FB: Nguyễn Bảo Sinh
“Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định”
“Tri nhân tri diện bất tri tâm”
THIỀN VÀ SỐ MỆNH
Số, chỉ một chữ thôi cũng đủ tạo thành thế giới tâm linh. Chữ số huyền diệu, như câu “A men” của đạo Thiên Chúa”, “Nam Mô” của đạo Phật. Chữ số cứu rỗi loài người ra khỏi biển khổ trầm luân a tỳ kiếp, “lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương”. Chữ số cũng có thể dìm con người vào cõi u mê, tiêu diệt khí phách, đầu hàng số phận, nhắm mắt buông xuôi vào kiếp khổ ải để “mặc xem con tạo xoay vần tới đâu”.
Cái gì cũng có hai mặt. Có lợi tất có hại. Dao nào cũng có hai lưỡi. Mặt tích cực đề cao “đức năng thắng số”, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Mặt tiêu cực cũng làm hại ta vô cùng: “Ngẫm hay muôn sự tại trời, trời kia đã bắt làm người có thân, bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”, phủ định vai trò của con người, đổ tại tất cả cho số phận:
“Toét mắt là tại hướng đình
Cả làng toét mắt chứ mình em đâu”
Ta cần hiểu hai mặt của chữ số. Số mệnh nằm ngoài ý muốn con người, nhưng ý muốn con người cũng nằm ngoài ý muốn. Ta có thể hiểu chữ số theo quan điểm của đạo Sỹ, hoặc hiểu chữ số theo quan điểm của đạo Phật.
ĐẠO SỸĐạo Sỹ khởi nguồn từ Lão Tử. Lão Tử và Thích Ca Mầu Ni cùng gốc đạo, lấy thuyết vô vi làm khởi nguồn của vạn pháp. Song, Lão khác Thích chỉ ở phương pháp. Lão chỉ cho thấy vô vi, Phật dậy ta cách đạt vô vi. Người kế thừa đạo Lão xuất sắc là Trang Tử. Bằng những truyện ngụ ngôn siêu ngắn tuyệt vời, Trang Tử đã nhập đạo Lão vào tâm linh sâu thẳm của loài người. Vì đạo Lão chỉ cho thấy vô vi, không bày cách đắc đạo vô vi nên đạo Lão bị biến tướng thành mọi thứ tạp nham, thành đạo Sỹ, thành đủ các loại thầy tướng, thầy số với lủng củng chân gà, mu rùa. Cuối cùng, chẳng hiểu sao, Lão Tử lại biến thành Thái Thượng Lão Quân luyện linh đơn ở cung trời đậu suất.
Cách xem tướng số của đạo Sỹ một phần dựa vào kinh dịch, đa phần dựa vào một vài chi tiết của hình tướng, nên dễ đánh giá chân lý bộ phận thành chân lý toàn thể.
Không có gì vớ vẩn bằng chỉ căn cứ vào một nét vân tay, một giờ sinh mà hiểu được toàn bộ mệnh số con người. Cùng ngày, giờ, năm sinh với Phật Tổ Như Lai, có kẻ bị tử hình. “Tri nhân, tri diện, bất tri tâm”. Xem tướng số kiểu “thầy bói xem voi” thành đoán quàng xiên, cúng bái lung tung, “bói ra ma quét nhà ra rác”.
“Số cô chẳng giầu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà”
“Hồn rằng hồn thác ban ngày
Thương cha, nhớ mẹ hồn rầy thác đêm”
Thầy địa lý thành đề tài tiếu lâm:
“Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”
Các thầy “xem bói ra ma” để kiếm tiền, lừa người lại hoá lừa mình:
“Đom đóm bay qua
Thầy tưởng là ma
Thầy ù thầy chạy
Ba thằng ba gậy
Đi đón thầy về
Bắt con lợn sề
Cho thầy chọc tiết
Bắt con cá giếc
Cho thầy xem mang
Bắt con tôm càng
Cho thầy bóc vỏ”
Rồi chuyện tiếu lâm về ông thầy bói, thầy cúng ỉa vào mồm nhau, bóc mẽ nhau, bói bậy, cúng bái quàng xiên.
Nói chung, số mệnh con người không thể chỉ do một chi tiết quyết định. Một quả không do một nhân tạo thành. Số mệnh con người do màn nhân duyên trùng trùng, hợp hợp dệt nên. Muốn đoán số mệnh con người cần quán triệt thuyết thập nhị nhân duyên.
“Tướng tuỳ tâm sinh
Tướng tuỳ tâm diệt”
ĐẠO PHẬTThiền nhân muốn tâm tịnh phải hiểu bản chất, tự tánh của số phận:
“Chỉ thẳng vào tâm
Thấy tánh thành Phật”.
Thiền gọi là xem tướng theo “tánh không”. Không ở đây không phải là không và có, mà số mệnh không tự có, số mệnh do nhân duyên tạo nên:
“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ
Vô duyên đối diện bất tương phùng”
Muốn tìm hiểu cội nguồn của tướng số thiền, đầu tiên ta phải hiểu đạo Phật. Mà cội nguồn của thiền là Phật Tổ Như Lai.
PHẬT TỔ NHƯ LAIThường người ta hiểu: Như Lai là danh xưng, còn Phật Tổ là đức Phật đầu tiên. Tổ thường được hiểu là tổ tiên, tổ nghề…
Thật ra, có nhiều chư phật như A Di Đà… đều có trước Phật Tổ Như Lai, nhưng sao ta lại gọi Như Lai là Phật Tổ?
Đạo Phật có thể nôm na tạm chia làm hai phần: phần tôn giáo và phần triết học. Phần tôn giáo thì đạo Phật cũng như các tôn giáo khác coi con người có hai phần; phần thể xác và phần linh hồn.
Đạo Phật quan điểm: “tề đồng vật ngã” – người và vật là một – từ một vật vô tri là hòn đá có thể biến thành vật hữu hình. Nghĩa là Phật có thể do đá sinh ra. Các Phật đều bình đẳng. Đạo Hồi có một đấng tiên tri duy nhất của Thượng đế, người thông thiên giữa trời và người.
Trong Thiên Chúa giáo, con chiên đắc đạo cao nhất là hiển thánh, chứ không trở thành đạo quả ngang đức chúa Je-su.
Chính vì quan điểm “tề đồng vật ngã” của đạo Phật, cho nên đạo Phật không chủ trương tiêu diệt các đạo khác mà hoàn toàn có thể đồng nhất.
Còn về phần triết học, ít ai biết được đạo Phật không công nhận có linh hồn.
Các đệ tử Thích Ca đi giảng đạo bị trách cứ rất nhiều vì không có chính kiến về linh hồn. Có lần các đệ tử quay lại yêu cầu Thích Ca giải thích về vấn đề này, nếu không sẽ bỏ đạo. Các đệ tử yêu cầu có chính kiến:
1. Linh hồn có.
2. Linh hồn không có.
3. Linh hồn vừa có vừa không.
Thích Ca thuyết giảng: “Này! Các con đến học, chưa bao giờ ta hứa sẽ giải thích cho các con về vấn đề này. Ta nói với các con, nếu có kẻ bị mũi tên tẩm thuốc độc bắn trúng, mọi người cứ khăng khăng đòi ta phải giải thích mũi tên này từ đâu, tẩm loại thuốc độc gì và kể bắn nhằm mục đích gì… nếu ta giải thích cho họ hiểu thì nạn nhân phải chết, tốt nhất là nên cấp cứu ngay”. Đạo ta cũng vậy. Đời là bể khổ. Ta có bát chánh đạo để cứu đời. Đạo của ta là đạo cứu đời. Đạo của ta là đạo cứu khổ. Còn bàn về linh hồn có, không thì khác gì:
“Dã tràng xe cát biển Đông
Như ta phân biệt có, không ở đời”
Cách giải thích về linh hồn có vẻ như lúng túng của Thích Ca là phần hay nhất và lý thú nhất của đạo Phật.
Hay có thể giải thích chữ Như Lai theo định luật Lô-mô-nô-xốp: “Vật chất không tự sinh ra, không tự mất đi, vật chất chỉ biến từ dạng này sang dạng khác”.
Phật dậy: “Thiện tai! Thiện tai!”, không làm việc thiện sẽ gặp tai hoạ. Dựa vào luật nhân quả: ác giả, ác báo. “Những người bạc ác tinh ma, mình làm mình chịu kêu mà ai thương”. Đoán số mệnh con người bằng luật nhân quả, thiền nhân biết cội nguồn của tướng số.
Luật nhân quả không chỉ ở kiếp này mà ở cả kiếp quá khứ và vị lai. Những tai hoạ của kiếp này do từ kiếp trước gây nên. Phúc đức ta hưởng, là kết quả tu hành từ mười đời. ác báo cũng không chỉ ở kiếp này mà còn: “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”.
Dân gian thường nói: “trời có mắt”, con mắt soi thấu luật nhân quả, lưới trời thưa mà khó lọt. Những kẻ giả đạo đức: “Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm”, “bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” có thể thoát khỏi luật pháp, song không thoát khỏi luật nhân quả. Sống thật thà vô tư hoặt mưu mô xảo trá không qua được con mắt thiền.
“Vải thưa không che được mắt thánh”. Thiền lấy chữ tâm làm gốc. Nên có truyện một vị thiền sư qua đò, mọi người chỉ trả một quan, còn cô lái đò đòi thiền sư hai quan vì tội đã ngắm cô. Lần sau qua đò, thiền sư nhắm mắt lại. Lần này, cô lái đò đòi mười quan vì bảo thiền sư ngắm cô bằng tâm. Thiền coi vạn sự đều do tâm sinh ra.
Tất cả số mệnh do tâm sinh. Thay tâm sẽ đổi tướng.
Một đứa trẻ lên ba, nếu vô tình đái vào tượng thần, thì không biết không có tội. Nếu thần mà làm tội đứa trẻ thì đấy không phải là thần. Khi ta làm việc thiện cần gì phải chọn giờ? Làm việc ác thì làm gì có giờ đẹp?. Có hai thiền sư thấy một cô gái chết đuối. Một thiền sư nhẩy xuống vớt cô gái lên bờ, rồi cởi quần áo ra làm hô hấp nhân tạo. Một thiền sư thấy cô gái loã thể vội bỏ chạy. Thiền sư bỏ chạy hỏi thiền sư cứu nạn: “Thầy nghĩ gì khi thấy cô gái loã thể?”. Thiền sư cứu nạn đáp: “Chỉ nghĩ đến cứu người, còn hình ảnh cô gái loã thể thì nằm trong óc thầy”.
Cũng một người khi làm việc thiện thì đôi mắt sẽ có thần, khi biết mình đang làm việc ác sẽ thất thần. Tâm thay tướng đổi.
Hiểu luật nhân quả, dân gian ta thấy được trong hoạ có phúc, trong phúc có hoạ - tái ông thất mã tam tri phi phúc- họ thiền ngay trong cả cái hoạ. Thiền nhân hiểu số mệnh nên sống ung dung tự tại trong cuộc đời đầy hỗn loạn. Hiểu được luật nhân quả, biết nếu “có đức mặc sức mà ăn”. Số mệnh do cái đức sinh ra, “cứu một người phúc đẳng hà sa”. Chân tướng của số mệnh nằm ở tu nhân, tích đức. Thiền lấy cái bất biến trong tâm để ứng với cái vạn biến. Cũng như ông giám đốc công ty xổ số bình chân như vại, mặc cho kẻ mua vé số có xao động gì đi chăng nữa. “Đoạn trường tân thanh” của Thanh Tâm Tài Nhân đến chỗ Kiều tự tử ở sông Tiền Đường là hết. Vì muốn chứng minh luật nhân quả ngay trong kiếp này, nên Nguyễn Du phải viết thêm đoạn tái hồi Kim Trọng để đáp ứng nguyện vọng của dân gian “ở hiền gặp lành”. Số mệnh do tâm quyết định. Tâm thay tướng đổi. Tính tích cực này nâng đạo Phật lên tối thượng thừa của cách hiểu số mệnh. Tất nhiên, dân gian cũng hiểu không có nội dung nào không biểu hiện ra hình thức:
“Con lợn có béo, cỗ lòng mới ngon”:
“Những người ti hý mắt lươn
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người
Những người mặt nạc đóm dầy
Mo nang trôi xấp biết ngày nào khôn”
“Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày”
Thuý Kiều và Đạm Tiên đều “xem trong sổ đoạn trường có tên”. Nhưng với “đức năng thắng số”, mặc dầu “ngẫm hay muôn sự tại trời, trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao, mới được phần thanh cao”. Cuối cùng vẫn “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” và “đoạn trường sổ rút tên ra, đoạn trường thơ phải đem mà trả nhau”. Đúng như:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Hiểu được luật nhân quả, ta sẽ tự quyết định lấy số phận của mình. Nhân là bất biến, nhân truyền từ đời này sang đời khác, cũng như Gen trong học thuyết Đac-uyn. Cũng như định luật một vật đứng yên thì không bao giờ tự chuyển động nếu không có cái búng của Niutơn. Nhân cũng vậy, nhân muốn thành quả phải hợp đủ cơ duyên. Không có quả nào chỉ do một duyên mà thành. Ta không thay đổi được nhân, nhưng ta có thể thay đổi được quả, bằng cách không tạo nên duyên thì nhân không thể thành quả được. Ví dụ, ta có cô vợ lẳng lơ, lẳng lơ là cái nhân, dân gian hiểu cái nhân không thể thay đổi:
“Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu chữa được con người lẳng lơ”
“Rằng quen mất nết đi rồi
Dở hay cũng bởi tính người biết sao”
Cái nhân lẳng lơ, muốn tạo ra cuộc ngoại tình thì phải hợp đủ cơ duyên, ta chỉ cần cắt duyên, nhân sẽ không thể thành quả. Ta tạo cho cô vợ một môi trường ít tiếp xúc với lẳng lơ. Cũng như ta nên tạo ra môi trường trong sạch – cơ duyên – thì mọi người sẽ không tạo ác nghiệp.
Giả Bảo Ngọc trong “Hồng Lâu Mộng” quyết tìm cách chữa bệnh ghen cho Đại Ngọc. Thiền sư bốc cho mười thang thuốc, bảo cứ mười năm uống một thang sẽ khỏi. Bảo Ngọc cười và ngộ ra ghen không chữa được, nếu uống đủ mười thang thuốc thì Đại Ngọc đã bốc mộ mấy lần rồi. Dân gian cũng có câu:
“Con cóc ăn trầu đỏ môi
Có ai lấy lẽ bố tôi thì về
Mẹ tôi chẳng đánh chẳng chê
Mài dao cho sắc móc mề ăn gan”
Hiểu số mệnh theo luật nhân quả, nên khi sứ giả Khổng Minh tiết lộ việc thừa tướng làm việc tận tuỵ, ngày quên ăn, đêm quên ngủ thì Tư Mã Ý đoán ngay: mệnh của Khổng Minh sắp hết. Khổng Minh cũng biết vậy nên làm lễ dâng sao giải hạn mà không thành. Luật nhân quả trời cũng không qua nổi.
Nhân là bất biến, sẽ tồn tại từ kiếp này sang kiếp khác, cả phần hồn lẫn phần xác. Còn gien thì chỉ truyền kiếp trong thể xác.
LUẬT BÙ TRỪMở đầu truyện Kiều, Nguyễn Du đã nêu lên thuyết tài mệnh tương đố:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Ngay cả ông trời cũng cò đố kỵ, ghen tuông với chính vưu vật mà mình tạo ra:
“Tinh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn năm bạc mệnh một đời tài hoa”
Dân gian ta cũng ngộ được luật bù trừ. Thấy “phúc là chỗ nấp của hoạ, hoạ là chỗ nấp của phúc” nên đã viết:
- Hồng nhan đa truân.
- Hồng nhan bạc mệnh.
- Ngu si hưởng thái bình
- Đen bạc đỏ tình.
- Ăn cơm với cáy ngáy o o, ăn cơm với thịt bò lo ngay ngáy.
- Mèo mù vớ cá rán.
- Dao hai lưỡi.
- Yêu nhau lắm cắn nhau đau.
- Ghét của nào trời trao của ấy.
Hiểu được luật bù trừ, dân gian thanh thản:
“Có bao nhiêu kẻ yêu ta
Kẻ ghét đếm đủ cũng là bấy nhiêu
Khi biết ghét cũng là yêu
Ân oán sẽ hết, mọi điều sáng trong”
Người có tài, có hoạ. Con chim chết vì bộ lông đẹp. Con hươu, con nai chết vì thịt thơm ngon, “mỹ nhân bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân”, “ngu si hưởng thái bình”, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, kẻ nghèo khổ “ăn cơm với cáy ngáy o o, ăn cơm với thịt bò lo ngay ngáy". Vua ngủ với cung tần mỹ nữ trong màn loan chướng huệ không sướng hơn gì kẻ ăn mày ngủ với nhau nơi đầu đường xó chợ. Trạng Quỳnh bắt nhà vua nhịn đói gần chết, nên khi cho ăn món mầm đá thấy ngon hơn sơn hào hải vị.
Hoạ phúc luôn bù trừ nhau như truyện “Ngựa tái ông”: lần thứ nhất mất ngựa tưởng hoạ, lại thành phúc vì con ngựa cái rủ ngựa đực về thành đôi. Được ngựa là thành hoạ, vì anh con trai cưỡi ngựa lại bị đá què chân. Cũng vì đá què chân, anh con trai không bị đi lính. Trong khi đó trai làng đều bị chết trận.
Luật bù trừ là công bằng tuyệt đối. Cái áo cuối cùng loài người mặc không cần có túi để mang theo danh vọng và tiền tài xuống âm phủ:
“Áo quan không túi không quần
Mặc đều vừa vặn không cần số đo”
Con người trần truồng ra đời, rồi cũng trắng tay ra đi:
“Vua Ngô 36 cái tàn vàng
Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì
Chúa Chổm uống rượu tì tì
Chết xuống âm phủ chẳng có gì mà mang”
Tỉnh say, sống chết, buồn vui chỉ là một hằng số, chỉ vì không hiểu luật bù trừ nên có nhiều người sinh mê lú. Cái chết, đó là sự công bằng, sự bù trừ tuyệt đối của tạo hoá. Hãy ngắm những ngôi mộ bầy ra như hộp lịch ta sẽ thấy hết tánh không của bù trừ.
LUẬT VÔ THƯỜNG
Hê-ghel luận biện chứng Pháp, đạo Phật bàn về lẽ vô thường. Lão Tử nói: “ta vô vi mà dân tự hoá”. Triết gia Hy Lạp bảo: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Nội dung kinh dịch chỉ trong chữ thời: “Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ kém ai. Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế”.
Số mệnh con người cũng vô thường, cũng diễn biến theo thời. Cứ mười năm một lần số mệnh có thể chuyển từ hung sang cát. Mệnh nước ba mươi năm thay một lần. Tư Mã Ý tâu với Tào Phi: “Ba mươi năm trước ta thua Thục, thì nay ta sẽ thắng Thục”. Lịch sử cận đại Việt Nam cũng có cột mốc: năm 1930, Xô Viết Nghệ Tĩnh; năm 1960, cột mốc “chào 61 đỉnh cao muôn trượng”, “dân có ruộng dập dìu hợp tác, lúa mượt đồng ấm áp làng quê”; cột mốc năm 1990, xoá bỏ bao cấp, khoán sản phẩm. Nhân dân cũng viết:
“Ai giầu ba họ, ai khó ba đời”
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Bao giờ dân nổi cơn qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
“Đêm dài nhiều mộng”
“Cưới vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha”
“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”
“Để lâu cứt trâu hoá bùn”
Không hiểu lẽ vô thường, cho nên có kẻ đi thuyền rơi kiếm, đã vạch dấu vào mạn thuyền, để đến bến thì mò. Hai người yêu nhau, họ chân thật thề sống với nhau đến thuở bạc đầu. Khi ghét, họ lại chân thật thề bỏ nhau càng nhanh càng tốt.
Kant – nhà triết học siêu hình Đức - định lấy vợ. Ông suy nghĩ mãi về lợi và hại. Đến khi ông quyết định lấy vợ, thì người yêu đã có chồng và bốn con. Tạo hoá biến đổi từng giây, mặt trời hôm nay không giống mặt trời hôm qua. Phan Bội Châu: “Nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân”, kẻ sỹ ba ngày gặp nhau phải thấy điều mới, “nhất hồi niêm xuất, nhất hồi xuân”.
Hôm nay, cô gái đồng ý lấy ta, không có nghĩa chắc chắn ngày mai cô đó bất biến, vì đêm dài lắm mộng. Hiểu lẽ vô thường “đêm dài lắm mộng”, dân gian dậy ta phải tự quyết định ngay số mệnh mình:
“Cưới vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha”
Mọi sự đều vô thường. Người khôn đừng cho là mãi mãi sẽ khôn, biết đâu lẽ huyền vi, sự biến đổi “khôn ba năm, dại một giờ” đến nỗi thân bại danh liệt. Và cái gì cũng sẽ biến động, cùng tắc biến, biến tắc thông. “Hết khôn dồn đến dại”, “yêu nhau lắm, cắn nhau đau”. Số mệnh luôn biến hoá từ hung sang cát, con người phải hiểu để tuỳ thời hành xử.
Hiểu lẽ vô thường, vạn pháp do âm dương tạo thành, hoạ phúc cũng do âm dương biến hoá mà ra:
“Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo thuyền như nước
Đổ mắm đổ muối
Đổ chuối hạt tiêu
Đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải chịu”
Niêu cứt gà đổ vào nhà này, cũng như tai hoạ của nhà kia, lúc nào cũng sẵn sàng đến với ta. Hãy bình tĩnh đón chờ cái ngẫu nhiên trong tất nhiên. Biết vậy thì “cười người chớ có cười lâu, cười người hôm trước hôm sau người cười”. Và “ăn mày là ai, ăn mày là ta, vì chưng đói cơm rách áo hoá ra ăn mày”. Đấy là mệnh trời.
Số mệnh con người lấy tâm làm gốc, còn tất cả chỉ là ngoại vi. Người làm chính trị tìm cái bên ngoài, đạo học tìm cái bên trong.
Khi tâm lệch, mệnh số sẽ ngả nghiêng.
Dân gian hiểu số do tâm, làm việc thiện thì giờ nào cũng là giờ đẹp, làm việc ác thì không có giờ đẹp. Và hẹn ngày không bằng gặp ngày. Cưới xin chọn giờ để chạy tang là đạo đức giả.
Hai người đi kiện đều chọn giờ đẹp để cùng thắng (!). Vậy ai thua? Còn ông quan nhận tiền hối lộ đâu có chọn giờ mà đều được tiền?
“Chôn chọn giờ, cưới chọn giờ
Yêu nhau chọn lúc bất ngờ gặp nhau
Làm nhà chọn hướng trước sau
Hôn nhau chọn chỗ gặp nhau tình cờ”
Yêu nhau, hôn nhau là linh thiêng nhất, là cội nguồn của cưới thì chẳng ai xem yêu nhau vào giờ Tý, giờ Thân hay giờ Hợi là giờ đẹp, hoặc hôn nhau theo hướng đông, hướng tây hay hướng bắc mới hợp với tuổi.
Luật phong thuỷ theo thiền cũng chỉ có ở trong tâm. Làm nhà theo hướng nào mà giữ được nhân hoà, thì đấy là hợp với phong thuỷ nhất.
“Ở đâu ăn ngon ngủ ngon
Ở đấy phong thuỷ không còn đâu hơn
Phong thuỷ không ở đâu xa
Phong thuỷ chính bởi nhân hoà sinh ra”
Lấy nhân hoà, lấy tâm làm cội nguồn của số mệnh, ta mới thiền định, tâm không vọng động, khỏi lầm lỡ cuộc đời.
Mệnh theo số, số theo trời
Còn lòng em lại theo người em yêu
THIỀN DÂN GIAN