Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 14, 2024, 03:32:32 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 2 [3]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: THƯ PHÁP VÀ TRANH THUỶ MẶC  (Đọc 27596 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
Nhất chi mai
Sr. Member
****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 333



Email
« Trả lời #30 vào lúc: Tháng Sáu 08, 2008, 01:26:54 PM »

VIII. CÔNG CỤ TRỢ HUẤN

1. Dĩa VCD dạy thư pháp do Trung Quốc sản xuất: Các dĩa này đã bày bán đầy ở các hiệu sách ngoại văn. Phổ biến là các dĩa VCD của thư pháp gia trứ danh hiện đại Dương Tái Xuân 楊再春 giảng giải, do Đại học Thể dục Bắc Kinh xuất bản. Đủ các loại thư thể được giảng dạy, rất đáng cho người tự học tham khảo. Thí dụ:

* 99 thiên mao bút tự tốc thành luyện tập pháp: Hành thư. 99 天毛筆字速成練習法﹕行書 (cách luyện tập nhanh chữ bút lông trong 99 ngày: chữ Hành) của Dương Tái Xuân.



* Thư pháp Tô Thức (Tô Đông Pha)
 
* Danh gia giáo nễ luyện thư pháp 名家教你練書法 (các danh gia dạy bạn học thư pháp) xếp theo chủ đề, nằm trong Series Thư pháp bệnh viện 書法病院 , phân tích các lỗi thông thường khi viết chữ.

* Trung Quốc Thư pháp 中國書法. Trọn bộ khoảng 10 dĩa CD, xếp theo từng chủ đề, do nhiều thư pháp gia khác nhau phụ trách giảng dạy, cũng do Đại học Thể dục Bắc Kinh xuất bản. v.v.

2. Các sách thư pháp, tự thiếp, bi thiếp, tự điển thư pháp, v.v. do Trung Quốc xuất bản cũng là tài liệu tham khảo cần thiết. Hiện có bán tại các hiệu sách ngoại văn.

3. Ngoài ra trên Internet có vô số trang Web về thư pháp. Ta vào search engine của Google, chọn phần ngôn ngữ là Chinese hoặc English, rồi gõ chữ 書法 hoặc Chinese calligraphy, máy sẽ cho ta các địa chỉ mà ta cần tìm.
Logged



Kỷ niệm bố và bá bá
Xuân Như
Khách
« Trả lời #31 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:06:55 PM »

Thư pháp ở đây cũng vui đáo để, thích ghê
Logged
Xuân Như
Khách
« Trả lời #32 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:08:45 PM »

Thêm thắt cho vui nhé:

Tìm hiểu thêm về Thiếp Lan Đình        
 
Vương Hi Chi (c.303 – c.361), người huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, sống thời Đông Tấn, là nhà thư pháp nổi tiếng trong lịch sử hội hoạ Trung Quốc. Ông là người học rộng tài cao được cử làm quan đến chức Nội sử kiêm hữu quân tướng quân, nên đương thời hay gọi ông là Vương Hữu Quân. Hồi nhỏ Vương Hy Chi trực tiếp được bố truyền dạy thư pháp. Sau, học chú ruột Vương Triền, một họa gia kiêm thư pháp gia. Càng học Vương Hy Chi càng chăm chỉ luyện chữ, công phu tìm hiểu bút tích của Lý Tư (đời Tần), của Tào Hỷ (thời Đông Hán) của Lục Cơ (đời Tây Tấn) của Vệ phu nhân (nữ thư pháp gia lừng danh đời Đông Tấn)...


Lan Đình - Thần long bản

Bài tựa này ông viết cho tập thơ do các bạn ông sáng tác trong một buổi hội thơ ở Lan Đình, núi Cối Kê (Lan Đình là tên một ngôi đình cổ ở Sơn Âm (nay thuộc Triệu Hưng, Triết Giang) do Vương Hy Chi và anh em danh sĩ Tạ An xây dựng). Buổi hội này tổ chức nhân dịp lễ “hễ”. Lễ “hễ” là lễ trừ tà, tẩy uế gồm có lễ xuân hễ tổ chức vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, và thu hễ tổ chức vào 14 tháng 7 âm lịch (tính theo tây lịch, buổi hội thơ này nhằm vào ngày 22-4-353)

Thuở xưa khi vào cuối xuân khí trời chuyển ấm, người ta thường ra nơi bờ sông, suối làm lễ tẩy uế, tắm rửa – theo tín ngưỡng thì để trừ đi tà khí của mùa đông lạnh khi khí trời ấm lên. Sang đến đời Lục triều thì thì ý nghĩa trừ tà mất đi, buổi lễ trở thành một dịp họp mặt của các văn nhân thi sĩ.

Hôm ấy, Vương Hi Chi cùng với 41 thi khách tham gia buổi hội thơ, tham dự trò chơi thả chén đặt thơ. Trong trò chơi này mọi người sẽ theo thứ tự già trẻ ngồi dọc theo bên bờ suối, những chén rượu được thả trôi xuống từ đầu dòng nước, lần lượt các thi nhân được mời hạ bút sáng tác một bài thơ trước khi cái chén trôi qua trước vị trí của mình. Nếu không xong thì sẽ bị phạt rượu. Chỉ có 26 người được cuộc trong trò chơi này. Và 26 bài thơ đó được tập thành trong 1 tập thơ gọi là "Lan Đình thi tập". Thi tập này được Vương Hi Chi viết lời tựa bằng một bút pháp tinh xảo của riêng ông theo thể Hành. Và từ đó trở về sau những người luyện Thư Pháp thường lấy làm mẫu để mô phỏng lối viết của ông và để viết những tấm thiếp tặng cho nhau mà người đời sau thường gọi thủ bút của ông là thiếp Lan Đình và truyền tụng là “Thiên hạ đệ nhất hành thư”.

Trong truyện Kiều có câu nhắc đến Lan Đình như một chứng tích về Thư pháp mà Nguyễn Du nhắc đến:

“Khen rằng: Bút pháp đã tinh,
So vào với thiếp Lan Đình nào thua!”


Nguyên bản thủ bút của Vương Hi Chi giờ đây không còn nữa, tương truyền là vào đời Đường, Đường Thái Tông vì quá mê thư pháp của Vương Hi Chi đã ra lệnh chôn những bức họa thư đó cùng với mình. Đời nay còn lại chỉ là các bản lâm của các Thư gia nổi tiếng.

Nguyên tác Lan Ðình Tập Tự (Vương Hi Chi)

蘭亭集序 - 王羲之

永和九年,歲在癸丑,暮春之初,會於會稽山陰之蘭亭,修禊事也。群賢畢至,少長咸集。此地有崇山峻嶺,茂林修竹;又有清流激湍, 映帶左右。引以為流觴曲 水,列坐其次;雖無絲竹管絃之盛,一觴一詠,亦足以暢敘幽情。是日也,天朗氣清,惠風和暢;仰觀宇宙之大,俯察品類之盛;所以游 目騁懷,足以極視聽之娛, 信可樂也。夫人之相與,俯仰一世,或取諸懷抱,晤言一室之內;或因寄所託,放浪形骸之外。雖趣舍萬殊,靜躁不同;當其欣於所遇, 暫得於己,快然自足,不知 老之將至。及其所之既倦,情隨事遷,感慨係之矣。向之所欣,俛仰之間,已為陳跡,猶不能不以之興懷;況修短隨化,終期於盡。古人 云:「死生亦大矣。」豈不 痛哉!每覽昔人興感之由,若合一契;未嘗不臨文嗟悼,不能喻之於懷。固知一死生為虛誕,齊彭殤為妄作。後之視今,亦猶今之視昔, 悲夫!故列敘時人,錄其所 述,雖世殊事異,所以興懷,其致一也。後之覽者,亦將有感於斯文。


Phiên ân Hán Việt

Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê sơn âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập. Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc; hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đới tả hữu. Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kỳ thứ; tuy vô ty trúc quản huyền chi thịnh, nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình. Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng; ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh; sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.

Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế, hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội; hoặc nhân ký sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại. Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng; đương kỳ hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỷ, khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí. Nãi kỳ sở chi ký quyện, tình tùy sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ. Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian, dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hứng hoài; huống tu đoản tuỳ hoá, chung kỳ ư tận. Cổ nhân vân: “Tử sinh diệc đại hĩ.” Khởi bất thống tai! Mỗi giám tích nhân hứng hoài chi do, nhược hợp nhất khế; vị thường đắc lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài. Cố tri nhất tử sinh chi hư đản, tề Bành Thương chi vọng tác. Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!

Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật, tuy thế thù sự dị, sở dĩ hứng hoài, kỳ trí nhất dã. Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.

Bản dịch bài tựa cho Lan Đình thi tập
Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hoà thứ chín, sắp vào cuối xuân; cùng họp nhau nơi Lan Đình, phía bắc núi Cối Kê, soạn lễ trừ tà. Quần hiền già trẻ đều đến. Đất ấy có núi cao non xinh; rừng xanh tốt, trúc vút cao; thêm suối trong cuộn chảy, lấp loáng bóng đôi bờ. Theo dòng nước uốn lượn có thể thả chén rượu đặt lời thơ. Hết thảy đều chia thứ bậc cùng ngồi. Tuy vắng tiếng đàn sáo ca xang, nhưng một chén rượu, một lời ngâm cũng đủ vui mà bày giải khối tình u uẩn. Ngày hôm ấy trời trong mây lành, gió mát ru êm. Trông theo trời, vũ trụ bao la; cúi xem đất, muôn loài tươi tốt. Buông lòng cảm hứng theo đôi mắt dõi trông, cũng đủ thích mắt vui tai. Thật sướng lắm thay.

Phàm người cùng người tương hội chỉ là trong thoáng chốc của cuộc đời; có người khi giao tiếp giữ kín hoài bão bên trong, có người phóng lãng hình hài ký thác lòng mình ra ngoài lời. Khi buông thả, khi nắm giữ; lúc lặng, lúc mau khác biệt muôn vàn. Tuy vậy mà vẫn lấy làm vui, dầu trong chốc lát, chẳng biết tuổi già đang đến. Rồi khi tự thân mòn mỏi, tâm tình theo sự vật đổi thay, khiến lòng đầy cảm khái. Niềm vui giờ đây trong khoảnh khắc bỗng biến thành vết bụi mờ; như thế thì lòng ai không luyến tiếc. Huống chi cuộc đời dài ngắn biến hoá, rồi cũng đến lúc tận chung. Người xưa thường nói, việc tử sinh là việc lớn, há chẳng xót xa ư! Mỗi khi xét đến cảm hứng trong văn chương của người xưa rồi cùng hợp lại, thì lòng ta lại vì lời văn mà trỗi mối u hoài không giải rõ được vì sao. Cố khăng cho sống chết như một là chuyện hư dối, lấy cái thọ của Bành Tổ mà so với cái yểu của Thương Sinh(1) là giả vọng. Đời sau nhìn lại nay cũng như nay nhìn lại xưa, cả đều buồn thay!

Vậy đây theo thứ tự các thi nhân mà chép lại; tuy tuổi tác chẳng đồng, sự việc có khác nhưng lòng hoài cảm thì như nhất. Người sau xem lại, hẳn vì lời thơ mà gợi niềm thương cảm hơn chăng.


Ghi chú:
(1) Bành Tổ thọ đến tám trăm tuổi, Thương Sinh thì chết yểu.

 
Xuân Như 2005
« Sửa lần cuối: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:12:01 PM gửi bởi Xuân Như » Logged
John Viet
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 11



Email
« Trả lời #33 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:10:57 PM »


蘭亭集序
 Lan Đình tập tự
 Bài tựa cho Lan Đình thi tập (Người dịch: Trương Củng)
 
永和九年,歲在癸丑,暮春之初,會會稽山陰之蘭亭,修禊事也。群賢畢,少長咸集。此地有崇山峻嶺,茂林修竹;又有清流激湍,映帶左右。引為流觴曲水,列坐其次;雖無絲竹管絃之盛,觴一詠,亦足以暢敘幽情。是日也,朗氣清,惠風和暢;仰觀宇宙之大,俯察品類之盛;所以游目騁懷,足以視聽之娛,信可樂也。

夫人之相與,俯仰一世,取諸懷抱,晤言一室之內;或因寄所,放浪形骸之外。雖趣舍萬殊,靜躁不同;當其欣於所遇,暫得於己,快自足,不知老之將至。及其所之既倦,情隨事遷感慨係之矣。向之所欣,俛仰之間,為陳跡,猶不能不以之興懷;況修短隨化,終期於盡。古人云:「死生亦矣。」豈不痛哉!每覽昔人興感之由,若合一契未嘗不臨文嗟悼,不能喻之於懷。固一死生為虛誕,齊彭殤為妄作。後之視今,亦猶今之視昔,悲夫!

故列敘人,錄其所述,雖世殊事異,所以興懷,其致一。後之覽者,亦將有感於斯文。

 Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê sơn âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập. Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc; hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đới tả hữu. Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kỳ thứ; tuy vô ty trúc quản huyền chi thịnh, nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình. Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng; ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh; sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.

Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế, hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội; hoặc nhân ký sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại. Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng; đương kỳ hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỷ, khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí. Nãi kỳ sở chi ký quyện, tình tuỳ sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ. Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian, dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hứng hoài; huống tu đoản tuỳ hoá, chung kỳ ư tận. Cổ nhân vân: "Tử sinh diệc đại hĩ." Khởi bất thống tai! Mỗi giám tích nhân hứng hoài chi do, nhược hợp nhất khế; vị thường đắc lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài. Cố tri nhất tử sinh chi hư đản, tề Bành Thương chi vọng tác. Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!

Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật, tuy thế thù sự dị, sở dĩ hứng hoài, kỳ trí nhất dã. Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.
 Năm Kỷ Sửu, Vĩnh Hoà thứ chín, sắp vào cuối xuân; cùng họp nhau nơi Lan Đình, phía bắc núi Cối Kê, soạn lễ trừ tà. Quần hiền già trẻ đều đến. Đất ấy có núi cao non xinh; rừng xanh tốt, trúc vút cao; thêm suối trong cuộn chảy, lấp loáng bóng đôi bờ. Theo dòng nước uốn lượn có thể thả chén rượu đặt lời thơ. Hết thảy đều chia thứ bậc cùng ngồi. Tuy vắng tiếng đàn sáo ca xang, nhưng một chén rượu, một lời ngâm cũng đủ vui mà bày giải khối tình u uẩn. Ngày hôm ấy trời trong mây lành, gió mát ru êm. Trông theo trời, vũ trụ bao la; cúi xem đất, muôn loài tươi tốt. Buông lòng cảm hứng theo đôi mắt dõi trông, cũng đủ thích mắt vui tai. Thật sướng lắm thay.

Phàm người cùng người tương hội chỉ là trong thoáng chốc của cuộc đời; có người khi giao tiếp giữ kín hoài bão bên trong, có người phóng lãng hình hài ký thác lòng mình ra ngoài lời. Khi buông thả, khi nắm giữ; lúc lặng, lúc mau khác biệt muôn vàn. Tuy vậy mà vẫn lấy làm vui, dầu trong chốc lát, chẳng biết tuổi già đang đến. Rồi khi tự thân mòn mỏi, tâm tình theo sự vật đổi thay, khiến lòng đầy cảm khái. Niềm vui giờ đây trong khoảnh khắc bỗng biến thành vết bụi mờ; như thế thì lòng ai không luyến tiếc. Huống chi cuộc đời dài ngắn biến hoá, rồi cũng đến lúc tận chung. Người xưa thường nói, việc tử sinh là việc lớn, há chẳng xót xa ư! Mỗi khi xét đến cảm hứng trong văn chương của người xưa rồi cùng hợp lại, thì lòng ta lại vì lời văn mà trỗi mối u hoài không giải rõ được vì sao. Cố khăng cho sống chết như một là chuyện hư dối, lấy cái thọ của Bành Tổ mà so với cái yểu của Thương Sinh là giả vọng. Đời sau nhìn lại nay cũng như nay nhìn lại xưa, cả đều buồn thay!

Vậy đây theo thứ tự các thi nhân mà chép lại; tuy tuổi tác chẳng đồng, sự việc có khác nhưng lòng hoài cảm thì như nhất. Người sau xem lại, hẳn vì lời thơ mà gợi niềm thương cảm hơn chăng.


 
Bành Tổ thọ đến tám trăm tuổi, Thương Sinh thì chết yểu.

Bài tựa này Vương Hy Chi viết cho tập thơ do các bạn ông sáng tác trong một buổi hội thơ ở Lan Đình, núi Cối Kê (Lan Đình là tên một ngôi đình cổ ở Sơn Âm, nay thuộc Triệu Hưng, Chiết Giang) do Vương Hy Chi và anh em danh sĩ Tạ An xây dựng). Buổi hội này tổ chức nhân dịp lễ "hễ". Lễ "hễ" là lễ trừ tà, tẩy uế gồm có lễ xuân hễ tổ chức vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, và thu hễ tổ chức vào 14 tháng 7 âm lịch (tính theo tây lịch, buổi hội thơ này nhằm vào ngày 22-4-353).

Thuở xưa khi vào cuối xuân khí trời chuyển ấm, người ta thường ra nơi bờ sông, suối làm lễ tẩy uế, tắm rửa – theo tín ngưỡng thì để trừ đi tà khí của mùa đông lạnh khi khí trời ấm lên. Sang đến đời Lục triều thì thì ý nghĩa trừ tà mất đi, buổi lễ trở thành một dịp họp mặt của các văn nhân thi sĩ.

Hôm ấy, Vương HY Chi cùng với 41 thi khách tham gia buổi hội thơ, tham dự trò chơi thả chén đặt thơ. Trong trò chơi này mọi người sẽ theo thứ tự già trẻ ngồi dọc theo bên bờ suối, những chén rượu được thả trôi xuống từ đầu dòng nước, lần lượt các thi nhân được mời hạ bút sáng tác một bài thơ trước khi cái chén trôi qua trước vị trí của mình. Nếu không xong thì sẽ bị phạt rượu. Chỉ có 26 người được cuộc trong trò chơi này. Và 26 bài thơ đó được tập thành trong 1 tập thơ gọi là "Lan Đình thi tập". Thi tập này được Vương Hy Chi viết lời tựa bằng một bút pháp tinh xảo của riêng ông theo thể Hành. Và từ đó trở về sau những người luyện thư pháp thường lấy làm mẫu để mô phỏng lối viết của ông và để viết những tấm thiếp tặng cho nhau mà người đời sau thường gọi thủ bút của ông là thiếp Lan Đình.

Nguyên bản thủ bút của Vương Hy Chi giờ đây không còn nữa, tương truyền là vào đời Đường, Đường Thái Tông vì quá mê thư pháp của Vương Hi Chi đã ra lệnh chôn những bức họa thư đó cùng với mình. Đời nay còn lại chỉ là các bản lâm của các Thư gia nổi tiếng.

Nguồn: http://www.thuhoavietnam....261&PN=3&get=last
Logged
John Viet
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 11



Email
« Trả lời #34 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:13:14 PM »



Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh, có người nào xứng đáng không.

Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp:

- Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng nề nếp; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía đông.

Khước Giám bảo:

- Người ấy mới thật đáng rể ta.

Đoạn chọn làm rể. Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn cả thiên hạ.

"Đông sàng" là giường phía đông, chỉ người rể quý, "rể đông sàng".

Trong "Nhị độ mai" có câu:

"Có Tây Tử Đô, thiếu đông sàng nàỏ" là do điển tích trên.

Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu. Vì làm quan đến chức Hữu quân nên thường gọi là Vương Hữu Quân. Tương truyền Vương tập viết chữ bên bờ ao, sau nước ao đen ngòm những mực.

Lối chữ "Khải" của Vương được người đời cho là lối chữ đẹp nhất từ xưa đến nay.

Người đời thường khen bút thế của Vương "lướt như mây bay, mạnh như rắn lộn". Trong các bản bút thiếp của Vương để lại có bản "Lan Đình tập tự" viết ngày 3 tháng 3 năm Vĩnh Hòa thứ 9 đời nhà Tấn (337) được hậu thế quý trọng, cho làm mẫu mực để tập theo. Những bản "Lan Đình tập tự có lưu hành nhưng có lẽ đó là những bản phỏng theo. Bản chính đã thất lạc từ sau đời nhà Đường (618-907).

Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ "Lan Đình"; đó tức là lối chữ phỏng theo chữ viết của Vương Hy Chi trong "Lan đình thập tự".

Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn nói về Kiều bị Hoạn Thư cho ra tu ở Quán Âm các để chép kinh, Hoạn Thư khen chữ viết của Kiều, có câu:

Khen rằng: "Bút pháp đã tinh

So vào với thiếp Lan Đình nào thua!

Ý nói chữ viết tốt ngang với chữ của Vương Hy Chi.

Logged
Nhất chi mai
Sr. Member
****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 333



Email
« Trả lời #35 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:16:21 PM »



A lâu lắm mới thấy đại gia bên Thuhoavietnam xuất đầu lộ diện bên này! Cung nghinh! Cung nghinh!
Logged



Kỷ niệm bố và bá bá
Xuân Như
Khách
« Trả lời #36 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:18:52 PM »


A lâu lắm mới thấy đại gia bên Thuhoavietnam xuất đầu lộ diện bên này! Cung nghinh! Cung nghinh!

Lâu nay lười, ngồi ì mãi ở nhà, tay Thánh Hâm vừa bốc thuốc cho sang bên này, gọi là có nhời chào anh em!
Logged
Công chúa chiều
Newbie
*
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 21



Email
« Trả lời #37 vào lúc: Tháng Mười Một 13, 2008, 03:30:59 PM »


Chào bác Vũ Thanh Tùng, người vác bút lông lên net, em từ lâu ngưỡng mộ bác, rất vui được thấy bác bên này. Bác mở một góc Thư họa bên này đi!
Logged





 Nhanh như chim thả, chậm như sên bò, ngày nào cũng lò dò còn hơn bay đây bay đó!
Xuân Như
Khách
« Trả lời #38 vào lúc: Tháng Mười Một 17, 2008, 02:34:22 PM »

Chào bác Vũ Thanh Tùng, người vác bút lông lên net, em từ lâu ngưỡng mộ bác, rất vui được thấy bác bên này. Bác mở một góc Thư họa bên này đi!

Cảm ơn nhé! Bên này vui lắm, tôi sẽ ghé qua chơi thường xuyên, cái gì hay hay vui vui ngộ ngộ sẽ post anh em cùng chơi
Logged
Trang: 1 2 [3]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn