QUÁN NGŨ UẨN
Khi dạy về Ngũ Uẩn, đức Phật không có ý đưa ra một học thuyết mới về Nhân học, về Cơ thể học, về Phân Tâm học, v.v., mà mục đích duy nhất của ngài là giúp các đệ tử biết được "Mình Là Ai", "Mình Là Cái Gì". Có biết "mình là ai" thì mới biết được mình là người, là súc sinh, là quỷ đói, là a-tu-la, là chúng sinh đang ở cõi trời, hay đang ở địa ngục. Có biết "mình là cái gì" thì mới biết 3 nghiệp thân-ngữ-ý mà mình đang liên tục tạo tác, chúng xuất phát từ đâu để điều chỉnh; vô minh và phiền não nằm ở đâu để đoạn trừ; các thiện pháp nằm ở đâu, sinh khởi như thế nào để phát triển và nuôi dưỡng, v.v.
Đức Phật cho biết hầu hết chúng sinh đều sống bằng "tưởng". Tưởng là 1 trong năm "đống" cấu tạo nên một con người. Chức năng của tưởng là gán lên các đối tượng được tri nhận các dấu hiệu, ký hiệu do mình hoặc cộng đồng đặt ra. Vì các dấu hiệu, ký hiệu đó không phải là thực thể của đối tượng cho nên những gì được Tưởng nhận biết đều không đúng với thực tại. Chữ "tưởng" trong tiếng Việt là một từ cực kỳ chính xác để diễn tả chức năng nói trên. Có lẽ những người nói tiếng Việt là một trong những cộng đồng đã có quá trình tu học lâu dài nhất.
Khi chúng ta nói "Tôi TƯỞNG ông chết rồi chứ" thì có nghĩa là ông ta không chết. "Tôi tưởng trời mưa" có nghĩa là trời không mưa. "Tôi tưởng là độc lập-tự do-hạnh phúc chứ" có nghĩa là chỉ có lệ thuộc, tù hãm, khổ đau. "Mình tưởng mình là Phật tử chứ." "Mình tưởng mình đang bố thí chứ."; v.v.
Đó mới chỉ là vài thí dụ về 1 trong các chức năng tệ hại nhất cấu tạo thành con người. Với những phàm phu tục tử, độn căn độn trí như chúng ta thì Phật dạy phải tu tập thiền quán về Ngũ Uẩn thì may ra mới hy vọng có ngày thoát được khổ đau:
"Này các Tỳ-kheo, hãy tu tập thiền định. Các Tỳ-kheo, một tỳ-kheo định tĩnh sẽ thấy biết như thực. Thấy biết như thực cái gì? Đó là sự tập khởi và biến diệt của Sắc, sự tập khởi và biến diệt của Thọ, sự tập khởi và biến diệt của Tưởng, sự tập khởi và biến diệt của Hành, sự tập khởi và biến diệt của Thức.
"Và này các Tỳ-kheo, sự tập khởi của Sắc là gì? Sự tập khởi của Thọ là gì? Sự tập khởi của Tưởng là gì? Sự tập khởi của Hành là gì? Sự tập khởi của Thức là gì?
"Này các Tỳ-kheo, ở đây có tỳ-kheo hoan hỷ, đón nhận, đeo bám. Hoan hỷ, đón nhận, đeo bám cái gì? Hoan hỷ, đón nhận, đeo bám Sắc, [các Thọ, các Tưởng, các Hành, các Thức]; và khi hoan hỷ, đón nhận, đeo bám Sắc, [các Thọ, các Tưởng, các Hành, các Thức,] thì niềm vui sinh khởi. Niềm vui đối với Sắc, [các Thọ, các Tưởng, các Hành, các Thức] này chính là sự chấp thủ. Sự chấp thủ này là nền tảng của tiến trình hiện hữu [trong ba cõi]. Tiến trình hiện hữu này là nền tảng của sự sinh ra đời. Sự sinh ra đời là nền tảng của sự già-chết, cùng với phiền muộn, bi thương, khổ đau, lo âu, tuyệt vọng. Toàn bộ sự chồng chất của khổ đau là như thế." (*)
Trên đây chỉ là một số thông tin dành cho những ai chưa biết về một trong những Pháp hành mà đức Phật đã để lại cho những người đang đi trên con đường tu tập. Để hành được Pháp này, những người sơ phát tâm có thể tự học từ Tam Tạng Thánh Điển các khái niệm căn bản về Ngũ Uẩn. Tuy nhiên, muốn thực hành, tức thiền quán, thì phải có Thầy dẫn dắt. Từ xưa đến nay, không ai có thể thực hành thiền quán mà không có người Thầy trực tiếp dẫn dắt. Không có Thầy mà tự hành, dù có được thành tựu nào đi chẳng nữa, thì đó cũng chỉ là sản phẩm của Tưởng, chỉ dối mình dối người.
-----------
(*) "Samādhiṃ bhikkhave, bhāvetha. Samāhito bhikkhave, bhikkhu yathābhūtaṃ pajānāti. Kiñca yathābhūtaṃ pajānāti? Rūpassa samudayañca atthagamañca, vedanāya samudayañca atthagamañca, saññāya samudayañca atthagamañca, saṃkhārānaṃ samudayañca atthagamañca, viññāṇassa samudayañca atthagamañca. Ko ca bhikkhave, rūpassa samudayo, ko vedanāya samudayo, ko saññāya samudayo, ko saṃkhārānaṃ samudayo, ko viññāṇassa samudayo: Idha bhikkhave, bhikkhu abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Kiñca abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati: rūpaṃ abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati, tassa rūpaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandi. Yā rūpe nandi tadupādānaṃ tassūpādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Vedanaṃ abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati tassa vedanaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandi. Yā vedanāya nandi tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Saññaṃ abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Tassa saññaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandi. Yā saññāya nandi tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Saṅkhāre abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati tassa saṃkhāre abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandi. Yā saṅkhāresu nandi tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. Viññāṇaṃ abhinandati abhivadati ajjhosāya tiṭṭhati. Tassa viññāṇaṃ abhinandato abhivadato ajjhosāya tiṭṭhato uppajjati nandi. Yā viññāṇe nandi tadupādānaṃ, tassupādānapaccayā bhavo, bhavapaccayā jāti, jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti. Evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti. (S. iii, 13)