Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 13, 2024, 02:10:11 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 2 3 [4] 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca  (Đọc 29630 lần)
0 Thành viên và 5 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #45 vào lúc: Tháng Ba 24, 2018, 09:57:08 AM »

C - BÀN VỀ CÁCH LẤY HUYỆT CỦA MƯỜI HAI KINH Ở TAY
(6 kinh ở hai tay) (*)

1. KINH THỦ THÁI ÂM - PHẾ

Này Thủ thái âm kể ra,

2630. Hiệu là kinh Phế vậy hòa cho hay.
Tả hữu hai mươi hai nay (115),
Thiếu thương ở rày góc móng cái trong.
Bảo cho thông vào bản tiết hậu,
Ngư tế huyệt ấy ở hầu mé bên.
Lại vào lấy huyệt Thái uyên,
Ở trong ngấn chỉ thuộc miền Thái âm.
Lại bảo rằng huyệt Kinh cự,
Ấy cùng liền đấy ở trong mé lên (116).
Cứ ngấn cổ tay cho yên,

2640. Đo vào tấc rưỡi vậy liền phải thay:
Ấy Liệt khuyết huyệt bằng nay,
Hoặc lấy thế này dị thủ phản thoa (tréo trái tay).
Tay úp tay ngửa kia là,
Hai kẽ tay cái lại hòa tréo nhau.
Cứ ngón trỏ ấy đến đâu,
Mực điểm áp đầu ngón trỏ làm ghi.
Lại đo tấc ấy như y,
Bằng chẳng hay chớ thì suy mà lường.
Bảo cho tường cứ uyển ngấn chỉ (ngấn cổ tay),

2650. Ấy đo vào đấy bảy tấc cho ngay:
Ấy Khổng tối huyệt khi nay.
Xích trạch giữa cánh tay làm song:
Bảo cho thông thì ngang thường thấy,
Thì lấy giữa ngấn mấy thường phải thay.
Lại cứ giữa vào đấy ngay,
Đo lấy năm tấc thuở rày cho yên.
Chỗ có vi động mạch (mạch nhảy nhỏ) lên,
Ấy Hiệp bạch huyệt là tên cho tường.
Lấy vào Thiên phủ một dường,

2660. Cứ dưới dịch (nách) ấy mà lường chớ xa.
Bẻ lấy ba tấc đo ra,
Bảo nó vậy hòa dăng cánh tay cao.
Bảo nó ngón mũi áp vào,
Lấy cho bằng mũi lẽ nào còn nghi.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về phân đoạn "thốn" ở tay ngày nay:

- Cánh tay từ ngang nách đến ngấn khuỷu tay: 9 thốn.

- Cẳng tay từ ngấn khuỷu tay đến ngấn cổ tay: 12 thốn rưỡi.

(114) Huyệt Cự liêu thuộc kinh Đởm, ở cách huyệt Duy đao 3 thốn, chếch xuống về phía sau. Huyệt Cự liêu ngang với huyệt Trung cực so với huyệt Chương môn ngang với khoảng giữa huyệt Hạ quản và Thủy phân thì chỉ cách nhau 5 thốn rưỡi (dọc bụng): Đính chính.

(115) Kinh Thủ Thái Âm - phế có mỗi bên 11 huyệt. Đây chỉ nêu lên mỗi bên 9 huyệt, còn hai huyệt Vân môn và Trung phủ không dùng. Kinh này trình bày từ huyệt "tỉnh" ở tay đi vào, khác với sách Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay, kể từ trong ngực đi ra.

(116) Huyệt Kinh cự ở phía trong đầu xương quay trên nếp gân cổ tay 1 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 25, 2018, 10:20:32 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #46 vào lúc: Tháng Ba 25, 2018, 10:44:24 AM »

2. BÀN VỀ HUYỆT CỦA KINH THỦ DƯƠNG MINH - ĐẠI TRÀNG

Này là thủ bộ Dương minh,
Huyệt ấy thuộc Đại tràng kinh một dàng.
Bảo cho tường có mười bốn huyệt (117),
Xem cho biết tả hữu hai hàng:
Trước xem thấy huyệt Thương dương,

2670. Ở ngón tay trỏ hòa lường cho thông.
Mé góc móng ấy ở trong,
Khử trảo giáp giác (cách góc móng) đều cùng phải thay.
Phỏng từ góc ấy vào rày,
Cách một lá hẹ huyệt rày mé bên.
Lại vào mé bản tiết tiền,
Nhị gian ở đấy đã yên những là.
Lại vào tiết hậu (sau đốt) chẳng xa,
Ấy Tam gian huyệt cũng là Dương khê (118).
Huyệt Dương khê bảo hòa cho biết:

2680. Chỗ cốt tiếp (khớp xương) lấy giữa mấy nên.
Hai gân thì ở hai bên,
Giữa uyển trắc (cạnh cổ tay) ấy vậy liền chớ nghi.
Cứ uyển trung (giữa cổ tay) ấy một khi,
Đo vào ba tấc như y cho tường:
Ấy chứng Thiên trụy (huyệt Thiên lịch) (119) một dường,
Lại bảo cho biết hòa lường mấy thông.
Tay kia bấm thiết làm song,
Xem cánh tay nó có dòng sớ đi.
Thẳng lên Khúc trì một khi,

2690. Bảo cho biết ấy hòa suy mà lường.
Cứ uyển nhiễu dòng sớ thiên (cứ chỉ cổ tay xiên lên),
Đo vào năm tấc vậy liền Ôn lưu.
Bảo trước cao cứ Khúc trì ấy,
Cứ theo dòng ấy hai tấc đo ra:
Ấy Tam lý huyệt kia là,
Lại cứ Tam lý đo ra cho rồi:
Ba tấc Thượng liêm chẳng sai (120),
Cứ đấy lấy thẳng ra ngoài một khi:
Đo bốn tấc ấy thực thì Hạ liêm (121),
Lại bảo cho Khúc trì cũng vậy.

2701. Hai đầu xương ấy huyệt vào trong khe,
Lại bảo cho biết kẻo nghi.
Trửu liêu, Khúc trì cũng ngang chếch nhau (122),
Cứ thì đo lên chớ lâu.
Ba tấc Ngũ lý, bảy hầu Tý nhu.
Kiên ngung khớp xương đầu vai,
Ấy lấy mực mài làm dấu chớ thiên.
Cự cốt huyệt ấy cũng liền,
Ngay xương vai cao lên cho tường.
Cùng có hai xương hai bên,

2711. Huyệt vào giữa một dàng phải thay.

* Chú thích:

(117) Kinh này có 20 huyệt. Đây nêu lên 15 huyệt, còn thiếu năm huyệt: Hợp cốc, Thiên đình, Phù đột, Hòa liêu, Nghinh hương.

(118) Sót huyệt Hợp cốc ở chỗ lõm giữa xương ngón tay cái và ngón tay trỏ giáp nhau (xem phần 2, mục 6, câu 1232 - 1234).

(119) Huyệt Thiên lịch đã chép nhầm là chứng Thiên trụy: Đính chính.

(120) Huyệt Thượng liêm ở dưới huyệt Khúc trì 3 thốn.

(121) Huyệt Hạ liêm ở dưới huyệt Khúc trì 4 thốn.

(122) Huyêt Trửu liêu ở trên huyệt Khúc trì 1 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 25, 2018, 10:53:56 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #47 vào lúc: Tháng Ba 25, 2018, 11:04:32 AM »

3. BÀN VỀ HUYỆT CỦA KINH THỦ QUYÊT ÂM - TÂM CHỦ

Này Thủ quyết âm: Tâm /bào/ kinh,
Thuộc vào bào lạc thực hình cho hay.
Tả hữu có mười một huyệt nay (123),
Trung xung giữa rày góc ngón tay trong.
Lại vào lấy huyệt Lao cung,
Giữa gan tay ấy cho thông hòa rằng.
Huyệt Đại lăng ở giữa cổ tay,
Ấy lại xem thấy có lưỡng cân gian (giữa hai gân).
Cứ ngấn đo vào Nội quan,

2721. Thì có hai tấc cho an những là.
Cứ ngấn ba tấc chớ ngoa,
Đo vào Giản sử huyệt hòa đấy nay.
Lại cứ ngấn ấy đo ngay,
Đo vào năm tấc huyệt rày Khích môn.
Mạch hãy còn vào nơi Khúc trạch,
Bảo cho hòa biết lấy mấy nên.
Cánh nó co lại giăng lên,
Bên trong giữa ngấn trũng liền đấy ra.
Huyệt ở giữa ngấn chẳng xa,

2731. Ấy Khúc trạch huyệt vậy hòa chớ nghi.
Bảo một khi cứ góc dịch (nách) ấy,
Đo ra đấy hai tấc chớ sai.
Huyệt ấy Thiên tuyền chính ngôi,
Cùng ngay Khúc trạch kia ơi những là.

* Chú thích:

(123) Kinh Thủ Quyết âm tâm - bào gồm 9 huyệt. Đây chỉ nêu lên 8 huyệt, không nói đến huyệt Thiên trì ở ngoài nuốm vú 1 thốn. Theo sách Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay thì thứ tự các huyệt kể từ trong ra.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 25, 2018, 11:09:27 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #48 vào lúc: Tháng Ba 26, 2018, 07:55:31 AM »

4. BÀN VỀ KINH THỦ THIẾU DƯƠNG - TAM TIÊU

Thủ thiếu dương kinh lại xem,
Hòa lấy tả hữu mọi phần cho yên.
Bốn mươi sáu huyệt hai bên (124),
Quan xung mé góc móng ngoài vô danh (ngón thứ tư).
Lại vào kẽ ngón vô danh,

2741. Giáp kẽ ngón út thực hình Dịch môn.
Trung trữ tiết hậu (sau khớp) thực song,
Là ngoại trắc hãm (chỗ lõm) ở bên mé ngoài.
Lại đo Dương trì vào ngay,
Giữa chỉ ngấn ấy thấy rày trũng sâu.
Bảo trước mầu đo Ngoại lăng [Ngoại quan] (125) huyệt,
Đo hai tấc ấy rày Nội quan.
Nội thì có lưỡng cân gian (giữa hai gân),
Ngoại thì lưỡng cốt (giữa hai xương) hòa bàn cho thông.
Chi câu cứ uyển (cổ tay) vào trong,

2751. Thì có  ba tấc làm song những là.
Hội tông huyệt ấy chẳng xa,
Ngang ra một tấc vậy hòa chớ nghi.
Tam dương lạc huyệt một khi,
Cứ lấy một tấc chẵn (126) vậy thì đo lên.
Lại lấy Tứ độc cho yên,
Cứ thì đấy rày năm tấc đo ra (127).
Lại lấy Thiên tỉnh kia là,
Bảo nó vậy hòa dăng cánh áp nương.
Xem nơi khúc trửu (khuỷu tay co) cho tường,

2761. Có nắm thịt ấy một dường cao lên.
Cứ đo trửu (khuỷu) ấy cho yên,
Đo thẳng lên liền một tấc mấy yên.
Huyệt ấy có lưỡng cân gian,
Chân Quyền lại bàn thấy ấy chớ thông.
Thoa thủ án tất (tréo tay ấn gối) làm song,
Lưỡng cân cốt ấy đều cùng trổ ra.
Tự nhiên thấy trũng những là,
Cứ đấy lấy huyệt vậy hòa mấy hay.
Lại hòa thẳng cánh cho ngay,

2771. Cứ trửu (khuỷu tay) thuở này hai tấc đo lên:
Ấy Thanh lanh huyệt là tên,
Tiêu lịch (lạc) huyệt liền trệ dưới vai.
Góc nách ấy thiên ra ngoài,
Lấy ngay giữa huyệt chớ sai chi là.

* Chú thích:

(124) Kinh Thủ Thiếu dương - Tam tiêu gồm 23 huyệt mỗi bên, đây được nêu lên 11 huyệt, còn thiếu 12 huyệt: Nhu hội, Kiên liêu, Thiên liêu, Thiên dũ, Khế mạch, Lư tức, Giác tôn, Hòa liêu, Ty trúc không, Ế phong, Nhĩ môn.

(125) Huyệt Ngoại quan chép nhầm là Ngoại lăng: Đính chính.

(126) Huyệt Tam dương lạc ở trên huyệt Chi câu 1 thốn, hay trên huyệt Dương trì 4 thốn.

(127) Huyệt Tứ độc ở trước khuỷu tay đo ra 5 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 26, 2018, 10:49:41 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #49 vào lúc: Tháng Ba 26, 2018, 10:55:26 AM »

5. BÀN VỀ KINH THỦ THIẾU ÂM - TÂM

Thủ thiếu âm - Tâm kể ra,
Tả hữu vậy hòa mười tám huyệt nay.
Thiếu xung huyệt rày ở ngón út tay,
Ta thì xem lấy góc móng bên trong.
Vào bản tiết hậu làm song,

2781. Thiếu phủ huyệt ở bàn tay trong lòng.
Thiếu phủ hoành trục (thẳng ngang) Lao cung một đường,
Ở bên ngưỡng chưởng (ngửa bàn tay) cho tường.
Lại bảo biết ấy hòa lường kẻo nghi,
Vào Thần môn huyệt một khi,
Giữa ngấn chỉ ấy giáp vì Đại lăng.
Lại bảo rằng các huyệt cũng vậy,
Lấy ngấn đo vào đấy cho ngay:
Năm phân Âm khích bằng nay,

2790. Một tấc Thông lý ấy rày trùng ngôi.
Linh đạo tấc rưỡi cho rồi,
Phép lấy tấc rưỡi kia ơi những là.
Hoặc vượt qua vào Thiếu hải huyệt,
Bảo cho biết giữa cánh bên trong.
Gò xương dăng lấy làm song,
Cứ mé xương ấy cho thông lấy rày.
Hoặc là ta lấy thế này,
Cứ trửu (khuỷu) ba tấc vào liền.

2800. Ấy Thanh linh tuyền huyệt tên cho tường,
Vào ngay gần nách một dường.
Sờ nơi động mạch hòa lường hòa suy,
Ấy huyệt Cực tuyền môt khi.
Huyệt ấy vậy thì có lưỡng cân gian.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 06:19:41 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #50 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 06:35:40 AM »

6. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH THỦ THÁI DƯƠNG - TIỂU TRÀNG

Thủ Thái dương - tiểu tràng kinh ấy,
Ta thì lấy đấy tả hữu hai bên:
Ba mươi tám huyệt cho yên,
Thiếu trạch ở liền ngón út khi nay.
Ở mé góc ngoài móng tay,

2810. Hiệu là ngoại trắc thuở này cho thông.
Vào bản tiết hậu làm song,
Là huyệt Tiền cốc ở liền mé bên.
Lại bảo vào liền bản tiết hậu,
Ấy thì Hậu khê ấy chẳng sai.
Vào ngay cổ tay kia ơi,
Có xương ở đấy hòa coi cho tường.
Phải lấy chước ấy hòa lường,
Tiền uyển trắc hãm (chỗ lõm mé trước cổ tay) mà lường phải thay.
Ấy huyệt Uyển cốt khi nay,

2820. Lại đầu xương ấy vào rày giữa khe:
Là huyệt Dương cốc chớ nghi.
Lại cứ Dương cốc một khi cho tường:
Đo vào một tấc mà lường.
Ấy huyệt Dưỡng lão một dường cho thông,
Năm tấc Chi chính làm song.
Cứ đo Dương cốc đều cùng phải thay,
Bảo cho hay cứ đầu xương ấy.
Thì xem đấy hai đầu hai bên,
Huyệt vào giữa khe cho yên:

2830. Ấy Tiểu hải huyệt là tên thưc rày.
Bảo cho hay mười hai kinh thủ,
Dọn đã đủ từ đấy chẳng sai.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 06:37:35 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #51 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 07:02:40 AM »

D - BÀN VỀ MƯỜI HAI KINH Ở CHÂN
(6 kinh ở 2 chân) (*)

7. LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THÁI ÂM - TỲ

Này Túc tả hữu Tỳ kinh,
Hai bên tả hữu thực hình kể ra:
Bốn mươi hai huyệt chẳng ngoa (128),
Ẩn bạch ở hòa góc móng chân trong.
Bảo cho thông vào bản tiết hậu,
Sau Đại đô huyệt ở đâu nay.
Cứ bản tiết hậu cho ngay,

2840. Giữa nơi hạch cốt (đốt thứ 2) lấy rày mấy nên:
Ấy Thái bạch huyệt mé bên.
Lại cứ tiết hâu ngay liền vào trong,
Đo vào một tấc làm song,
Ấy Công tôn huyệt cho thông một dường.
Bảo cho tường xem trong thuở ấy,
Mé mắt cá có chỗ trũng sâu.
Lấy ra trước một tý mấy mầu:
Ấy Thương khâu huyệt ở đầu (gần) đấy nay.
Bảo cho hay cứ nội khỏa (mắt cá trong) ấy,

2850. Đo lên đấy ba tấc lạ sao,
Bấm trũng huyệt Tam âm giao.
Lấy mé xương ấy lẽ nào chớ nghi,
Bẻ lấy sáu tấc một khi.
Cùng nội khỏa ấy đo thì lên ngay,
Lấy mé xương ấy khi nay.
Là Lậu cốc huyệt thuở này là tên,
Cứ ngấn gối ấy cho yên.
Đo lên năm tấc là miền Địa cơ,
Lại bảo cho Âm lăng tuyền huyệt.

2860. Bắt chân nó mà duỗi thẳng ra,
Lần tìm chỗ trũng vào hòa.
Mé xương huyệt ấy biết là mấy thông,
Phải cứ Dương lăng tuyền làm xong.
Đo ngang sang đấy đối đồng bằng nhau,
Ngay mé Địa cơ ở đâu?
Ở ngay Địa cốt (Địa kiện) (129) có dòng đo lên,
Huyệt Âm lăng tuyền đã yên.
Lại lấy Huyết hải ở bên gối này,
Gài mé bánh chè khi nay.

2870. Đo ngang xuống (130) rày hai tấc cho tinh,
Giữa chỗ thịt trắng phân minh.
Lần lấy thực hình có chỗ sâu chăng,
Trũng thì phải huyệt thực song.
Đoạn ta lại lấy Cơ môn huyệt rày:
Cứ đo Huyết hải lên ngay,
Có sáu tấc chẵn xem rày cho minh,
Huyệt thì ở giữa khe gân.
Lại xem động mạch có chăng đấy rày,
Phải huyệt thì động mạch ngay.

2880. Ấy Tỳ kinh túc huyệt rày chép ra.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về phân đoạn "thốn" ở chân ngày nay:

- Phần đùi vế: 18 thốn (từ ngang huyệt Khí xung đến huyệt Độc tỵ).

- Phần cẳng chân: 16 thốn (từ huyệt Độc tỵ đến huyệt Giải khê).

(128) Kinh Túc Thái âm - Tỳ, mỗi bên có 21 huyệt. Mục B.4 ở trên đã nói về 4 huyệt: Đại hoành, Phúc kết, Phủ xá, Xung môn. Bài này giới thiệu 11 huyệt, còn 6 huyệt không nêu lên là Phúc ai, Thực đậu, Thiên khê, Hung hương, Chu vinh, Đại bao (không dùng).

(129) Huyệt Địa cơ trên huyệt Địa kiện 1 thốn (Địa kiện là huyệt ngoài kinh, đây đã chép nhầm là huyệt Địa cốt: Đính chính).

(130) Huyệt Huyết hải ở mé trong đầu xương bánh chè thẳng lên 2 thốn (đây chép nhầm là đo ngang ra 2 tấc: Đính chính).
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 09:01:11 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #52 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 09:20:01 AM »

8. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC QUYẾT ÂM - CAN

Này là bộ Túc quyết âm,
Thuộc Can kinh ấy chớ nhầm làm chi.
Lường xem tả hữu hòa suy,
Hai mươi sáu huyệt vậy thì chẳng sai (131).
Đại đôn góc móng cá ngoài,
Hành gian ngồi rày giáp kẽ ngón chân.
Lại bảo cho biết hòa phân,
Cùng có động mạch mà nhuần mấy thông.
Lại vào xem huyệt Thái xung.

2890. Cứ bản tiết hâu làm xong đo rày,
Đo vào hai tấc khi nay.
Hoặc là tấc rưỡi thuở này lường suy,
Bảo nó duỗi chân một khi.
Bàn chân các ngón vậy thì co lên,
Xem nội khỏa nó ư liền (trước mắt cá trong).
Gọi là mắt cá nhận nhìn cho lâu,
Ta ấn xem chỗ trũng sâu:
Ấy Trung phong huyệt ở hầu đấy nay.
Bảo cho hay giữa mắt cá ấy,

2900. Đo lên đấy một tấc mấy nên.
Cứ trong nội khỏa đo lên,
Giữa ống chân ấy áp liền cho ngay.
Đo lấy năm tấc khi nay:
Ấy Lãi câu huyệt thuở này đến khu (nơi).
Bảy tấc thì huyệt Trung đô,
Cùng cứ thuở ấy chớ lo làm gì.
Bảo kẻo nghi lấy trong xương ấy,
Thì xem đấy tủy /hành/ cốt chính trung (giữa xương ống chân).
Lại lấy Tất quan làm vong,

2910. Cứ Độc tỵ xuống cho thông hòa lường.
Đo xuống hai tấc phải phương,
Huyệt ấy ở giữa tủy xương thuở này.
Bảo cho hay giữa góc vế ấy,
Sờ góc ấy có lưỡng cân gian (khoảng giữa hai gân).
Thượng đại hạ tiểu (trên to dưới nhỏ) như bàn,
Ấy lấy ở giữa cho an những là.
Lại bảo ta lấy huyệt này là khó,
Lại bảo nó tọa cứ (ngồi nhổm) cho ngay.
Lại bảo xem góc vế ấy này,

2920. Có ngấn chỉ trạng thuở này sờ lên.
Lấy áp đầu ngấn cho liền,
Ấy gọi là huyệt Khúc tuyền phải phương.
Lại bảo cho tường một hai huyệt ấy,
Xem cho biết luận chứng mà suy.
Lại lấy Âm bao một khi,
Cứ đầu góc ngấn ấy lấy thì cho ngay.
Đo vào bốn tấc khi nay,
Huyệt vào đấy rày có lưỡng cân gian.
Cứ lại Khí xung cho an

2930. Đo xuống Ngũ lý hòa bàn cho minh.
Có ba tấc chẵn thực hình,
Âm liêm hai huyệt cho tinh ngày rày.
Cùng huyệt Khí xung lạ thay,
Huyệt có động mạch cho hay kẻo nhầm.

* Chú thích:

(131) Kinh Túc Quyết âm - Can có mỗi bên 14 huyệt. Mục B.4 ở trên đã chỉ dẫn 2 huyệt Chương môn và Kỳ môn ở vùng hông bụng, bài này giới thiệu 11 huyệt, còn huyệt Cấp mạch (không dùng) ở dưới huyệt Khí xung 1 thốn, trên huyệt Âm liêm 1 thốn hay trên huyệt Ngũ lý 2 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 09:33:49 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #53 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 09:35:19 AM »

9. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC DƯƠNG MINH - VỊ

Này là bộ Túc Dương minh,
Huyệt vào đến Vị kinh chẳng dời.
Tả hữu huyệt có ba mươi (132),
Lệ đoài ngón trỏ góc ngoài bên nay.
Bảo cho hay vào bản tiết hậu,

2940. Ấy Nội đình huyệt ở đấy giữa khe.
Lại bảo Hãm cốc một khi,
Cứ Nội đình huyệt hòa suy đo vào.
Có hai tấc chẵn lạ sao,
Lấy cho phải giữa chớ vào kẽ gân.
Cứ Hãm cốc ấy góc chân,
Được có năm tấc ấy phần Xung dương (133).
Bảo cho tường cứ giữa trũng ấy,
Huyệt Xung dương ở đấy đã yên.
Lại cứ Xung dương đo lên (134),

2950. Có một huyệt ấy ở miền Giải khê.
Cứ huyệt Xung dương một khi,
Tám tấc ấy thì tên gọi Phong long (135).
Bảo cho thông cứ Tam lý ấy,
Đo xuống đấy ba tấc Thượng liêm (Thượng cự hư) (136).
Cứ Cự hư ba tấc xuống dưới,
Hạ liêm (Hạ cự hư) (137) thì vừa đấy khi nay.
Lại cứ Hạ liêm khi nay (37),
Hạ liêm (137) làm cứ (mốc) thuở này lên ngay.
Điều khẩu một tấc cho hay,

2960. Xem mắt đầu gối khi nay mà lường.
Hai huyệt Quỷ nhãn cho tường,
Hai bên Độc tỵ ở giữa bày lên.
Kìa Lương khâu huyệt ở bên gối này:
Cứ đấy đo lên cho ngay.
Có hai tấc chẵn giữa rày hai gân,
Cứ gối đo lên cho cần.
Ba tấc Âm thị hòa nhuần cho thông,
Khiến nó vái xuống cúc cung (lạy).
Tự nhiên thấy trũng sẽ dùng phải thay,
Cho hay lại từ gối ấy.

2971. Đo lên đấy sáu tấc cho minh:
Ấy huyệt Phục thỏ thực hình,
Giữa nơi cao thịt ấy tình lường chi.
Lại lấy Bễ quan một khi (138),
Giữa nơi ngấn chỉ kinh rày đi ra:
Phỏng ngay Phục thỏ kia là,
Lại bảo vậy hòa ngấn giữa ấy ra.

Phải huyệt lại song cho tường.

* Chú thích:

(132) Kinh Túc Dương minh - vị gồm 45 huyệt. Bài này giới thiệu 15 huyệt, và mục B.4 ở trên đã chỉ dẫn 12 huyệt ở hai bên mạch Nhâm, còn thiếu 18 huyệt không được nêu lên (xem phần tóm tắt mục K.3 ở sau). Kinh này trình bày từ chân đi lên khác với Châm cứu đại thành.

(133) Nguyên bản chú thích: Huyệt Xung dương cách huyệt Hãm cốc 3 tấc.

(134) Huyệt Giải khê ở trên huyệt Xung dương 1,5 thốn.

(135) Huyệt Phong long ở trên mắt cá ngoài 8 thốn (không phải cách huyệt Xung dương 8 tấc): Đính chính.

(136) Ở dưới huyệt Túc tam lý 3 thốn là huyệt Thượng cự hư (sách chép nhầm là Thượng liêm): Đính chính.

(137) Ở dưới huyệt Thượng cự hư 3 thốn là huyệt Hạ cự hư (sách chép nhầm là huyệt Hạ liêm): Đính chính.

(138) Huyệt Bễ quan ở trên huyệt Phục thỏ 6 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 10:19:02 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #54 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 04:02:04 PM »

10. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THIẾU ÂM - THẬN

Này Túc Thiếu âm - Thận kinh,

2980. Tả hữu thực hình huyệt có hai mươi (139).
Xem giữa gan chân kia ơi,
Co chân thấy trũng huyệt rày chính ngôi.
Ấy phải Dũng tuyền chẳng sai,
Lại xem nội khỏa (mắt cá trong) khi nay hòa lường.
Có xương trước mắt rày,
Lấy áp xương ấy thuở rày mé bên:
Ấy là Nhiên cốc chính tên,
Thái khê ở liền sau mắt cá trong.
Bên trên xương gót làm xong,

2990. Huyệt có động mạch mấy thông những là.
Đại chung tại hậu (ở sau) năm phân chớ xa,
Lấy áp xương ấy vậy hòa cho hay.
Bảo cho hay cứ Thái khê ấy,
Đo xuống đấy một tấc cho minh:
Là Thủy tuyền huyệt thực hình,
Lại lấy Chiếu hải cho tinh một đường.
Ở dưới nội khỏa (mắt cá trong) cho tường,
Lấy như Thân mạch hòa lường cho thông.
Cứ nội khỏa ấy làm song,

3000. Đo lên hai tấc ấy dòng Phục lưu.

* Thêm phần viết bằng chữ Hán (140):

 Giao tín: 2 huyệt ở trên mắt cá trog 3 thốn (141), trước huyệt Phục lưu sau Tam âm giao, ở khoảng gân xương bắp ống chân thuộc Âm kiểu. Trị sa hòn dái, đái són (lâm lậu) đau gấp ở xương đùi, xương ống chân, cùng chứng ỉa chảy, kiết lỵ, phụ nữ khí hư rong huyết không dứt. Châm 4 phân cứu 3 mồi.

 Trúc tân: 2 huyệt ở bắp chân trên mắt cá trong, giữa xương sau, trên gân to, dưới gân nhỏ, co chân mà lấy huyệt (142). Chữa trẻ con sài không bú, điên cuồng nói nhảm, nôn mửa, đau trong bắp chân. Có thể châm 3 phân cứu 5 mồi.

 Âm cốc: 2 huyệt ở trong đầu gối (đầu trong nếp gấp khoeo chân), sau xương phụ, dưới gân to, trên gân nhỏ, chỗ có động mạch, co gối mà lấy huyệt. Là nơi của mạch của kinh Túc thiếu âm thận hợp vào. Chữa đau đầu gối như dùi đánh không thể co duỗi, thè lè lưỡi chảy dãi, phiền nghịch, đái ít, trong đùi bắp teo, liệt sinh dục, phụ nữ bạch đới, rong huyết, bụng trướng căng, khó thở, tiểu tiện vàng, nam thì như cổ trướng, nữ thì như có mang. Có thể cứu 3 mồi.

* Chú thích:

(139) Kinh Túc Thiếu âm - Thận, có mỗi bên 27 huyệt, bài ca giới thiệu 7 huyệt và được phụ thêm bằng chữ Hán 3 huyệt, còn 17 huyệt không nêu lên (xem bảng tóm tắt phần IV, mục K.VIII).

(140) Những phần viết bằng chữ Hán về vị trí và tác dụng của các huyệt từ đây đến cuối có thể do người đời sau bổ sung vào những tờ cuối của nguyên bản bị rách nát.

(141) Huyệt Giao tín ở trên mắt cá trong 2 thốn (không phải 3 thốn), trước huyệt Phục lưu 5 phân, trên huyệt Thái khê 2 thốn, xê dưới huyệt Tam âm giao ở trước.

(142) Huyệt Trúc tân ở thẳng trên mắt cá trong, trên huyệt Thái khê 5 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 27, 2018, 04:24:07 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #55 vào lúc: Tháng Ba 27, 2018, 04:25:18 PM »

11.  BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THIẾU DƯƠNG - ĐỞM

Này Túc Thiếu dương - Đởm kinh,
Tả hữu thực hình hai mươi tám huyệt nay (143).
Xem ngón vô danh chớ chầy,
Góc ngoài móng ấy khi nay cho tường:
Ấy huyệt Khiếu âm phải phương.
Đoạn lui lại lường lấy huyệt Hiệp khê:
Cứ bản tiết hậu một khi.
Xem nơi kỳ cốt giữa thì khe chân,
Cứ Hiệp khê huyệt cho cần,

3010. Đo vào một tấc hòa nhuần cho thông.
Ấy Đia ngũ /hội/ huyệt làm song,
Lại bảo tiết hậu hãm trung (chỗ lõm sau đốt xương) đo vào.
Có một tấc rưỡi lạ sao,
Ấy chỗ huyệt nào cho biết kẻo nghi.
Vượt qua gân ngón út đi,
Gân ấy vậy thì đằng ngón út lên.
Lấy giữa gân ấy cho yên,
Vậy huyệt /Túc/ Lâm khấp là tên cho tường.
Xem nơi ngoại khỏa (mắt cá trong) một dường.

3020. Là dưới mắt cá hòa lường khi nay (14),
Cứ huyệt Lâm khấp vào ngay.
Đo vào ba tấc thuở rày Khâu khư,
Cứ giữa ngoại khỏa (mắt cá ngoài) y như.
Đo lên ba tấc chớ dư chi là:
Ấy huyệt Huyền chung hỏi qua.
Lại rằng Tuyệt cốt vậy hòa phải thay,
Bảo cho hay cứ ngoại khỏa ấy.
Đo lên trên bốn tấc chớ sai:
Ấy huyệt Dương phụ khi nay.

3030. Đo lên năm tấc huyệt Rày Quang minh,

* Phần thêm bằng chữ Hán:

 Ngoại khâu: 2 huyệt, ở chỗ lõm xương trên mắt cá ngoài 6 thốn (145) là nơi sở sinh của kinh mạch Túc thiếu dương. Trị da đau tê liệt, hông sườn trướng đầy, đau ở đỉnh đầu, sợ gió lạnh, bệnh điên. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

(Lược bỏ một dòng về chữa bệnh chó dại cắn không liên quan đến huyệt này, do người đời sau chép xen vào).

 Dương giao: 2 huyệt, cùng huyệt Ngoại khâu đều ở trên mắt cá ngoài 7 thốn, hướng xế về phần thịt tam dương /ngang huyệt Ngoại khâu ở sau/. Trị nóng rét kinh cuồng, họng đau, lưng (hông) ngực căng đầy, mặt thũng tê lạnh, gối chân không co vào được. Châm 6 phân, lưu 7 hô, cứu 3 mồi.

 Dương lăng tuyền: 2 huyệt, ở chỗ lõm phía ngoài ống chân, dưới khớp xương đầu gối 1 thốn, ngồi nhổm mà lấy huyệt. Đó là nơi của kinh mạch Túc Thiếu dương đi vào. Châm 6 phân cho đắc khí, nếu đi tả thì cần phải lưu châm lâu. Chủ trị đầu gối không co duỗi được, chân lạnh tê dại, trúng phong liệt nửa người, chân lạnh da trắng bệch thì cứu 7 đến 49 mồi càng tốt.

 /Tất/ Dương quan: 2 huyệt, ở trên huyệt Dương lăng tuyền 2 thốn (3 thốn) chỗ lõm dưới huyệt Độc tỵ (146) phía ngoài ống chân, ngổi nhổm mà lấy huyệt. Chữa đau ngoài đầu gối, khó co duỗi, phong tê mất cảm giác. Châm 5 phân, cấm cứu.

 Trung độc: 2 huyệt, ở chỗ lõm khoảng thăn thịt ngoài xương đùi to, trên đầu gối 5 thốn, chỗ có lạc mạch của Túc thiếu dương. Chữa khí lạnh nhiễm vào phần cơ thịt ở đùi sinh đau rằng lên trên và xuống dưới, gân thịt tê dại. Cứu 5 mồi, châm 3 phân, lưu 7 hô.

 Phong thị: 2 huyệt, chủ trị phong lở đau khớp. Lấy huyệt: người bệnh đứng thẳng, 2 tay buông xuống, ngón tay giữa đến chỗ nào thì lấy huyệt ở đấy.

 Hoàn khiêu: Huyệt ở giữa chỗ trũng sau xương mông. Nằm nghiêng co chân trên, duỗi chân dưới mà lấy huyệt, châm 1 thốn, lưu 10 hô, cứu 5 mồi. Trị phong thấp tê lạnh, mề đay (phong chẩn), phong liệt nửa người, lưng đùi đau không thể trở mình được.

* Chú thích:

(143) Kinh Túc Thiếu dương - Đởm có 44 huyệt. Đây giới thiệu 15 huyệt, với 6 huyệt đã nói ở mục B.4, cộng 21 huyệt (xem phần tóm tắt mục k.11). Các huyệt được trình bày từ chân đi lên khác với Châm cứu đại thành.

(144) Huyệt Túc lâm khấp ở chỗ lõm sau đốt xương thứ nhất của ngón thứ tư về phía ngón út, cách huyệt Khâu khư trước mắt cá ngoài 3 thốn.

(145) Huyệt Ngoại khâu ở ngang sau huyệt Dương giao trên mắt cá ngoài 7 thốn (không phải 6 thốn): Đính chính.

(146) Huyệt Tất dương quan ở trên huyệt Dương lăng tuyền 3 thốn (không phải 2 thốn) chỗ lõm mé ngoài trên huyệt Độc tỵ (không phải dưới huyệt Độc tỵ): Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 28, 2018, 08:48:45 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #56 vào lúc: Tháng Ba 28, 2018, 09:00:50 AM »

12. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THÁI DƯƠNG - BÀNG QUANG

Này là /Túc/ Thái dương - Bàng quang,
Ba mưới sáu huyệt lưỡng hàng hai bên (147).

 Chí âm: 2 huyệt, ở mé cạnh ngoài ngón chân út, cách góc móng bằng một lá hẹ (1 phân) là nơi mạch của Túc Thái dương đi ra, làm huyệt Tỉnh. Chủ trị mắt sinh màng mộng, mũi tắc đầu nặng, phong hàn theo ngón.

Chân út dấy lên sinh tê thấp, bạch đới, đau hông sườn, thỉnh thoảng rút gân, hàn tà không ra mồ hôi, tâm phiền, dưới chân nóng, tiểu tiện không lợi, di tinh. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

 Thông cốc: 2 huyệt, ở chỗ trước đốt xương mé ngoài ngón chân út, là nơi của kinh mạch Túc Thái dương chạy đến làm huyệt Huỳnh. Chữa đau đầu chóng mặt, lở họng, chảy máu mũi, cứng gáy, chảy nước mũi, đau tức hông sườn, tim bồn chồn kinh sợ. Và theo Chân Quyền nói thì chữa cả tích kết, ăn uống không tiêu. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.

 Thúc cốt: 2 huyệt, ở chỗ lõm sau đốt xương mé ngoài ngón chân út, là nơi kinh mạch Túc Thái dương dồn đến, làm huyệt Du. Chữa đau eo lưng như gãy, mông trệt như kết, tai điếc, sợ gió lạnh, chóng mặt đau gáy không thể quay cổ được, tròng mắt đỏ chói. Cứu 3 mồi.

 Kinh cốt: 2 huyệt, ở dưới xương to mé ngoài chân, chỗ lõm nơi giáp thịt trắng đỏ, có kinh mạch Túc Thái dương đi qua làm huyệt Nguyên. Chữa đau đầu gối không thể co duỗi được, nóng đầu, chóng mặt, trong khóe mắt có màng trắng, phát cơn sốt rét, hay kinh rùng mình, kém ăn, gân liệt chân tê, đau cổ, cứng gáy, sống lưng và chân cẳng cúi ngửa vận động khó khăn, chảy máu mũi không dứt. Cứu 7 mồi.

 Thân mạch: 2 huyệt, là nơi mạch Dương kiểu đi ra, ở chỗ lõm trước chân, dưới mắt cá ngoài (5 phân), cách chỗ giáp thịt trắng đỏ khoảng móng tay. Chữa đau eo lưng không thể cử động, thân thể và chân lạnh không thể ngồi lâu, nếu đi thuyền đi xe thì như quay cuồng, nóng rét. Châm 3 phân, cấm cứu.

 Kim môn: 2 huyệt, ở trước chân dưới mắt cá ngoài (148) là nơi kinh mạch Túc Thái dương và Dương duy rẽ ra. Trị hoắc loạn chuyển gân, chân gối mỏi ê, rung mình không thể đứng lâu, bị ngất, điên giản, bỗng đau hòn dái (sán khí) trẻ con kinh giản, miệng há đầu lắc lư, uốn ván. Châm 1 phân, cứu 3 mồi.

 Bộc tham: 2 huyệt, ở chỗ lõm dưới xương gót chân, cong bàn chân mà lấy huyệt. Chữa gót chân đau không muốn bén đất, chân liệt, chuyển gân, lạnh buốt tựa như trúng khí độc, bị ngất (thi quyết), hoắc loạn nôn ói, điên giản nói cuồng như ma làm. Châm 3 phân, cứu 7 mồi.

 Côn lôn: 2 huyệt, ở chỗ lõm trên xương gót chân, phía sau trên mắt cá ngoài (5 phân), là nơi kinh mạch Túc Thái dương đi qua, làm huyệt Kinh. Chữa eo lưng đau ngầm, bàn chân, gót sưng, chân nhức không thể đặt xuống đất, chảy máu mũi, nhức đầu, lưng đau gấp, ho suyễn, bỗng đau bụng dữ dội, đầy trướng, trẻ con lên cơn kinh giật. Châm 3 phân, cứu 5 mồi.

 Phụ dương: 2 huyệt ở chân, trên mắt cá ngoài 3 thốn. Châm 6 phân, cứu 3 mồi.

 Dương kiểu: Ở khoảng gân xương trước kinh Thái dương, sau kinh Thiếu dương, nơi mạch Âm kiểu đi ra. Trị bệnh nuy quyết phong tê, đau đầu gáy, nách, mông, ống chân đau phong co quắp, tê dại, có khi nóng rét, chân tay không cử động. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Phi dương: 2 huyệt lạc của Túc Thái dương, chạy rẽ sang kinh Túc Thiếu âm, ở trên mắt cá ngoài 7 thốn. Chữa bệnh trĩ, phong đau các khớp xương, ngón chân không thể co duỗi được, đầu mắt tối xẩm, khí nghịch đổ máu mũi, điên, rét cơn. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Thừa cân: 2 huyệt, ở sau bắp chân, chỗ giữa đùi đi xuống cẳng chân, trên ngấn cổ chân 7 thốn (11 thốn) (149). Chữa tê lạnh chuyển gân, chân thũng, đại tiện không thông, bắp chân đau buốt.

 Hợp dương: 2 huyệt ở chính giữa dưới khoeo gối 2 thốn. Chữa lưng sống đau cứng xiên ra bụng, trong háng vế nóng, đầu gối ê buồn, bước mạnh khó khăn, hàn sán âm nang lệch đau, phụ nữ rong huyết, bạch đới. Châm 6 phân, cứu 5 mồi.

 Thừa sơn: 2 huyệt, ở dưới bụng chân, chỗ lõm nơi rẽ ra thăn thịt, nhón bàn chân lên khỏi đất một bước mà lấy huyệt. Chữa lưng đau, chân rung, ống chân tê buốt đau ngặt, dưới bàn chân nóng, bệnh cước khí cẳng chân sưng đau không thể đứng lâu, chứng hoắc loạn chuyển gân, đại tiện không thông, bệnh trĩ sưng đau. Châm 7 phân, cứu 3 mồi.

 Ủy trung: Huyệt ở giữa ngấn chỉ ngang khoeo chân trong đầu gối, chỗ có động mạch, là nơi kinh mạch Túc Thái dương đi vào, làm huyệt Hợp. Chữa eo lưng giáp xương sống đau êm ẩm, vãi đái, đái són, lưng nặng khó trăn trở, mông đùi đau tê, có thể chích cho máu ra; chữa tràng nhạc lâu năm đều khỏi. Nay phụ thêm chữa bệnh chảy máu ở hậu môn, bệnh nhiệt mồ hôi không ra, chân nóng mà quyết nghịch, gối sưng không thể co duỗi, chích lấy máu ở kinh ra thì rất chóng khỏi.

 Ủy dương: 2 huyệt, ở chỗ chót ngấn chỉ ngang khớp đầu gối, giữa khoảng hai gân phía ngoài ống chân, cách huyệt Ủy trung 2 thốn (150), co chân mà lấy huyệt. Chữa dưới nách sưng đau, hông đầy căng, mình nóng rút gân co giật, nuy quyết, tê dại, són vãi đái. Có thể cứu 3 mồi, châm 7 phân.

 Phù khích: 2 huyệt, ở trên huyệt Ủy trung 2 thốn (1 thốn) (151) co đầu gối mà lấy huyệt. Chữa bụng dưới nóng, đại tràng kết, ngoài đùi gân rút, mông đít tê dại, đại tiện không thông, Bàng quang nóng. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Ân môn: 2 huyệt, ở chỗ trong đùi chân, dưới huyệt Thừa phù 6 thốn. Chữa đau lưng, xương sống không thể cúi ngửa được, cử động nặng nề, máu xấu ngưng tụ ngoài đùi sưng đau. Châm 5 phân, cấm cứu.

  Thừa phù: 2 huyệt, ở giữa ngấn chỉ ngang, dưới mông đít, trên vế trong. Chữa eo lưng xương sống dằng đau như kéo, trĩ mãn tính, sưng lỗ đít, đại tiện khó, tử cung âm đạo bị lạnh, vãi đái. Châm 1 phân.

* Chú thích:

(147) Kinh Túc Thái dương - Bàng quang có 67 huyệt. Ở đây được giới thiệu bằng chữ Hán 18 huyệt, có thể do người đời sau chép thay chỗ nguyên bản bằng ca bị khuyết. Bài ca mục B.2 ở trên đã nêu lên 17 huyệt, với huyệt Cao hoang nói ở phần I, cộng 36 huyệt (xem phần tóm tắt, mục K.7 ở sau). Kinh này đã trình bày các huyệt từ chân đi lên khác với ngày nay.

(148) Huyệt Kim môn ở trước chân dưới mắt cá ngoài, sau huyệt Kinh cốt, trước huyệt Thân mạch.

(149) Huyệt Thừa cân ở chính giữa bụng chân, trên ngấn cổ chân đi thẳng lên 11 thốn: Đính chính.

(150) Huyệt Ủy dương ở ngang huyệt Ủy trung cách nhau 1 thốn.

(151) Huyệt Phù khích ở trên huyệt Ủy dương 1 thốn.
« Sửa lần cuối: Tháng Mười Một 19, 2018, 09:50:45 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #57 vào lúc: Tháng Ba 28, 2018, 10:46:53 AM »

BỆNH VỀ KỲ KINH

Bệnh kỳ kinh không phải tự nó sinh ra, vì nhân các kinh khác tràn ra mà chảy vào.

Bệnh Dương duy thì nóng rét. Bệnh Âm duy thì đau vùng tim. Bênh Dương kiểu thì dương cấp mà chạy cuồng. Bệnh Âm kiểu thì âm cấp mà chân thẳng đờ. Bệnh về Xung mạch thì khí nghịch mà Lý cấp (đau quặn trong bụng). Bệnh về Đốc mạch thì xương sống cứng, quyết nghịch như bẻ. Bệnh Nhâm mạch nam thì sa đì (đồi sán), nữ thì bạch đới, báng hòn. Bệnh Đới mạch thì bụng trướng đầy mà eo ưng lạnh buốt, ấy do 2 kinh Xung và Nhâm dẫn tới. Vả lại bệnh phụ nữa về vú sữa và kinh nguyệt là từ đấy mà ra (nam nữ khác nhau là ở chỗ ấy). Mạch kỳ kinh là như vậy.

Ba mạch: Dương kiểu, Dương duy và Đốc mạch đều thuộc dương chủ bệnh ở vai, lưng, eo lưng, đùi và chứng ở biểu.

Năm mạch: Âm kiểu, Âm duy, Nhâm mạch, Xung mạch, Đới mạch đều thuộc âm, chủ bệnh ở tâm, bụng, sườn, xương cụt, chứng nặng ở Lý.

Cách chia trên dưới xương sống làm ba bộ:

 - Thượng bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 4 phân 1 ly, là phần vai.

- Trung bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 6 phân 1 ly, là phần lưng.

- Hạ bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 2 phân 6 ly, là phần eo lưng.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 28, 2018, 10:48:54 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #58 vào lúc: Tháng Ba 28, 2018, 10:50:18 AM »

PHÉP LẤY HUYỆT Ở ĐẦU VÀ LƯNG ĐỂ CHỮA BỆNH

Thái dương trên Tử mạch: 2 huyệt ở bên trán, chỗ đuôi lông mày có động mạch. Chủ trị nhức đầu đau mắt chảy nước mắt. Cấm châm, nặng thì cứu 27 mồi, vừa thì cứu 7 mồi, nhẹ thì cứu 5 mồi.

Ngư vĩ: 2 huyệt, ở chỗ lõm ngoài đuôi mi đầu khóe mắt. Chủ trị mắt sinh màng, sít lại khó mở. Cứu 7 mồi.

Ấn đường: Huyệt ở giữa khoảng hai đầu lông mày. Chủ trị đau hai góc đầu, mắt không thấy rõ và trúng phong hôn mê không tỉnh. Cứu 49 mồi.

Uất trung: 2 huyệt, lấy bằng cách dùng một sợi rơm đo thẳng từ huyệt Đản trung đến huyệt Thiên đột, bẻ lấy một nửa (điểm mực đánh dấu ở đó). Rồi lấy một nửa sợi rơm ấy gấp lại làm hai, để vào chỗ đánh dấu mực ở giữa, đi ra hai bên là huyệt (ở hai đầu sợi rơm) vào chỗ lõm khoảng giữa hai xương. Cứu 14 đến 21 mồi, chủ trị hen suyễn, ho nhiều đờm. Người béo thì không nên cứu.

Nhũ ảnh: 2 huyệt. Lấy huyệt Đản trung làm mốc, dùng sợi rơm đo khoảng giữa hai nuốm vú, bẻ lấy một nửa, rồi đo từ nuốm vú thòng xuống đến đâu là huyệt ở đấy. Nam dùng bên tả, nữ dùng bên hữu mà cứu, chủ trị bệnh sốt rét cơn như thần (xem mục 25 phần II).

Phục nguyên: 2 huyệt, ở chỗ thịt đen thẳng trên nuốm vú, nam dùng bên tả, nữ bên hữu, cứ một tuổi cứu 3 mồi, 2 tuổi cứu 7 mồi. Chữa trẻ em kinh giản (xem mục 24 phần II).

Bối lam: Huyệt ở sau lưng. Cách lấy: bảo bệnh nhân đứng ngay thẳng, hai chân giáp bằng nhau, lấy dây khoanh chu vi hai bàn chân, bỏ chỗ dây thừa đi. Gấp đôi dây ấy cho cân, để chỗ giữa vào trên yết hầu, thòng hai đầu dây ra sau lưng (chập vào xương sống) đến đâu là huyệt đấy. Chủ trị bệnh sốt rét cơn rất hay, khi lên cơn hen thì cứu khỏi nóng rét. Nên cứu 21 mồi hoặc 14 mồi (xem mục 25 phần II).

Trực cốt: 2 huyệt, ở mép thịt đen dưới vú xuống (xem mục 5 phần II). Chủ trị ho lâu ngày không khỏi, nam dùng huyệt bên tả, nữ dùng huyệt bên hữu, cứu 7 đến 14 mồi.

Quan mạch: 2 huyệt ở trong bộ "Thốn", ngoài bộ "Xích" của mạch tay, huyệt này ở giữa. Chữa trúng phong tê dại mất cảm giác. Nên cứu 7 mồi.

Độc âm: 2 huyệt, ở giữa ngấn chỉ ngang dưới ngón chân thứ 2 . Trị thai chết trong bụng và nhau không ra. Cứu 5 mồi. Trị đẻ ngược thì dùng kim may nhỏ châm vào lòng bàn chân của đứa con 3 - 5 lần, sau kíp lấy ít muối xát bôi vào chỗ châm, thai liền ra.

Xung môn: 2 huyệt ở hai bên huyệt Khúc cốt cách ra mỗi bên 3 thốn (152) nơi có động mạch nhỏ. Chủ trị sa đì dái sưng to, cứu 14 mồi, cấm châm.

Khúc cốt: Huyệt ở trên xương mu, chỗ lõm đám lông, nơi có động mạch, ngang với huyệt Thận du (153).

Mỗ tự: 2 huyệt (đã nói ở mục 15 phần II) chủ trị bệnh sa đì.

Tử cung: 2 huyệt, ở hai bên huyệt Trung cực, cách mỗi bên 2 thốn (154) (xem mục 7 phần II). Chữa lạnh dạ con, kinh nguyệt không đều, huyết tụ thành hòn, bạch đới, hoặc trước khi thấy kinh mỏi mệt, lâu không có thai. Nên cứu 14 đến 21 mồi.

Đại cốt không: 2 huyệt ở trên đốt xương trước của ngón tay cái, co ngón tay mà lấy huyệt ở chỗ nhọn. Chủ trị nhức đầu đau mắt, chảy nước mũi không dứt. Cứu 3 mồi.

Tứ hoa ở đầu (Nay gọi là Tứ thần thông): Cách huyệt Bách hội đi ra 4 bên, trước sau và hai bên tả hữu, mỗi bên 1 thốn. Chủ trị phong ở đầu, mặt và mũi đều đỏ. Cứu 7 mồi hoặc 14 mồi. Cả huyệt Bách hội thì gọi là Ngũ hoa (xem mục 14 phần II).

Tiểu cốt không: 2 huyệt ở ngón tay trỏ, trên chỗ khớp xương thứ hai giáp đốt trước, co ngón tay mà lấy huyệt trên chỗ nhọn. Chủ trị phong ở đầu sinh màng mắt, liệt và máy mắt. Nên cứu 7 mồi.

Độc tuyên: 2 huyệt. Bảo người bệnh nằm ngửa, co gối, chập hai chân lại với nhau, lấy dây buộc chặt, cứu 2 đầu ngón chân giữa, chỗ cuối 2 ngón chụm lại. Cứu 3 mồi, chủ trị bệnh sa đì (hòn dái sưng sa xuống).

Đơn tuyên: 2 huyệt, ở khoảng hai đầu ngón tay thứ 4 và ngón út, lấy dây buộc chặt hai ngón lại với nhau, cứu ở chỗ hai đầu ngón giáp nhau, cứu 1 mồi hoặc 7 mồi. Chủ trị kinh giản, bệnh kính, Xí (co cứng hôn mê do trúng phong thấp), bệnh điên cuồng và các tật ở miệng.

Độc âm(155): 2 huyệt, cũng gọi là Chí âm, ở đầu ngón chân út. Như chảy máu mũi thì buộc hai ngón chân, cứu chỗ đầu hai ngón chập lại 3 mồi. Nếu là phụ nữ khó đẻ thì bảo bệnh nhân ngồi ở giường thòng chân xuống đất mà cứu, đẻ được thì thôi. Theo Từ Thị nói thì Chí âm ở mé cạnh ngoài ngón chân út cách góc móng 1 phân. Châm 2 phân cứu 3 mồi.

Kim tân - Ngọc dịch (156): 2 huyệt ở cách huyệt Liêm tuyền đi ra hai bên, mỗi bên 1,5 thốn. Chủ trị sưng lưỡi, sưng họng (song nga, đơn nga) và trúng phong cấm khẩu, cứu 7 mồi. Châm cứu huyệt này thì ngửa mặt mà lấy huyệt.

Tụ tuyền: 1 huyệt ở chót đầu lưỡi (157). Lấy lát gừng cách ly mà cứu lên trên. Như ho nhiệt thì dùng Hùng hoàng tán nhỏ cho một tý vào ngải mà cứu. Ho lạnh thì dùng Khoản đông hoa tán nhỏ trộn với Ngải mà cứu. Lại chữa lưỡi cứng, hen suyễn, ho lao. Cứu 7 mồi.

Hải tuyền: 1 huyệt ở dưới lưỡi, chỗ giữa chót ngoài da (158), cứu 7 mồi. Chữa lưỡi sưng to. Có bản sách nói Tụ tuyền và Hải tuyền là một huyệt.

Ngoại khỏa tiêm: 2 huyệt, ở trên chót xương mắt cá ngoài. Cứu 7 mồi. Chủ trị ống chân, cẳng chân chuyển gân (chuột rút) và vì lạnh cước khí đau chân.

Nội khỏa: 2 huyệt ở chân, chỗ thịt trắng đỏ (dưới mắt cá trong). Chủ trị 10 loại phù thũng bí nước, toàn thân trướng đầy. Cứu 3 mồi (159).

Giao tín (160): 2 huyệt, ở chân men gót đi lên 5 thốn. Chủ trị bệnh hàn sán (sa đì do lạnh), bụng dưới đau, tiểu tiện không lợi. Cứu 3 mồi.

Trung tuyền: 2 huyệt ở giữa lưng cổ tay (huyệt Dương khê ở trong Dương trì ở ngoài). Chủ trị tim đau và khí uất trong ngực khó chịu. Cứu 7 mồi.

Tỵ chuẩn: Huyệt ở  chót sống mũi đi lên 1 thốn. Chữa nghẹt mũi, tịt mũi không ngửi được, lại chữa mũi sinh mãn phong. Cứu 5 mồi, cấm châm.

Hoa đà (161): 2 huyệt ở ngón chân cái, chỗ thịt trắng đỏ, cạnh nó trong cách góc móng 5 phân. Chữa trúng nắng mình nóng. Cứu 3 mồi.

Toản trúc: 2 huyệt, ở chỗ lõm ngoài góc lông mày. Châm 1 phân, cấm cứu (xem mục 19 phần II). Chủ trị mắt nhìn không rõ.

Ngũ hổ (162): 4 huyệt, ở chỗ chót đầu các ngón tay trỏ, ngón giữa, ngón thứ tư. Nắm quắp lại mà lấy huyệt. Chủ trị ngón tay co quắp.

Tình minh: 2 huyệt, ở khóe mắt phía trong, chỗ lõm thịt đỏ. Đó là 5 mạch của các kinh Thủ, Túc thái dương, Thiếu âm, Dương kiểu, Âm kiểu, Túc dương minh hội lại. Châm 5 phân, cấm cứu. Chủ trị mắt nhìn không rõ, gặp gió thì chảy nước mắt, mắt màng mộng, đau đầu tối mắt.

Nhãn mã (163): 2 huyệt, chữa tia máu đỏ ở mắt. Sách Tư Sinh nói cứu 3 mồi. Huyệt Tình minh cũng vậy (163).

Cùng cốt: 1 huyệt ở trên huyệt Trường cường, chỗ đầu chót xương cùng (xem mục 13 phần II). Chủ trị 25 chứng giản cả thể cứng và thể mềm, điên cuồng, trĩ rò kiết lỵ đau quặn mót rặn. Cứu 5 mồi.

- Chữa đại phong (phong hủi): Phép chữa dùng kim hào châm, trước châm huyệt Tố liêu 3 lần cho ra máu, rồi châm huyệt Thừa tương và huyệt Ủy trung.

- Chữa chó dại cắn chưa phát hay đã phát lên cơn, dùng dây đo từ cuối mắt bên trái đến hết cuối mắt bên phải, bỏ phần thừa, rồi lấy dây ấyđo từ huyệt Ấn đường (chính giữa khoảng hai lông mày) lên đầu, đến cùng dây là huyệt ở đấy. Cứu 14 mồi, và lấy phân người khô đặt vào chỗ bị chó cắn mà cứu lên trên (164).

* Chú thích:

(152) Huyệt Xung môn ở ngang huyệt Khúc cốt đi ra cách 3,5 thốn, dưới huyệt Đại hoành 5 thốn.

(153) Huyệt Khúc cốt ở trên xương mu thuộc mạch Nhâm, ngang với huyệt Yêu du thuộc mạch Đốc trên xương cùng trôn (không phải ngang với Thận du): Đính chính.

(154) Huyệt Tử cung ở hai bên huyệt Trung cực ngang ra 3 thốn: Đính chính.

(155) Huyệt Độc âm (ngoài kinh) ở giữa ngấn ngang dưới ngón chân thứ 2, khác với huyệt Chí âm ở mé ngoài đầu ngón chân út thuộc kinh Bàng quang. Cả 2 huyệt đều có tác dụng chữa đẻ khó.

(156) Theo tài liệu ngày nay, cũng như sách Châm cứu đại thành thì hai huyệt Kim tân và Ngọc dịch ở dưới lưỡi trên tĩnh mạch. Kim tân ở bên tả, Ngọc dịch bên hữu, ở trên chỗ hầu kết 1 thốn, cách ra mỗi bên 3 phân. Còn hai bên huyệt Liêm tuyền thì gọi là Bàng Liêm tuyền.

(157) Theo Châm cứu đại thành thì huyệt Tụ tuyền ở chỗ giữa khe trũng trên lưỡi.

(158) Theo Châm cứu đại thành thì huyệt Hải tuyền ở trên mạch khoảng giữa phía dưới lưỡi.

(159) Khác với huyệt Nội khỏa tiêm ở trên chóp xương mắt cá trong, và tác dụng trị bệnh cũng khác.

(160) Xem huyệt Giao tín ở kinh Túc Thiếu âm thận (K.VIII).

(161) Khác với huyệt Hoa đà giáp tích ở sau lưng (theo tài liệu ngày nay).

(162) 4 huyệt Ngũ hổ ở chính giữa mặt sau khớp đốt xương 1 và 2 của ngón tay trỏ và ngón tay thứ 4 (theo Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay).

(163) Huyệt Nhãn mã không nói rõ vị trí. Huyệt này cũng không thấy chép trong Châm cứu đại thành, và cũng không thấy nói ở trong Châm cứu Tư Sinh. Hơn nữa huyệt Tình minh cũng không thể cứu được.

(164) Những kinh nghiệm chữa bệnh chó dại cắn và phong hủi trên đây được chép ở nguyên bản xen vào sau huyệt Độc âm và trước huyệt Xung môn, chúng tôi chuyển xuống sau cùng để tiện việc tham khảo.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 30, 2018, 05:02:38 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #59 vào lúc: Tháng Ba 30, 2018, 08:22:16 AM »

TỔNG HỢP TÓM TẮT PHẦN IV



« Sửa lần cuối: Tháng Năm 29, 2018, 10:15:43 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 2 3 [4] 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn