Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 06, 2024, 06:40:30 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: MỘT SỐ NHÀ VĂN CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT  (Đọc 7047 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:03:36 PM »

Cây bút, đời người
Vương Trí Nhàn
Nghiêm Đa Văn
và rất nhiều dang dở


Hồi chúng tôi cùng học Đại học Sư phạm, sinh viên gần như là bắt buộc trăm phần trăm phải ở nội trú, nhưng không hiểu sao Nghiêm Đa Văn vẫn xin được đặc cách ở ngoài cùng gia đình, hàng ngày dong xe vào trường. Ở Hà Nội những năm ấy, một chiếc xe đạp còn là rất quý, cả cuộc đời cán bộ nhà nước nhiều khi rút lại chỉ thấy treo trước mắt cái ước mơ là được mua cung cấp với giá rẻ một chiếc xe Thống Nhất. Vậy mà Văn đã sớm xoay đâu được một chiếc xe riêng, tôi không nhớ của Tiệp hay của Trung Quốc nhưng chỉ biết chắc là loại xe trâu rất thô. Nhìn Văn ngồi xe thật buồn cười: Không chút mặc cảm rằng mình đang ngự trên một chiếc xe cà tèng thảm hại, mặt anh thường vẫn cứ ánh lên một thứ vênh vênh không hề đáng ghét mà là đáng yêu lạ. Và Văn cười, nét cười còn hơi trẻ con, dường như muốn nói với cả bọn: “Chúng mày trông tao có oách không?”.

Về sau, gặp lại nhau trong nghề làm văn làm báo, có khi mỗi tuần ngồi với nhau vài buổi ở căn nhà 330 Khâm Thiên của Văn hoặc kéo về căn gác trên phố Phan Bội Châu của Lâm Quang Ngọc, cùng với những Trần Hoàng Bách, Trần Cương, Nguyễn Vĩnh, Nguyễn Lâm tức Lâm “râu” đôi khi có cả Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ..., cái cảm tưởng nhìn Văn đi xe đạp hôm trước càng đậm lên trong tôi. Nghĩa là trong văn chương, Văn cũng có chút vênh vênh đáng yêu như vậy: “Ồ, các con trời cứ chờ đấy, tao sẽ ra tay!”. Cái câu tuyên bố xanh rờn ấy của Văn không nhằm răn đe ai, cũng chẳng phải một thứ kiêu ngạo gì, chẳng qua là một kiểu tự động viên mình. Viết lách là chuyện khó. Nhưng đừng có hù doạ tôi! Trong nghề này, mỗi người có cái duyên riêng của mình, không ai thay thế được ai. Vậy thì, cứ chờ đấy, các anh sẽ được xem tôi lật con bài của tôi, hay dở tôi chịu.



Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:04:34 PM »

Rút lại, cái điều Văn muốn nói ghê gớm như thế, mà cũng chỉ là như thế. Trước con mắt một người sống chỉ biết thu mình lại nặng về e dè sợ sệt như tôi, cách cư xử của Văn gắt quá, mạnh quá, tôi không đủ sức làm theo, nhưng trong thâm tâm, thấy thật hấp dẫn: Hãy chủ động làm lấy số phận văn chương của mình. Ngoài ra mọi sự khiêm tốn vờ vịt chẳng giúp được ai có tài hơn, do đó, đáng yêu hơn chút nào hết!

Hình như có lần Nguyễn Khải đã viết đại ý một người đến với nghề văn như thế nào thì về sau sẽ ở lại với nghề theo kiểu như vậy.

Nhớ chuyện ngày xưa, Nguyễn Tuân từng đã kể mình từ biệt tỉnh Thanh ra đi với tâm sự “Rồi đời sẽ xem. Đời sẽ xem chúng tớ húc đầu vào ánh sáng. Chúng tớ là những cục vàng mười. Chỉ có cái hòn than tây ở ngoài ấy mới thử được cục vàng mười này thôi”.

Ngoài ấy nói ở đây là Hà Nội. Ông Nguyễn lúc ấy đang còn trẻ và đầy hiếu thắng đã “khoái trá vô cùng khi được vứt lại cả cái tỉnh nhỏ ra đằng sau mông của mình “(Đôi tri kỷ gượng).

Con đường của Nghiêm Đa Văn và một số những người bạn cùng tuổi chúng tôi những năm trước chiến tranh thì có khác. Trước tiên phải ra khỏi Hà Nội đã rồi mới trở về thủ đô sau. Chúng tôi chấp nhận đi đường vòng.

Lâm Quang Ngọc kể: Học xong lớp 10 (tương tự như lớp 12 về sau), Văn rủ Ngọc đi lao động ở Thái Nguyên. Bọn bất tài mới phải vào đại học, còn tao với mày chúng ta là những ông Gooc-ki rồi chỉ có viết thôi, Văn không úp mở gì, nói thẳng như vậy.

Vào những năm cuối thế kỷ XX này, trong hoàn cảnh đất nước lo làm ăn kinh tế và mở cửa để đón nhận mọi thành tựu khoa học kỹ thuật thì trước mắt người thanh niên mở ra nhiều con đường lập nghiệp khác nhau và số người tính chuyện viết văn hình như chẳng là bao; nhưng vào khoảng những năm sáu mươi bảy mươi thì nghề văn oai vệ và hấp dẫn lắm. Muốn có một cái tên để cho người đời nhớ mà lại sang trọng thơm tho, tốt hơn hết có lẽ là cầm lấy cây bút.

Song một trong những tiêu chuẩn đầu tiên, và chắc chắn tiêu chuẩn quan trọng nhất của nghề văn lúc này phải là sự từng trải kinh nghiệm sống. Nôm na mà nói, giá anh không sinh trưởng ở thành phố mà lớn lên từ những vùng quê xa xôi, không tỏ ra thành thạo sách vở mà thạo cuộc sống của những người lao động thì dễ được chấp nhận nhất. Lịch sử văn học nửa sau thế kỷ XX còn ghi lại bao nhiêu trường hợp của những thanh niên từ nông thôn lên và sau này sẽ làm chủ văn đàn. Họ là những Lê Lựu, Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật...

Một cách bản năng, những thanh niên lớn lên ở Hà Nội như Bùi Minh Quốc, Trần Nhật Lam cũng như Nghiêm Đa Văn, Hoàng Hưng... hiểu ngay cái điều mà xã hội yêu cầu. Theo lời kêu gọi của báo chí, họ nhập vào những đoàn quân đi vỡ đất hoang, lên công trường... Và nhanh chóng, Bùi Minh Quốc được nhiều người biết tiếng với bài Lên miền Tây:

Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi

Lên miền Tây vời vợi nghìn trùng

Ơi miền Tây ở dưới xuôi sao nghe nói ngại ngùng

Mà lúc ra đi lửa trong lòng vẫn cháy

 Cái tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy

Thì xa xôi gấp mấy cũng lên đường

Sống ở thủ đô mà dạ để mười phương

Ngàn khát vọng chất chồng mơ ước lớn

Đây miền Tây núi rừng dang tay đón

Những con người sung sướng nhất trần gian

Là được lên đây đem sức lực căng tràn

 Với sứ mệnh vinh quang là vỡ đất

Nhưng rồi Bùi Minh Quốc cũng trở về để học Đại học Tổng hợp. Mà Văn với Ngọc của tôi thì về học Đại học Sư phạm. Đằng nào thì cũng là một cách để học thêm một ít kiến thức và chờ ngày nhảy ra viết lách.

“Chỉ thi chơi thôi không ôn ngày nào, vậy mà cũng đỗ”, sau này Văn vẫn thường biện hộ cho cách sống ào ào của mình bằng cách nhắc lại kinh nghiệm như vậy. Và người ta có thể tin được điều này nếu biết rằng thời ấy trường Đại học Sư phạm điểm không lấy gì làm cao bởi lúc đầu chỉ học có hai năm để đi dạy cấp ba, sau hình như thấy chất lượng yếu quá nên mới cho học thêm một năm nữa.

Cái niên học 1963-1964 đối với chúng tôi là một thời điểm rất lạ! Chắc chắn không ai dự đoán nổi rằng ngày 5-8 Mỹ sẽ ném bom miền Bắc và một giai đoạn lịch sử mới bắt đầu. Nhưng lòng người thì tự nhiên đã có một chút gì nhộn nhạo. Chúng tôi băn khoăn về nỗi không biết ra trường chúng tôi sẽ được ném đi đâu. Như thể có một bàn tay của số mệnh đang dăng ra và chúng tôi thì giãy giụa không chịu. Tôi nhớ mang máng một câu trong Hoàng Lê nhất thống chí “lòng người ao ước sự loạn lạc”, và tuy không biết rõ ràng nhưng cứ thầm ước ao là có một cách nào để mình chưa phải đi dạy học ngay thì tuyệt biết bao nhiêu. Có lẽ là đồng lương lúc ấy đã quá thấp và trước mặt người thanh niên mọi con đường kiếm tiền chưa mở ra rộng rãi như bây giờ, nên chúng tôi không muốn sớm bị bắt vít lại ở một công việc cố định. Giá kể được đi đây đi đó để vùng vẫy một hồi mà cũng là hiểu biết thêm thì có tới cùng trời cuối đất chúng tôi cũng không ngại.

Không ai nói ra miệng nhưng giờ đây nghĩ lại thấy không chừng đấy cũng là một lý do khiến chúng tôi hào hứng đến với chiến tranh từ những ngày đầu.

Lệnh động viên, gọi một số đi nghĩa vụ quân sự đến với cái lớp văn III thật đúng lúc. Một tốp gồm những Phạm Tiến Duật, Tô Hoàng, Nguyễn Đình Ánh, Vương Trí Nhàn v.v... đội mũ đeo sao lên trấn thủ Tây Bắc, và không phải ngẫu nhiên trong số này một tỷ lệ đáng kể sẽ bắt đầu hí hoáy viết văn.

Còn Nghiêm Đa Văn được phân công vào dạy học ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cũng đất lửa chứ có phải vừa đâu, so với cánh bộ đội Tây Bắc chúng tôi, ai khổ hơn ai mà cũng là ai có thực tế hơn ai thật không dễ dàng phân định, có lẽ vì thế, mà cũng như chúng tôi, cái cơn cớ để lao đầu vào viết lách ở Văn càng mạnh. Báo Văn Nghệ bắt đầu có đăng thơ của người thày giáo trẻ. Tuyển tập thơ mang tên Sức mới ra đời năm 1965, rồi sau đó tuyển Thơ ba năm chống Mỹ đều lấy bài Đàn trâu Nghệ của Văn. Rồi Văn viết truyện ngắn Ngã ba đất đỏ. Cho đến khi được gọi về làm báo Người giáo viên nhân dân thì Nghiêm Đa Văn của chúng tôi chưa mô phạm lên được bao nhiêu mà vẫn còn nhiều nét của anh sinh viên văn III hồi nào, chỉ riêng cái mộng văn chương là lại càng cháy bỏng hơn bao giờ hết.

Nhà văn Vũ Bằng trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo từng đã định nghĩa một cách đơn giản văn chương chữ nghĩa là một thứ không trường không thầy. Nguyễn Công Hoan, một trong những tác giả đặc biệt chú ý mẹo mực khi sáng tác (có nghĩa là một bực thầy về kỹ thuật) lại càng thích nhấn mạnh rằng không cần học, không có gì phải lo học. Trong hồi ký Đời viết văn của tôi, ông nhắc đi nhắc lại một lời khuyên mà ông coi như chân lý ấy là nếu thích viết văn thì phải mạnh dạn viết, như người muốn biết bơi phải nhảy xuống nước chứ cứ ở trên bờ mà nghe giảng về bơi (ý nói đọc các loại sách lý luận) thì cả trăm năm cũng không biết bơi. Vào khoảng thời gian mà những cây bút trẻ thời chống Mỹ bắt đầu viết, những cuốn hồi ký nói trên chưa được in ra. Nhưng cái tinh thần vô chiêu ấy là tinh thần chung mà giới viết văn ở ta vẫn ngầm lưu truyền từ lớp này sang lớp khác và đến thời chúng tôi bắt tay vào viết thì các bậc đàn anh càng thích nói ra công khai. Thành thử nó cũng đến với các bạn của tôi một cách tự nhiên, và quả thật có tạo nên một nguồn cảm hứng mạnh mẽ có ý nghĩa kích thích.

Lấy ví dụ trường hợp một cây bút cùng tuổi với chúng tôi, mà lại xuất thân từ hoàn cảnh khác, tức đi một con đường khác, mãi sau 1975 bọn tôi mới có dịp gặp, đó là nhà văn Thái Vượng. Ít lâu sau khi Thái Vượng qua đời, một người bạn cũ là Vũ Đình Minh có nhắc lại nhiều kỷ niệm về con người này. Trước mắt chúng ta là một Thái Vượng đến với văn chương cũng từ rất sớm, và phải nói cũng đầy ảo tưởng:

“Năm 1958, Thái Vượng từ Lập Thạch về học lớp 8 trường cấp II-III Trần Phú, thị trấn Phúc Yên huyện Mê Linh, Vĩnh Phú (...). Thái Vượng học kém, nhất là các môn khoa học tự nhiên. Suốt ngày anh cởi trần, hì hục viết lách. Sau đó, tôi thấy anh đưa xem cuốn vở học trò, dày độ 48 trang mà anh gọi là tiểu thuyết với nhan đề kẻ vẽ kỹ ở ngoài bìa: Đôi uyên ương. Tôi đọc thấy bi luỵ, kiểu mức tập tọng của văn chương Tự Lực văn đoàn. Nhưng mãi về sau, khi tôi giễu cợt cái điều ấy, anh trợn mắt: “Cuốn đó bọn con gái Lập Thạch xé ra từng trang để đọc rồi học thuộc lòng đấy!” (...) Học kỳ hai năm lớp 8, anh đột ngột bỏ học, có lẽ vì không thể chịu đựng nổi môn Toán. Anh ghi vào sổ lưu niệm của tôi: “Hẹn sẽ cùng nhau sánh bước trên văn đàn Việt Nam” (báo Văn nghệ 14-12-96).

Mẫu người Thái Vượng mà Vũ Đình Minh nói ở đây cũng là mẫu chung của lớp nhà văn trẻ mà nay một số sách vở vẫn gọi là lứa chống Mỹ. Có thể bắt gặp cái nét chung đó ở nhiều người khác. Nếu như những năm ấy, Đỗ Chu hiện ra như một thanh niên vùng quê Kinh Bắc tài hoa, duyên dáng trong cách nói năng, nếu như Triệu Bôn cũng nông dân nhưng lại là thứ nông dân gan lỳ chắc thiệt thì một số bạn bè khác như Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Anh Ngọc... còn nhiều chất của cánh học sinh Hà Nội chỉn chu, sách vở; riêng Nghiêm Đa Văn thì lại là hiện thân của thứ nhất quỷ nhì ma bạt mạng: tưởng lông bông mà không việc gì không thử làm; nhố nhăng mà lại rất tình nghĩa; chẳng chuyên sâu vào cái gì cả nhưng hình như cái gì cũng biết và thường xuyên nhởn nhơ cười cợt ngay trong sự tháo vát của mình.

Mới mon men vào đời và vừa võ vẽ đọc dăm quyển sách mà dám đến với nghề văn, tức đã là loại điếc không sợ súng, tay không lao thẳng vào văn đàn rồi - nói chung nhiều người chúng tôi có ai kém ai về những mơ mộng hão? Song Nghiêm Đa Văn mới thật là tay tổ trong sự liều lĩnh. Thứ nhất, tuốt tuột mọi nghề từ âm nhạc, sân khấu, tới điện ảnh, xiếc... không việc gì đối với Văn bị coi là khu vực cấm. Văn cộng tác với nhạc sĩ Mộng Lân làm nhạc cảnh và nhạc cảnh này được giải thưởng của Hội Nhạc sĩ. Văn viết cả kịch bản phim hoạt hình và có vài ba kịch bản phim truyện đã được in ra... Thứ hai, ngay trong khu vực chữ nghĩa, Văn cũng lăn từ thể loại này sang thể loại khác. Làm thơ thì là chuyện tự nhiên rồi, nhưng Văn còn viết truyện ngắn (tập Ngã ba đất đỏ) và hàng loạt tiểu thuyết như Tầm cao năm tháng, Gió mặn...

Lâm Quang Ngọc, lúc ấy đã đánh tháo được khỏi việc dạy học ở một trường phổ thông để chuyển sang ngành điện ảnh và cũng như Văn lúc làm thơ lúc viết truyện, Lâm Quang Ngọc hay ngỏ ý vừa thắc mắc mà cũng vừa khâm phục: “Tao không hiểu thằng Văn nó viết vào lúc nào nữa!”. Văn đắc ý, càng cười hì hì, những ngày hè cởi trần thân hình ngồn ngộn như một phản thịt.

Ngỡ một người như thế sẽ không biết lao tâm khổ tứ là gì, có hay đâu, với một chiếc máy chữ cọc cạch, Văn có thể lọ mọ cả đêm viết đủ thứ, và thứ gì cũng in dấu tài hoa.

Nhưng có lẽ không ở đâu, cái võ công “không biết mặc cảm” ở Văn lại có khả năng giải phóng một sức sáng tạo kỳ lạ như trong lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử. Dù không chuyên tâm khảo sát kỹ lưỡng nhưng ai người quen bắt đầu mọi sự hiểu biết bằng sách vở hẳn cũng hiểu rằng muốn viết được loại truyện này phải đọc thiên kinh vạn quyển. Bởi vậy tôi không khỏi ngạc nhiên khi đến nhà Văn chơi nhìn quanh căn phòng phải nói là rộng rãi chỉ thấy mấy cuốn sách lịch sử loại đã quá cũ vứt lổng chổng chân giường, góc bàn và hình như tuy cũng giở ra luôn nhưng chủ nhà chưa đọc cuốn nào đến trang chót. Đã thế, tôi còn được ngớ người ra khi nghe Văn tuyên bố một câu xanh rờn: Viết tiểu thuyết lịch sử là dễ nhất vì tha hồ bịa. Văn đưa ra dẫn chứng: trong khi đi hỏi thêm vài chi tiết có liên quan đến nhân vật lịch sử nọ (một người cũng mới qua đời khoảng 1930), Văn được hai địa phương khác nhau cung cấp những dữ kiện hoàn toàn ngược nhau. Trở về Văn mừng lắm, trong bụng chắc mẩm rằng bịa đến mấy cũng không sợ bị ai hạch.

Theo dõi bước đi của bạn, chúng tôi chỉ thầm bảo nhau: cũng là một cách tồn tại trong văn học.

Nên nhớ là hồi chiến tranh và những năm sau 1975 việc in sách là nằm trong kế hoạch nhà nước, việc sử dụng giấy là theo quy định chứ không phải ai cũng có quyền bỏ tiền in sách miễn làm đúng luật định như sau này. Văn của chúng tôi đã bắt trúng một yêu cầu của đời sống lúc ấy nên sách của Văn mới được in như vậy.

Một lý do nữa khiến bọn tôi dù thích hay không cũng phải chấp nhận sáng tác của Nghiêm Đa Văn: anh đã viết đúng như anh đã sống.

Mặc dù đã trải qua những giây phút lịch sử là cái không khí sôi động của Đại thắng mùa xuân và đất nước thống nhất, song nhịp sống của Hà Nội những năm sau 1975 đại khái vẫn như những năm chiến tranh: vẫn những chiếc xe đạp chậm rãi đi về trên những đường phố yên tĩnh. Sự sôi động có xảy ra với những chuyến nhân dân cán bộ kéo nhau vào Sài gòn “nhận họ nhận hàng” mà nhà văn Nguyễn Khải một lần đã nói đùa với tôi là một dịp để cả nước được đi nước ngoài. Song một vài cái mô-bi-lét cá xanh chưa làm cho đường phố ồn ào là bao, cũng như tiếng hát Khánh Ly Trịnh Công Sơn chỉ mới cất lên từ những bộ A-kai cổ lỗ không làm cho những nếp nhà tường vôi cũ kỹ có được không khí như sau này. Nhìn vào cái sự ăn uống thì lại càng rõ. Ở trên tôi đã nói là có thời gian tuần nào chúng tôi cũng vài ba lần tụ tập với nhau ở nhà Văn hay nhà Ngọc. Để bàn về sự viết lách. Để thông báo với nhau về vài cuốn sách mới đọc, kể từ những cuốn sách triết học hiện đại đến những bộ chưởng của Kim Dung, tất cả đều từ Sài gòn mang ra. Câu chuyện thì sang trọng hơn xưa song cái chất để dẫn chuyện thì vẫn tầm thường lắm, chỉ có ít rượu ngang đắng ngắt với vài chục ngàn tiền lòng cho đâu bảy tám mống cả đàn ông lẫn đàn bà. Ấy vậy mà theo tôi nhớ là chuyện rất vui mà người thấy hể hả nhất phải kể là Nghiêm Đa Văn. Một sự dễ dãi thường trực nơi Văn, hình như anh ăn thế nào cũng được mà ở thế nào cũng được. Hơn thế nữa anh có cả một triết lý chỉ đạo cho sự bằng lòng cuộc sống của mình. Anh vừa cười vừa bảo với tôi:

- Chỉ có những người anh hùng với những thằng điên mới tính chuyện thay đổi cuộc đời. Chúng mình không phải loại thứ nhất cũng không phải loại thứ hai, chúng mình hãy cứ sống như mình đang có!

Còn đây là chuyện lê la trên đường của Nghiêm Đa Văn do một bạn trẻ hơn là anh Trần Đình Nam (từng có thời gian là học trò Văn ở trường cấp III Đức Thọ) ghi lại:

 
Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:05:03 PM »


“Cái quán bia phố Cổ Tân chiều hôm ấy đông như một buổi chợ phiên. Nếu không phải dân nhậu thật khó mà hiểu được tại làm sao hàng trăm con người lại ngồi cắm cọc trên một đoạn vỉa hè xi-măng nóng hầm hập, mồ hôi mẹ mồ hôi con cứ ô-tô-ma-tích bò ra ướt sũng cả quần lót áo lót, rồi ướt ra quần dài, áo sơ mi chỉ để uống vài cốc bia, nhá vài lát ngẩu pín, nói vài câu chuyện tầm phào. Trên cái bãi người ướt sũng bị cái nắng mùa hạ hầm cho chín nẫu ra ấy là một đám khói thuốc lá vần vụ như một đám mây. Thầy Văn mặt đỏ mọng, cười nói oang oang như một anh xích lô chuyên nghiệp. Thầy là con người của đám đông. Thầy mê mẩn những bãi bia quán rượu tạm bợ, chật cứng người, những câu chuyện không đầu không cuối. Hoà vào đám đông, thày như cá gặp nước. Sau này, ngày nào tôi cũng thấy thầy đạp xe lêu têu ngoài phố như một gã vô công rồi nghề” (Ba lần uống rượu với thầy Văn, bài đăng trên báo Văn nghệ Bà Rịa-Vũng Tàu).

Dân dã, tầm thường, ngầu đục bụi bậm, bám sát vào mặt đất – cái cách ăn uống và nói chung là cách sống của chúng tôi đã thế thì văn chương của chúng tôi như thế, có gì trái quy luật đâu mà ngạc nhiên! So với chúng tôi, Nghiêm Đa Văn chỉ trắng trợn hơn tí chút, bất cần hơn tí chút chứ anh cũng là sản phẩm của hoàn cảnh như tất cả chúng tôi vậy.

Những chuyện tôi vừa kể trên chủ yếu liên quan đến những năm chống Mỹ, và kéo dài ra khoảng chục năm sau, tức tới giữa những năm tám mươi... Rồi sự thay đổi đã tới. Một không khí bình lặng tưởng như đã bắt rễ vào đời sống và mãi mãi như thế hoá ra cũng có lúc bị đẩy vào quá khứ. Đời sống hiện đại là gì? Là đường phố lúc nào cũng rồ lên tiếng xe máy. Là những mặt người sát khí đằng đằng lao đi kiếm sống. Là những quán ăn đẹp đẽ sang trọng như nơi vui chơi của các ông hoàng và những cửa hàng sách đủ loại best-seller dịch vội dịch vàng bản in rất nhiều lỗi chính tả... Cái áp lực đó của đời sống cố nhiên cũng làm cho giới viết văn của tôi xao động hẳn lên và một người nhạy cảm như Nghiêm Đa Văn làm sao có thể ngồi yên. Từ những năm thời chiến theo dõi sáng tác của Văn, tôi sớm nhận ra một điều: anh làm thơ ít dần, và về sau gần như bỏ hẳn thơ. Nhưng điều đáng nói là ở chỗ chính anh đã cố ý làm vậy. Một lần nhân có chuyện gì đó liên quan đến Lưu Quang Vũ, Văn buột ra lời thú nhận: “Một trong những thằng khiến tao bỏ thơ chính là thằng Vũ”. Như thế nghĩa là thế nào? Là Văn của tôi chả lơ mơ gì cả. Anh luôn luôn vừa sống vừa quan sát những người chung quanh. Anh không hề có ảo tưởng về mình. Và trong cái sự gọi là bèo dạt mây trôi lang chạ kiếm ăn anh vẫn có những sự tính toán nghiêm chỉnh. Trong khi luôn mồm tuyên truyền cho sự thích ứng thì anh vẫn âm thầm chuẩn bị cho những thay đổi mà không cần lớn tiếng ráo trước một lời nào hết. Trong Văn vẫn có một người anh hùng chưa chịu chết hẳn!

Nhưng đến cái lần anh bỏ luôn cả nghề văn thì đối với chúng tôi quả là một sự lạ lùng không ai lường trước được.

Trước sự tấn công của kinh tế thị trường, bao nhiêu giá trị thay đổi huống chi là giới cầm bút? Từ lúc nào không rõ, trong đám bạn bè chúng tôi, sự khảng tảng bắt đầu xuất hiện, và tới giữa những năm tám mươi, thì tán loạn mỗi người một phương; thậm chí có khi vẫn là người ấy, và anh ta vẫn quanh quẩn giữa đám làm nghề, nhưng đã hoá ra “không phải mình nữa”, tự mình mất hút ngay trong cái làng văn tưởng rất bé nhỏ này. Người đi viết sử cho các nhà máy xí nghiệp để lấy mỗi cuốn vài chục triệu. Người đi làm phim viết kịch với nghĩa làm hàng chiều lòng các ông chủ tỉnh nhỏ. Người chuyên đi bình thơ nói chuyện theo giá thoả thuận... Lại có cách mất hút với nghĩa rõ ràng hơn mất hút vào chuyện làm ăn buôn bán. Theo lời kể của Chu Lai (trong một bài viết in trên Văn nghệ quân đội 12-1996) thì Thái Vượng mà ở trên tôi có nhắc, nhà văn Thái Vượng trở về sau chiến tranh và tâm huyết đầy mình ấy trước khi mất cũng đã sớm tính lại cuộc đời “Sách của anh vẫn in truyện ngắn, vẫn cho ra đều đều nhưng trong con mắt đa cảm của anh đã vắng đi nhiều lắm cái ánh tự tin và mơ mộng. Có lần trong một bữa rượu, anh đã ngậm ngùi nói: “Mình thua rồi. Thua cả chất lượng lẫn số lượng rồi”. Thay vào đó,cuộc mưu sinh lôi cuốn Thái Vượng. “Với sức khoẻ trời cho, anh lang bạt khắp nơi. Khi một mình chống bè xuôi thác dữ, khi mượn xe máy của bạn bè lên tận nẻo biên cương, khi lại nhảy tàu hoả vào tận những nơi thâm sơn cùng cốc”. Về phần mình, Nghiêm Đa Văn cũng bắt đầu một hành trình dài dặc và rắc rối tương tự. Có hồi nghe bảo anh đang làm tham mưu, cố vấn gì đó, xách xe chạy suốt ngày để giúp việc cho một ông trùm bên điện ảnh. Lại có hồi nghe anh chuyển đi làm kinh tế, các-vi-dít đề rõ là chuyên viên thương mại, trông nom quyền lợi cho một công ty nào đó tận trong Nam. Tôi được nghe kể là trong giới âm nhạc có một nhạc sĩ sáng tác cũng giỏi mà buôn bán bất động sản cũng tài, ông đã tổng kết một cách chí lý rằng sáng tác thì thanh cao mà việc kiếm tiền thì đầy sức quyến rũ. Song trong thiên hạ may ra được một vài người văn võ song toàn như người nhạc sĩ kỳ tài ấy. Còn với số đông các nghệ sĩ, bao gồm cả giới cầm bút, tôi chỉ thường xuyên chứng kiến một sự nông nổi tưởng mình làm gì cũng được, và lúc nào cũng tự nhủ giá mà thế nọ, giá mà thế kia, chứ vào cuộc là ngã ngựa! Nghiêm Đa Văn của chúng tôi cũng không thoát khỏi ảo tưởng đó. Vốn người thông minh, nên anh nhìn đâu cũng thấy việc để làm. Khốn nỗi, chỉ giỏi bày mưu cho người khác, chứ toàn tính nhầm cho mình, tính nết lại nghệ sĩ, hay chạnh lòng, hay tự ái, hơi cảm thấy bị xúc phạm là vỗ đít đứng lên, nên việc gì rồi cũng dang dở, tay trắng vẫn hoàn tay trắng, mà loanh quanh mất dăm bảy năm như chơi. Hết bôn ba ở các tỉnh miền Nam, mấy năm cuối đời, Văn quay lại các tỉnh miền Bắc, nhưng lang bạt lên tận Lạng Sơn, Cao Bằng. Thỉnh thoảng gặp lại nhau trên đường Hà Nội, anh hiện ra trước mắt chúng tôi không còn cái vẻ non tơ hồn nhiên như hồi nào. “Trước mắt tôi không còn ông hộ pháp nói cười hỉ hả, luôn luôn tràn trề hy vọng nữa, mà là một thầy Văn khác, khí sắc thất thần, mặt sưng chảy, bàn tay đặt trên bàn bợt ra như tay người chết với những cái móng dài tím tái. Con người đăng ký hộ khẩu ngoài đường phố, con người phải lòng các bãi bia quán rượu tạm bợ ồn ào và những câu chuyện tầm phào không đầu không cuối, con người ấy đang ngồi đó bơ vơ đơn độc”. Gương mặt mà đầu những năm chín mươi Trần Đình Nam bắt gặp ở một quán rượu Hà Nội ấy cũng là gương mặt hiện ra trước mắt bọn tôi, những Ngọc, Vĩnh, Nghiệp, Hồng... của Văn hồi nào. Có thể dự đoán là chắc đang có một sự đổ vỡ trong anh thì phải. Thôi thì thời buổi kinh tế thị trường này, ai muốn làm gì thì làm, miễn dám gánh chịu lấy kết quả công việc, mà cái ý thức tự trọng ấy ở Văn có thừa, nên nhìn theo Văn, những người quen cũ chỉ còn biết kính trọng pha chút ái ngại.

Cuối tháng mười 1996, Văn ngã bệnh. Thận không làm việc bình thường. Từ một nơi xa, một người mới quen chở anh thẳng về Bạch Mai, đến lúc tạm đỡ bạn bè mới biết mà đến thăm. Sau đó, ra viện phải thuê một căn phòng ngay gần đấy để hàng ngày vào chữa ngoại trú, vẫn cái bệnh thận chết tiệt. Song tất cả những ngày sau đó, Văn sống trong sự đơn độc, không muốn ai biết là mình đang sống thế nào. Cho đến rạng sáng 7-6-1997, cái chết ập đến, con người có thời béo tốt bảy tám chục cân gì đó, giờ héo hon chỉ còn một nửa, ai nhìn cũng xót.

Không chút màu mè hình thức như nhiều đám ma đương thời, buổi chia tay Văn đơn sơ nhưng cảm động. Giữa một ngày hè nóng nực chỉ có những người thân và một ít anh em viết văn hoặc làm nghệ thuật cố kết với Văn từ xưa có mặt để vĩnh biệt người bạn xấu số.

Lần này thì mới thật là Nghiêm Đa Văn mất hút hẳn!

Trong những ngày cuối cùng sống trên dương gian, đã có lúc Văn có được một cái nhìn hư vô về cuộc đời mình. Người thầy giáo ấy tâm sự với học trò cũ nay đã thành một đồng nghiệp: “Thoắt cái đã ba mươi năm có lẻ. Hồi 64 vào khu Bốn dạy học, gia tài tao chỉ mỗi cái ba lô đựng vài bộ áo quần, dăm cuốn sách; giờ tao cũng chỉ có dăm cuốn sách vài bộ áo quần và cái ba lô. Ngày trước chúng mày gọi tao là thầy. Bây giờ chính tao cũng không biết gọi tao là gì nữa. Nhà văn, nhà biên kịch, nhà báo, người chào hàng, nhà doanh nghiệp cố vấn... Loanh quanh một vòng giờ lại quay về nơi xuất phát”.

     Tôi không trực tiếp được nghe những lời bộc bạch ấy của Văn nhưng tôi tin anh đã nghĩ như thế. Cuộc đời anh có nhàu nát xẹo xọ thật, nhưng suy cho cùng so với cuộc đời nhiều người chúng tôi chỉ một bên phô ra tanh bành, một bên đắp điếm che giấu chứ thực ra đâu có khác gì nhiều. Dẫu sao thì đây cũng là một con người dám nhìn thẳng vào kiếp sống của mình ngay cả khi biết chắc rằng nó không ra sao. Hơn thế nữa anh còn tính chuyện thay đổi, anh không muốn nó truồi đi giống mọi người, cái ý hướng chống chọi lại số phận ấy đáng quý lắm chứ.

Gia đình phát hiện rằng người quá cố để lại cả mấy bao tải những bản thảo chưa hoàn thành: Đúng là sự nghiệp văn chương của Văn rất nhiều dang dở. Nhưng ở một người lúc nào cũng đầy ắp những ý đồ làm việc thì cái chết nào chẳng là sự dang dở?!

Mấy hôm sau khi Nghiêm Đa Văn qua đời, đôi lúc tôi cứ nghĩ vớ vẩn: giá kể... Vâng, giá kể Văn cứ yên tâm viết lách nhì nhằng như bọn tôi thì có kém ai! Khai thác cho hết cái oai của nghề làm báo, chạy rông ở hành lang các cuộc họp, cùng nữa đến xí nghiệp nọ công ty kia vỗ vai mấy ông giám đốc nửa ngửa tay xin nửa bắt buộc người ta phải cho..., những việc ấy có gì là khó với Văn và đâu phải là chuyện Văn chưa từng làm. Sau mấy chục năm lập nghiệp vất vả giờ đến kỳ thu hoạch, cứ trì một chút là được! Rồi biết đâu chả có lúc thiên hạ lại đồn ầm lên là cái anh chàng Văn bát nháo ấy cũng đang xây nhà rồi, ồ, có thể thế lắm chứ, với Văn điều gì chả có thể xảy ra!

Song hình như tất cả những giá kể ấy là ngược với tính cách của người đã khuất. Trong sự thường xuyên thích ứng với đời, trong Văn vẫn đau đáu một niềm tin: tất cả có thể làm khác, và văn chương nếu rất thích hợp với tuổi trẻ thì cuối cùng vẫn không phải là cái lối thoát duy nhất của một người có tâm huyết.

Lại nhớ có lần Văn đã kể với tôi một cách nghiêm chỉnh:

- Chính ra các cụ đặt tên cho tao là Nghiêm Văn Đa. Nhưng tao không thích, đến lúc đi học phải làm khai sinh, mới đảo ngược lại là Nghiêm Đa Văn. Chả phải mê văn chương gì đâu, mà chỉ đảo ngược cho vui. Mày xem, có chết ai đâu?

Thế thì còn giá kể cái quái gì nữa, Văn nhỉ!
Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:47:17 PM »

ĐỜI NGƯỜI BẤT CHỢT

                            VŨ TỪ TRANG
      Nếu kể bạn bè thân nhất với Nghiêm Đa Văn, thì tôi chưa có trong danh sách ấy. Nhưng kỷ niệm về Nghiêm Đa Văn, trong tâm trí tôi lại không mờ nhạt. Độ ấy, mùa hè 1976, chúng tôi đến ngôi nhà 330  phố Khâm Thiên ( Hà Nội) thăm anh. Cái ngôi nhà mặt phố nhưng lại tụt vào, không nhô chiếm vỉa hè như những ngôi nhà khác, Nghiêm Đa Văn đang cởi trần trùng trục cúi mình gõ máy chữ. “Các ông uống nước, tôi dở tay một chút!” anh nói, mặt vẫn cúi gằm vào táp giấy dở dang trên cỗ máy. Tôi quan sát, không phải một cái máy chữ, mà trên bàn làm việc của anh có những ba cái máy chữ. Cái máy chữ nào cũng đang gài giấy, đang đánh dở dang. Cạch ! Cạch ! Cạch !.. Đến mươi phút sau , anh mới thở phào và quay ra bàn uống nước tào lào phào với chúng tôi. Độ ấy, tôi nhìn cách thức làm việc của anh mà ghê quá ! Thì ra ba cái máy chữ, để viết ba thể loại khác nhau. Cái viết thơ. Cái viết văn. Cái viết phê bình. Nếu bí bài nào, cứ việc để nguyên trên máy, quay ra gõ máy khác, bài khác. Hứng lên, lại quay trở lại, gõ tiếp bài dang dở kia, không bị đứt đoạn cảm xúc.
      Xem ra, cách thức làm việc của Nghiêm Đa Văn lúc đó đã quá hiện đại với con mắt tôi. Khi mà tôi tập tọe viết lách bằng cái bút bi nhòe nhoẹt nét được nét chăng, thì anh đã viết bằng máy chữ lâu rồi. Cái ghê gớm hơn, là một lúc anh tư duy được mấy thể loại, với mấy luồng cảm xúc đan chéo. Năng lực sáng tạo của anh phải dồi dào lắm mới làm việc theo kiểu đó được. 
   
      Nghiêm Đa Văn là người có vóc dáng to lớn, lại thuộc dạng ăn sấm nói sét. Bạn bè gặp Văn thì không thể không vui được. Cái chất tếu táo của Văn, tôi ngỡ chẳng bao giờ anh phải buồn.
       Trước đó, Văn từng làm nghề giáo viên. Anh là thầy giáo dạy cấp III. Học xong đại học sư phạm, Văn xin vào dạy học tận Đức Thọ, Hà Tĩnh. Cái huyện miền núi đang mù mịt khói đạn khói bom của cuộc chiến tranh chống Mỹ, đã cuốn hút anh. Thầy giáo Nghiêm Đa Văn trẻ trai, mặc quần áo màu cỏ úa, cùng học trò lăn lộn đào hầm, đắp tăng-xê trú ẩn và giảng rất hay những vần thơ Nguyễn Du, Nguyễn trãi cho các em học trò ngồi ngẩn ngơ nghe. Sau những giờ lên lớp, thầy Văn lại cùng học trò tăng gia trồng sắn trồng khoai. Đấy là giai đoạn chiến tranh chống Mỹ vào thời kỳ căng thẳng nhất. Trước cái sống cái chết của bao người dân miền khói lửa ấy, đã khơi gợi cho Văn bao nỗi niềm khát khao lăn xả vào cuộc sống. Sau giờ phút giảng bài dưới tiếng máy bay thù gầm xé, đêm đêm, Văn lại ngồi chong đèn dầu hạt đỗ ghi chép và lặng lẽ làm thơ. Văn viết nhiều. Bài thơ “ Đàn trâu Nghệ ” là kết quả của một thời lăn xả vào cuộc sống gian nan, vất vả và mơ mộng ấy. Đấy là thời đáng yêu của thầy giáo Văn. Có sáng tác mới nào, Văn lại chép gửi ra cho bạn bè làm báo ngoài Hà Nội. Các bạn ngoài Hà Nội vui mừng chuyền tay nhau đọc những sáng tác mới của Văn. Người xưa từng nói: văn là người, thời điểm ấy, chúng tôi thấy câu nói ấy thật chí lý.



Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #4 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:48:03 PM »

  Không phải nói quá, mà phải thừa nhận Nghiêm Đa Văn là người tài hoa. Làm thơ, viết văn, viết phê bình, soạn nhạc cảnh... cái gì anh cũng bắt tay vào làm được. Tôi còn nhớ ngày ấy, nhà xuất bản Kim Đồng cho ra mắt bộ sách nhiều tập với tên sách “ Những đôi bàn tay khéo léo của cha ông ” viết về các bậc tiền bối mở nghề, dạy nghề làm ăn cho dân chúng, Nghiêm Đa Văn có tham gia trong nhóm biên soạn bộ sách đó. Một người đồng tác giả, nhà nghiên cứu, nhà giáo Tạ Phong Châu người cao tuổi hơn Văn, chân tình nói “ Phải chịu cái anh này, viết nhanh, viết sâu mà hóm hỉnh đáo để !” Tôi đem nhận định này, nói lại với Văn. Nghiêm Đa Văn to lớn, ngang tàng ấy lại lễ phép nói “ Ông Châu là thầy tôi đấy. Ông ấy mới là người thông tuệ và sâu sắc! ” Tôi hỏi: “ Vậy lấy tài liệu từ đâu, mà anh hiểu và viết được nhiều nghề thế?” Nghiêm Đa Văn lại vỗ đùi, cười khanh khách “ Tớ đi học mót. Phải học chứ. Đọc thiên kinh vạn quyển. Đống sách lù lù kia là tớ vừa kiếm được đấy!” Nếu tôi nhớ không nhầm, thì đã có ba bốn nhạc cảnh phát trên Đài mà anh viết lời và nhạc sỹ Nghiêm Bá Hồng làm nhạc. Có nhạc cảnh từng đi hội diễn và được giải thưởng. Tôi đem việc này ra chúc mừng anh. Anh cười hề hề “ Ồi dào, trò ăn dỗ trẻ con đấy mà!”.
       Phải nói cuốn truyện lịch sử “ Nguyễn Đức Cảnh”, Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành, do anh viết, thu hút được khá đông đảo độc giả tuổi thơ. Mà không chỉ riêng lớp độc giả tuổi thơ, ngay chúng tôi có đọc cũng phải thán phục. Nhgiêm Đa Văn dàn dựng những sự kiện trong đời hoạt động của nhà cách mạng ấy sao tài tình và hấp dẫn thế?! Văn lại bông phèng nói với chúng tôi “ Ông Cảnh người trong nhà tớ, tớ mài ông ấy ra. Ông ấy phù hộ cho tớ đấy!” Nói tếu táo thế thôi, chứ người biên tập cuốn sách đó, kể rằng anh Nghiêm Đa Văn làm bản thảo sách ấy cẩn thận và trách nhiệm lắm. Viết đi viết lại dăm lần. Hễ có chi tiết nào chưa chính xác, anh lại xin đi điều tra tìm hiểu cho đến đầu đến đũa.
       Văn đã cho ra đời mấy tập truyện. “ Ngã ba đất đỏ ”, tập truyện ngắn. “ Độ nóng mặt trời ”, truyện vừa. “ Tầm cao năm tháng ”,    “ Gió mặn ”, tiểu thuyết. Tập nào của Văn đọc cũng thấy được được. Tôi nhận thấy sức sống ngồn ngộn trong từng trang sách của anh. Tập sách viết cho thiếu nhi “ Sừng rượu thề ” là cuốn sách hay của anh. Năm 1987, tác phẩm này đã được giải thưởng văn học đề tài cho thiếu nhi của Hội nhà văn Việt Nam trao tặng.

        Nghêm Đa Văn còn viết tay trái ( theo cách nói của bạn bè ) ba ,bốn kịch bản phim truyện. Nào “ Nhịp sống hài hòa ”, “ Chuyện đời không đơn giản ”, “ Trăng rằm ”... Kịch bản được dựng thành phim, nhiều người đi xem cũng xuýt xoa khen. Như để khẳng định sự đam mê của mình, Nghiêm Đa Văn bô bô tuyên ngôn với bạn bè “ Đây là thời kỳ của xi-nê-ma. Chỉ có xi-nê-ma mới quảng bá rộng rãi với khán giả! ”. Thế rồi thầy giáo Nghiêm Đa Văn thôi không làm Báo “ Người giáo viên nhân dân ” nữa, anh chuyển sang làm phò tá cho ông Giám đốc xưởng phim truyện. Những xung đột gay cấn, những mối tình éo le, những nụ cười và những dòng nước mắt trong phim trường tưởng chừng phù hợp lắm với tính cách ồn ào của anh. Nhưng thực ra, đâu có phải vậy. Sau những tiệc tùng ồn ã của sân khấu, của phim trường, Văn trở về với bạn bè văn thơ vốn ngơ ngác, yếu đuối và khờ khạo của mình. Trong tâm khảm Nghiêm Đa Văn vẫn thấy cô đơn và trống vắng. Anh vốn mê thơ, từng lấy thơ làm sự nghiệp của mình, vậy mà Nghiêm Đa Văn chưa dám in tập thơ riêng nào. Đấy là nỗi niềm đau đáu của Văn, mà chỉ những bạn bè thân mới hiểu được. Trong một bữa trò chuyện vui bia bọt với bạn bè, Văn bốc lên tuyên bố không làm thơ nữa, vì đọc thơ của Vũ thấy hay quá. Vũ, đấy là Lưu Quang Vũ. Vũ qua  thời vinh  quang  rực  rỡ        của “ Hương cây ”, mà đang thời sống chìm nổi vật vã và viết các bài   thơ “ Cuốn sách xếp lầm trang ”, “ Mây trắng của đời tôi ”, “ Mặt trời trong nước lạnh ”...bạn bè thân truyền tay nhau đọc. Độ ấy, Văn phục, tôi cũng phục thơ của Vũ lắm.
Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #5 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:48:46 PM »

Thì ra, sau cái ồn ào, tạp nham và vênh vang giả tạo, nổi nênh bề ngoài kia, là một tâm hồn Nghiêm Đa Văn- nhà thơ vẫn còn trinh nguyên. Tôi nhận thấy, anh vẫn giữ nguyên niềm thiêng liêng đền đài với thi ca. Và có lẽ, anh vẫn tôn thờ thi ca, xếp nó vào vị trí, ngôi thứ quá cao sang, nên anh tự khó tính với mình thôi; chứ tôi nghĩ anh cứ tập hợp bao nhiêu bài thơ đã in rải rác trên các báo, thì làm gì anh chẳng có tập thơ dày dặn; mà có khi còn chững chạc hơn bao tập thơ khác trong cái xã hội văn chương nhốn nháo và ồn ã này. Tôi chợt thấy nét buồn trên khuôn mặt anh, cái khuôn mặt chợt nhìn tưởng luôn nghênh nghênh và hơn hớn ấy.


       Bây giờ nghĩ lại cuộc tay với Thúy, nữ họa sĩ, người vợ của Nghiêm Đa Văn là có lý và tất yếu. Ngày ấy, tôi không thể lý giải nổi cái tổ ấm văn nghệ ấy làm sao mà tan vỡ được. Thỉnh thoảng đến nhà Văn, đôi khi chúng tôi trùng phùng được cả Văn và Thúy ngồi tiếp. Ngày đó, với chén nước chè nhạt, điếu thuốc lá quèn, hoặc cao hơn là chén rượu tạp, đã là sang lắm rồi. Ngày đó, Văn đã là nhà báo, còn Thúy là họa sĩ của báo Tiền Phong. Chúng tôi khi ấy kẻ thì chưa có vợ, kẻ thì vợ còn đang làm y sỹ hoặc dạy học tận Bắc Ninh, Bắc Giang; hoặc làm kế tóan, làm thủ kho tận Vĩnh Yên, Việt Trì...Đa phần sống độc thân, đến thăm bạn, thấy vợ chồng bạn sống điền viên, lại cùng dân báo chí cả, thân mật thết nhau bữa cơm tuyềnh toàng là thấy hạnh phúc và ấm cúng lắm.
      Thế mà Văn và Thúy chia tay nhau thật. Chúng tôi thấy tiếc cho Văn và Thúy quá. Tôi có may mắn là được tiếp xúc với cụ thân sinh ra Thúy. Chả là, dạo đó tôi làm phóng viên Báo “ Tiểu thủ công nghiệp”, mà ông lại là người đứng đầu, Chủ nhiệm phụ trách nghành thủ công tỉnh Hà Nam Ninh. Ông cụ  biết tôi có quan hệ với Văn Thúy, cụ xuýt xoa tiếc cho đôi lứa. Cụ chả trách gì người con rể của cụ, mà chỉ thương cho nghiệp nghệ sỹ đã bám đuổi hành hạ đời Văn. Kiếp nghệ sỹ, thôi thì lận đận là phải.

        Sau những đổ vỡ mất mát, Nghiêm Đa Văn có dạo bị ma men rượu bia kéo đi. Anh to lớn, uống chút bia vào là mặt mũi lại đỏ tưng bừng như Trương Phi. Nhưng Trương Phi- Nghiêm Đa Văn mà tôi biết, thì chẳng hung dữ gì. Nhìn lại sự nghiệp chữ nghĩa như tự thấy chưa tới đâu. Cái vũ trụ nhỏ bé gia đình lại tan vỡ, Nghiêm Đa Văn trôi dạt theo mọi con sóng. Đời sống xã hội khi ấy đã âm thầm phân hóa. Sự giầu nghèo, quyền chức đã len lỏi trong mỗi tế bào con người, tế bào xã hội. Bẵng đi một dạo, gặp nhau, Nghiêm Đa Văn đưa tôi cái danh thiếp với mấy chức danh giám đốc, trợ lý, cố vấn kinh tế cho một Công ty, một tập đoàn nào đó. Đấy là thời tôi thất thểu cũng chẳng kém gì Văn. Gồng gánh vợ con từ Bắc Ninh ra Hà Nội học hành sinh sống, tôi từng  phải cắm mặt kiếm kế sinh nhai, niềm khao khát chữ nghĩa đành tạm gác. Tâm trạng day dứt, dằn vặt của kẻ mộng mơ, phải lao vào kiếm tiền sinh sống, nên tôi hiểu Nghiêm Đa Văn và thương Văn nhiều hơn.

Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #6 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:49:27 PM »

Văn lao vào thương trường. Các phi vụ kinh doanh cứ dền dứ cho anh tưởng béo bở. Rốt cuộc mấy năm quăng quật lúc Nam lúc Bắc, chẳng cải thiện chút gì đời sống kinh tế của văn. Bạn bè an ủi anh, không dính vòng lao lý tù tội là may  rồi! Tôi không tiện hỏi ngôi nhà 330 phố Khâm Thiên của Văn đã chuyển quyền sở hữu cho chủ khác tự bao giờ. Văn một thưở sinh sống đàng hoàng và có phần vương giả so với chúng tôi, vậy nay không nhà không cửa, không chốn nương thân. Anh lang bang đó đây, lúc tỉnh Nam tỉnh Bắc, lúc xứ Đông xứ Đoài. Những nụ cười hềnh hệch thấy giảm bớt, nhưng sự phớt đời như thấp thoáng xuất hiện ngày một nhiều hơn trên nét mặt anh. Những bạn bè thân của anh, cũng chẳng rõ đầu cua tai nheo đời sống thường nhật của anh. Văn ít gặp bạn bè. Bạn bè cũng dần không thấy Văn xuất hiện văn thơ trên báo chí nữa. Họa hoằn gặp Văn túm tụm đi với mấy người nom rất “ ngầu” không phải cánh văn chương báo chí. Văn đang đeo đuổi việc gì? Văn sống có khá hơn không? văn còn ôm ấp viết gì không? Không rõ. Chỉ rõ là Văn không gian giảo, không lừa đảo, không ám hại ai. Trong cái sự xô bồ xộc xệch phơi ra đấy, vẫn nhận thấy  cái vẻ trong sáng, tư cách của Văn.

      Ấy rồi Văn đổ bệnh. Ngũ phủ lục tạng của Văn rệu rạo nhanh chóng. Anh bị mắc bệnh thận. Anh phải chạy thận nhân tạo. Nhà cửa không còn, anh phải thuê nhà trọ trong ngõ xóm tồi tàn đồng cảnh với những người bệnh thận như anh, ngày ngày lê lết đến bệnh viện, nhờ máy lọc nước tiểu giúp để sống qua độ nhật. Có lẽ những ngày tháng sống trôi nổi, làm sức khỏe Văn giảm sút khủng khiếp. Cái vóc dáng to béo cao lớn của chàng thi sĩ phớt đời kia không còn nữa. Ai gặp Văn đều choáng váng bất ngờ thấy anh gày guộc, võ vàng, thần sắc nát. Cái gì đến đã đến với anh.
     Bạn bè không cầm được nước mắt trong đám tang Nghiêm Đa Văn. Đấy là buổi chiều hè nóng bức 1997, nhà tang lễ Phùng Hưng thưa thớt bóng người. Lúc khênh linh cữu anh ra xe tang chỉ còn lại mấy người nhà và toán bạn chí cốt với Văn. Tôi theo một người bạn vừa ở xa về, chạy tới kịp đặt thẻ hương trên cỗ quan tài anh. Chúng tôi vái anh, vái một linh hồn xấu số.
Logged
CVHOANLUONG
Jr. Member
**
Offline Offline

Bài viết: 51



« Trả lời #7 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 03:49:55 PM »

Cái chết, như khép lại tất cả. Ấy vậy, nghĩ về anh tôi lại thấy day dứt rất nhiều. Ừ, sao anh phải chết sớm thế? Thời trai trẻ, anh là người khỏe mạnh nhất trong số bạn bè văn chương mà tôi quen biết. Ừ, sinh thời, anh sống nồng nhiệt tới mức ồn ào với bạn bè, sao phút tiễn biệt anh lại xao xác quá?!
     Theo cách nói của một người bạn Văn, giá Văn biết sống cầm chừng một chút, khôn khéo một chút, thì làm gì đến nỗi. Có thể Văn sẽ là nhà thơ, một cán bộ có quyền chức kha khá trong giới văn chương báo chí. Giá Văn biết sống dung hòa một tý, thì gia đình riêng của Văn làm gì tan nát...Không! Tôi lại nghĩ ngược lại. Nghiêm Đa Văn đã sống hết mình, thật mình, không cơ hội, không thớ lợ, không gian dối. Có lẽ tại xã hội, tại cuộc sống chăng? Mà chắc tại cuộc sống thật. Văn là bi kịch của lớp tri thức trẻ giai đoạn đầu cuộc chiến tranh chống Mỹ băm bổ và lăn xả vào cuộc sống. Cái được và cái mất đã trần trụi đến với Văn. Văn trả giá và Văn được hưởng. Nói hẹp lại, đấy là bi kịch của một con người. Một toán bạn bè mê văn chương chữ nghĩ cùng học Sư phạm với anh thưở ấy, người trước người sau một vài ba khóa; có anh nay là giám đốc, phó giám đốc sở nọ sở kia. Có anh là nhà giáo ưu tú, ngày ngày vẫn thịnh soạn cắp cặp lên giảng đường. Lại có anh đường đường là nhà báo nhà văn, sách vở in ra đến mấy chục đầu sách, đài báo lăng xê ầm ĩ, đi Tây đi Tầu đủ cả. Lại có người từ văn chương chữ nghĩa đã tiến thân thành cán bộ chính trị cao cấp, luôn đi truyền bá giảng giải giáo lý, một bước có xe con đưa đón. Cũng không thiếu gì người vẫn đang sống nheo nhóc với đời thường. Lại có anh vì mê văn chương, đã chết bỏ xác tại chiến trường khi tuổi còn xanh. Thôi thì mỗi người một cảnh, biết thế nào mà so sánh được thua, hơn kém?! Lại đổ cho số phận vậy. Mà đã là số phận, thì mọi tính toán được thua có nghĩa lý gì lắm đâu!..

                                                           

Logged
Núc nác
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 1



Email
« Trả lời #8 vào lúc: Tháng Mười Một 21, 2008, 04:37:54 PM »


KẺ ĐA TÀI CHẬM BƯỚC



Nguyễn Kế Nghiệp có thể trở thành một nhà văn "tầm cỡ" hơn, nhiều cống hiến hơn cái anh đang hiện có. Nhưng sự ham vui đã kéo kẻ đa tài đi chậm bước. Và Nguyễn Kế Nghiệp, nói như thi sĩ Tản Đà đã là kẻ "giang hồ ham chơi quên quê hương" và bao giờ cũng lỗi nhịp!



Năm 1965, tôi là học viên lớp biên kịch của Trường Điện ảnh Việt Nam. Đồng môn với tôi có Lâm Quang Ngọc. Trong câu chuyện thường ngày anh hay kể cho tôi nghe về một người bạn, mà theo lời anh thì rất tài hoa nhưng đang kẹt trong những định kiến nặng nề của thời bấy giờ.

Anh nói nhiều về Nghiệp, thương Nghiệp nhiều lắm, đến nỗi tình yêu của anh lây cả sang tôi, và từ lúc nào đó Nghiệp đã đi vào trái tim tôi như một người bạn thực sự. Tôi cũng vui buồn theo Ngọc, cùng băn khoăn trăn trở khi người bạn xa xôi nơi xứ Đoài mây trắng này gặp chuyện chẳng lành, mà chuyện chẳng lành đối với một người thuộc diện "không cơ bản", lại ở nơi tỉnh nhỏ thì đó là "chuyện thường ngày ở huyện".

Trong cuộc đời cũng như trong văn chương không thiếu những chuyện chưa gặp nhau mà đã là bạn và khi gặp nhau rồi thì không thể rời nhau ra được nữa. Thật khó lý giải, đó là duyên đời, duyên văn chăng?

Một ngày Ngọc vui hớn hở, anh kéo tôi ra ngồi ở mép giếng nơi sơ tán nói với tôi:
- Nó được đi dạy học rồi mày à.
- Thế à?

Lá thư Nghiệp viết cho bạn còn trên tay Ngọc. Tôi cầm lá thư dưới ánh trăng trong dù xanh ngắt không đọc được gì, nhưng hình dung ra các con chữ đang nhảy reo vui.

Tôi hình dung ra ở một nơi nào đó thuộc tỉnh Sơn Tây, anh giáo Nguyễn Kế Nghiệp đang quần áo chỉnh tề lên lớp, chắc là anh vui lắm. Không vui sao được, bởi có một công việc như thế này anh đã phải thân chinh viết thư nhờ người trao tận tay cho đồng chí Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Liêm.

Nguyễn Kế Nghiệp tốt nghiệp phổ thông nhưng không được đi học đại học vì một lý do mà chẳng bao giờ anh biết được. Anh xin đi học 10 + 1 tại Thanh Hóa. Tốt nghiệp xong, mãi mà chưa được phân công công tác, anh trở lại quê nhà. Anh học trò thư sinh đi làm thợ rèn, thợ sắt ở HTX.

Nhưng có một tấm lòng vàng, cảm thương anh học trò vô tội đã gợi ý Nghiệp viết thư cho Thứ trưởng Bộ Giáo dục Lê Liêm và chính tay ông mang bức thư đó trao tận tay cho vị Thứ trưởng. 15 ngày sau anh có quyết định đi dạy học. Từ đây nhà báo, nhà văn tương lai đã có một nghề để sống và ấp iu hy vọng văn chương.

Cái phố Làng nơi anh hàng ngày vẫn đạp xe qua, hiu hắt như Yến Lan tả trong bài thơ "Tỉnh nhỏ" bỗng trở mình, bừng thức, xáo động trước một thử thách lớn đặt ra trước dân tộc: Cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Ý thức và trách nhiệm công dân đã làm cho người phố Làng xích lại gần nhau, sẻ chia, đồng tâm, đồng cảm ấm cúng trong nghĩa tình đồng bào. Với sự tinh tế, nhạy cảm, Nguyễn Kế Nghiệp đã khắc họa thành công cái phố Làng vốn rất gần gũi với mọi người chúng ta đi vào cuộc chiến với những hình ảnh gần gũi, thân quen mà xao động lạ kỳ.

Truyện ngắn này in trên Văn nghệ Quân đội năm 1966 và là một truyện ngắn hay của tạp chí vào những năm đó.

Tôi đã cầm cuốn tạp chí Văn nghệ Quân đội trong tay và ngồi đọc "Phố Làng" dưới tán cọ trung du của huyện Phù Ninh - Phú Thọ. Có gì đồng cảm, đồng điệu như thể văn bạn cũng là văn mình.

Xuân 1967, tạp chí Văn nghệ Quân đội có cuộc gặp gỡ cuối năm.

Tôi và Lâm Quang Ngọc đều được mời dự cuộc tao ngộ này. Tại đây, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với Nguyễn Kế Nghiệp. Anh đúng như tôi hình dung, một con người nhu mì, ăn nói có duyên và lịch lãm.

Hồi đấy ngoài Đỗ Chu đã có "Mùa cá bột", "Hương cỏ mật", Vũ Quần Phương có "Phanxipăng ta lên đến đỉnh", chúng tôi vẫn chỉ là một "lũ nhóc con" đứng rất xa mà ngắm nghía, mà thần thánh cái lâu đài văn chương.

Tôi, Nghiệp, Ngọc, Tô Hoàng, Nghiêm Đa Văn ngồi líu ríu một góc trong ngôi nhà số 4, phố Lý Nam Đế mà ngắm nghía những đàn anh của mình. Chúng tôi thấy anh Thanh Tịnh, anh Nguyễn Khải, anh Hồ Phương, anh Nhị Ca, anh Nguyễn Minh Châu, anh Từ Bích Hoàng là những ông thánh và rất vui khi được các anh sà xuống bắt chuyện.

Sau cuộc vui đó chúng tôi còn đi với nhau suốt đêm. Khi có tiếng gà cất lên chúng tôi kéo nhau về nhà Lâm Quang Ngọc ở phố Phan Bội Châu nấu mì sợi ăn và lại cùng nhau đàm đạo văn chương cho tới sáng.

Trong những cuộc cãi vã bất phân thắng bại về chuyện đời, chuyện văn này, Đỗ Chu bao giờ cũng là người "to miệng", rồi đến Nghiêm Đa Văn, còn Nghiệp thì ngồi yên lặng lẽ. Cuộc đời đã dạy anh quá nhiều bài học về sự thu mình lại. Chính vì thế bạn bè lại càng yêu, càng quý anh và khi gặp nhau, nếu không có anh mọi người đều cảm thấy thiếu vắng.--PageBreak--

Năm 1983, anh giáo tỉnh lẻ rời xứ Đoài để trở thành "nhà báo Trung ương". Nghiệp đời là vậy. Nó chính là quy luật của "Tái ông thất mã". Từ nay ở vị trí nhà báo Người Công giáo Việt Nam, cánh buồm Nguyễn Kế Nghiệp rong ruổi khắp muôn phương. Anh đi rất nhiều nơi, có mặt ở khắp các vùng công giáo, trao đổi và đàm đạo với các vị giám mục, ban hành giáo, các tỉnh và đội ngũ giáo phẩm.

Trong một thời gian rất ngắn, anh đã hòa nhập vào giới truyền thông và văn hóa kinh kỳ… Nơi anh làm việc trở thành điểm đến, điểm hội tụ của đủ các loại câu lạc bộ: văn học có, âm nhạc có, điện ảnh có, doanh nhân có, khoa học có… thôi thì đủ cả. Nguyễn Kế Nghiệp dung hòa được hết. Điểm mạnh này đã trở thành điểm yếu của anh, anh bị phân thân và như một bàn tay xòe ra cả năm ngón.

Anh không đủ tâm sức để dồn vào một công việc nào đó cho có ngọn ngành, đến nơi đến chốn. Sự ham vui đã dẫn anh sang các mê lộ tai hại. Anh có thể trở thành nghệ sĩ sân khấu nếu anh toàn tâm bởi anh đã từng trúng tuyển diễn viên kịch cùng với Đức Trung mà chính người tuyển anh là đạo diễn Trần Hoạt.

Anh có thể trở thành ca sĩ bởi anh có một giọng hát vàng mà đến tài tử Ngọc Bảo cũng phải ngợi khen. Anh có thể trở thành người ngâm thơ có hạng ở Việt Nam nếu anh đi riêng vào con đường đó. Với các bài "Đôi mắt người Sơn Tây" và "Màu tím hoa sim", cho đến nay rất ít người ngâm vượt được anh.

Anh có thể trở thành một nhà văn "tầm cỡ" hơn, nhiều cống hiến hơn cái anh đang hiện có. Nhưng sự ham vui đã kéo kẻ đa tài đi chậm bước. Và Nguyễn Kế Nghiệp, nói như thi sĩ Tản Đà đã là kẻ "giang hồ ham chơi quên quê hương" và bao giờ cũng lỗi nhịp!

Nhưng mà thôi Nghiệp ơi! Mỗi một cá nhân trong cát bụi vũ trụ này nói một giọng riêng mình, múa một điệu của riêng mình chẳng giống ai và chính thế, dù là một hạt sương, một bông hoa đồng nội khiêm nhường, họ vẫn để lại cho dương thế những gì không thể thay thế được.

Hai tập truyện ngắn "Hoa mận và Chim anh vũ" và "Rong ruổi dặm trường" là món quà nhỏ anh gửi tặng lại cuộc đời. Nó có thể đứng hững hờ trên giá sách kia hoặc lặng lẽ trong tủ sách thư viện, những mong có một bàn tay nào đó cầm lên, vào một thời gian xa xôi nào đó, nó sẽ lập tức cất lên tiếng nói của riêng mình.

Một tiếng nói dịu dàng, dung dị, một thứ văn chương thời Tự lực văn đoàn và ai đó kia sẽ lặng im để nghe một lời tâm sự của kẻ xa xôi vọng về. Thế đấy, văn chương là thế đấy. Với một nhà văn dù trường cổ đại thanh hay véo von tiếng sáo, hay dịu dàng như tiếng mưa vẫn là của riêng họ và có sự đồng điệu của riêng họ, mà chỉ ở họ mà thôi!

Ấy nói là ham vui nhưng cái ham vui văn chương vẫn là cái Nguyễn Kế Nghiệp tâm huyết nhất. Nếu không có một vài sự lỗi nhịp thì anh đã trở thành phóng viên báo CAND từ năm 1983 rồi. Nhưng không là nhà báo Công an, Nghiệp vẫn là một người cầm bút dành nhiều trang viết cho Lực lượng Công an, mà là những trang viết rất giàu cảm xúc.

Anh viết kịch bản phim "Xứ đạo bình yên" cho Xưởng phim CAND. Biết tin trại sáng tác văn học do Báo CAND mở tại Vũng Tàu năm 2005, mặc dù đã ung thư đại tràng di căn, Nguyễn Kế Nghiệp vẫn hăng hái xin đi và ở trại sáng tác Vũng Tàu, anh đã quên bệnh tật và sống như một chiến sĩ công an thực thụ.

Đi thực tế ở đâu anh cũng có ghi chép tìm hiểu, cặn kẽ và viết ngay tại trận. Con người nhà báo trong anh luôn thường trực. Đến trại Z30D, anh viết luôn một bút ký rất hấp dẫn về cải tạo phạm nhân. Anh cũng là một nhà văn trại viên hoàn thành nhiều truyện ngắn nhất ở trại. Một số trong truyện này đã in trên Văn nghệ Công an như "Tượng đồng" và "Bức tranh để lại".

Một điều đặc biệt mà tôi thấy lạ là con người ham vui vốn có thói quen coi các ràng buộc luật lệ như một thứ rườm rà này lại là một người chăm chỉ và đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. Đến nỗi Tô Hoàng, Trần Quốc Toàn nói với tôi là: "Nghiệp dở chứng!".

Mà thật vậy thay. Nghiệp đã dở chứng rồi. Không dở chứng mà sao đang yên đang lành lại nảy ra cái u bướu ở đại tràng để đến nỗi luôn luôn phải đeo một bao vệ sinh bên mình!

Những ngày này quanh giường anh bạn bè đông lắm, bạn văn, bạn nhạc, bạn kịch, bạn điện ảnh, Chi hội Nhà văn Công an. Ai cũng muốn được nắm tay một con người đang ngày đêm vật lộn với tử thần.

Nhà thơ Băng Sơn đã có lần viết về Nguyễn Kế Nghiệp với đầu đề rất hay: "Nguyễn Kế Nghiệp - cánh buồm rong ruổi".

Phải rồi, suốt cuộc đời anh là những chuyến đi, chuyến xê dịch bất đắc dĩ, những cánh buồm rong ruổi của một số phận đa đoan, tài và mệnh xung khắc. Chỉ có điều đến bây giờ anh nằm im tại chỗ như thế kia để chuẩn bị cho chuyến rong ruổi cuối cùng.

Buồn quá - Nghiệp ơi!

Nếu mua được một vé tàu để quay lại cái ga đầu đời xuất phát thì Nghiệp sẽ trở lại hành trình như thế nào? Chắc anh sẽ đi lại cái lộ trình mà anh đã đi qua trong 65 năm của đời mình mà chẳng làm khác được

 
Mai Vũ
Logged
chandat
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 43



« Trả lời #9 vào lúc: Tháng Mười Một 28, 2008, 04:31:07 PM »

Cô em CVHOAN LUONG có "Sừng rượu thề" của Nghiêm Đa Văn  không?Huh post đi
« Sửa lần cuối: Tháng Mười Hai 07, 2008, 06:19:48 PM gửi bởi Đom đóm » Logged
Trang: [1]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn