Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 03, 2024, 12:15:26 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 [2]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đất Sơn Tây - Người Sơn Tây  (Đọc 17771 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
uyennd72
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 895


Email
« Trả lời #15 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2010, 05:20:37 PM »

Vậy ông Phạm Duy là "tội nhân thiên cổ " rồi.
Mà lỗi cũng 1 phần do ca sĩ Khánh Ngọc, em là phụ nữ nhưng không thể không trách.
Mà giới văn nghệ sĩ sao lu bu quá.
hihihi

Em cũng hay hát bài này cho chính mình. Nhưng không biết "nửa hồn" em có "thương đau" như ông này không nữa. hiii
Nhưng dù là Phạm Đình Chương hay Phạm Duy, họ đều là những nhạc sĩ gốc bắc rất có tài.
Logged

          Thích mùa thu Hà Nội!
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #16 vào lúc: Tháng Mười Một 27, 2010, 04:52:45 PM »

Hôm nay mới convert được đĩa nhạc của ca sĩ Khuất Duy Trác từ mp3 sang CD, trong đó có bài Đôi mắt người Sơn Tây. Mặc dù chất lượng không được tốt nhưng nghe khá hay!
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #17 vào lúc: Tháng Mười Hai 09, 2010, 12:49:44 PM »

Ông Nguyễn Cao Kỳ được về thăm quê Sơn Tây
VietNamNet) - Việc ông Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó Thủ tướng, nguyên Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ đang cư trú tại California (Hoa Kỳ) được Nhà nước ta cho phép về thăm quê hương  Sơn Tây đang là chuyện thời sự của người dân Sơn Tây (tỉnh Hà Tây).Có người hỏi: “Sao lại cho cái con người đã từng tham gia cuộc chiến tranh phi nghĩa chống lại dân tộc, gây ra bao nhiêu đau thương tang tóc cho nhân dân Việt Nam, mặc dù cuộc chiến tranh ấy đã lùi xa, về thăm quê được?”.
sontay Nhưng nhiều người lại bảo: “Đảng, Nhà nước ta thực hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo, tạo điều kiện cho ông Kỳ về thăm quê hương. Đó cũng là đạo lý cao đẹp của người Việt Nam chúng ta”.

Có 2... Nguyễn Cao Kỳ

Chiều ngày 7/1/2003, tức 16 tháng chạp âm lịch, chỉ còn 14 ngày nữa là đến tết 2004, chúng tôi có mặt tại thị xã Sơn Tây. Cả một con phố Ngô Quyền dài, nơi ông Nguyễn Cao Kỳ sinh ra và lớn lên, đang râm ran bàn tán chuyện ông được về thăm quê.
“Các chú hỏi con cháu nhà ông Nguyễn Cao Kỳ nào? Ở đây có tới 2 ông Nguyễn Cao Kỳ” - Một bà cụ ở đầu phố Ngô  Quyền (mà sau đó chúng tôi được biết là Kiều Thị Lợi, 83 tuổi) vặn lại khi chúng tôi hỏi thăm cụ về con cháu của ông Nguyễn Cao Kỳ. Thấy chúng tôi ngạc nhiên cụ Lợi cười, giải thích: “Chuyện là thế này: Ông Nguyễn Cao Hoạch và ông Nguyễn Cao Hiếu là 2 anh em con chú con bác. Ông Nguyễn Cao Hoạch (dân Sơn Tây gọi là ông phủ Hoạch) sinh được 2 người con, con cả là Nguyễn Cao Đăng, con thứ 2 là Nguyễn Cao Kỳ (tức Tùng). Chúng tôi hay gọi là Kỳ Tùng, hay Kỳ “anh”. Còn ông Nguyễn Cao Hiếu (hay còn gọi là cụ giáo Hiếu) sinh được 3 người con: 2 cô con gái đầu và cậu con trai thứ 3 là Nguyễn Cao Kỳ, tức Kỳ “em”. Kỳ “em” chính là cựu Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ “anh” sau đó vào Sài Gòn sinh sống bằng nghề bán xăng dầu”.

onghoachQua tìm hiểu chúng tôi được biết sau những thăng trầm của lịch sử dòng họ Nguyễn Cao đã ly tán, phiêu bạt khắp nơi. Hiện nay ở Sơn Tây chỉ còn lại một người cháu gọi ông Nguyễn Cao Kỳ , cựu Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ bằng chú. Đó là chị Nguyễn Thị Tý (tức Tâm), 44 tuổi ở  phố Ngô Quyền. Chị Tý (hiện có 2 con: một trai đang học lớp 10, con gái học lớp Cool là con gái ông Nguyễn Cao Đăng. Cuộc sống của gia đình chị Tý rất khó khăn. Hàng ngày chị bán rau ở chợ Sơn Tây, còn chồng chị làm nghề sửa chữa xe đạp ở Hà Nội. Khi chúng tôi tới nhà chị thì trời đã tối mịt. Chị cũng vừa đi chợ về. Chị cho biết, sáng 7/1 ra chợ chị được một số người quen cho biết rằng báo chí đăng tin ông Nguyễn Cao Kỳ được Nhà nước ta cho về thăm quê. “Đây thực sự là tin đột ngột đối với gia đình chúng tôi. Ban đầu tôi không dám tin vì nghĩ rằng dẫu sao thì chú ấy cũng đã từng là Phó Tổng Thống Chính quyền nguỵ, từng tham chiến chống lại cách mạng”.
Nguyễn Cao Kỳ qua ký ức của người Sơn Tây
ongban
Chị Tý kể rằng, chị không hề biết “mặt mũi của ông Nguyễn Cao Kỳ ra sao cả”. Trong các năm từ 1974 đến 1977 gia đình chị nhận được chừng chục lá thư của ông Nguyễn Cao Kỳ. Sau đó thì không có liên lạc gì với ông Kỳ nữa. “Lúc đó mẹ tôi còn sống. Bà rất giận ông Kỳ vì ông Kỳ đã làm rất nhiều điều tồi tệ: chống lại cách mạng, gieo rắc nhiều đau khổ cho nhân dân. Nhận đựơc thư bà kiên quyết không chịu đọc. Thậm chí còn đem đốt hết, mặc dù trong thư ông cũng chỉ hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ tôi. Thư không có địa chỉ nên chúng tôi cũng không hồi âm” - chị Tý kể. Ông Nguyễn Văn Bạn, 78 tuổi (ở 98 Phùng Hưng, thị xã Sơn Tây), người học cùng lớp với ông Nguyễn Cao Kỳ “anh”, từng biết rất rõ ông Nguyễn Cao Kỳ “em” kể: “Ông Nguyễn Cao Kỳ “em” sinh năm 1930, là con trai của ông giáo Hiếu. Ông Hiếu rất cưng chiều ông Kỳ. Ông Kỳ học giỏi, nhưng rất ngỗ ngược. Trẻ con cùng trang lứa ai cũng “ngán” cậu “quý tử” này. Ông Kỳ học ở Sơn Tây đến hết lớp 4 thì được ông Hiếu cho về Hà Nội vào học Trường Bưởi (Trường PTTH Chu Văn An hiện nay). Năm 1952 Nguyễn Cao Kỳ bị Pháp bắt đi lính và được đưa vào huấn luyện tại Trường sỹ quan trừ bị khoá I ở Nam Định. Sau đó Nguyễn Cao Kỳ được chọn sang Pháp đào tạo tại trường không quân Narrakech. Sau khi kết thúc thúc trường này Nguyễn Cao Kỳ bắt đầu con đường binh nghiệp và chính trị đầy sóng gió và bi kịch của mình”. ngovaonhabati
Còn ông Lý Đức Phương, 57 tuổi, Phó Chủ tịch, rồi Chủ tịch phường Ngô Quyền giai đoạn 1979-1989 kể: “Tôi lớn lên thì ông Nguyễn Cao Kỳ đã rời khỏi Sơn Tây rồi. Sau này chúng tôi biết rằng ông Nguyễn Cao Kỳ đã làm đến chức Phó Thủ tướng, rồi Phó Tổng thống nguỵ, từng nổi danh với cái tên “ông tướng râu kẽm” chống lại cách mạng, chống lại nhân dân rất quyết liệt. Là người cùng quê chúng tôi đã từng rất căm giận ông ấy. Nhưng nay cuộc chiến tranh đã lùi xa. Hơn nữa những năm gần đây ông Kỳ đã có những thái độ khác trước: năm 1992 ông ấy đã từng lên tiếng đòi chính quyền Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam. Ông ấy lại liên tục xin được về quê và tết năm nay đã được Nhà nước cho phép về thăm quê. Chúng tôi hiểu và chia sẻ những tâm tư, trăn trở của ông ấy”.

Vâng, tất cả những người Sơn Tây mà chúng tôi có dịp gặp gỡ và trò chuyện đều không quên những gì mà ông Nguyễn Cao Kỳ đã làm, nhưng tất cả đều sẵn sàng tha thứ để đón nhận ông...
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
uyennd72
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 895


Email
« Trả lời #18 vào lúc: Tháng Một 14, 2011, 04:05:41 PM »

 
<a href="http://www.youtube.com/v/5ye9AwbFy_w&amp;feature =0xb1b1b1&amp;color2=0xcfcfcf&amp;hl=en_US&amp;feature=player_embedded&amp;fs=1" target="_blank">http://www.youtube.com/v/5ye9AwbFy_w&amp;feature =0xb1b1b1&amp;color2=0xcfcfcf&amp;hl=en_US&amp;feature=player_embedded&amp;fs=1</a>

Tặng anh @tiêu diêu, bài "Đôi mắt người Sơn Tây" do chính tác giả trình bày.
« Sửa lần cuối: Tháng Một 15, 2011, 02:12:58 PM gửi bởi Ru_noong » Logged

          Thích mùa thu Hà Nội!
Ru_noong
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 698


Ru_noong
Email
« Trả lời #19 vào lúc: Tháng Một 15, 2011, 02:14:26 PM »

Bài hát buồn quá người đẹp ơi!
Logged

Chiều về nắng đỏ pha trên tóc
Khoác mây xuống núi tắm khe rừng
Chị Hằng đủng đỉnh leo lên dốc
Gà thấy chủ về cất gáy vang.
Hương mắt Tây
Jr. Member
**
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 79



Email
« Trả lời #20 vào lúc: Tháng Một 27, 2011, 11:08:43 AM »



Đôi mắt người Sơn Tây, em thì thích con mắt người Sơn Đông, vì em vừa đi Sơn Đông.
Logged
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #21 vào lúc: Tháng Ba 17, 2011, 08:01:56 PM »

Sơn Tây phát sinh hai tài năng lớn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm: Quang Dũng và Phùng Cung.
Quang Dũng sinh năm 1921, tại xã Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Tây, thuộc Hà Nội). Hình ảnh vùng đất tổ khắc trong lòng người Việt qua những câu thơ Quang Dũng:
Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì”
Quang Dũng đi vào lòng người miền Nam, không qua ngả Tây tiến mà qua Đôi mắt người Sơn Tây do Phạm Đình Chương phổ nhạc. Đại gia đình Thăng Long (Thái Thanh, Thái Hằng, Hoài Trung, Hoài Bắc) có một người anh chết ở Sơn Tây trong kháng chiến. Có lẽ vì vậy mà Phạm Đình Chương đã phổ thơ Quang Dũng bằng những nét nhạc tuyệt vời, với một tâm hồn đồng điệu. Nhờ bản nhạc Đôi mắt người Sơn Tây của Phạm Đình Chương mà nước “sông Đáy chậm buồn qua phủ Quốc” thấm vào hồn người nghe, dù họ chưa hề đặt chân lên đất tổ bao giờ. Những nghệ sĩ đích thực luôn luôn có khả năng truyền cảm vượt tuyến, nối tình đất và tình người trong khoảng khắc câu thơ, tiếng nhạc.
*
Còn Phùng Cung? Là người thông bác lịch sử, gắn bó với đất đai và văn hóa lâu đời của dân tộc, Phùng Cung, đã dùng ngôn ngữ quật khởi, “rừng rú” của Đường Lâm để bảo tồn nền văn hoá Việt một cách quyết liệt và toàn diện, trong thời kỳ toàn trị.
Bài của Nguyễn Hữu Hiệu có một thông tin về nguồn gốc họ Phùng: “Quê tổ của Phùng Cung ở Đường Lâm, Sơn Tây, vốn dòng dõi Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng”. Chỉ Phùng Cung mới có thể cung cấp cho Nguyễn Hữu Hiệu thông tin này. Bởi lẽ: Đường Lâm là một tên xưa, đã biến mất từ thời Lê, chỉ người gốc ở Đường Lâm mới biết, và khi Nguyễn Hữu Hiệu viết câu này năm 1996, Đường Lâm chắc chưa được “khôi phục” lại với khu “di tích lịch sử- văn hoá Đường Lâm”, như ngày nay (không rõ việc khôi phục này có do các nhà khảo cổ giám định, hay chỉ là sự bài trí màu mè để lôi kéo du khách). Vậy việc Phùng Cung dòng dõi Phùng Hưng là điều khả thể. Nhưng không phải cứ dòng dõi Phùng Hưng thì trở thành anh hùng. Dòng dõi và đất sinh có thể giải thích sự can trường và lòng bất khuất ở một con người như Phùng Cung. Sinh trưởng trong nôi lịch sử Sơn Tây, từ một dòng họ chống ngoại xâm lâu đời nhất, Phùng Cung tự hun đúc và tạo nên cái khí phách ấy. Bởi sự kiên cường ấy, không thể giải thích cách nào khác, ngoài đất đai, sông núi và lịch sử.
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #22 vào lúc: Tháng Ba 17, 2011, 08:18:57 PM »

PHÙNG CUNG MỘT ĐỜI THƠ CHỮ QUÊ ĐAU ĐỚN

 

         NGÔ MINH

 

Khoảng năm 1986, tôi được mời đi dự trại viết văn dành cho người viết văn trẻ ở Việt Trì một tháng, xong về Hà Nội nằm ở “Chòi ngắm sóng” của Phùng Quán chơi thêm cả tuần nữa. Những ngày đó ngày nào anh Quán cũng đạp chiếc xe đạp cuốc Liên Xô cao lênh khênh, giải thưởng cuộc thi viết về Lênin, truyện ngắn “Như con cò vàng trang cổ tích”, chở tôi đi ăn các món Hà Nội và thăm các đại gia văn chương như Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Một buổi sáng, uống xong tuần trà, anh bảo : “Hôm nay mình sẽ chở Ngô Minh đến thăm một người lạ lùng, người trả giá đắt nhất cho văn chương. Một người mà chỉ một truyện ngắn đã phải đánh đổi cả một đời người, một “nhà thơ chữ quê đặc sắc”- đó là anh Phùng Cung…

Nghe đến tên Phùng Cung, tôi đã nhớ ngay đến Con ngựa già Chúa Trịnh, cái truyện ngắn mà  ông anh trai mê văn chương của tôi ở cái làng Thượng Luật heo hút góc biển Quảng Bình ấy dấm dúi tha về không biết từ đâu bản chép tay trong cuốn vở học trò cho tôi đọc thời còn học cấp hai trường làng. Hồi đó tôi không hề biết truyện  ấy bị cấm, nên cứ đọc vô tư. Hơn nữa tôi đọc truyện mà chưa hiểu hết ý tứ sâu xa gì, chỉ  thương  hoài con ngựa Kim Bồng Thiên lý mã khi đã già, vì bao nhiêu năm chỉ lo phục vụ trong phủ Chúa với hai chiếc lá đa che hai bên mắt, không xông pha nơi chiến trận. Nên khi ra trận sống mái  cuối cùng  ngựa Kim Bồng “chỉ trong chớp mắt nó tụt lại. Không chịu, nó càng TTTg lên. Bỗng nó thấy nhói một cái ở ngang bụng như bị một nhát gươm chém mạnh. Nó ngã vật xuống, vùi đầu trong bụi lốc của đàn ngựa bay qua…”. Tôi giục anh Quán: “Đi ngay đi anh, “Con Ngựa già Chúa Trịnh” phải không ?”…

Anh Quán đạp xe chở tôi từ trường Chu Văn An bên Hồ Tây về đến 135 phố Mai Hắc Đế thì dừng lại. Cửa đóng kín. Anh Quán dựng xe đạp rồi  gõ cửa nhẹ.

Một ông già thanh mảnh, lịch lãm mặc quần ngủ màu trắng, đi guốc mộc, đôi mắt thăm thẳm, long lanh hiền dịu, đeo kính lão dày cộp, ra mở cửa. Thấy Phùng Quán, gương mặt ông đang từ ưu tư căng thẳng chuyển sang tươi cười niềm nở.

Anh Quán quay sang tôi chữ nghĩa ý tứ : “Đây là nhà văn Phùng Cung, vừa mới được về với đời từ mấy năm nay”, rồi  lại quay sang giới thiệu với Phùng Cung: “Thưa anh, em đưa đứa em làm thơ ở Huế quê em đến thăm anh”. Ông bắt tay tôi rồi giục: “Vào nhà đi, đứng ngoài này nói chuyện không tiện!”. Ông dẫn chúng tôi lên gác. Tôi quan sát thấy ở ban công  nhà có  cây cau cảnh đặt cạnh cái vại nước nhỏ, một cảnh thu nhỏ thường ở các làng quê Bắc Bộ. Tôi đã từng trọ học ở Kim Động, Hưng Yên, thấy nhà nào trong xóm cũng có vại nước đặt ở đưới cây cau cao ở sân dùng để rửa chân mỗi khi đi đâu về. Còn cây cau đến mùa ra hoa thơm lừng, hoa rụng lấm tấm đầy mặt nước, thơm lâng lâng. Sau này gia đình nhà thơ Phùng Cung đã chuyển về khu vực Bưởi. Một lần  tôi cũng theo anh Phùng Quán đến thăm,  cũng thấy ở sân ông  trồng cây cau, phía dưới có vại nước.

Trước khi nhà thơ mất vài tháng, ông chỉ cây cau và nói với một người bạn tên là Lữ đến thăm nhà: “Anh thấy không, cây cau nhà tôi èo uột, không  lớn nổi vì thiếu ánh sáng. Nhưng mỗi lần nhìn nó thì tôi nghĩ đến thân phận…, và tôi càng thấy thương người dân mình hơn. Không giận ai được, chỉ có thương thôi” (Lữ - Cây cau của Phùng Cung).  “Cây cau - vại nước” là một hình ảnh đặc trưng, ám ảnh mà mỗi khi  nhắc đến Phùng Cung tôi lại nhớ, lại hình dung ra gương mặt thân thuộc của ông.

Suốt buổi sáng hôm ở phố Mai Hắc Đế ấy, Phùng Cung điềm đạm pha trà, thủng thỉnh làm từng động tác một. Hình như ông vừa pha trà vừa nghĩ tới điều gì đó lung lắm. Tôi thấy  ông như một thầy giáo vừa nghiêm trang vừa từ tốn. Sáng ấy chủ yếu hai người Phùng Cung - Phùng Quán nói chuyện với nhau, còn tôi chỉ ngồi nghe. Tôi biết  anh Quán cố tình gợi chuyện để  Phùng Cung kể cho tôi nghe cuộc đời ông. Phùng Cung kể  chuyện đám cưới của ông do  Phan Khôi làm chủ hôn, mặc dù cơ quan không đồng ý vì gia đình bên vợ thuộc “thành phần giai cấp phong kiến bóc lột”, chuyện bí mật làm thơ trong tù… Chốc chốc ông quay sang hỏi tôi đôi điều về Cố đô Huế, như thể hiện sự quan tâm đến “khách đường xa”. Tôi  thấy thỉnh thoảng Phùng Cung đang  câu chuyện sôi nổi lại liếc ra cửa với thái độ rất cảnh giác.

Qua câu chuyện tôi biết Phùng Cung mới 17 tuổi đã làm Chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu, huyện Yên Lạc, Vĩnh Yên khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi.  Có lẽ ông là một cán bộ xã thuộc loại trẻ nhất thời ấy. Cái xã là do ông đặt người ta vẫn giữ đến bây giờ. Vì hồi ấy ông là người cách mạng có chữ nhất trong xã. Rồi sau đó, Pháp tái chiếm Vĩnh  Yên, ông lên chiến khu Việt Bắc hoạt động văn nghệ. Rồi vào Đảng. Ông kể ông có hoàn cảnh đau buồn trong Cải cách ruộng đất, bố ông bị quy là địa chủ cường hào, bị bắt và chết trong tù Cò Nỉ, Thái Nguyên. Ông tìm đến nhà tù để thăm bố nhưng rồi phục xuống khóc và thắp nhang lạy bố, vì bố đã thành nấm cỏ trên đồi…

Sau này đọc cuốn Cát bụi chân ai của Tô Hoài (NXB Hội Nhà văn, 1992) tôi mới biết thêm một số nét về cuộc sống của Phùng Cung ở trong tù. Tô Hoài kể rằng, Phùng Cung mới ra tù, đến thăm Tô Hoài “Dáng cù rù, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà cái bóng của Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chỉ mờ mờ. - Còn sống về được à ? - Cũng không hiểu tại sao anh ạ”… Tô Hoài kể, tan lớp kiểm điểm văn nghệ sĩ ở Thái Hà ít lâu, Phùng Cung bị bắt tù 12 năm không có án, trong đó biệt giam 11 năm. Đã tù biệt giam, lại bị bệnh lao, thế mà không chết, mới lạ.  Có lẽ nỗi đau đó đã lặn vào hồn, vào tim, đã rèn nên tính suy tư thế sự cuộc đời vô cùng  sâu sắc trong văn chương Phùng Cung  chăng?

Tôi  rụt rè hỏi ông: “Em đọc Con ngựa già Chúa Trịnh thấy truyện hay thế, nhân văn thế sao lại sự tình khốn khổ thế hở anh?”. Ông chớp chớp mắt, thở dài: “Chuyện dài lắm. Nhưng thôi đừng nói chuyện này nữa, Quán nhỉ…”. Nói rồi ông đứng lên mở ngắn kéo bàn lục tìm hồi lâu mới lấy ra một tập vở bé bằng bàn tay, bìa bọc giấy xi măng cáu bẩn, cầm đến đưa cho Phùng Quán: “Sau mười hai năm, mình về với vợ con là mừng. Nghĩ đến tù đày là sợ lắm”.  Phùng Cung trầm ngâm : “Quán ạ, mình  cố quên hết văn chương. Nhưng không  sao quên được. Đêm ngủ thơ nó cứ kéo về trong mộng. Thế là mình thủng thẳng ghi lại từng ngày. Như là viết nhật ký. Đây là những bài thơ nho nhỏ về chuyện quê nhà.

Nhưng  bây giờ thì gay rồi. Hôm qua chú công an khu vực đến chơi nhà, bỗng dưng cười hỏi: “Chào bác Phùng Cung, nghe nói  dạo này bác lại  viết thơ  à ?”.  Chỉ câu hỏi vui thế mà làm mình nổi da gà. Sợ quá. Tập thơ này toàn hình ảnh quê, mình viết để giải khuây, không có “chuyện gì” trong đó cả. Nhưng  nếu mà họ thu mất thì tiếc lắm. Nên Quán cứ giữ hộ cho mình cho chắc".  Anh Quán nhận tập vở thơ rồi  nói vui: “Anh suốt ngày xoay trần làm nghề đập đinh, rồi rán bánh giúp chị Thoa để bán  kiếm tiền nuôi ba con nhỏ đi học, tưởng anh đã quên mùi bút mực rồi, hóa ra vẫn còn vương vấn”.




  Nhà thơ Phùng Cung

 

Phùng Quán  đưa cho tôi xem tập thơ chép tay. Tập vở  mỏng, giấy học trò đen hùn. Trong đó mỗi trang chép một đến hai bài thơ, bài nào cũng ngắn, có bài chỉ hai ba câu, bốn năm câu giống như thơ Haicu của Nhật Bản, nét chữ Phùng Cung viết bằng bút chì rất nắn nót, hoa tay, nhưng không ghi tên tác giả. Tôi liếc bài  thơ hai câu đầu tiên tựa đề là “Bèo”, bỗng nổi da gà: Thơ ghê quá, bất ngờ quá:

Lênh đênh muôn dặm nước non

Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh

(Sau này in trong tập thơ Xem đêm, câu thứ hai được ngắt ra thành hai câu: Dạt vào ao cạn / Vẫn còn lênh đênh).

Chỉ một cánh bèo quê đơn sơ thôi mà khái quát được  cả một phận người! Loại thơ kiệm chữ mà đầy ngẫm nghĩ này hiếm lắm, quý lắm. Tập thơ nhỏ hút hồn tôi.

Thế là tôi vừa tò mò lắng nghe hai ông anh nói chuyện với nhau, lại đọc ngấu nghiến hết cả tập thơ. Có thể nói lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với một loại “thơ quê” ấn tượng như thế. Nó vừa dân gian vừa bác học, vừa tâm can vừa chữ nghĩa.

Áo cũ gối đầu / Đêm tỉnh giấc / Sao khuya dạt chân rêu / Lạnh biếc / Bầu buông chày ngọc/ Cõi Lam Kiều / Về bên góc sân con (Góc sân con); Đêm về khuya/ Trăng ngả màu hoa lý / Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông (Đò khuya); Quất mãi nước sôi / Trà đau nát bã / Không đổi giọng Tân Cương (Trà)…

Chao ôi là chữ! Rất nhiều, rất nhiều, toàn chữ quen mà quá lạ. Người ta nói mồ hôi da chứ ai nói mồ hôi xương? Vậy mồ hôi xương là mồ hôi gì? Có lẽ đó là những giọt mồ hôi cuối cùng của con người lao lực, bị vùi dưới đáy xã hội chẳng ai quan tâm.

Rót nước vào ấm trà là “quất nước sôi”, “quất” chứ không phải “rót”. “Quất” là “đánh”. Đánh đến mức trà mới “đau nát bã”. Nhưng kỳ diệu là “không đổi giọng Tân Cương”. Phải chăng ông đang nói về đời mình!

Lao động thơ ghê gớm lắm mới chiết ra được những chữ quê hút hồn người như thế. Có lẽ ông đã nghĩ đến những con chữ ấy bao nhiêu lần trong những năm tháng ngồi một mình nơi biệt giam. Nó giống như gỗ lũa.

Vâng, đời chữ là đời người. Chữ của Phùng Cung là chữ đẻ ra, luyện nên từ cánh đồng, bờ tre, mái rạ, hương lúa, hương cau, ánh sáng đom đóm, từ đớn đau, chiêm nghiệm một đời người  trầm luân khổ ải.

Tôi cứ nghĩ, chữ ấy mới  là chữ của  hồn thơ Việt. Thơ là để cho người đọc xúc động, chia sẻ, thơ  phải làm cho người đọc nổi da gà, ứa nước mắt, mới là  thơ thật.

Thơ Phùng Cung “ý tại ngôn ngoại”, là loại thơ làm người đọc nổi da gà! Phùng Cung gọi mùa nước lụt là mùa nước mắt  là rất thật đối với người nông dân đồng bằng sông Hồng, cũng như chính đời ông: Đê tiền triều gãy khúc / Đồng ngập trắng / Con lềnh đềnh cõng - vắng - bơi - suông / Thương em đứng giữa mùa nước mắt. Không phải đó là sự quan sát, ghi nhận, mà đó là tâm cảm, là chiêm nghiệm, chiêm cảm.

Trên đường về lại Hồ Tây, tôi bảo anh Quán: “Anh để em giữ tập thơ này cho. Anh giữ cùng  chưa chắc an toàn”. Anh Phùng Quán đồng ý. Thế là tôi mang vào Huế. Năm 1988, nhờ không khí đổi mới, tạp chí Sông Hương do nhà văn Tô Nhuận Vỹ làm Tổng biên tập đã đăng rất nhiều thơ, truyện ngắn, bài viết về “đổi mới văn chương”. Tôi đã chọn  hai chùm thơ Phùng Cung và đưa tập thơ viết bút chì của Phùng Cung cho nhà văn Nguyễn Khắc Phê, lúc đó là phó Tổng biên tập Sông Hương, sau này một giai đoạn là Tổng biên tập. Tạp chí Sông Hương năm 1988 đã hai lần giới thiệu thơ Phùng Cung với những bài như Nghiêng lụy, Bèo, Người làng, Chiếc lá rụng, Cô lái đò, rút trong tập thơ chép tay ấy. Có thể nói văn chương Phùng Cung lần đầu tiên sau 32 năm kể từ Con ngựa già Chúa Trịnh (1956) mới được xuất hiện trở lại, đã gây ấn tượng mạnh đối với độc giả Sông Hương. Chắc chắn những ngày cuối năm 1988 ấy ông vui lắm.

Gần đây tôi mới biết, khi nhà thơ  Phùng Quán còn sống, một lần nữ nhà văn Hà Khánh Linh ở Huế ra, anh Phùng Quán cũng dắt đến thăm nhà thơ Phùng Cung ở Bưởi. Buổi trưa hôm đó Phùng Cung, Phùng Quán và ông Nguyễn Hữu Đang mời cơm Hà Khánh Linh. Tại bữa cơm ấy Phùng Cung cũng  đưa cho Hà Khánh Linh  một tập thơ chép tay như thế, nhưng viết bằng bút mực, chứ không phải bút chì. Có lẽ để nhờ chị giữ hộ chứ không phải tặng, vì không thấy đề tặng.

Tập thơ gồm 106 bài chép trên giấy in rô-nê-ô màu vàng rơm, bìa tập vở học trò bọc giấy can bản vẽ cũ. Ở trang đầu cuốn vở  đề tên là Phó Châu. Có lẽ  thơ ghi trong hai cuốn vở mà tôi đã đưa cho tạp chí Sông Hương và chị Hà Khánh Linh đang giữ đã được chọn vào tập Xem đêm (200 bài, NXB Văn hoá thông tin 1995). Nhưng kẹp trong tập thơ chép tay chị Linh đang giữ  còn có  bài thơ mới làm ghi trên hai mặt một tờ giấy cũ là bài Chiều cun cút, nhưng không thấy trong tập “Xem đêm”: Áo song chàng / Nón lá / Phới về quê / Dệt dạt tối ngày khoai dáy / Lúc thảnh thơi / Quần vận khấu bò / Rong ruổi chốn rau dưa / Tôi gõ rỗ/ Khe khẽ ê a / Chiều cun cút / Một mình / Không lửa không đèn / Nhòm nhõm thâu đêm / Chết thèm cái bóng / Xa là trời sao / Gần là đom đóm. Mới hay, gửi cho bạn bè giữ hộ  là cách “lưu trữ” thơ của Phùng Cung. Ông phải chép thành nhiều bản để đề phòng bị mất…

Tôi rất vinh hạnh được gặp Phùng Cung một số lần nữa ở nhà Phùng Quán. Ông vẫn từ tốn, đĩnh đạc, như cuộc đời chưa từng bị phong ba bão táp gì. Bao giờ cũng cười tủm tỉm với ánh mắt chứa chan đồng cảm. Ông cùng mang họ Phùng, nhưng không có huyết thống với Phùng Quán. Phùng Cung quê ở Sơn Tây còn Phùng Quán quê ở Huế.  Trong “đám” tài tử thời ấy, cho đến khi “nằm dài dưới đáy huyệt”, hai người Phùng Cung - Phùng Quán luôn thủy chung son sắt. Phùng Quán ngưỡng mộ Phùng Cung vì đó là một người luôn sống và viết thực lòng mình, đó là một người anh cả về tuổi tác cũng như tài năng văn chương chữ nghĩa. Phùng Quán đã làm hết sức mình để tập thơ Xem đêm của Phùng Cung ra mắt độc giả. Còn Phùng Cung  thì luôn yêu thương, tin cậy đối với Phùng Quán, coi Phùng Quán như một người em chí cốt. Nên khi Phùng Quán mất, Phùng Cung là người được bạn bè và gia đình Phùng Quán chọn mời làm trưởng ban tang lễ. Ông đã đọc bài điếu văn “Sống là thể phách, còn là tinh anh” cực kỳ cảm động và súc tích. Bài điếu văn ấy cũng là một áng văn chương tình nghĩa và đẹp thâm hậu mà tôi đã đưa lên trang đầu trong tập sách “Nhớ Phùng Quán” (NXB Trẻ 2002).

Trong tôi, Phùng Cung luôn là một nhà thơ tầm cỡ, một nhà văn có bản lĩnh sáng tạo và nhân văn đặc sắc. Tiếc là văn chương của ông đã không được đến nhiều với độc giả. Tôi cứ mong ước lúc nào đó xuất bản một tuyển tập văn thơ Phùng Cung chắc thú vị lắm... Nhưng đến bao giờ? Trong tập thơ Xem đêm có một bài thơ nhà thơ nhắn gửi với những người làm thơ hôm nay, đó là bài Tội nghiệp.

Để kết thúc bài viết, mời bạn đọc cùng tôi đọc lại  bài thơ đó: Tội nghiệp nhà thơ / Hợm mình / Lầm lạc / Biết không biết sống / Nên không biết chết / Nửa thế kỷ / Bị lưu đày / Trong cõi tung hô… Tôi biết ông đang nói điều gì!

 
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 18, 2011, 12:28:25 PM gửi bởi Tiêu-diêu » Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Trang: 1 [2]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn