Có người hỏi như thế này:Làm ơn cho tôi xin hỏi Cụ Lê sĩ Nghị đậu thứ hai sau Vũ Tuân ,khóa Canh Tý cùng thời Tú Xương đi thi ,Tú Xương hỏng thi năm đó nên viết bài thơ "khoa canh Tý" trong đó có nhắc đến tên Lê Sĩ Nghị.
Nhưng không thấy trong danh sách khoa bảng của Hưng Yên?Có phải vậy không ạ?
Xin cám ơn nhiều!
Bản thân có chút kiến giải như sau:01. Bài thơ Khoa Canh Tý (1900):Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa ;
Tuân khoe văn hoạt, Nghị văn già (2)
Năm nay đỗ rặt phường hay chữ,
Kìa bác Lê Tuyên cũng thứ ba ! (3)
(1) Khoa thi năm 1900.
(2) Vũ Tuân đỗ đầu, Lê Sĩ Nghị đỗ thứ hai.
(3) Lê Tuyên, một ông sức học rất kém.
Bài này lấy bối cảnh: Khoa này Tú Xương thi hỏng, trong khi Vũ Tuân đỗ đầu và Lê Sĩ Nghị đỗ thứ hai. Tú Xương buồn vì kỳ này lại trượt nữa nên chữa thẹn bằng cách diễu hai ông thủ khoa, á khoa: tài các ông tiếng vậy cũng chẳng bao nhiêu, bất quá hơn Lê Tuyên là nhiều.
02. Thông tin về Lê Sĩ Nghị: Ông sinh năm 1877, nguuyên quán Hưng Yên, từ nhỏ đã thông minh đĩnh ngộ. Năm Giáp Ngọ (1894), mới 17 tuổi đã về thi Hương tỉnh Nam Định. Sĩ tử nghe tiếng ông đều cho là ông thì không cần thi cũng đã đỗ đầu. Trong kỳ đệ nhất trường, ông làm tới 7 bài kinh nghĩa.
Chiểu theo lệ thi Hương chỉ bắt buộc có 2 bài, một bài kinh một bài truyện, ông làm tất cả 5 bài kinh 2 bài truyện, 7 bài đều được phê điểm ưu nhưng do câu Luận Ngữ là Đạo chi tương hành dã dư. (Đạo của ta nếu gặp lúc được thi hành.) viết thiếu chữ DÃ nên phạm quy phải ra bảng con, tức là bị thi hỏng. Năm Đinh Dậu (1897), ông lại hỏng thi lần nữa. Mãi đến năm Canh Tý (1900) mới đỗ Á NGUYÊN CỬ NHÂN. Kỳ này Vũ Tuân đỗ đầu, trên Lê Sĩ Nghị, năm sau vào kinh thi đỗ phó bảng, còn Lê Sĩ Nghị thì chỉ dừng chân ở Á NGUYÊN CỬ NHÂN mà không đỗ đại khoa và có lẽ vì thế không có trong danh sách khoa bảng Hưng Yên chăng?
03. Thông tin thêm:Ngoài bài thơ khoa Canh Tý nói trên, Tú Xương còn nổi tiếng bài PHÚ HỎNG THI KHOA CANH TÝ như sau:
Phú hỏng thi khoa Canh Tý
của Trần Tế Xương
Đau quá đòn hằn,
Rát hơn lửa bỏng
Hổ bút hổ nghiên,
Tủi lều tủi chõng.
Nghĩ đến chữ "lương nhân đắc ý"[1], thêm nỗi thẹn thùng,
Ngẫm đến câu "quyển thổ trùng lai"[2], nói ra ngập ngọng.
Thế mới biết học tài thi phận, miệng đàn bà con trẻ nói vậy mà thiêng.
Nào ai ngờ chữ tốt văn hay, tài bảng nhãn thám hoa lỡ ra cũng hỏng.
Có một thầy :
Dốt chẳng dốt nào ;
Chữ hay, chữ lỏng.
Nghiện chè nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
Hay hát hay chơi, hay nghề xuống lõng.[3]
Quanh năm phong vận, áo hàng gù, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh,[4]
Ra phố nghênh ngang, quần tố n8],
Con nhà dòng ở đất Vị Xuyên, ăn phần cảnh nọng[9]
Năm vua Thành Thái mười hai,
Lại mở khoa thi Mỹ Trọng[10]
Kỳ đệ tam văn đã viết rồi,
Bảng đệ tứ chưa ra còn ngóng.
Thầy chắc hẳn văn chương đúng mực, lễ thánh xem gi13]
Kẻ đến sáng văn còn được chấm, bảng cót nghênh ngang[14] ;
Người ngồi khuya tên hãy được vào, áo dài lụng thụng.
Thi là thế, học hành là thế, trò chuyện cùng ai?
Người một nơi, hồn phách một nơi, than thân với bóng!
Thôi thời thôi :
Sách vở mập mờ;
Văn chương lóng ngóng.
Khoa trước đã chầy;
Khoa sau ắt chóng.
Hẳn có kẻ lo toan việc nước, vua chửa dùng tài;
Hay không ai dạy dỗ đàn con, trời còn bắt hỏng!
Chú thích: 1. ▲ Lương nhân đắc ý: Người chồng (hoặc vợ) đắc ý, được thể. Tác giả dùng chữ sẵn trong sách cổ, hàm ý nói những tưởng có thể đỗ đạt vinh dự
2. ▲ Quyển thổ trùng lai: chữ rút từ thơ của Đỗ Mục tiếc thương cho Hạng Vũ, đại ý nói là "Con em xứ Giang Đông có lắm người tài giỏi. Nếu biết dốc hết lực lượng để đánh quật trở lại (quyển thổ trùng lai) thì chưa biết cục diện sẽ thế nào"
3. ▲ Xuống lõng: chỉ việc xuống thuyền chơi gái, hát ả đào trên mặt sông.
4. ▲ Ô lạc hoạn: Ô che bằng thứ lụa màu xanh óng ánh
5. ▲ Quần tố nữ: Quần may bằng vải trắng đẹp hiệu Tố Nữ
6. ▲ Giày Gia Định: giày ta, hở gót, mũi da đen bóng, sản xuất ở Gia Định (Nam Bộ)
7. ▲ Lóng ngóng: lao đao, lận đận
8. ▲ Tú rốt bảng: đỗ tú tài cuối cùng bảng. Tú Xương đỗ vào loại "thiên thủ" (lấy thêm)
9. ▲ Cảnh nọng: khoanh thiệt cắt ở phần cổ trâu, bò hoặc lợn. Theo tục lệ nông thông trước đây, trong mỗi kỳ việc làng, đó là phần được hưởng của người đứng vị trí thứ hai trong làng xã (tiên chỉ, người đứng đầu, được hưởng phần sở).
10. ▲ Mỹ Trọng: tên xã ngoại ô Nam Định, nơi đặt trường thi.
11. ▲ Xem giò: xem chân gà luộc đem cúng để đoán điềm tốt xấu
12. ▲ Nói mộng: kể lại giấc chiêm bao để thầy bói đoán điềm may rủi
13. ▲ Ngoại hàm: Ngoài hòm, theo thể lệ thi củ, thí sinh nộp quyển bỏ vào một cái hòm để sẵn. Hết giờ thu quyển, người ta đánh một hồi trống, dứt hồi trống ấy thì những quyển nộp chậm phải để ngoài hòm, không được chấm nữa. Cả hai câu ý noi: đã phạm trường quy thì dù còn chưa dứt hồi trống thu quyển, quyển coi như bị loại ra ngoài hòm rồi.
14. ▲ Bảng cót: bảng ghi tên những thí sinh được vào kỳ sau.