QUAN HỆ CỦA HÀNH CÔNG VỚI TRỊ TẠNG
Phàm là người luyện tập võ thuật không kể là ở ngoại công hay nôi công, đều cần lấy ngưng thần cố khí làm chủ. Muốn ngưng thần, tụ khí lại không thể không làm dẹp trừ mọi suy nghĩ bậy, trừ bỏ mọi bệnh tật.
Trị tạng tức là điều trị nội tạng làm cho tạng sạch không có ngoại tà xâm nhập, sau đó mới luyện tập công phu thì thần trọn vẹn, khí đầy đủ, thành công sẽ nhiều, thu hiệu quả rất nhanh. Không như thế thì khi bệnh ở trong khồng được trừ, ngoại tà dễ vào, khi ta buông thả sẽ làm cho ngày tập không để lại dấu vết, không những không thể trông đợi vào việc tập đó có thành, quá lắm lại có thể bị nó tàn hại. Cho nên người đời thường nói: “Tập ngồi dễ thành ngu xuẩn (Bành Sĩ), tập thổ nạp (khí thở ra, khí hít vào) dễ thành lao phổi”. Nhưng việc tập ngồi, tập thổ nạp đều chưa thể làm trước việc điều trị nội tạng, không được lấy việc làm trước là con đường đúng . Đến khi ngoại tà lấn vào, bệnh ở trong tăng thịnh mà thành nhiều loại bệnh lạ, cuối cùng đến nỗi có thuốc cũng không thể cứu.
Phàm hành công có thập yếu ( 10 điều cần thiết). thập kị (10 điều kiêng tránh) và thập bát thương (18 cái hại) đều là then chốt cần thiết nhất trong phép trị tạng.
Luyện nội công, việc cần là ghi chắc ở tâm, giữ lấy ý ở mọi nơi. Sau khi trị tang đã chắc chắn trọn vẹn mới theo đúng phép hành công, lúc đó mới có thể có hiệu quả.
Giờ hành công lấy Tí và Ngọ, mỗi giờ lấy làm một lần tập là đẹp. Lấy Tý để gặp sinh dương, lấy Ngọ để gặp sinh âm hợphai khí âm dương trộn lại thì thành tượng (hình ảnh) của tiên thiên lúc này thần của sự suy nghĩ được yên tĩnh, máy móc trong thân thể không làm việc, mọi tạp niệm không có chỗ mà sinh, một khí hỗn nhiên thành công tự nó dễ dàng.
Quyết trị tạng chỉ có 6 chữ là HA, HƯ, HU, HÔ, XUY, HI. Hàng ngày tĩnh toạ gõ răng nuốt nước bọt, niệm sáu chữ đó có thể lấy đó trừ trăm thứ bệnh của tạng phủ. Riêng khi niệm nên nhẹ, tai không nghe thấy tiếng là khéo nhất, lại cần liền một hơi thẳng xuống, không được dứt quãng là hiệu quả như thần.
Trích: Đích phái chân truyền Thiếu lâm nội công bí truyền - người dịch Lê Văn Sửu.