Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 29, 2024, 08:43:30 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: GÓC TIẾNG NHẬT  (Đọc 15418 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:27:13 PM »

Bài 1: Khái quát về Tiếng Nhật (Từ các nguồn)

Tiếng Nhật Bản, hay tiếng Nhật, (tiếng Nhật: 日本語, Nihongo (trợ giúp·chi tiết), Nhật Bản ngữ) là một ngôn ngữ được hơn 130 triệu người sử dụng ở Nhật Bản và những cộng đồng dân di cư Nhật Bản khắp thế giới. Nó là một ngôn ngữ chắp dính (khác biệt với tiếng Việt vốn thuộc vào loại ngôn ngữ đơn lập phân tích cao) và nổi bật với một hệ thống các nghi thức nghiêm ngặt và rành mạch, đặc biệt là hệ thống kính ngữ phức tạp thể hiện bản chất thứ bậc của xã hội Nhật Bản, với những dạng biến đổi động từ và sự kết hợp một số từ vựng để chỉ mối quan hệ giữa người nói, người nghe và người được nói đến trong cuộc hội thoại. Kho ngữ âm của tiếng Nhật khá nhỏ, với một hệ thống ngữ điệu rõ rệt theo từ. Tiếng Nhật cổ nhất được biết đến chủ yếu dựa vào trạng thái của nó vào thế kỷ thứ 8, khi ba tác phẩm chủ yếu của tiếng Nhật cổ được dịch (hai bộ sử Kojiki, Nihonsogi và thi tập Manyoshu); nhưng một số lượng tài liệu ít hơn, chủ yếu là chữ khắc, còn cổ hơn. Những chứng thực về tiếng Nhật cổ nhất có thể tìm thấy trong một số tư liệu thành văn của Trung Quốc từ năm 252.

Tiếng Nhật được viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: Hán tự hay Kanji và hai kiểu chữ đơn âm mềm Hiragana và đơn âm cứng Katakana. Kanji dùng để viết các từ Hán (mượn của Trung Quốc) hoặc các từ người Nhật dùng chữ Hán để thể hiện rõ nghĩa. Hiragana dùng để ghi các từ gốc Nhật và các thành tố ngữ pháp như trợ từ, trợ động từ, đuôi động từ, tính từ v.v. Katakana dùng để phiên âm từ vựng nước ngoài, trừ tiếng Trung và từ vựng của một số nước dùng chữ Hán khác. Bảng ký tự Latinh Rōmaji cũng được dùng trong tiếng Nhật hiện đại, đặc biệt là ở tên và biểu trưng của các công ty, quảng cáo, nhãn hiệu hàng hóa, khi nhập tiếng Nhật vào máy tính và được dạy ở cấp tiểu học nhưng chỉ có tính thí điểm. Số Ả Rập theo kiểu phương Tây được dùng để ghi số, nhưng cách viết số theo ngữ hệ Hán-Nhật cũng rất phổ biến.

Từ vựng Nhật chịu ảnh hưởng lớn bởi những từ mượn từ các ngôn ngữ khác. Một số lượng khổng lồ các từ vựng mượn từ tiếng Hán, hoặc được tạo ra theo kiểu của tiếng Hán, qua giai đoạn ít nhất 1.500 năm. Từ cuối thế kỷ 19, tiếng Nhật đã mượn một lượng từ vựng đáng kể từ hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, chủ yếu là tiếng Anh. Do mối quan hệ thương mại đặc biệt giữa Nhật Bản và Hà Lan vào thế kỷ thứ 17, tiếng Hà Lan cũng có ảnh hưởng, với những từ như bīru (từ bier; "bia") và kōhī (từ koffie; "cà phê").

« Sửa lần cuối: Tháng Mười 29, 2008, 04:03:57 PM gửi bởi Đom đóm » Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:27:51 PM »

Âm vị của tiếng Nhật, ngoại trừ âm "っ" (phụ âm đôi) và "ん" (âm gảy), mang đặc điểm của ngôn ngữ theo âm tiết kết thúc bằng nguyên âm, ngoài ra tiếng Nhật tiêu chuẩn cũng như đa số các phương ngữ tiếng Nhật được nói theo từng nhịp đều nhau. Ngữ điệu trong tiếng Nhật là ngữ điệu cao thấp. Trong bộ từ vựng Đại Hòa (大和 Yamato), các nguyên tắc sau đây được áp dụng

Các âm thuộc hàng "ら" (ra) gồm có /ra/ /ri/ /ru/ /re/ /ro/, không đứng ở đầu một từ (do đó các từ bắt đầu bằng hàng "ら" rất hiếm gặp trong tiếng Nhật. Những từ như raku (楽, "nhạc"), rappu (らっぱ, "kèn"), ringo (りんご, "táo"), v.v. không phải là từ trong bộ từ vựng Yamato)
Âm kêu không đứng ở đầu một từ (những từ như daku (抱く, "ôm"), dore (どれ, "cái nào"), ba (場, "nơi chốn"), bara (薔薇, hoa hồng) v.v... là do thế hệ sau sửa đổi)
Các nguyên âm cùng một nguồn gốc không được liền kề nhau (a'o (青, "màu xanh"), ka'i (貝, con sò) trước đây được đọc lần lượt là [awo], [kapi], [kaɸi])
Những nguyên tắc khác được đề cập ở phần Phân loại cũng như Âm vị.

Về câu, thứ tự các thành phần trong một câu là "chủ ngữ - bổ ngữ - vị ngữ". Bổ ngữ đứng trước từ cần bổ ngữ. Ngoài ra, để hiển thị danh từ cách, không chỉ đổi thứ tự và chia từ vĩ (phần đuôi từ), mà còn thêm từ khóa thể hiện chức năng ngữ pháp (trợ từ) vào cuối (chắp dính). Do đó, xét về mặt phân loại ngôn ngữ, theo quan điểm về thứ tự trong câu theo ngôn ngữ kiểu SOV (ngôn ngữ theo dạng "chủ-thụ-động" hay subject-object-verb), tiếng Nhật được xếp vào loại ngôn ngữ chắp dính về hình thái (xem thêm phần Ngữ pháp).

Về từ vựng, ngoài bộ từ vựng Yamato, tiếng Nhật sử dụng rất nhiều chữ Hán được du nhập từ Trung Quốc, ngoài ra gần đây từ vựng phương Tây ngày càng nhiều hơn trong kho từ mượn của tiếng Nhật (xem thêm Hệ thống từ vựng).

Về biểu thị thái độ, tiếng Nhật có một hệ thống kính ngữ đa dạng về ngữ pháp và từ vựng để biểu hiện mối quan hệ một cách khôn khéo của người nói đối với người nghe và người được đề cập đến (xem thêm Biểu thị thái độ).

Về phương ngữ, có sự khác nhau lớn giữa miền Đông và miền Tây của Nhật Bản cũng như ở nhóm đảo Ryūkyū. Hơn nữa, nếu nhìn vào chi tiết, ở mỗi địa phương lại có một phương ngữ khác nhau (xem thêm Phương ngữ).

Các đặc trưng của ngôn ngữ còn được thể hiện, đầu tiên là ở sự phức tạp của hệ thống chữ viết rất dễ nhận thấy. Kanji (漢字, Hán tự) (được sử dụng với cả cách đọc âm Hán (音読み, onyomi) lẫn âm Nhật (訓読み, "kunyomi")), hiragana (平仮名, "Bình giả danh"), katakana (片仮名, "Phiến giả danh") và bảng rōmaji v.v., nhiều người cho rằng một ngôn ngữ thường xuyên phối hợp hơn 3 kiểu chữ khác nhau như vậy là có một không hai (xem thêm Hệ thống chữ viết). Ngoài ra, đại từ nhân xưng rất đa dạng như dùng watakushi, watashi, boku, ore đều để chỉ ngôi thứ nhất và anata, anta, kimi, omae để chỉ ngôi thứ hai, v.v. cũng là một đặc điểm của tiếng Nhật (Xem thêm Đại từ nhân xưng).
Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:28:24 PM »

Hiện nay việc khẳng định tiếng Nhật thuộc hệ thống nào vẫn nằm trong vòng tranh cãi, cần phải được chứng minh thêm. Có nhiều giả thuyết đã được đưa ra, nhưng chưa có giả thuyết nào đủ mạnh để có thể khẳng định điều này[1] [2].

Có giả thuyết cho rằng nó thuộc hệ ngôn ngữ Altai, đặc biệt khi quan sát tiếng Nhật từ cuối thời Minh Tr6].

Hệ ngôn ngữ Nam Đảo cũng là một hệ âm vị và từ vựng được cho là có sự tương đồng với tiếng Nhật[7], tuy nhiên, những minh chứng được đưa ra để khẳng định về mặt ngôn ngữ thì không đủ, có rất nhiều những ví dụ cho giả thiết trên không thể kiểm chứng được. Cho nên nói về mối quan hệ thì có thể nói rằng nó không rõ ràng.

Có giả thuyết nói rằng tiếng Nhật có quan hệ với hệ ngôn ngữ Dravidian, nhưng những nhà nghiên cứu nhận thấy mối quan hệ đó không nhiều. Shin Ono có giả thuyết cho rằng các điểm từ vựng - ngữ pháp của tiếng Nhật có những điểm chung với tiếng Tamil[8], tuy nhiên đã có nhiều chỉ trích quan điểm này khi xem xét vấn đề theo phương pháp của ngành so sánh ngôn ngữ học[9] (xem tiếng Tamil).

Nếu chúng ta quan tâm đến mối quan hệ đối với cá nhân từng ngôn ngữ, thì ký hiệu, từ vựng v.v. của tiếng Nhật ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tiếng Hán từ xa xưa thông qua Hán tự và Hán ngữ. Nhật Bản thuộc về nhóm các nước có truyền thống sử dụng chữ Hán (các nước đồng văn) mà trung tâm là Trung Quốc. Tuy nhiên, cơ sở từ vựng không có sự tương ứng, ngoài ra đặc trưng về văn phạm - phát âm thì hoàn toàn khác Trung Quốc, do đó sự liên quan về hệ thống là không chính xác.

Đối với ngôn ngữ Ainu, mặc dù cấu trúc câu của ngôn ngữ Ainu tương tự như của tiếng Nhật (kiểu SOV), nhưng văn phạm - hình thái xét theo loại hình thì thuộc về các tổ hợp ngôn ngữ khác nhau, đồng thời cấu tạo âm vị cũng chứng tỏ tồn tại nhiều khác biệt về hữu thanh - vô thanh cũng như việc sử dụng âm tiết đóng. Sự liên quan tương tự về mặt từ vựng cơ bản cũng đã được chỉ ra[10] nhưng những dẫn chứng thì không đầy đủ. Nói chung sự giống nhau về ngôn ngữ thể hiện ở chỗ, có nhiều từ vựng Ainu rất dễ nhận ra là đều được mượn từ tiếng Nhật[11]. Hiện nay, những tài liệu chứng minh ra sự liên quan với nhau của hai ngôn ngữ một cách hệ thống rất thiếu.

Đối với ngôn ngữ Triều Tiên, mặc dù có nhiều điểm giống nhau về cấu trúc văn phạm, cơ sở từ vựng của hai ngôn ngữ khác nhau rất nhiều. Về khía cạnh âm vị, mặc dù có những điểm giống nhau về nguồn gốc cũng như âm nước không đứng ở đầu từ, hay đều dùng một kiểu hòa hợp nguyên âm, v.v., nhưng cũng như hệ ngôn ngữ Altai được đề cập ở trên, sự tương tự không đóng vai trò toàn bộ, âm đóng và phụ âm kép (trong tiếng Triều Tiên thời kỳ giữa) tồn tại sự khác nhau lớn so với tiếng Nhật. Trong Ngôn ngữ Cao Ly đã biến mất của bán đảo Triều Tiên, cách đếm số cũng như từ vựng được cho là tương tự với tiếng Nhật[12], nhưng sự thật là hiện nay tiếng Cao Ly là biến mất gần như hoàn toàn, do đó khó có thể trở thành tài liệu kết luận giả thuyết trên một cách có hệ thống.

Ngoài ra, tiếng Lepcha - tiếng Hebrew cũng đã được đề cập đến, nhưng về mặt so sánh ngôn ngữ học nó được xếp vào loại các giả thuyết sai.

Ngôn ngữ giống với tiếng Nhật và hệ thống của nó được thấy rõ ràng nhất là ngôn ngữ của nhóm đảo Ryūkyū (thuộc tiểu vương quốc Ryūkyū trước đây). Ngôn ngữ Ryūkyū và tiếng Nhật gần gũi một cách dị thường, do đó có khả năng xếp nó thành một phần của tiếng Nhật (phương ngữ Ryūkyū). Trong trường hợp là ngôn ngữ đặc biệt, tiếng Nhật và tiếng Ryūkyū được xếp chung vào hệ ngôn ngữ Nhật Bản.
Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:28:51 PM »

Mặc dù tiếng Nhật hầu như chỉ được nói ở nước Nhật, tuy nhiên nó đã và vẫn được dùng ở nhiều nơi khác. Khi Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên, Đài Loan, một phần của Trung Hoa lục địa, và một số đảo ở Thái Bình Dương trong và trước Thế chiến thứ hai, những người dân địa phương ở các nước này bị bắt buộc phải học tiếng Nhật trong các chương trình xây dựng đế chế. Kết quả là có nhiều người cho đến thập niên 1970 vẫn có thể nói được tiếng Nhật ngoài ngôn ngữ bản địa. Cộng đồng dân di cư Nhật Bản (lớn nhất là ở Brasil) thường dùng tiếng Nhật để nói chuyện hàng ngày. Dân di cư Nhật có mặt ở Peru, Argentina, Úc (đặc biệt ở Sydney, Brisbane, và Melbourne) và Hoa Kỳ (chủ yếu ở California và Hawaii). Còn có một cộng đồng di cư nhỏ ở Davao, Philippines với nhiều hậu duệ người Philippines gốc Nhật sinh sống, cùng với một số ở Laguna, Philippines và nhiều người khác ở khắp Philippines và ở Nhật Bản và trên 245.518 người Philippines ở Nhật, cộng với số người kết hôn với người Nhật, và ở Châu Mỹ cũng có thể nói tiếng Nhật. Con cháu của họ (gọi là nikkei 日系, Nhật hệ), tuy nhiên, hiếm khi nói được tiếng Nhật một cách thông thạo. Hiện nay ước tính có khoảng vài triệu người ở các nước đang học tiếng Nhật; nhiều trường tiểu học và trung học cũng đưa tiếng Nhật vào chương trình giảng dạy.

Ở Việt Nam tiếng Nhật cũng được dạy từ những năm 1940-1945, nhưng chỉ đến khoảng những năm 1960-1965 mới được dạy có hệ thống ở cả hai miền. Trong khoảng 10 năm sau đó có một thế hệ người miền Nam rất giỏi tiếng Nhật làm việc tại Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Tiểu ban Nhật Văn thuộc Ủy ban dịch thuật. Tuy nhiên, tiếng Nhật chỉ thực sự được giảng dạy mạnh mẽ trở lại trong khoảng 20 năm từ khi bắt đầu đổi mới đến nay khi các trường đại học mở phân khoa tiếng Nhật.

Theo báo cáo trong The World Factbook của CIA, bang Angaur của Palau xem tiếng Nhật là một trong ba ngôn ngữ chính thức cùng với tiếng Angaur và tiếng Anh[13]. Tiểu bang này là nơi duy nhất trên thế giới xem tiếng Nhật là ngôn ngữ chính thức về mặt pháp lý, nếu như bản báo cáo đó xác thực. Tuy nhiên, cũng có báo cáo khác nói rằng ngôn ngữ chính thức ở Angaur là tiếng Palau và tiếng Anh, giống như các tiểu bang khác trong nước[14]. Dù thế nào đi nữa, số người dùng tiếng Nhật ở bang đó cũng là con số không, theo điều tra vào năm 2005[15].
Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #4 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:29:15 PM »

Tiếng Nhật là ngôn ngữ chính thức "không thành văn" ở Nhật Bản, và Nhật là quốc gia duy nhất dùng tiếng Nhật làm ngôn ngữ hành chính chính thức. Có một dạng ngôn ngữ được coi là chuẩn: hyōjungo (標準語, hyōjungo?) ngôn ngữ tiêu chuẩn, hoặc kyōtsūgo (共通語, kyōtsūgo?) ngôn ngữ phổ thông). Ý nghĩa của hai từ này tương đương nhau. Hyōjungo (kyōtsūgo) là một khái niệm tạo thành từ một bộ phận của phương ngữ. Ngôn ngữ tiêu chuẩn này được tạo ra sau Minh Trị Duy Tân meiji ishin (明治維新, meiji ishin?) (1868) từ thứ ngôn ngữ được nói ở khu vực đô thị Tokyo do nhu cầu trao đổi thông tin. Hyōjungo được dạy ở trường học và được dùng trên truyền hình và giao tiếp chính thức, và cũng là bản tiếng Nhật được bàn đến trong bài này.

Trước đây, tiếng Nhật chuẩn trong văn viết (bungo (文語, bungo?), "văn ngữ") khác với văn nói (kōgo (口語, kōgo?), "khẩu ngữ"). Hai hệ thống này có ngữ pháp khác nhau và có những biến thể về từ vựng. Bungo là cách viết tiếng Nhật chủ yếu cho đến khoảng năm 1900, sau đó kogo dần dần mở rộng tầm ảnh hưởng và hai phương pháp này đều được dùng trong văn viết cho đến thập niên 1940. Bungo vẫn hữu ích đối với các sử gia, học giả văn chương, và luật sư (nhiều điều luật của Nhật có từ thời Thế chiến thứ hai vẫn còn được viết bằng bungo, mặc dù hiện đang có những nỗ lực để hiện đại hóa ngôn ngữ này). Kōgo phương pháp được dùng cho cả nói và viết tiếng Nhật chiếm ưu thế hiện nay, mặc dù ngữ pháp và từ vựng bungo thỉnh thoảng vẫn được dùng trong tiếng Nhật hiện đại để tăng biểu cảm.
Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #5 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:29:37 PM »

Ở Nhật Bản có rất nhiều phương ngữ (方言 hōgen). Sự phong phú này đến từ nhiều yếu tố, do một thời gian dài sinh sống ở quần đảo, địa hình đảo, những dãy núi chia cắt từng phần lãnh thổ, và lịch sử lâu dài sống tách biệt với bên ngoài lẫn bên trong của nước Nhật. Các phương ngữ thường khác nhau về ngữ điệu, hình thái biến đổi, từ vựng, và cách dùng các trợ từ. Một vài phương ngữ còn khác nhau ở các phụ âm và nguyên âm, mặc dù điều này không phổ biến.

Năm nhóm phương ngữ chính gồm có 5 nhóm chính:

Higashi-nihon hōgen (東日本方言, phương ngữ Đông Nhật Bản), phương ngữ phía Đông Nhật Bản, bao gồm cả phương ngữ Tokyo.
Hachijō hōgen (八丈方言, phương ngữ Bát Trượng), phương ngữ có ảnh hưởng từ phương ngữ Đông Nhật Bản cổ.
Nishi-nihon hōgen (西日本方言, phương ngữ Tây Nhật Bản), phương ngữ phía Tây Nhật Bản, gồm có Kyoto, Osaka...
Kyūshū hōgen (九州方言, phương ngữ Cửu Châu), gồm Nagasaki, Kumamoto,...
Ryūkyū hōgen (琉球方言, phương ngữ Lưu Cầu), các đảo thuộc nhóm đảo Ryūkyū
Ngày nay, tiếng Nhật chuẩn được dùng phổ biến trên cả nước (bao gồm nhiều phần của nhóm đảo Ryūkyū như Okinawa) do không chỉ truyền hình và radio, mà còn nhờ vào hệ thống đường sá, tàu lửa, và hàng không. Những người trẻ tuổi thường nói được cả tiếng địa phương và ngôn ngữ chuẩn, mặc dù trong đa số trường hợp, tiếng địa phương chịu ảnh hưởng bởi tiếng chuẩn, và tiếng Nhật "tiêu chuẩn" ngược lại cũng bị ảnh hưởng bởi tiếng địa phương.
Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #6 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:36:49 PM »

Bài số 2: Chữ mềm Hiragana

Hiragana (平仮名, "Bình giả danh"), còn được gọi là kiểu chữ mềm của tiếng Nhật là kiểu chữ âm tiết truyền thống của tiếng Nhật, một thành phần của hệ thống chữ viết Nhật Bản, cùng với katakana (片仮名, "Phiến giả danh") và kanji (漢字, "Hán tự"); bảng ký tự Latinh, rōmaji, cũng được dùng trong một số trường hợp. Hiragana và katakana đều là các hệ thống kana, có đặc điểm là mỗi ký tự biểu diễn một mora. Mỗi chữ kana hoặc là một nguyên âm (như a 「あ」); một phụ âm đi cùng với một nguyên âm (như ka 「か」); hoặc n 「ん」, một âm gảy, sẽ tùy vào âm ở sau mà phát âm thành [ɴ], [m], [n], [ŋ] hoặc nếu đứng ở trước nguyên âm sẽ trở thành nguyên âm mũi.

Có hai hệ thống sắp xếp thứ tự Hiragana chính, xếp thứ tự theo kiểu cũ iroha (いろは), và kiểu xếp thứ tự phổ biến hiện nay theo gojūon (五十音, "ngũ thập âm"), bảng chữ âm tiết Tiếng Nhật.

Hiragana trong tiếng Nhật chủ yếu được sử dụng trong những tình huống sau:

Tiếp vị ngữ của động từ, hình dung từ, hình dung động từ, như tabemashita (食べました, "đã ăn") hay thường là các bộ phận của trợ từ, trợ động từ như kara (から, "từ" (từ đâu đến đâu)) hay tiếp vị ngữ ~san (さん, "Ông, bà, cô...").
Đối với các từ mô tả sự vật đã được người Nhật gọi tên từ lâu, không tồn tại Kanji hay waseikanji (和製漢字, "Hòa chế hán tự", chữ hán do người Nhật nghĩ ra) tương ứng. Ví dụ: meshi (めし, thức ăn), yadoya (やどや, "nhà trọ").
Trong những trường hợp nói chung là sử dụng kana chứ dùng kanji, cũng không dùng katakana.
Trong việc học tiếng Nhật, do tính chất cơ bản về chữ viết và các đọc của hiragana và katakana, nên chữ hiragana còn được dùng để phiên âm chữ kanji cho dễ đọc, gọi là furigana (振り仮名, "chân giả danh").

Hiragana gồm một tập cơ bản các chữ cái, gọi là Ngũ thập âm, và sau đó được mở rộng bằng một số cách. Bằng cách thêm dấu dakuten (゛) (濁点, "trọc điểm") sẽ biến các phụ âm điếc như [k] hay [t] thành các phụ âm kêu như [g] hay [d]: [k. Hiragana thuộc hàng ha 「は」 có thể thêm handakuten (゜) (半濁点, "bán trọc điểm") sẽ biến [h] thành âm nửa kêu [p]. Một phiên bản nhỏ của các chữ ya, yu và yo (ゃ, ゅ và ょ) có thể được thêm vào cuối các chữ thuộc cột i 「い」. Nó sẽ biến các nguyên âm âm vòm hóa, gọi là các âm đôi. Chữ tsu nhỏ 「っ」 gọi là sokuon để chỉ phụ âm đôi. Nó xuất hiện trước phụ âm xát và phụ âm tắc, và đôi khi còn nằm ở cuối câu. Trong rōmaji nó được thể hiện bằng cách viết hai lần phụ âm theo sau nó.

Kiểu viết nhỏ 5 nguyên âm kana đôi khi được dùng để biểu thị các âm tắt dần (はぁ, ねぇ).

Có vài chữ hiragana ngày nay rất hiếm dùng. Wi ゐ và we ゑ đã không còn được dùng. Vu ゔ là mới được thêm vào để biểu diễn âm [v] của tiếng nước ngoài, nhưng vì tiếng Nhật không có kiểu phát âm như vậy, nên nó thường được phát âm thành và chủ yếu chỉ để biểu thị các phát âm trong ngôn ngữ gốc (ví dụ dễ thấy nhất là "Việt Nam" được người Nhật đọc là betonamu (ベトナム)). Tuy nhiên, chữ này hiếm khi gặp vì những từ mượn (Ngoại lai ngữ) thường được viết bằng chữ katakana tương ứng ヴ.

Bảng chữ hiragana-rōmaji



Ở vị trí hàng ya や cột e え, do không có mã Unicode nên phải dùng hình. Chữ này đọc như nguyên âm là /ye/ hoặc như phụ âm âm gần vòm cứng j đọc là je. Chữ này đã không còn được dùng từ khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 10 nên không còn nằm trong bảng Ngũ thập âm hiện đại.
Những phụ âm kép như にゃ, にゅ, và にょ không nên nhầm lẫn với chuỗi んや, んゆ, và んよ. Việc kết hợp に với các chữ nhỏ hình thành nên một mora, trong khi chuỗi chữ ん đi kèm với các chữ hàng や lớn tạo thành hai mora. Ví dụ như かにゅう ka-nyu-u, (加入, "gia nhập"), và かんゆう ka-n-yu-u (勧誘, "khuyến dụ"), nghe khác nhau rõ ràng, mặc dù kiểu chữ viết la tinh có thể viết giống nhau là kanyu. Trong chữ Hepburn, ta có thể phân biệt với dấu phẩy: kanyū và kan'yū.

Hiragana được phát triển từ man'yōgana (万葉仮名, "vạn diệp giả danh"), tức là những chữ Trung Quốc được dùng để biểu diễn cách phát âm của người Nhật, bắt đầu hình thành từ thế kỷ thế 5. Dạng chữ hiragana bắt nguồn từ sōsho (草書, "thảo thư"), kiểu chữ thảo của thư pháp Trung Quốc. Hình ở dưới là sự biến đổi từ chữ Trung Quốc thành hiragana. Ở phía trên là chữ ở dạng kaisho (楷書, "viết tay"), ở giữa màu đỏ là dạng chữ thảo của chữ, và ở dưới là hiragana tương đương.



Khi mới được tạo ra, Hiragana không được mọi người chấp nhận. Nhiều người cảm thấy tiếng Trung Quốc vẫn là ngôn ngữ của những người có học. Trước đây, ở Nhật Bản, dạng viết tay được dùng bởi những người đàn ông, còn gọi là onode (男手, "nam thủ"), và dạng chữ thảo được dùng bởi phụ nữ. Do đó hiragana ban đầu phổ biến ở giới nữ, những người không có được địa vị xã hội và học vấn như đàn ông. Từ đó, xuất hiện một tên gọi khác nonnade (女手, "nữ thủ") là dạng chữ viết cho phụ nữ. Ví dụ như trong tác phẩm Truyện kể Genji (源氏物語, "Nguyên Thị vật ngữ") và những tác phẩm tiểu thuyết khác mà tác giả là nữ giới dùng hầu như rất nhiều.

Tác giả nam giới bắt đầu viết văn sử dụng hiragana. Hiragaga, với kiểu mềm của nó, được dùng như các tác phẩm viết không chính thức như thư cá nhân, trong khi katakana và Hán tự thường dùng cho những văn bản chính thức. Gần đây, hiragana đã được dùng chung với chữ katakana. Katakana được chuyển sang dùng cho các từ mượn gần đây (từ thế kỷ thứ 19), các tên chuyển ngữ, tên con vật, trong điện tín, và để nhấn mạnh.

Ngày xưa, tất cả các âm thanh đều có nhiều hơn một hiragana. Vào năm 1900, hệ thống đã được đơn giản hóa sao cho mỗi âm chỉ có một hiragana. Hiragana khác được biết đến như hentaigana (変体仮名, "biến thể giả danh").
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 25, 2008, 12:38:32 PM gửi bởi sakura » Logged
sakura
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 9


Email
« Trả lời #7 vào lúc: Tháng Tư 25, 2008, 12:45:28 PM »

Bài số 3:Chữ Katakana

Katakana(片仮名, "Phiến giả danh", カタカナ or かたかな) hay còn gọi là kiểu chữ cứng của tiếng Nhật, là một thành phần trong hệ thống chữ viết truyền thống của Nhật Bản, bên cạnh hiragana, kanji và đôi khi còn để viết phiên âm chữ cái Latin. Từ "katakana" có nghĩa là "kana chắp vá", do chữ katakana được hợp thành từ nhiều thành phần phức tạp của Kanji.

Katakana được tạo thành từ các nét thẳng, nét cong và nét gấp khúc, là kiểu chữ đơn giản nhất trong chữ viết tiếng Nhật.

Katakana có hai kiểu sắp thứ tự thường gặp: Kiểu sắp xếp cổ iroha (伊呂波), và kiểu thường dùng thịnh hành gojūon (五十音).

Trong tiếng Nhật hiện đại, katakana thường được dùng để phiên âm những từ có nguồn gốc ngoại lai (gọi là gairaigo). Ví dụ, "television" (Tivi) được viết thành "テレビ" (terebi). Tương tự, katakana cũng thường được dùng để viết tên các quốc gia, tên người hay địa điểm của nước ngoài. Ví dụ, tên "Việt Nam" được viết thành "ベトナム" (Betonamu) (ngoài ra, Việt Nam cũng có tên Kanji là "越南" - Etsunan).

Katakana cũng được sử dụng để viết các từ tượng thanh, những từ để biểu diễn một âm thanh. Ví dụ như tiếng chuông cửa "đinh - đong", sẽ được viết bằng chữ katakana là "ピンポン" (binbon).

Những từ ngữ trong khoa học - kỹ thuật, như tên loài động vật, thực vật, tên sản vật, thông thường cũng được viết bằng katakana.

Katakana cũng nhiều khi (những không phải là tất cả) được sử dụng để viết tên các công ty ở Nhật. Ví dụ như Sony được viết là "ソニ", hay Toyota là "トヨタ". Katakana ngoài ra còn được dùng để nhấn mạnh, đặc biệt đối với các ký hiệu, quảng cáo, panô ápphích. Ví dụ, chúng ta có thể sẽ nhìn thấy chữ "ココ" - koko - ("ở đây"), ゴミ gomi ("rác") hay メガネ megane ("kính đeo mắt"). Những từ muốn nhấn mạnh trong câu đôi khi cũng được viết bằng katakana, giống như kiểu chữ nghiêng italic.

Các câu trong ngôn ngữ nhiều nước thường được ngăn cách bởi dấu câu (chấm, phẩy, ...) trong tiếng Nhật gọi là 中黒 (nakaguro) còn các từ được ngăn cách bởi dấu cách. Tuy nhiên, trong những trường hợp người đọc biết từ nước ngoài đó phân cách ở đâu, thì dấu cách (hay dấu câu) không được sử dụng. Ví dụ, từ コンピュータゲーム ("konpyūta gēmu," hay "computer game") - "trò chơi điện tử", chứa hai từ tiếng Anh khá thông dụng tại Nhật, nên nó không có một dấu phân cách nào cả.

Cú pháp chính tả của Katakana hơi khác với hiragana. Hiragana biểu diễn nguyên âm dài bằng cách cho thêm nguyên âm kana thứ hai vào sau, còn trong katakana, thường sử dụng một dấu gạch mở rộng gọi là chōon. Dấu gạch này trong cách viết Yokogaki (Trái sang phải, trên xuống dưới) là một dấu gạch ngắn nằm ngang theo dòng viết, và trong cách viết Tategaki (Trên xuống dưới, phải sang trái) là nằm dọc. Tuy nhiên, nó thường được sử dụng nhiều khi viết các từ mượn; nguyên âm dài trong tiếng Nhật được viết bằng katakana cũng thông dụng như được viết bằng hiragana. Ngoại trừ một số từ như ローソク(蝋燭)(rōsoku)(cây nến) hay ケータイ(携帯)(kētai)(điện thoại di động).

Chữ tsu nhỏ ッ được gọi là sokuon chỉ ra một phụ âm kép, được phát âm bằng cách nhân đôi phụ âm đi sau nó. Ví dụ, từ bed (giường ngủ) được viết bằng katakana sẽ là ベッド (beddo).

Sokuon đôi khi được dùng trong những vị trí không có sự tương đương của âm tiết vốn có. Ví dụ, chữ h kép trong chữ "ch" (thường thấy trong tên tiếng Đức). Lấy ví dụ chữ "bach" được viết là バッハ (Bahha); chữ "Mach" là マッハ (Mahha). Chữ "h" kép trong từ Bach và Mach (được biểu diễn bằng chữ ッ) có lẽ là cách biểu diễn tốt nhất của tiếng Nhật cho những từ này.

Một số âm tiết trong nhiều ngôn ngữ thường khá khó khăn để biểu diễn bằng tiếng Nhật, ví dụ từ "hướng" (tiếng Việt) lại trở thành フオン (Fuon). Ali Khamenei là アリー・ハーメネイー (Arī Hāmeneī).


1: ヲ ("wo") phát âm giống オ ("o"), nhưng trong thực tế nó hiếm khi được sử dụng ngoại trừ khi cần biểu diễn chữ hiragana tương ứng bằng chữ katakana.
2: Những chữ katakana này được đưa vào hệ thống giáo dục từ khá sớm - thời kỳ Minh Trị, nhưng chưa bao giờ trở nên phổ biến. [1] [2]

Katakana được phát triển vào thời kỳ Heian từ các thành phần của các ký tự man'yōgana (万葉仮名, "vạn diệp giả danh") - một dạng tốc ký - là những chữ Trung Quốc được dùng để biểu diễn cách phát âm của người Nhật, bắt đầu hình thành từ thế kỷ thứ 5. Ví dụ, chữ ka カ được hình thành từ phần bên trái của chữ ka 加 (gia - gia tăng). Bảng dưới đây cho thấy nguồn gốc của từng chữ katakana: chữ đỏ là chữ gốc (chữ Hán).

Logged
jangdonggun
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 24



Email
« Trả lời #8 vào lúc: Tháng Chín 18, 2008, 04:04:54 PM »

Tiếng Trung có phần chữ Hán rất hay, sao không có người nối tiếp nhỉ?Huh
Logged



Пионовая беседка
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 15



Email
« Trả lời #9 vào lúc: Tháng Chín 24, 2008, 12:09:58 PM »

Tiếng Nhật có phần Kanji và Shodo rất hay, sao không ai phát triển thêm nhỉ?!
Logged
khoanhkhacthoigian_ch
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 9


9223372036854775807 WER HUONGKHOANHKHAC
WWW Email
« Trả lời #10 vào lúc: Tháng Mười 10, 2008, 08:02:29 AM »

恋は笑顔からは、キスではないchomが起動し、ものを大切に、甘いから感じている。を愛する心を実際には競合からビルドすることはできませんが、過去のブレークを行うには、将来の光。あなたが、前面パネルには直線方向になっているはず回顧したことはない。あなたがこれまでの会議の場合は、痛みを感じるdoi.Banに何をしなければならないが進んで無視されていないとして幸せな生活を続けるために右されており、あなたの隣の人々は、最も良いことはできなくなりますされている自体プライマリ。もしせしないように常に丹生してはるかに苦しみ、ハッシュの心と手のスパイシーな苦味分割されますドラッグする市場幸いです。これは、上記の、あなたが何を考えて話すことはないと、あなたの心に引っかかっているのです。されるとは言えないという言葉は、常に自分の不幸をもたらす。その言葉が、非常に強力な力であり、あなたは多くの場合を話せないに影響を与えるだろうと言うことはありません。生活の中で時間を投稿するときには本当に時間が唯一の夢は、人を取得したいと望む現実を受け入れることができるようにしてください。あなたが何をしたいと夢をしたい場所に行く夢でした。これは1つだけの生活や1回限りの機会にはしたいことをしているあなたが何をしたいです。
Logged

Khoảng khắc ta buồn? Thời gian chết đuối
giữa mênh mông tĩnh lặng tình người
Khoảng khắc ta cười? Loài người trốn hết
ta nhe răng với đời mòn cả mầm vui.
Trang: [1]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn