn cảm)?

Kỳ Bá: Vì họ có nhiều âm ở trong.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết có nhiều âm ở trong?

Kỳ Bá: Người nhiều dương thì thích vui, người nhiều âm thì (trầm trì u uất) dễ giận dữ, tuy giận dữ nhiều nhưng khí giận dễ tiêu tan (thuộc âm ở trong dương), đó là người có nhiều âm. Nếu âm dương của họ khó ly hợp (trong dương có âm, Âm Dương không cân bằng, khí huyết hình thành không bình thường nên ly hợp, xuất nhập không bình thường), thì thần không thể đi được (không mẫn cảm).

Hoàng đế: Thế nào là kinh khí tương phùng (gặp nhau)?

Kỳ Bá: Ở người có Âm Dương điều hòa với tuần hoàn của huyết khí nhu nhuận, hoạt lợi thì châm vào là khí xuất (có phản ứng) và khí đến tùy theo thời gian châm (không đến nhanh, không đến chậm).

Hoàng đế: Khí nào đã làm cho khí đến (đắc khí) sau khi đã rút kim rồi?

Kỳ Bá: Ở ngoài có khí âm nhiều, khí dương ít. Khí âm tính trầm, làm khí dương đi phù ở ngoài cũng theo khí âm vào tạng ở trong, nên (mới châm khó có phản ứng ngay và ) sau khi rút kim mới xuất hiện phản ứng (lúc này kim đã rút rồi chỉ còn phản ứng của khí).

Hoàng đế: Khí nào làm cho phải châm nhiều lần mới có phản ứng?

Kỳ Bá: Ở người âm nhiều, dương ít, (dương) khí của nó trầm phục ở trong nên khi châm khí khó đến, do đó phải châm nhiều lần mới có phản ứng.

Hoàng đế: Khí nào làm cho khí nghịch lên sau khi châm kim vào (phản ứng xấu)?

Kỳ Bá: Châm kim vào khí nghịch lên, hoặc bệnh nặng lên, không phải do sự thinh suy của khí âm dương, hoặc là do xu thế phù trầm của khí âm dương. Đó là do thầy thuốc, kim, kỹ thuật sai gây nên tai biến này, không có quan hệ trực tiếp với Âm, Dương, Biểu, Lý, thân thể, thể chất của người bệnh.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:22:49 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #67 vào lúc: Tháng Mười Một 01, 2017, 06:17:40 AM »

68. Thượng cách


Nội dung: Nói về chứng cách, có nguyên nhân là trùng ung, triệu chứng và cách chữa triệu chứng. Điểm xuất phát để thảo luận là "Khí vi thượng cách, trùng vi hạ cách", vì vậy lấy tên là thượng cách.

Hoàng đế:  "Khí vi thượng cách" (khí cơ uất kết thành chứng thượng cách) sau khi ăn vào thì nôn ngay. "Trùng vi hạ cách" (do trùng thành chứng hạ cách), ăn vào một ngày một đêm mới nôn ra. Nguyên nhân cụ thể của hai chứng này là gì?

Kỳ Bá: Nguyên nhân chủ yếu là vui giận không thỏa đáng (tình chí uất ức), ăn uống thất thường, thời tiết nóng lạnh thất thường, không thích ứng nổi (làm tổn thương tới khí của Vị), làm hàn chấp chảy xuống ruột, ký sinh trùng ở ruột bị lạnh (không hoạt động), tụ lại ở hạ quản làm (khí) trường vị đầy ứ. Khi người ăn vào, thì trùng đi lên xin ăn, hạ quản sẽ (tạm thời) hư, tà khí thừa cơ đó sẽ đi xuống hạ quản, lưu lại và tích tụ dần, tà khí tích tụ sẽ thành ung nhọt ở trong, làm cho hạ quản bị thắt lại, không thông lợi, do đó ăn xong quá một ngày đêm mới nôn.

Ung nhọt trong hạ quản thường đau ở sâu, ung nhọt ngoài hạ quản thường ở nông và gây đau ở phần nông, sờ da sẽ thấy nóng.

Hoàng đế: Chữa bằng châm thế nào?

Kỳ Bá: Tay sờ nhẹ chỗ bị ung, quan sát hướng đi của khí, mới đầu châm nông ở gần chỗ đó, châm xong khi hơi có cảm giác thì châm sâu hơn, sau đó lại làm như thế nhưng không quá 3 lần. Vấn đề là xác định vị trí nông sâu của ung để châm nông sâu. Châm rồi cứu thêm, để khí nóng vào trong, mỗi ngày đều cứu để nhiệt vào sâu ở họng, tà khí suy dần và ung sẽ vỡ. Ngũ dĩ tham cấm (cách chữa đúng phối ngũ với dưỡng sinh, và giữ tốt điều cấm kỵ) để trừ nguyên nhân gây bệnh bên trong, điềm đạm yên tĩnh, không có tham vọng, có thể làm khí hành thuận hòa, tuần hoàn trở lại bình thường, rồi dùng thuốc mặn đắng, làm khí độc của ung nhọt bị tống ra ngoài theo đường ỉa (mặn làm mềm, do thủy hóa, đắng làm ôn vị do hỏa hóa, đều có thể làm đi ỉa. Sách Giáp ất kinh, Nội kinh thái tố ghi là chua và đắng, chua là Thiếu dương, đắng là Thái dương, 2 vị là ôn có thể làm tiêu thức ăn).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:23:41 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #68 vào lúc: Tháng Mười Một 01, 2017, 06:37:12 AM »

69. Âu sầu, phẫn nộ gây mất tiếng (Ưu hủy vô ngôn)


Nội dung: Nói về bệnh lý của mất tiếng. Phát âm và nói được là tác dụng của các bộ phận mồm, môi, lưỡi, lưỡi gà, thanh quản, ống mũi, xương lưỡi phối hợp với nhau. Thanh quản (hội yếm) to hay nhỏ, dày hay mỏng, có quan hệ mật thiết với phát âm nhanh hay chậm. Hàn vào thanh quản làm mở đóng kém, gây mất tiếng đột ngột. Chích nặn máu Thiếu âm chân, mạch Nhâm, đồng thời châm Thiên đột có thể phục hồi sự phát âm.

Hoàng đế: Có người âu sầu giận dữ, đột ngột lại nói không ra tiếng, vậy đường vào đã bị tắc, khí vào đã không ra được để không thành tiếng?

Thiếu sư: Hầu họng là đường đi của thủy cốc. Yết hầu là nơi khí lên xuống, qua lại. Thanh quản (hội yếm) là chỗ phát âm thanh. Mồm môi là cửa của âm thanh. Lưỡi là (động) cơ của âm thanh. Lưỡi gà là nơi đóng mở của âm thanh. Ống sau mũi là nơi khí trong người và khí trong trời trao đổi (phân khí chi sổ tiết). Xương lưỡi chịu sự chỉ huy của ý thức (Thần) để khống chế hoạt động của lưỡi trong sự phát âm. Vì vậy nếu chảy nước mũi là mũi tắc, khó phân khí. Thanh quản nhỏ, mỏng, khí ra nhanh, đóng mở thuận lợi cho nên khí ra dễ, phát âm tốt. Thanh quản to, dày, đóng mở không thuận lợi, khí ra chậm hơn, phát âm chậm hơn nên nói lắp. Người đột ngột bị mất tiếng là khí hàn ở thanh quản, làm thanh quản không phát âm được, có phát âm được cũng không lên xuống để thành tiếng nói được, khi không còn đóng mở được thì thành mất tiếng.

Hoàng đế: Chữa bằng cách nào?

Kỳ Bá: Thiếu âm chân lên đến cuống lưỡi, lạc ở xương lưỡi, tận ở thanh quản. Tả huyệt mạch ở hai mạch (Nhâm và Thiếu âm chân) để đuổi khí trọc đi. Vì mạch của thanh quản liên lạc được với mạch Nhâm, do đó lấy Thiên đột thì thanh quản lại phát âm được.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 09:25:00 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #69 vào lúc: Tháng Mười Một 01, 2017, 06:57:08 AM »

70. Nóng lạnh (Hàn nhiệt)


Nội dung: Nói về nguyên nhân, cách chữa tràng nhạc (lao hạch, loa lịch). Tiên lượng và chẩn đoán bệnh này. Lao hạch do khí độc hàn nhiệt lưu ở kinh mạch gây nên.

Hoàng đế: Lao hạch hàn nhiệt ở cổ, nách, do khí nào gây nên?

Kỳ Bá: Đều do khí độc của hàn nhiệt, lưu ở mạch không bị đuổi đi (làm khí huyết ngưng trệ) gây nên.

Hoàng đế: Chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Gốc của lao hạch là ở nội tạng, ngọn của nó là hạch ở cổ, nách. Nếu khí độc phù ở kinh mạch bên trong chưa vào sâu trong cơ, bên ngoài cũng chưa làm mủ thì dễ chữa. Mới đầu chữa từ gốc dẫn đến ngọn để làm khí độc suy dần, dừng lại sự phát tác của hàn nhiệt. Cần xem xét vị trí của kinh mạch, theo đường đi của nó để lấy huyệt châm, kim châm vào từ từ và lấy ra từ từ để khử nó. Nếu hạch nhỏ như hạt lúa, châm một lần là có hiệu quả, châm 3 lần là tiêu hết.

Hoàng đế: Xem xét tiên lượng xấu tốt dựa vào đâu?

Kỳ Bá: Vạch mắt xem, nếu thấy có vằn máu đỏ theo hướng trên đi xuống, dưới đi lên, và đều đi vào đồng tử là rất nguy kịch, nếu có 1 mạch máu thì sống 1 năm, nếu có một mạch máy rưỡi thì sống 1,5 năm. Nếu có 2 mạch máu thì sống 2 năm, nếu có 2, 5 mạch máu thì sống 2,5 năm, nếu có 3 mạch máu thì sống 3 năm. Nếu mạch không đi vào đồng tử thì chữa được.
« Sửa lần cuối: Tháng Sáu 02, 2018, 10:38:06 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #70 vào lúc: Tháng Mười Một 02, 2017, 05:45:39 AM »

71. Tà khí lưu lại ở người (Tà khách)


Nội dung: Nói về mất ngủ do Dương thịnh Âm hư, tà khí nhiễu trong nội tạng. Cách châm cứu là phải tả Dương bổ Âm, điều hòa hư thực, về hai bài (Bán hạ thang, Truật mễ tiễn) có tác dụng chữa mất ngủ tốt. Về đầu ứng với trời, chân ứng với đất, 2 mặt ứng với nhật nguyệt, 9 khiếu ứng với tay chân... về trạng thái tuần hoàn của Thái âm tay, Quyết âm tay, về sự khỏe chắc của Tâm làm tà khí không vào được, và lúc vào được đều ở Tâm bào, về triệu chứng khi tà vào thân thể, và chỉ định, chống chỉ định và thao tác của châm; về 8 nơi hư (2 khuỷu, 2 nách, 2 háng, 2 khoeo là nơi khớp vận động, là nơi chân khí và huyết hội với nhau, nếu tà vào đến đó thì khớp không vận động được mà co quắp lại).

Hoàng đế: Khi tà vào người, khí nào làm cho khi ngủ không nhắm được mắt, lòng không yên và mất ngủ?

Kỳ Bá: Ngũ cốc vào Vị, tiêu hóa rồi chia làm ba: Cặn bã (thải ra), tân dịch (thấm tưới da cơ), tông khí (tụ ở giữa).

- Tông khí tụ ở ngực (từ Phế) lên họng, xuyên thông kinh mạch để thở. Dinh khí tiết tân dịch rồi tưới vào mạch và hóa thành huyết để nuôi tứ chi, vào trong để nuôi 5 tạng 6 phủ, tuần hoàn của nó ứng với thời gian 100 khắc của ngày và đêm. Vệ khí mạnh mẽ, lanh lợi (của thức ăn, uống) mới đầu đi ở giữa da cơ của tứ chi tuần hoàn không ngừng. Ngày nó đi ở phần dương (phủ), đêm nó đi ở phần âm (tạng), thường bắt đầu ở Thiếu âm chân nơi nó và Thái âm chân nối nhau rồi đi vào 5 tạng 6 phủ. Nếu tà khí quyết nghịch lưu ở 5 tạng 6 phủ thì khí vệ một mình bảo vệ ở ngoài, tuần hoàn ở phần dương nên khi khí dương thịnh. Khí dương thịnh thì mạch Dương kiều "hãm" (sách này nói "hãm" nhưng các sách Giáp ất, Nội kinh thái tố đều ghi là "mãn"). Khi vệ khí không thể vào phần âm làm (ngoài thì thừa trong thì thiếu), Âm hư, vì vậy mắt không thể nhắm được khi ngủ.

Hoàng đế: Chữa thế nào?

Kỳ Bá: Bổ cái bất túc (Chiếu hải), tả cái hữu dư (Thân mạch), điều hòa hư thực để thông đường kinh của nó và đuổi tà khí đi. Uống một thang: Bán hạ thang, nếu âm dương mà thông thì sẽ ngủ. Bán hạ thang: Lấy nước sông cái 8 thăng, để lắng trong, lấy 5 thăng, đun to lửa cho chóng sôi, cho truật mễ (gạo nếp) 1 thăng, chế Bán hạ 5 hợp, rồi dùng lửa nhỏ (văn hỏa). Khi nước còn một thăng rưỡi thì bỏ bã, mỗi lần uống một cốc nhỏ, ngày uống 3 lần hoặc hơn đến khi có hiệu quả. Ở người mới mắc bệnh uống xong thì đi ngủ ngay hoặc khi ra mồ hôi là có kết quả. Ở người có bệnh lâu, uống 3 lần là khỏi.

Hoàng đế: Khớp tứ chi, ứng với trời đất như thế nào?

Bá Cao: Dùng cách so sánh theo hình tướng, đầu tròn ứng với trời, bàn chân vuông ứng với đât. Trên trời có mặt trăng, mặt trời, người có hai mắt. Mặt đất có 9 châu, người có 9 khiếu (9 châu = 9 địa phương của tổ quốc - thời gian viết sách). Trời có gió mưa, người có vui giận; trời có sấm sét, người có âm thanh; trời có 4 mùa, người có 4 chi; trời có 5 âm (thanh), người có 5 tạng; trời có 6 luật, người có 6 phủ [6 luật thuộc dương là (những âm giai) Hoàng chung, Thái tộc, Cô tẩy, Nhung tân, Di tắc, Vô sa]; trời có Đông Hạ, người có hàn nhiệt; trời có 10 ngày, người có 10 ngón tay; giờ có 12, người có 10 ngón chân, ở nam có thêm dương vật và tinh hoàn (là 12), ở nữ tuy không đủ 12 nhưng có dạ con nuôi con; trời có Âm Dương, người có vợ chồng; năm có 365 ngày, người có 365 tiết (huyệt chính); đất có núi cao, người có vai gối; đất có khe sâu, người có nách khoeo; đất có 12 kinh thủy, người có 12 kinh mạch; đất có suối mạch, người có vệ khí; đất có cỏ, người có lông; trời có ngày đêm, người có dậy nằm; trời có sao, người có răng; đất có núi nhỏ, người có khớp nhỏ; đất có núi đá, người có xương cao gồ; đất có rừng cây, người có cân mạch; đất có nơi đô hội, người có các bắp thịt; năm có 12 tháng, người có 12 khớp to (mỗi chi 3 khớp); đất có nơi 4 mùa không mọc cỏ, người có người không con. Đó là những điểm người ứng với trời đất.

Hoàng đế: Phép tắc châm, lý luận về tiến châm, ý nghĩa của tả, bổ, nghênh, tùy, cách gõ kim để khai thấu lý như thế nào? Sự uốn khúc của kinh mạch và nơi ra vào của nó, khí của mạch đến đâu thì ra, đến đâu thì hết và dừng, đến chỗ nào thì nhanh lên, đến chỗ nào thì chậm lại, đến đâu thì vào, tình hình 6 phủ tưới cho toàn thân tôi đều muốn biết. Ngoài ra nơi phân ly của kinh mạch, tách Dương để vào Âm, tách Âm để vào Dương, đường tuần hoàn nào phụ trách vấn đề này xin cho rõ.

Kỳ Bá:

- Mạch Thái âm tay xuất ở đầu ngón tay cái, gập vào trong đi dọc bờ Ngư tế (mô ngón cái) lên đến sau khớp bàn tay, đến Thái uyên, lưu ở đó lên có mạch đập, cong ra ngoài đến dưới khớp bàn tay gấp vào trong, hội ở Ngư tế với các lạc của kinh âm, các mạch hợp lại, khí chảy mạnh mẽ, hoạt lợi, bắt đầu đi ẩn ở dưới mõm xương Ngư tế, gấp ra ngoài, nổi ra ngoài ở cổ tay theo kinh đi lên (Kinh cừ), lên đến mặt trong khuỷu, vào dưới gân to (Xích trạch), lại gấp vào trong đi lên mặt trong cánh tay, vào hố nách, lại gấp vào trong đến Phế. Đó là sự tuần hành gấp khúc nhiều lần của kinh Thái âm tay.

- Mạch Tâm chủ xuất ở đầu ngón tay giữa gấp vào trong, dọc bờ trong ngón giữa đi lên, lưu ở trong gan bàn tay, đi nấp giữa hai xương, gấp ra ngoài đi ra chỗ giữa hai gân, giữa xương và cơ. Khí nó hoạt lợi, đi lên 2 tấc, gấp ra ngoài, đi giữa hai gân lên bờ trong khuỷu tay, vào dưới gân nhỏ, lưu ở chỗ hội của hai xương, đi lên vào trong ngực để vào liên lạc với mạch Tâm.

Hoàng đế: Tại sao mạch Thiếu âm tay không có huyệt?

Kỳ Bá: Thiếu âm là mạch Tâm. Mạch Tâm chủ nhân của 5 tạng 6 phủ, nơi ở của tinh (thần); nếu tạng nó chắc thì tà không thể nào vào được, nếu vào được đến Tâm thì Tâm bị thương, thần sẽ đi và chết. Cho nên cái tà vào Tâm đều phải đến Tâm bào lạc. Tâm bào lạc là mạch của Tâm chủ, nên mạch Tâm không có huyệt [mãi đến Hoàng Phủ Mật (Giáp ất kinh) mới ghi huyệt của kinh Thiếu âm tâm].

Hoàng đế: Kinh Thiếu âm không có huyệt, vậy có bệnh không?

Kỳ Bá: Ở kinh thì có bệnh, còn ở tạng Tâm thì không có bệnh, nên khi chữa chỉ lấy huyệt (Thần môn) ở cổ tay chỗ xương đậu để chữa. Các phần khác của mạch xuất nhập gấp khúc, đi nhanh hay chậm đều giống như tuần hoàn của kinh Thiếu âm tâm chủ. Cho nên nói Thần môn là huyệt du của kinh đó, nếu có bệnh thì lấy để điều hòa lại, tùy khí nó hư hay thực, đi nhanh hay chậm, nếu xung (thịnh) thì tả, nếu suy thì bổ. Chữa như vậy thì sẽ đuổi được tà khí, củng cố được chân khí. Đó là thuận theo sự vận hành tự nhiên của nó để chữa.

Hoàng đế: Cách châm nghênh tùy như thế nào?

Kỳ Bá: Trước hết biết gốc ngọn của 12 kinh, tính hàn nhiệt của da, sự thịnh suy hoạt sáp của mạch. Nếu mạch hoạt thịnh là bệnh ngày một tăng nặng; nếu mạch hư tế là bệnh lâu và đang cố gắng duy trì; nếu mạch to và sáp là thống tý. Nếu Âm Dương như nhất (nội ngoại biểu lý đều có bệnh) thì bệnh khó chữa. Nếu gốc (ngực bụng) ngọn (tứ chi) đều nhiệt (dư tà chưa hết) là bệnh vẫn còn tồn tại. Nếu nhiệt của nó đã suy là bệnh đã suy (tà khí bị đuổi ra). Còn phải xem da ở bên trụ (xương trụ) xem sự mềm chắc của cơ, sự to nhỏ hoạt sáp của mạch, trạng thái hàn, nhiệt, táo, thấp. Cũng phải xem 5 sắc của mắt để đoán sự thay đổi của 5 tạng, để có tiên lượng (tốt hay xấu) sống hay chết. Cũng xem huyết mạch, sắc của người bệnh để biết chứng hàn nhiệt thống tý.

Hoàng đế: Ý nghĩa của thủ pháp nghênh tùy là gì?

Kỳ Bá: Nguyên tắc của châm là phải có thái độ đoan chính và trong lòng yên tĩnh. Trước hết phải biết hư thực, để châm nhanh hay chậm. Khi châm tay trái giữ xương của người bệnh, tay phải sờ huyệt theo kinh, châm không được quá mạnh để gây nên cơ co lại (làm mút kim). Khi tay phải châm thẳng góc, không nghiêng ngả, khi bổ (châm nông) phải bịt lỗ châm, đồng thời dùng thủ thuật bổ trợ để dẫn khí (nâng sức chống đỡ) làm khí tà không thâm nhập thêm, như vậy châm khí sẽ ở nguyên chỗ và phục hồi tuần hoàn ở chỗ đó.

Hoàng đế: Phép gõ trên da để khai thấu lý ra sao?

Kỳ Bá: Tùy vị trí nhóm cơ bị bệnh, trước hết dùng tay trái sờ để phân rõ cơ phu, sau đó dùng tay phải tiến kim rất nhẹ và làm cho kim thẳng góc với da, rồi tiến từ từ vào phần nông của da. Cách châm đó an toàn làm thần thoải mái, không làm hao tán mà khí tà vẫn bị trừ đi. Gần như cách châm ở da (bì phu châm hiện nay).

Hoàng đế: Người có 8 cái hư, có thể dùng chẩn đoán các loại bệnh gì?

Kỳ Bá: Để chẩn ngũ tạng. Phế Tâm có tà, khí của nó lưu ở hai khuỷu tay; Can có tà, khí của nó lưu ở hai nách; Tỳ có tà, khí của nó lưu ở hai háng hông; Thận có tà, khí của nó lưu ở hai khoeo, 8 cái hư đó (khuỷu, nách, hông háng, khoeo) là những nơi khớp vận động, chân khí đi qua, huyết lạc tuần hoàn. Tà khí và huyết xấu, đương nhiên không được lưu trú ở đó. Nếu chúng lưu lại thì sẽ làm tổn thương kinh lạc, khớp xương, khớp không vận động được, hình thành chứng co cứng khớp. (Phế, khí lưu ở Xích trạch; Tâm, khí lưu hành ở Thiếu hải; Can, khí lưu hành ở Kỳ môn, Uyên dịch; Tỳ, khí lưu hành ở Xung môn, Khí xung; Thận, khí lưu hành ở Âm cốc, Ủy trung - Trương Cảnh Nhạc - Loại kinh).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 10:26:04 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #71 vào lúc: Tháng Mười Một 07, 2017, 10:50:44 AM »

72. Thông thiên


Nội dung: Nói về người có 5 loại hình: Thái âm, Thiếu âm, Thái dương, Thiếu dương, Dương minh. Mỗi loại hình có đặc trưng sinh lý, tính tình thể chất, hình thái riêng, chúng có quan hệ với điều trị, trong điều trị có nguyên tắc riêng cho từng loại hình.

Hoàng đế: Có người thuộc Âm, có người thuộc Dương. Vậy người nào thì thuộc Âm, người nào thì thuộc Dương?

Thiếu Sư: Mọi vật trong vũ trụ, trong 6 hợp (trên dưới và 4 phương) đều không tách khỏi 5 hành. Người cũng thế, không phải chỉ có một Âm một Dương. Nói Âm Dương là nói khái quát để dễ nắm chung, còn những vấn đề phức tạp trong đó thì không thể giải thích đơn giản như vậy được.

Hoàng đế: Ở người hiền (hiền nhân), bậc thánh (thánh nhân) tâm của họ có biểu hiện ra hành vi hay không?

Thiếu Sư: Nói chung, có 5 loại hình: Thái âm, Thiếu âm, Thái dương, Thiếu dương, dương âm hòa bình...ở mỗi loại hình trong 5 loại hình đó đều có hình thái khác nhau, gân xương khỏe yếu, khí huyết thịnh suy khác nhau...

- Người loại hình Thái âm thì tham lam bất nhân, bề ngoài ra vẻ trang trọng, nhưng trong lòng nham hiểm, chỉ thu vào mà không nhả ra, tâm hòa nhưng không biểu hiện ra ngoài, và khi cần có thái độ cũng không muốn tỏ thái độ của mình, đợi người ta làm xem sao rồi mới làm. Bề ngoài ra vẻ trung hậu, trong lòng nham hiểm, đó là người Thái âm.

- Người loại hình Thiếu âm thì tham vặt, thường có tà tâm hại người, thấy người có tổn thất thì thích thú, thích hại người, làm tổn thương người, thấy người khác vinh hiển thì đố kỵ, tức giận, tính tình tàn bạo, không đồng tình giúp người. Bạo ngược, tham vặt, thích hại người, thích thú khi người gặp nạn là người Thiếu âm.

- Người loại hình Thái dương thì ăn ở tùy tiện, thích nói đại sự, không có năng lực, không có năng lực nhưng hay đại ngôn, tuyên truyền ý chí của mình, động tác hành vi thô lỗ không kể phải trái, gặp việc dung tục rất bình thường nhưng lại rất tự tin, việc thất bại nhưng không hối hận. Loại đại ngôn vô năng lực, không có thủy chung là người Thái dương.

- Người loại hình Thiếu dương thì làm việc tinh tế, nghiên cứu kỹ lưỡng, tự cho là cao quý, có làm quan dù nhỏ vẫn tự tôn mình và thấy đắc ý, thích ngoại giao nhưng đối nội kém. Loại người tự cao tự đại đó là người Thiếu dương.

- Người loại hình âm dương hòa bình thì chỗ ăn chố ở yên tĩnh, trong lòng yên tĩnh không có lo lắng, cũng không có tham vọng quá đáng, biết thuận quy luật phát triển của sự vật, không tranh phần cho mình, có thể thích ứng với thời tiết. Họ có thể có địa vị tôn qúy, nhưng thái độ vẫn khiêm tốn, dùng đức để cảm hóa người mà không hoàn toàn dùng quyền bính, đó gọi là phương pháp xử lý sự việc tốt nhất.

- Người thầy thuốc khéo dùng kim châm và ngải cứu để trị bệnh, họ thường quan sát biết được 5 dạng người như nói trên để phân biệt ra mà trị liệu: Khi nào thịnh thì dùng phép tả, khi nào hư thì dùng phép bổ.

Hoàng đế: Nguyên tắc chữa bằng châm 5 loại hình đó là gì?

Thiếu Sư:

- Người Thái âm thì nhiều âm vô dương, âm huyết của họ đục, vệ khí của họ vận hành sáp trệ, âm dương bất hòa, cân hoãn và da dày, nếu không dùng cách tả cấp thì không làm cho bệnh giảm được.

- Người Thiếu âm thì nhiều âm ít dương, dạ dày nhỏ và ruột to (dạ dày ở trên là dương, dương ít nên dạ dày nhỏ, ruột ở dưới là âm, âm nhiều nên ruột to), 6 phủ không điều hòa, khí của mạch Dương minh nhỏ, khí mạch Thái dương to, nên phải quan sát kỹ nhiều mặt mới chữa, nếu không thì (khí ít không giữ được huyết nên) huyết dễ thoát, và (ngược lại, nguyên) khí cũng dễ bị bại hoại.

- Người Thái dương thì nhiều dương ít âm, cần cẩn thận khi điều hòa nó (do âm ít nên) không được làm âm thoát mà vẫn phải tả dương (thừa) (song tả quá độ) khí dương liên tục bị hao thoát thì dễ gây nên chứng cuồng. Nếu làm âm dương đều bị hao thoát thì sẽ chết đột ngột, hoặc bất tỉnh nhân sự.

- Người Thiếu dương thì nhiều dương mà ít âm, họ có kinh nhỏ mà lạc to (kinh ở trong - âm ít nên nhỏ, lạc ở ngoài - dương nhiều nên to), do huyết mạch ở trong mà khí lạc ở ngoài (nên trong điều trị) phải làm cho âm thực lên và (tả) làm cho dương hư đi. Nếu chỉ tả lạc mạch (dương) thôi thì sẽ làm khí dương hao tán và tiết nhanh ra ngoài làm trung khí không đủ, bệnh sẽ khó khỏi.

- Người âm dương hòa bình thì khí âm dương của họ điều hòa, huyết mạch cũng điều hòa. (Trong điều trị) cần chẩn rõ sự thay đổi của âm dương, sự thịnh suy của chính khí, tà khí dựa vào diện mạo và biểu hiện, định xem là hữu dư hay bất túc, nếu thịnh thì tả nó, nếu không thực không hư thì lấy kinh có bệnh để chữa.

* Những điều ghi ở trên là nguyên tắc điều trị để điều hòa âm dương và tiêu chuẩn để phân biệt 5 loại hình người.

Hoàng đế: Những người thuộc 5 loại hình thái ở trên, vốn không cùng ở với nhau, nay mới gặp nhau, không rõ hành vi của nhau hàng ngày ra sao, vậy làm thế nào để biết họ?

Thiếu Sư: Nhiều người thuộc loại hình người trên, thường là không biết rõ đặc điểm của 5 loại hình thái (âm dương) này. Người ta đã quy nạp (từ ngũ âm, ngũ hành) thành 25 loại hình người, nhưng (5 loại) hình thái (âm dương) này không liệt kê vào 25 loại hình trên. Hình thái của 5 loại hình này không giống mọi người nói chung.

Hoàng đế: Phâm biệt 5 loại hình này như thế nào?

Thiếu Sư: Người Thái âm có da đen như màu quả dâu, ý niệm không phát triển, ti tiện, hai mắt cứ nhìn xuống đất, như là người rất cao lớn phải cúi xuống để nhìn, tuy không còi xương nhưng khớp gối cong queo không thể đứng thẳng, đó là đặc điểm bên ngoài của người Thái âm.

- Người Thiếu âm có diện mạo như rất thanh cao, nhưng hành động lại mờ ám (tâm địa) thâm hiểm, ngoan cố, khi đứng thì cuồng động không yên, biểu thị trạng thái ác tà. Khi đi như cúi rạp người xuống. Đó là đặc điểm bên ngoài của người Thiếu âm.

- Người thuộc hình Thái dương, dáng điệu của họ rất kiêu căng tự đắc, họ thường nẩy ngực, co bụng, và cũng thường co gối lại, nhưng gối thì lại như gấp lại, đó là đặc điểm bên ngoài của của người Thái dương.

- Người Thiếu dương có dáng đứng ngẩng cao đầu, đi thì lắc lư, hai tay hai khuỷu thường đưa ra sau lưng, đó là đặc điểm bên ngoài của người Thiếu dương.

- Người âm dương bình hòa có diện mạo ung dung tự đắc, dễ thích ứng với hoàn cảnh, thái độ cung kính nghiêm túc, đối đãi với người mềm mỏng hòa nhã, ánh mắt hiền từ, miệng nói tay làm, làm việc phân minh không hỗn loạn, mọi người gọi họ là quân tử, đó là đặc điểm bên ngoài của người âm dương bình hòa.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 10:28:28 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #72 vào lúc: Tháng Mười Một 08, 2017, 03:24:00 PM »

Quyển thứ mười một

73. Sử dụng tùy tài năng (Quan năng)


Nội dung: Thảo luận tương đối toàn diện về các vấn đề thao tác lâm sàng, lý luận châm cứu.

Người làm châm cứu phải biết quan hệ giữa hình và khí, các vị trí trên dưới trong ngoài, phải trái, Âm Dương, khí huyết nhiều ít của các đường kinh, sự vận hành thuận nghịch của chúng, tình hình giao hội của các kinh, nắm đặc trưng của 5 loại huyệt, tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, ảnh hưởng đến Âm Dương ngũ hành, tứ thời, 8 phong đối với tạng phủ, kết hợp với khí sắc ở mặt để có chẩn đoán chính xác, rồi dựa vào biểu lý, trên dưới, hàn nhiệt, hư thực, để chọn huyệt, thủ pháp châm hay cứu - nếu là hàn ở lý, trung khí sa xuống và âm dương đều hư thì phải cứu - đề xuất thao tác và tác dụng của phép "Bổ tất dụng phương, tả tất dụng viên".

Còn nêu nguyên tắc hướng dẫn học trò, dựa vào năng lực, tính tình, chí hướng đặc điểm của họ để có nội dung về kỹ thuật, giao việc để phát huy tài năng của họ. Nên đề của thiên này là sử dụng tùy tài năng.

Hoàng Đế: Ta đã nghe Thầy nói về vai trò của cửu châm, nghe đã nhiều rồi, sự phong phú của nó thật là không biết bao nhiêu mà kể, ta đã suy rộng ra để thảo luận nhiều lần và đã quy nạp được về 1 mối, nay ta xin đọc lại cho thầy nghe, thầy nghe cho rõ về cái lý của nó, nếu có điều gì sai, xin thầy bảo cho ta biết, ta cũng xin được thầy tu chính cho đúng với cái đạo của nó, làm thế nào để truyền lại cho đời sau mà không có điều gì hại. Khi nào ta tìm được những người có cái chí thông hiểu như chúng ta thì ta mới truyền dạy cho, còn nếu như không có được những người như vậy thì thôi, không dạy.

Kỳ Bá: Thần xin kính nghe về cái đạo của bậc thánh nhân.

Hoàng đế: Nguyên lý dùng châm để chữa là phải biết chỗ hình và khí (bị bệnh) hoặc trên dưới, phải trái, Âm Dương, biểu lý, hoặc khí huyết nhiều ít (trong 12 kinh), hoặc vận hành thuận nghịch, những nơi để cho khí xuất từ lý ra biểu, nhập từ biểu vào lý, mới có thể kết hợp các mặt để có căn cứ chữa bệnh. Biết cách giải các chỗ kết tụ, biết cách bổ hư tả thực (thủ thuật), biết sự phân bố ở trên dưới của huyệt, nhất là tác dụng của 4 hải (khí hải, huyết hải, tủy hải và thủy cốc hải). Phải xem xét kỹ nơi bị bệnh, trạng thái hàn nhiệt vãng lai, hoặc lao lực mệt nhọc (cần suy nghĩ chu đáo vì nơi bệnh tà xâm nhập vào chỗ), tình hình khí huyết chảy đến khác nhau. Cho nên phải xem kỹ bệnh tình (hư thực, sự tuần hoàn của khí) để điều (hòa) khí (mạch), hiểu rõ tình hình của (khí huyết vận hành ở trong) 12 kinh mạch, (trong) các nhánh lạc mạch ở trái phải, và nắm chắc các nơi hội họp của chúng.

 Nếu có hàn nhiệt tranh nhau (Âm Dương bất hòa), cần xem toàn diện để có thể điều hòa lại, nếu chứng hư và thực gần giống nhau thì cần biết sự thịnh suy của kinh mạch, để dùng phép sơ thông kinh mạch. Nếu tà khí xâm nhập vào đại lạc bên trái, gây bệnh bên phải, nhập bên phải gây bệnh bên trái, phải biết tà khí ở bộ vị nào để áp dụng phép châm mậu thích: đau bên phải châm bên trái, đau bên trái châm bên phải, cần hiểu rõ đặc điểm bệnh thuộc thuận hay thuộc nghịch để biết có thể hay không thể chữa được (thuận thì chữa được, nghịch thì không chữa được).

 Khi Âm Dương (của tạng phủ và kinh mạch) không có thiên lệch (điều hòa) mà chỉ do khí hậu có thể ảnh hưởng đến tạng phủ, nên phải nắm mối quan hệ giữa thời tiết và bệnh tật. Nghiên cứu rõ phần gốc ngọn của bệnh, quan sát trạng thái hàn nhiệt của nó, biết được (quy luật truyền bệnh và) nơi bệnh tà chiếm lĩnh thì sẽ vạn lần châm, vạn lần thành công (không làm bệnh nặng thêm). Biết tính năng của 9 loại kim, biết tận dụng chúng trong chữa bệnh, thì càng phát huy tốt nguyên lý dùng châm để chữa bệnh.

 Cần biết rõ vai trò của ngũ du huyệt (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp), việc châm nhanh hay chậm và (khí mạch vận hành qua lại) gấp duỗi ra vào đều có điều lý (quy luật). Nói đến 2 mặt Âm Dương (của người) cũng là nói đến 5 hành, 5 tạng 6 phủ (hợp với Âm Dương ngũ hành) và hoạt động của chúng. Khí hậu 4 mùa và 8 hướng thổi của gió đều có Âm Dương (và ảnh hưởng đến nội tạng). Mặt cũng có các vị trí ứng với Âm Dương, hợp ở minh đường và mỗi vị trí có mầu sắc riêng, được dùng làm chuẩn để chẩn bệnh của 5 tạng 6 phủ. Từ chỗ đau, kết hợp với sắc của mặt ở trên, dưới, phải, trái, ta có thể biết được bệnh thuộc hàn hay nhiệt và ở kinh nào. Lại xem nóng, lạnh, hoạt, sáp của da để biết bệnh của nó. Do cơ hoành ở trên có (Tâm Phế), dưới (Tỳ, Can, Thận), nên có thể biết chỗ khí của chúng bị bệnh. Mới đầu cần nắm đường đi của kinh, chọn huyệt ít mà tinh để chữa, hoặc châm hơi sâu, lưu kim để chính khí từ từ vào trong (tăng sức chống khí tà). Nếu sốt cao ở phần trên, cần dùng cách châm để đẩy xuống (để dẫn hỏa tiết xuống dưới), nếu bệnh tà phát triển từ dưới lên, cần dẫn tà đi xuống để trừ nó đi. Chú ý vị trí đau trước kia, và lấy huyệt chỗ đó trước (để chữa gốc). Nếu đại hàn ở ngoài, cần dùng cách lưu kim để bổ (làm nóng) nó. Nếu hàn tà vào sâu ở trong, lấy huyệt hợp để tả trừ nó đi. Nếu không thích ứng với châm thì dùng cứu. Nếu khí ở trên bất túc, dùng cách "đẩy để dương lên" (bổ khí hư ở trên). Nếu khí ở dưới bất túc, dùng cách "bất nhi tòng chi" lưu kim thuận khí để tích (bổ hư) ở dưới. Nếu Âm Dương đều hư, nên cứu (không châm). Nếu quyết mà rất lạnh hoặc cơ ở cạnh xương mà lõm xuống, hoặc lạnh quá hai đầu gối, thì cứu huyệt Túc tam lý. Lại nếu ở nơi âm lạc đi qua (hàn tà xâm nhập) và lưu ở đó, hoặc hàn tà từ lạc mạch vào trong (nội tạng) thì dùng phép "đẩy để hành khí" để khu hàn tà. Nếu kinh lõm xuống thì phải cứu, nếu lạc kết chắc lại và căng thì cũng dùng cứu để chữa. Nếu không rõ chỗ có bệnh, lầy huyệt Thân mạch, Chiếu hải (mạch kiều), nam thì lấy Dương kiều làm kinh, nữ thì lấy Âm kiều làm kinh, xong nếu lấy nhầm nam Âm nữ Dương thì tác dụng trái ngược, đó là điều cấm. Lý luận chính của phép châm là như vậy.

 Muốn học tập cách châm, cần nắm phương pháp và nguyên tắc ở trên, phải quan sát thiên quang (quy luật vận hành của ngày, tháng, tuần, giờ), ở dưới cần kết hợp với bát chính (4 lập, 2 phân, 2 chí = lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí) để tránh các tà khác của 4 mùa, và báo cho mọi nhà biết. Làm sao có thể biết được thực phong, hư phong (thực phong là phong bình thường, hư phong là phong khác thường gây bệnh), để đề phòng trước khỏi bị tà tấn công. Nếu bị mưa gió trái mùa hoặc tuế khí (khí của năm) không đủ gây bệnh, người thầy thuốc cấp cứu không (nắm được thay đổi của khí hậu và chữa kịp thời) được, sẽ làm bệnh tình nguy cấp thêm. Cho nên cần biết sự thích ứng và cấm kỵ của thiên thời trước rồi mới nói đến thao tác châm.

 Phép châm từ học thuyết xưa, được ngày nay kiểm tra, muốn quan sát được sự biến hóa ở bên trong cơ thể khi nó không thể hiện ra ngoài thì phải có lý luận, như vậy mới có thể truyền cho đời sau được. Với hiện tượng sinh lý bệnh lý phức tạp, không dễ phát hiện, thường chỉ người thầy giỏi mới chẩn đoán được, và đó là chỗ khác với người thường của họ. Vì tuy dinh vệ khí huyết vận hành ở trong cơ thể, không nhìn rõ được, hoặc vận động của thần khí như có như không (song họ vẫn chẩn đoán được đúng).

 Khi tà (thừa hư) xâm phạm cơ thể, có triệu chứng gai rét sợ lạnh rõ. Chính tà (lao động ra mồ hôi bị gió) xâm nhập cơ thể (tác hại của nó rất nhỏ), chỉ có sắc khí hơi thay đổi, thân thể không có gì khác như có bệnh mà lại như không có bệnh, như là bệnh tà đã bị trừ, lại như vẫn còn ở trong, như là có dấu ấn của bệnh, lại như không có, khó biết rõ bệnh tình cụ thể. Cho nên người thầy giỏi sẽ lấy khí của nó để chữa khi bệnh mới mắc, thầy thuốc kém thường đợi bệnh đã thành mới chữa, lúc đó hình thể đã suy mòn (nên khó chữa).

 Người dùng châm để chữa bệnh (muốn chữa khỏi bệnh) cần biết chỗ (vận hành) của khí, giữ cửa ra vào của nó (huyệt), cần biết cách điều khí, cần biết chỗ bổ, tả, ý nghĩa thủ pháp châm nhanh, chậm, và huyệt nào cần dùng để chữa bệnh đang có.

 Khi tả, phải dùng thủ pháp tròn (lưu lợi), ấn vào nơi đau và vê kim. như vậy tà khí mới lui và khôi phục lại chính khí. Khi châm thì châm vào nhanh nhưng rút kim ra chậm hơn, được vậy tà khí mới theo kim mà xuất ra ngoài. Nếu châm bằng phép nghênh đón để tả (khi châm kim vào) làm căng da để (đưa kim qua da) đón khí đến (rồi làm thủ pháp), khi rút kim cần long to lỗ kim, để tà khí có chỗ ra cho nhanh.

 Nếu châm bổ, ta phải có thái độ đoan chính, thung dung, trước hết phải xoa nắn bên ngoài da, làm thế nào để tà khí ở nơi nào đó trên kinh mạch sẵn sàng ở vùng của huyệt đã chọn, tay trái ta xoa trên huyệt vị, tay phải ta ấn lên da, ta xoay nhẹ mũi kim rồi châm kim vào 1 cách chậm chậm, thủ thuật và dáng điệu phải đoan chính, phải an tĩnh, phải kiên tâm không nóng nảy, lưu kim 1 cách nhẹ nhàng, đợi khi nào mạch khí điều hòa, ta mới rút kim thật nhanh, sau khi rút kim xong, ta dùng tay xoa nhẹ trên da và đồng thời bịt kín vết kim lại, nhờ vậy mà chân khí mới giữ lại được.

 Tóm lại, phần quan trọng của việc dụng châm là không nên quên, không nên lơ là đến vấn đề thần khí của người bệnh.

* Chú ý: Ở đây ghi tả tất dụng viên, bổ tất dụng phương, là nói về thủ pháp khi bổ tả. Còn ở Tố Vấn thiên "Bát chính thần minh" ghi tả tất dụng phương, bổ tất dụng viên là nói đến cách dùng bổ tả.

Lôi Công: Làm thế nào để biết là người nào có chí đáng truyền nghề, người nào không đáng truyền nghề?

Hoàng đế: (Khi truyền học thuật) nói chung phải tìm người thích hợp, tùy năng lực (đặc điểm) phân công việc cho họ, để thấy rõ được họ có làm được hay không.

Lôi Công: Làm thế nào để chọn người?

Hoàng đế: Cách chọn người, sử dụng người thường là: Người mắt tinh  ta dạy cho họ cách nhìn về sắc diện, người nào có đôi tai thính, ta dạy cho họ cách nghe âm thanh, người nào nói năng lưu loát, phát âm rõ ràng, ta dạy cho họ cách ăn nói để truyền đạt ý tưởng, người nào ăn nói hòa hoãn, dáng điệu yên tĩnh, thủ pháp khéo léo và nhận xét tinh tường, ta dạy cho họ thao tác châm và cứu, để điều lý khí huyết , điều hòa các trạng thái thuận nghịch, quan sát Âm Dương kiêm nắm vững phương pháp điều trị, chọn người có động tác tay nhẹ nhàng mềm dẻo, tính tình hòa nhã để xoa bóp dẫn khí (làm khí huyết lưu thông), chọn người có tính đố kỵ, lời nói cay nghiệt, coi thường người khác để chữa bệnh tâm thần phù phép (Chúc do khoa), chọn người móng tay sắc khỏe như lang độc, khi làm hay sát thương người khác để xoa bóp các tích tụ cứng chắc, hoặc các chứng tý lâu năm. Mỗi người có 1 khả năng, phát huy tài năng của họ đúng vào các loại phương pháp chữa bệnh, thì họ sẽ nổi tiếng. Ngược lại dùng người không đúng, không những họ làm việc không có kết quả, mà thầy cũng mất cả danh tiếng.

 * Cho nên nói: gặp đúng người thì truyền nghề, nếu không gặp đúng người thì thôi không truyền nghề nữa. Với người thế tay như lang độc, có thể thử ấn mai rùa, đặt rùa ở dưới khí cụ rồi ấn ở trên, đến ngày thứ 50 thì rùa chết. Còn nếu rùa vẫn sống là thế tay đã hòa hoãn (đã tập tốt).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 10:37:41 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #73 vào lúc: Tháng Mười Một 10, 2017, 03:33:08 PM »

74. Chẩn đoán bệnh qua da phía trụ (Luận tật chẩn xích)


Nội dung: Nói về từ các hiện tượng ở da phía trụ cánh tay (nhuận, bóng, khô, cơ teo, cơ yếu, nóng lạnh) có thể đoán ra tình hình thịnh suy của tạng phủ. Nếu nó hoạt (trơn) và trạch (bóng) là bệnh phong. Nếu sáp là phong tý. Nếu thô, khô như vẩy cá là bệnh ẩm, nếu nóng mạch thịnh thao động là bệnh ôn. Nếu nóng bỏng tay, nóng trước lạnh sau là bệnh hàn nhiệt v.v...Lại nêu muốn dùng chẩn đoán da ở phía trụ, cần kết hợp với vọng chẩn, mạch chẩn và tình hình nóng lạnh ở khuỷu, cánh tay, gan tay. Ngoài ra còn nói đến xem hướng đi của mạch máu ở mắt, số lượng mạch xuất hiện ở đồng tử, để đoán bệnh ở kinh nào, hoặc dự đoán thời gian chết. Về mạch của người có thai, bệnh trẻ con dễ chữa, khó chữa, chứng chết, các bệnh dễ mắc do phục tà 4 mùa vv...cũng được giới thiệu kỹ càng.

Hoàng đế: Làm thế nào để không cần qua vọng sắc, chẩn mạch, mà chỉ qua kiểm tra da ở phía trụ tay mà xác định được là bệnh gì, để từ biểu hiện bên ngoài của thân thể mà đoán thay đổi bên trong của nó?

Kỳ Bá: Quan sát kỹ trạng thái hoãn cấp, to nhỏ, hoạt sáp, cơ săn chắc hoặc mềm yếu của da phía trụ tay, có thể xác định được loại bệnh gì.

- Nhìn mắt thấy mi mọng lên như vừa ngủ dậy, mạch cổ đập, có lúc ho, ấn tay, chân có lõm xuống là phù do phong thủy.

- Da tay phía trụ hoạt, nhuận, sáng là do phong. Cơ tay phía trụ yếu, không có sức, chỉ nằm yên, cơ teo (Âm Dương suy bại) là bệnh hàn nhiệt (hư hao) khó chữa. Da tay phía trụ hoạt (trơn) nhờn bóng là bệnh phong. Da tay phía trụ sáp (do huyết ít, không nuôi được da) là phong tý. Da khô sáp như vẩy cá khô là bệnh tật ẩm (thủy thấp tràn ra chân tay). Da tay phía trụ rất nóng, mạch thịnh thao động là bệnh ôn, mạch thịnh hoạt là bệnh tà đã bị đuổi ra (sắp khỏi). Da tay phía trụ hàn, mạch nhỏ là tiết tả hoặc thiểu khí. Da tay phía trụ sờ nóng, rát tay, trước nóng sau lạnh là bệnh hàn nhiệt. Da tay phía trụ lạnh trước, dần dần chuyển nóng cũng là bệnh hàn nhiệt (sốt rét).

- Chỉ có da ở khuỷu nóng là nhiệt từ thắt lưng trở lên. Chỉ da ở tay nóng là nhiệt từ thắt lưng trở xuống. Chỉ da ở phía trước khuỷu nóng là nhiệt ở trước ngực, chỉ da ở khuỷu tay nóng là nhiệt ở lưng vai (mặt ngoài cánh tay). Chỉ giữa cánh tay nóng là thắt lưng bụng nhiệt. Chỉ da dưới bờ sau khuỷu 3 tấc - 4 tấc nóng là trong ruột có giun. Da gan tay nóng là trong bụng có nhiệt, da gan tay lạnh là trong bụng có hàn. Thịt trắng ở mô cái có mạch xanh nổi lên là Vị hàn.

- Da tay phía trụ nóng rát, mạch nhân nghinh to, là đang mất máu. Da tay phía trụ chắc to, mạch lại rất nhỏ là thiểu khí, nếu lại thêm bồn chồn khó chịu trong ngực thì chết ngay.

- Mắt đỏ là bệnh tại Tâm, mắt trắng là bệnh tại Phế, mắt xanh là bệnh tại Can, mắt vàng là bệnh tại Tỳ, mắt đen là bệnh tại Thận. Nếu mắt vàng và có màu lờ mờ khác, bệnh ở trong ngực (khí 5 tạng từ ngực bắt đầu ra, nhưng có gốc là Tỳ, vì vậy có màu vàng (Tỳ) và màu lờ mờ khác (ngực).

- Trong chẩn đoán đau mắt, khi mạch máu đi từ trên xuống dưới là bệnh Thái dương chân (vì Thái dương chân là lưới ở trên mắt), nếu mạch máu đi từ dưới lên là bệnh ở Dương minh (vì Dương minh là lưới ở dưới mắt), nếu mạch máu đi từ ngoài vào trong là bệnh Thiếu dương (vì Thiếu dương đi ở khóe ngoài mắt).

- Trong chẩn đoán bệnh hàn nhiệt, nếu trong mắt có một mạch máu đi từ trên xuống đồng tử thì 1 năm sẽ chết; nếu thấy 1,5 mạch máu thì 1,5 năm sẽ chết; nếu thấy 2 mạch máu thì 2 năm sẽ chết; nếu thấy 3 mạch máu thì 3 năm sẽ chết.

- Trong chẩn đoán đau, sâu răng, xem đường Dương minh chân tay, nếu chỉ nơi đi qua của kinh mạch có nhiệt, nếu đó là kinh trái thì bên trái có nhiệt, nếu đó là kinh phải thì bên phải có nhiệt, nếu đó là ở trên thì trên có nhiệt, nếu đó là ở dưới thì ở dưới có nhiệt.

- Trong chẩn đoán vị trí của huyết mạch, nếu màu đỏ nhiều là nhiệt nhiều, nếu xanh nhiều là đau nhiều, nếu đen nhiều là bệnh tý lâu ngày, nếu có cả đỏ nhiều, đen nhiều, xanh nhiều là bệnh hàn nhiệt.

* [Bì bộ luận Tố Vấn có đoạn như thế này và chú thích như sau: Da ở trên dọc đường kinh Dương minh đều thuộc kinh Dương minh, nếu có nổi mạch lạc, là của kinh Dương minh. Màu xanh (do huyết mạch lưu thông không tốt, huyết không hành được) thì đau, màu đen (do khí huyết tắc lại) là cửu tý, màu trắng (do Tâm hỏa suy không làm máu vận hành bình thường để duy trì thể nhiệt) là hàn, màu vàng đỏ (do thấp nhiệt chứng nhau ở trong) là nhiệt. Năm màu đều xuất hiện là bệnh có cả hàn và nhiệt].

- Người mình đau có màu da hơi vàng, men răng vàng, móng tay vàng là bệnh vàng da. Thích nằm nghỉ, nước tiểu vàng đỏ, mạch tiểu, sáp là không muốn ăn (là thuộc âm, âm đản là Tỳ hư, nên không muốn ăn).

- Người có bệnh nếu có mạch cổ tay to hoặc nhỏ như mạch nhân nghinh, phù hoặc trầm cũng thế (nghĩa là cả 4 mùa đều giống nhau) là bệnh khó chữa (vì mạch cổ tay mùa Thu phù, mùa Đông trầm, mạch nhân nghinh mùa Xuân nhỏ, mùa Hè to. Nay trong 4 mùa cả hai mạch đều như nhau là mạch đã bị loạn).

- Nữ có mạch Thiếu âm (Tâm) đập mạnh là có mang (Tâm chủ huyết mạch, có mang không có kinh, máu trong mạch sẽ nhiều, nên mạch Thiếu âm tâm đập mạnh và hoạt).

- Anh nhi có bệnh (tuổi vườn trẻ), nếu lông tóc đều dựng ngược là bệnh chết (do huyết khô không nuôi được lông tóc, nên chúng khô như cỏ khô). Khi ở vành tai (nhĩ gian) có mạch xanh nổi lên là đau do gân cơ co rút (tai thuộc Thiếu dương chân, xanh là màu của Can, xanh chủ đau, Can chủ cân, nên đau do gân co rút). Thiên kim phương: Trích nặn máu mạch xanh phía trên huyệt Hoàn cốt (sau tai).

- Còn trong phân có chất không tiêu đỏ (các sách Mạch kinh, Giáp ất kinh viết xanh) là ỉa chảy do rối loạn tiêu hóa, nếu thêm mạch nhỏ chân tay lạnh thì khó chưa (hư hàn).

* Trong sự biến hóa của khí hậu 4 mùa, thì hàn nhiệt thay đổi nhau, trùng Âm tất Dương, trùng Dương tất Âm (thịnh cực tất suy, vật cực tất biến), do Âm chủ hàn, Dương chủ nhiệt, nên hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn, và hàn sinh nhiệt, nhiệt sinh hàn. Đó là sự tiến hóa của Âm Dương vậy.

 - Vào mùa Đông bị hàn làm tổn thương thì mùa Xuân dễ bị bệnh ôn. Vào mùa Xuân bị phong làm tổn thương thì mùa Hè dễ sinh chứng ỉa chảy, lị. Vào mùa Hè bị thử làm tổn thương thì mùa Thu dễ sinh bệnh ngược (sốt rét). Vào mùa Thu bị táo làm tổn thương thì mùa Đông dễ sinh ho. Đó là tình hình bệnh bốn mùa.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 10:40:47 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #74 vào lúc: Tháng Mười Một 14, 2017, 04:26:46 PM »

75. Thích tiết chân tà


Nội dung: Nói về bệnh của 5 tiết và cách châm 5 tiết (Trấn ai, Phát mông, Khứ trảo, Triệt y, Giải hoặc). Tác dụng của 5 tà (Trì ung, Dung đai, Giáp tiểu, Hàn, Nhiệt) và cách châm 5 tà. Từ quá trình dẫn truyền của bệnh tà khi vào cơ thể, nói lên nguồn gốc và công năng của chân khí. Phân tích rõ tà khí, chính khí, và quan hệ giữa bệnh với chân khí, chính khí, tà khí. Dẫn chứng khi kinh mạch bị bệnh, chính khí không thắng được tà khí, tà khí lưu lại và gây các chứng đau, ung, sốt rét, ngứa, tý, tê, cốt tý, co quắp, liệt 1/2 người, dò xương, cân lưu, trường lưu, cốt thư, nhục thư vv...Để nói nên chúng có quan hệ với sự mạnh yếu của tác nhân bên ngoài, sự thịnh suy của chân khí trong người với các triệu chứng khác nhau và vị trí bệnh cũng khác. Nhưng không ngoài: Chân khí quá suy, khí tà quá thắng.

Hoàng đế: Cách châm có 5 tiết, nội dung của chúng là gì?

Kỳ Bá: Đó là Trấn ai, Phát mông, Khứ trảo, Triệt y, Giải hoặc. Cách châm Trấn ai là châm phần kinh mạch ở biểu nông để chữa bệnh dương (phần vào tạng phủ kinh mạch ở sâu - lý). Cách châm Phát mông là châm huyệt du của các phủ để chữa bệnh ở 6 phủ. Cách châm Khứ chảo là châm khớp và lạc, nhánh của lạc. Cách châm Triệt y là châm các huyệt có tác dụng kỳ diệu (kỳ huyệt) ở phần dương. Cách châm Giải hoặc là biết điều hòa Âm Dương, bổ hư tả thực, làm cho hư thực thay đổi chỗ cho nhau để lấy lại trạng thái cân bằng.

Hoàng đế: Châm Trấn ai là châm phần kinh mạch ở nông để chữa bệnh Dương là thế nào?

Kỳ Bá: Cách châm Trấn ai, khí dương đại nghịch, nên đầy ở ngực, làm cho ngực rất bồn chồn, sôi sục và thở co vai rụt cổ hoặc đại khí (tông khí) nghịch lên làm ngồi phục để thở (lên cơn hen), sợ khói bụi, hầu họng như bị tắc không thở được. Nói Trấn ai là nói tác dụng của cách châm này nhanh như phủi bụi vậy.

Hoàng đế: Cần lấy huyệt gì?

Kỳ Bá: Lấy Thiên dung (Thái dương tay), huyệt để chữa hầu tý, tắc họng, nấc, ho.

Hoàng đế: Khi ho rũ rưỡi, người co lại, ngực đau thì lấy huyệt gì?

Kỳ Bá:Lấy Liêm tuyền (mạch Nhâm), chữa lưỡi rụt, lưỡi mềm, chảy nước bọt, nuốt khó, ho.

Hoàng đế: Cách châm hai huyệt đó như thế nào?

Kỳ Bá: Châm Thiên dung, thời gian lưu kim không dài quá người đi bộ 1 lý đường, châm Liêm tuyền, nếu mặt biến sắc thì thôi châm.

Hoàng đế: Tốt.

- Ý nghĩa cách châm Phát mông là gì? khi dùng nó để chữa người điếc, người mù thì dùng huyệt gì trong các huyệt du của phủ ở các kinh dương để chữa bệnh của phủ? xin nói rõ.

Kỳ Bá: Tác dụng của cách châm Phát mông rất nhanh như thần minh, nhanh không lường được. Châm để chữa mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy thì phải châm vào giữa trưa các huyết Thính cung (Tiểu trường) làm cho cảm giác đắc khí theo đường kinh vào đến con ngươi rồi còn phải làm cho tai nghe thấy âm thanh.

Hoàng đế: Nghe được âm thanh là thế nào?

Kỳ Bá: Đó là châm vào huyệt rồi, bảo người bệnh tự bịt kín 2 lỗ mũi, đồng thời ngậm kín miệng lại, làm cho người bệnh không nói được, như vậy trong tai có thể nghe thấy âm thanh của châm. Làm được kỹ thuật này là đạt trình độ "thần minh" đó.

Hoàng đế: Cách châm Khứ chảo là châm khớp và lạc nhánh. Xin nói rõ thêm.

Kỳ Bá: Khớp sống là khớp lớn của chi dưới là trụ cột để đi đứng, dương vật có chức năng tạo hóa (sinh dục), để giao cấu phóng tinh, là đường đi của tinh dịch. Cho nên, ăn uống thất thường, vui giận quá độ, tân dịch trào vào trong và chảy lưu ở bìu dái, đường máu (Giáp ất kinh, Nội kinh, Thái tố ghi là đường nước) không thông (ở đây hiểu là đường nước) bìu dái to dần, làm các khớp vận động kém, cúi người khó khăn, đi lại không thuận lợi. Bệnh do nước ngưng tụ ở trong, khí đi lên không được, khí đi xuống và đái ra cũng không được. Dùng phi châm, hoặc biếm thạch để lấy nước ra, đó là cách chữa Khứ chảo nghĩa là cắt bỏ phần móng thừa ra ngoài, ở đây là lấy đi phần nước không có đường ra.

Hoàng đế: Xin nói rõ về cách châm Triệt y là châm các huyệt có tác dụng tốt các phần dương, không có vị trí nhất định.

Kỳ Bá: Đó là khí dương (của phủ, tà) có thừa, khí âm của (tạng, chân khí) bất túc. Khí Âm bất túc thì sinh nhiệt ở bên trong, khí Dương thừa thì nhiệt ở bên ngoài, nhiệt và tà ở trong đánh nhau, như trong lòng có than lửa vậy, ngoài nóng lắm sợ đắp thêm vào người, sợ mặc quần áo, sợ cả nằm chiếu, sợ cả người đến gần. Tấu lý lại đóng, mồ hôi không ra được, nhiệt chứng làm môi khô lưỡi rộp, thịt khô, họng táo, rất khát nên ăn uống bất kể thứ tốt xấu gì để giải cái khát. Lúc đó chữa bằng huyệt Thiên phủ (Thái âm tay) Đại trữ (Thái dương bàng quang) [Thiên phủ chữa bạo đơn nội nghịch, Can Phế tương bác, huyết dật tỵ khẩu, Đại trữ chữa sốt rét, thương hàn hãn bất xuất, ngực có uất, sốt) châm mỗi huyệt 3 lần, rồi châm Trung lữ du (kinh Bàng quang) chữa kinh giật, hàn nhiệt, uốn ván] để khử nhiệt, bổ Thái âm tay chân [Tỳ chủ cốc khí, Phế chủ khí (trời) hai khí âm này thiếu, thì dương sẽ thừa thắng, khí âm không tiết thì thành bệnh nhiệt, nên phải tả dương thịnh, bổ 2 âm, dương khứ, 2 âm thực, khí âm thông) cho ra mồ hôi, khi nhiệt đã thoái hư, mồ hôi giảm dần bệnh sẽ khỏi, hiệu quả rất nhanh như cởi áo (Triệt y) vậy.

Hoàng đế: Cách châm Giải hoặc, là phải biết tường tận tác dụng điều hòa Âm Dương, tả thực, bổ hư, làm thực hư thế vị nhau, như vậy làm thế nào để giải được mê hoặc?

[i]Kỳ Bá:[/i] Người bị đại phong tà, huyết mạch tất có hiện tượng thiên hư, hư tức là thiếu, thực là thừa, tứ chi thiên nhẹ, thiên nặng không co duỗi được, thân thể khó xoay trở, nằm phủ phục, có thể (mất tri giác) không phân biệt được Đông, Tây, Nam, Bắc, triệu chứng thì lúc ở trên, lúc ở dưới, biến hóa nhiều, nặng thì làm người ta điên đảo cả lên. Khi chữa chủ yếu tả cái thừa, bổ cái thiếu, làm cho Âm Dương được bình phục. Hiệu quả của cách châm này nhanh như là giải trừ sự mê muội của người ta vậy.

Hoàng đế: Thế nào là 5 khí tà?

Kỳ Bá:

1. Bệnh phù thũng do khí úng trệ.

2. Bệnh đại tà (ở giữa cơ phu).

3. Bệnh tiểu tà (chính khí hư).

4. Bệnh có nhiệt.

5. Bệnh có hàn.

Hoàng đế: Châm chữa 5 tà như thế nào?

Kỳ Bá: Châm chữa 5 bệnh khí tà, chủ yếu là 5 chương (5 điểm):

 * Đơn nhiệt thì tiêu diệt, thũng tích thì làm tiêu tán, tý hàn thì làm ấm (để hành khí huyết), tiểu tà (chính hư) thì bổ dương khí, bệnh đại tà thì phải trừ khử. Thao tác cụ thể như sau:

- Châm tà úng trệ (khi nó đang vượng) thì không nên tả mà phải làm (từ từ) hư, thay đổi tập quán. Khi chưa làm mủ thì xoa day chỗ cứng để làm cho nó mềm ra, hoặc đạo dẫn xoa bóp làm khí nó hành, để làm cho khí tà rời chỗ ở, không cho nó cố định ở chỗ dương, có hiện tượng có ứ trệ và có quan hệ với ung độc thì phải tả các huyệt có kinh đó (lấy huyệt theo kinh khi châm đại tà (thực), cần bắt khí tà từ to chuyển thành nhỏ (kinh) nghĩa là dùng phép tả để trừ hiện tượng hữu dư của khí tà là nó từ thực thành hư. (Trong quá trình thao tác), cần công mạnh đúng nơi tà khí lưu thông và nơi có bệnh. Qua cơ nhục quan sát mạch sắc của tà khí, chính khí, không thể (lấy tà nhỏ làm tà to) làm thay đổi bộ mặt thật của bệnh. Tà thực thường ở (3 kinh) kinh dương, nên châm ở giữa các cơ của kinh dương là chính.

- Khi châm tiểu tà (chính khí hư) cần làm cho chính khí tăng dần, bổ cái thiếu để nó chuyển thành đủ, lúc đó khí tà sẽ không gây tác hại được. (Sau khi bổ) phải xem nơi bệnh (hư thực) đón nó nơi ranh giới của khí hành (tả kinh thiên thịnh) như vậy khí chân ở xa gần hoàn toàn có thể phục hồi. Khí tà không có chỗ hở nào để vào người, nên không thể từ ngoài vào để lưu hành ở trong được. Và như vậy khí tà vô hình dung đã tự tiêu tan. Khi chữa châm vào giữa các cơ là chính.

- Khi châm tà nhiệt, phải làm cho khí tà phát ra (để từ nóng sốt chuyển sang mát). Khi tà ra rồi thì không quay lại (sốt) nữa, và không còn bệnh. Khi châm cần khai thông chỗ uất trệ của kinh lạc, mở cửa (lỗ châm) làm khí tà có đường ra, bệnh sẽ khỏi.

- Khi châm tà hàn, phải làm nó nóng dần lên (để hành khí huyết), vê kim từ từ làm cho thần khí ấm, dinh vệ điều hòa, rút kim ra phải bịt lỗ kim, làm khí bổ lưu ở dinh vệ không bị tiết ra, hư thực sẽ được điều hòa, chân khí có thể được củng cố.

Hoàng đế: Dùng các kim gì để chữa bệnh cho 5 tà?

Kỳ Bá: Châm tà úng trệ dùng phi châm, châm đại tà dùng phong châm (ba cạnh), châm tiểu tà dùng viên lợi châm, châm tà nhiệt dùng sàm châm, châm tà hàn dùng hào châm. Dùng phi châm như mũi kiếm để tháo mủ - dùng phong châm để chích nặn máu.

- Thần xin nói về vấn đề ý nghĩa của giải luận: Đây là 1 lập luận nhằm nói về tương ứng với Thiên Địa, về phối hợp với tứ thời, con người cùng tham với Thiên Địa, cho nên con người có thể dựa vào đó để hiểu thế nào là giải kết. Ví dụ: nơi ẩm thấp, có nguồn suối ngầm thì bên trên nó sẽ sinh ra cỏ lau (vi), cỏ bồ. Dựa vào cái lý đó, ta có thể suy để biết quan hệ giữa hình khí của con người nhiều hay ít. Sự biến hóa của Âm Dương được biểu hiện bằng hàn thử. Khi khí trời nóng nhiệt (chưng cất thủy khí) để lên trên hóa thành mưa, đó là khí ở bên trên, vì thế gốc và rễ thường kém thủy phân. Con người khi bị nhiệt chưng cất, cũng sẽ làm cho Dương khí thoát ra ngoài, khiến cho bì phu bị lơi lỏng, làm cho tấu lý khai, huyết khí suy giảm, mồ hôi ra nhiều, làm cho bì phu bị nhuận trơn. Khi khí trời lạnh lẽo sẽ làm cho đất và nước bị lạnh đóng băng. Dương khí của con người bị tiềm phục lại bên trong, bì phu bị bít kín, tấu lý đóng kín, mồ hôi không xuất ra được, huyết khí cứng rắn, cơ nhục cứng và rít sáp. Lúc bấy giờ, kẻ giỏi chèo thuyền trên nước, cũng không thể chèo thuyền trên băng, kẻ giỏi đào đất, cũng không thể đào phá được những lớp băng dưới đất, người khéo dụng châm, cũng không thể trị được chứng tứ chi bị quyết nghịch. Nay nếu huyết mạch ngưng kết đóng cứng lại, sự đi đứng thật khó khăn, không thể nhất thời làm cho mềm dịu trở lại được. Vì vậy, muốn đi thuyền thì phải đợi lúc ấm trời, lúc đó băng giá đã tan, nước chảy thì thuyền mới đi được. Ở đất cũng như vậy, lúc đó mới khoan đất được. Ở người cũng vậy (phải khí dương vận hành làm) huyết mạch lưu thông mới dùng châm để chữa được, và chữa quyết nghịch phải dùng ấm nóng để điều hòa kinh mạch, điều hòa những nơi hội của khớp (bàn tay, bàn chân, nách, khuỷu, gáy, cột sống), phải cứu trước, khí ấm đã thông rồi thì huyết mạch sẽ hành. Sau đó xem bệnh tình, nếu huyết trong mạch hoạt lợi, có thể dùng cách châm để bình (vì khí dương ở ngoài nông - làm cho hồi phục), nếu mạch cứng khẩn (là tà thịnh) thì dùng cách công phá để làm tan kết tụ, khi khí quyết nghịch đi xuống thì thôi châm. Cách dựa vào nơi tà tụ lại để châm đuổi nó đi như trên gọi là Giải kết.

* Phạm vi ứng dụng của châm là điều khí. Khí của thức ăn tích ở Vị là nguồn gốc khí dinh dưỡng, khí bảo vệ, hai khí này tuần hoàn theo đường đi của chúng. Tông khí lưu ở khí hải (trong ngực), phần đi xuống thì xuống tận khí giai (Khí xung Túc dương minh vị), phần đi lên thì lên đường thở. Vì vậy nếu quyết nghịch ở chân (do hàn khí) thì tông khí không xuống được, huyết ở trong mạch bị ngưng trệ ở trong (không hành) thì phải dùng lửa (cứu) để điều hòa khí huyết, lúc này không dùng châm.

 Dùng châm phải xem xét trạng thái hư thực của kinh lạc trước, sờ dọc theo kinh, day ấn da búng huyệt, xem sự ứng động của nó ra sao, sau đó mới dùng cách châm thích đáng để dẫn khí đi xuống. Khí mạch của 6 kinh (tay chân) điều hòa là không có bệnh, nếu có bệnh, cũng dễ tự khỏi. Khi một kinh có trên thực, dưới hư không thông là có khí thịnh ở lạc ngang chèn vào kinh chính, làm cho nó không thông. Muốn chữa phải tả (nhánh lạc ngang) và đây cũng là cách Giải kết.

 - Nếu trên hàn dưới nhiệt (từ thắt lưng trở lên = trên, từ thắt lưng trở xuống = dưới) thì châm kinh Thái dương ở gáy trước (Đại trữ, Thiên trụ - Cảnh Nhạc) lưu kim lâu, châm rồi cứu ở gáy và vai (hai huyệt trên), khi thấy hơi ấm xuống hợp với ở dưới thì thôi châm, đó là cách đẩy phần dưới bằng dùng phần trên của kinh (thôi nhi thượng chi).

 - Nếu trên nhiệt dưới hàn, xem kỹ ở phần dưới của kinh, nếu mạch hư lõm xuống thì bổ mạch đó, làm cho khí dương ở trên đi xuống mới thôi. Đó là cách châm dẫn nhiệt ở trên xuống (dẫn nhi hạ chi).

 - Bệnh mà khắp thân mình sốt cao, nhiệt làm cho cuồng, thấy bậy bạ, nghe bậy bạ, nói bậy bạ, trước hết nên quan sát để thấy và biết được những nơi bệnh thuộc lạc mạch hay kinh mạch của túc Dương minh vị, nếu hư, ta thủ huyệt để châm bổ, nếu như có huyết lạc thực thì ta thủ huyệt để châm tả loại trừ huyết ứ trệ. Nhân lúc bệnh nhân đang nằm ngửa, người thầy thuốc nên đứng trước đầu của bệnh nhân, dùng 4 ngón tay (2 ngón cái và 2 ngón trỏ) đè lên vùng huyệt Nhân nghinh và Đại nghinh nơi cổ trước của bệnh nhân, giữ yên như vậy cho lâu, chúng ta nên vừa day vừa ấn, kéo dài xuống đến giữa vùng huyệt Khuyết bồn, xong ta lại tiếp tục làm trở lại như cũ, làm cho đến khi nào nhiệt lui thì ngưng. Đây được gọi là phương pháp "Thôi nhi tán chi" (đẩy lui và làm thoát ra vậy).

Hoàng đế: Trong một kinh mạch có thể sinh 10 loại chứng bệnh, hoặc đau, hoặc ung, hoặc nóng sốt, hoặc  lạnh, hoặc ngứa, hoặc tý, hoặc tê, hoặc không còn cảm giác, vv...Biến hóa của nó là vô cùng, tại sao?

Kỳ Bá: Đó là do khí tà gây nên.

Hoàng đế: Ta nghe nói khí gồm có chính khí, có chân khí, có tà khí, thế nào là chân khí?

Kỳ Bá: Chân khí là khí tiếp thu của trời hợp với tinh khí của thức ăn để bổ xung toàn thân (chân khí giả, sở thụ ư thiên, dữ cốc khí tịnh nhi sung thân dã) (Cảnh Nhạc: các tên khác của chân khí là nguyên khí, dương khí ở phần dương, âm khí ở phần âm, khí bảo vệ ở biểu, khí dinh dưỡng ở lý, sung khí ở Tỳ, vị khí ở Vị, tông khí ở thượng tiêu, trung khí ở trung tiêu. Khí của nguyên âm nguyên dương ở hạ tiêu). Chính khí (khí hậu bình thường mùa Xuân gió đông, mùa Hạ gió nam) cũng là khí chính phong, nó đến từ 1 phương đúng của thời tiết 4 mùa, nó không phải là thực phong tàn phá ác liệt, cũng không phải là hư phong (mùa Xuân gió nam, Hạ gió đông trái với thời tiết bình thường). Khí tà là hư phong, tấn công kiểu kẻ cướp, tà vào sâu trong người, không thể tự động tiêu đi. Còn chính phong, chính khí vào người thì ở nông, không tiếp xúc với chân khí rồi tự  thì tự tiêu tan, vì sức tấn công yếu không thể thắng nổi chân khí nên bị tiêu tan.

 - Hư tà tấn công cơ thể, có hiện tượng sợ lạnh gai rét, dựng chân lông, mở tấu lý. Khi mà vào sâu, nếu vào xương sẽ thành cốt tý, vào gân sẽ thành co gân, nếu vào mạch sẽ thành ung nhọt do huyết tắc không thông, nếu vào bắp thịt thì đánh nhau với vệ khí, nếu Dương thắng thì nhiệt, Âm thắng thì hàn, hàn thì chân khí bị đuổi đi thành dương hư, lúc đó khí hàn sẽ tụ ở trong da (bì phu chi gian). Nếu khí tà phát ra ngoài, làm mở tấu lý, lay động lông, tà khí đi lại sẽ thành ngứa. Nếu lưu lại sẽ thành tý, nếu vệ khí không hành thì sẽ thành tê dại.

 - Hư tà chỉ ở 1/2 người, khi nó vào sâu dần và lưu ở trong dinh vệ thì làm dinh vệ hơi suy đi, tức là chân khí bị đuổi ra, lúc đó tà khí độc chiếm nên gây 1/2 thân liệt. Nếu tà ở nông, ở biểu, có thể do huyết mạch không hòa nên gây 1/2 người đau.

 - Hư tà vào sâu trong người, hàn tà và khí nhiệt đánh nhau, nếu đóng ở lâu đó, hàn thắng nhiệt thì thì xương đau, cơ khô. Nhiệt thắng hàn thì thịt sẽ mục nát thành mủ, nếu vào đến xương sẽ thành sâu xương (viêm xương). Có bệnh bắt đầu từ gân trước, gân co không duỗi được, nếu tà khí cứ lưu lại không lui, sẽ thành cân lựu (u gân - do khí huyết tích tụ gây nên). Nếu tà khí có chỗ kết, khí nó hướng qui vào trong, khí bảo vệ tại chỗ cũng bị lưu tích ở trong không thể vận hành, làm tân dịch cũng lưu lâu (ở giữa trường vị) tích lại thành trường lựu (u ruột). Còn một loại tích lâu vài năm mới thành hình, mới đầu sờ thấy mềm, biểu hiện đã có tà khí uất kết, lâu ngày khí qui dần vào trong là tân dịch ứ lại không hành, sau đó lại bị tà khí làm tổn thương, làm huyết khí ngưng kết ngày 1 tăng, tích dần lại và thành lựu tích (u mạn tính). Tay sờ thấy cứng, cứng đó là tà khí kết lại đã vào xương, là hiện tượng xương bị tà khí xâm nhập, xương và tà khí kết hợp, nên kết ngày một tăng to và thành cốt thư. Nếu tà khí kết ở bắp thịt, tông khí đi ở trong đến đây và cũng bị lưu kết lại với tà khí, nếu có nóng là thành mủ và nếu chỗ đau không nóng là nhục thư.

 - Trên đây là một số trạng thái bệnh của tà khí, biến hóa không lường được, bệnh phát ra tuy không có vị trí nhất định nhưng đều có một tên bệnh (tông khí là đại khí là khí của Dương minh - Trương Cảnh Nhạc).
« Sửa lần cuối: Tháng Tám 04, 2020, 10:29:03 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 ... 3 4 [5] 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn