Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 12, 2024, 04:19:42 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1] 2 3 ... 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca  (Đọc 29605 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« vào lúc: Tháng Một 28, 2018, 03:44:32 PM »

PHẦN 1

Mở đầu

Việc y trong lúc thừa nhàn
Lại đem Từ Thị (1) Đồng Nhân thừa cầu (2).
Thấy phép châm cứu nhiệm mầu,
Tài thô trí thiển dễ hầu ai tinh.
Vậy nên hết sức phát minh,
Đem lời giản dị đặt thành quốc âm.
Để cho hậu học nhập tâm,
Họa may phép cứu khỏi nhầm người ta.
Cứ ngày mồng ba tháng ba,

10. Ngọ thời (giữa trưa) lấy Ngải về nhà cẩn phong.
Âm can (phơi râm) trữ để vào trong,
Độ ba năm ấy sẽ dùng mới hay.
Ôn tân (cay ấm) là tính ngải này,
Hiệu là Y thảo (Ngải cứu) trị rày bách ban
Câu rằng "Phục dược tam niên
bất như cứu Ngải nhất tráng" (3) còn truyền.

Việc kiêng kỵ

Năm khao thần tại (4) phải kiêng,
Phạm khao thần tại cứu nên tật rày (thành thương tật).
Trọng giả táng mệnh (nặng thì chết) khi nay,

20. Khinh giả (nhẹ thì) thuở rày hóa phát ung thư (nhọt).
Ta hỏi tuổi người bệnh kia,
Một tuổi thần tai ở về cung Khôn.
Hai tuổi Chấn cung đã dồn,
Ba tuổi Tốn vị chẳng còn hồ nghi.
Bốn tuổi trung cung chớ gì.
Năm tuổi Kiền vị, sáu thì Đoài phương.
Bảy tuổi Cấn vị rõ ràng,
Tám Ly, chín Khảm, hết hàng cửu (chín) cung.
Mười tuổi Khôn cung lại dùng,

30. Mười một cung Chấn thuận dòng kể đi.
Mỗi cung một tuổi y, y.
Lại xem cung ấy thần thì ở đâu:
Khôn cung nội ngoại khỏa cầu (2 mắt cá chân),
Nha nhu (răng, bắp tay): Chấn, nhũ khẩu (vú, miệng) đầu: Tốn cung
Kiên cốt (xương vai) cưu cốt (xương mông) cư trung,
Diện mục bối (mặt, mắt, lưng) lại ở vùng Kiền môn.
Đoài cung thủ bác (bắp tay) phải tôn,
Cấn cung yêu hạng (eo lưng, gáy nay khôn động hề.
Tất lặc (đầu gối, sườn cụt) thì kỵ ở Ly.
Trửu cước độ (khuỷu tay,chân, bụng) thì kỵ ở Khảm gian.

***

40. Khao thần kể trước đã an,
Nhật thần nay lại kể tên từng ngày:
Mồng một ngón tay cái [ngón chân cái] nay, (5)
Mồng hai mắt cá ngoài rày phải không.
Mồng ba trái đùi bên trong.
Dưới lưng mồng bốn cho thông những là.
Mồng năm ở miệng chẳng xa.
Mồng sáu kia là thần tại cánh tay [bàn tay]
Mồng bẩy mắt cá trong rày,

50. Mồng tám ngày ở cổ tay chớ gì.
Mồng chín xương cùng một khi,
Mồng mười lưng bối vậy thì dám quên.
Mời một tinh mũi là tên.
Mười hai chân tóc vậy liền kể ra.
Hàm răng là ngày mười ba.
Mười bốn vị quản (vùng dạ dày) (7) thời ta chớ nhầm.
Khắp mình là ngày mười lăm,
Đến ngày mười sáu thần nằm nương long (7 + 1).
Mười bảy thần tại Khí xung (9),

60. Mười tám thần tại bên trong trái đùi,
Mười chín bắp chân [đầu gối] (10) kia ơi,
Hai mươi mắt cá nhưng ngồi bên trong.
Hai mốt ngón tay út song (2 ngón),
Hai mươi hai mắt cá ở cung bên ngoài.
Hai ba ở Can (vùng gan) chẳng sai,
Cùng là tức cước (cẳng chân) mọi nơi kia là.
Ngày hai mươi bốn kể ra,
Ở ngón tay trỏ ấy là Dương minh (11).
Hai nhăm Dương minh túc kinh (12).

70. Nương long hai sáu rành rành chớ sai.
Hai bảy đầu gối là nơi,
Ân môn (13) hai tám, thần chơi đấy là.
Ngày hai mươi chín kể ra,
Ống chân đầu gối (14) cũng là phải kiêng.
Ba mươi gót chân [bàn chân] (15) cũng kiêng,
Nhật thần tại đó, ngày kiêng chớ dùng.

***

Nhật thần trước đã kể xong,
Huyết ky (16) mỗi tháng lại cùng kể ra:
Ngày Sửu giêng, Dần hai, Vị ba,
Bốn thân, năm Mão, sáu là Dậu cung.
Thìn bảy, Tuất tám đã xong.
Chín Tỵ, mười Hợi, còn mong nỗi gì.
Mười một mười hai kể đi,
Một Ngọ hai Tý, vậy thì phải kiêng
Huyết chi (17): ngày Sửu ở tháng giêng,
Hai Dần, ba Mão, Thìn sang bốn rồi.
Năm Tý, sáu Ngọ, bảy Mùi,
Tám thân, chín Dậu, Tuất mười phải chăng,
Hợi mười một, Tý chạp thực rằng,
hễ dùng châm cứu phải năng ghi lòng.

***

90. Lại học Trực nhật cho thông,
Nam Trừ (18), nữ Phá (19) chớ dùng làm chi.
Nam Phá nữ Trừ một khi,
Ấy là ngày tốt, ta thì dùng ngay.
Lại xem khí trời bằng nay,
Thanh minh quang lãng là ngày khai thông.
Nhược bằng lôi điện vũ phong (sấm sét mưa gió),
Thiên địa âm ám (trời đất âm u) bất thông chớ hề.
Ngày nào là ngày Đinh mùi
Biển Thước (20) tử nhật (ngày mất) ta dùng làm chi.

100. Còn khi cơ bão (no đói) thất thời,
Khí hao huyết tổn, cứu thì phải hung (xấu).
Cứu xem đương Ngọ chính trung (giữa trưa).
Ấy khi dương thịnh mới thông huyết rày.
Dù hòa (mà) bóng xế về tây,
Ấy khi âm thịnh, cứu nay chẳng hèo (công hiệu).
Lại bảo cho hết mọi điều
Hoặc có bệnh phải chứng nghèo kịp hay.
Chọn sao cho được ngày rày,
Ta cứ thuở này Bát pháp Linh quy: (21)

110. Hà nhật, hà can, hà chi (ngày nào thuộc can chi gì),
Hà nhật, hà thì (huyệt nào, giờ nào) phép ấy chính công.
Đoạt trừ chư nhật thần hung (kiêng những ngày xấu).
Chẳng còn phạm sát đến trong mệnh người.
Lại còn lấy lửa đốt mồi,
Lọ (chẳng) phải lửa trời lửa đá làm chi,
Lửa đèn, lửa sáp tùy nghi
Ta dùng để cứu thực thì hiệu thay.

* Chú thích:

(1) Từ Chính Khanh khắc in và đề tựa quyển Châm cứu Tư Sinh kinh năm 1220.
(2) Đồng nhân ấn huyệt châm cứu đồ kinh của Vương Duy Nhất soạn năm 1027.
(3) Uống thuốc ba năm chẳng bằng đốt Ngải cứu một mồi.
(4) Khao thần tại là một lối kiêng châm cứu ở từng vùng theo tuổi người bệnh (ở thời xưa).
(5) Ngón chân cái (túc mậu chi): Đính chính (theo Châm cứu đại thành).
(6)Bàn tay (thủ chưởng): đính chính.
(7) Vùng dạ dày ở trên rốn khoảng 2, 4 - 5 thốn.
(7+1=8) Trước ngực (hung tiền), khoảng giữa vú.
(9) Huyệt Khí xung ở hai bên bẹn.
(10) Đầu gối (túc tất).
(11) Kinh Thủ dương minh bắt đầu từ huyệt Thương dương ở bên cạnh phía trong ngón tay trỏ.
(12) Kinh Túc dương minh bắt đầu (theo sách cổ) từ huyệt Lệ đoài ở mé cạnh ngoài ngón chân thứ hai.
(13) Vùng tiền âm và hậu môn.
(14) Bắp chân đầu gối (túc tất kinh hậu).
(15) Bàn chân (túc phu).
(16, 17) huyệt kỵ, huyết chi là những lối kiêng châm cứu mỗi tháng một ngày tính theo can, Chi, âm lịch ở thời xưa.
(18, 19) Nam kiêng ngày Tuất là Trực trừ, nữ kiêng ngày Hợi là Trực phá.
(20) Tác giả của sách Nạn kinh về châm cứu.
(21) Phép tìm huyệt châm cứu tính theo ngày giờ thuộc can chi, phối hợp tám phép giao hội với bát mạch, bát quái.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 01, 2018, 02:09:40 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Một 30, 2018, 03:10:07 PM »

Phân thốn xích biện thần huyệt quốc ngữ ca (*)

(CA NÔM VỀ PHÂN CHIA THƯỚC TẤC ĐỂ LẤY HUYỆT)

Tuyền cơ (22) vừa thuở thanh minh,

120. Xem pho châm cứu mới tinh nhiệm mầu.
Kinh (sách) rằng đầu có thước đầu,
Chọn ra cho biết mới hầu nên hay.
Trước thời dùng một cái dây,
Sử (khiến) người bệnh ấy ngồi bày hẳn hoi.
Trâm liền rẽ tóc cho rồi,
Đo từ chân tóc trước ngôi làu làu.
Trực thượng (thẳng lên) đến chân tóc sau,
Chia mười hai tấc mới hầu định danh (tên).
Ấy là trung bộ (đường giữa) phân minh,

130. Hễ cứu đầu thượng (trên đầu) dùng hàng mũi nơi.
Bằng người sói trán khó coi,
Chân tóc chẳng có, cứ ngôi chẳng tường.
Ta liền đo tự Ấn đường,
Trước mặt chính mũi giữa ngang hai mày.
Cứ đấy đo lên cho ngay,
Thẳng sau Hậu đỉnh, đến nơi Đại chùy.
Cứ giữa u cổ đoạn chi (cắt dây đến đấy),
Là mười tám tấc (thốn) thực thì phải thay.
Lại trừ sáu tấc bằng nay (trước và sau),

140. Đến hai chân tóc, còn dày thước hai (12 thốn).
Lại bằng phép cũ chẳng sai,
Cứu đầu thì dụng, ai ai tỏ tường.
Lại dùng phép nở hòa lường,
Có người lạ dạng khác thường thế nay.
Đại chùy chẳng có khôn (khó) thay,
U cổ thì lép ta rày cứ đâu?
Phải lấy hai bên vai đầu,
Đo ngang bằng phẳng ngồi ngay chớ gù.
Nào giữa xương sống đến đâu,

150. Bút điểm lấy đấy thực lâm (đến đấy) lại bằng.
Lại đến bối bộ trung hàng (dọc lưng),
Kể đốt xương sống lưng cho tỏ tường.
Lấy hai mươi mốt đốt sương,
Chia làm ba bảy (3 x 7) lạ đường khác tên.
Bảy đốt trên về phần kiên (vai),
Một đốt sá lấy một tấc bốn phân.
Lại thêm một ly đủ phân,
Trung chùy (giữa đốt) lại kể đến tuần bối (lưng) nay.
Lại còn bảy chùy cho hay,

160. trung bộ hơn đốt ai rày biết chi.
Một tấc sáu phân một ly,
Ấy là một chùy ta rày cứ theo.
Hạ chùy kể đến phần yêu (eo lưng),
Bảy đốt xương sống hiểm nghèo nan tri (khó biết).
Một tấc hai phân một ly [sáu ly],
Ấy là một đốt biết thì là riêng.
Kể cả ba bộ cho yên,
Chia ra ba thước luận bàn mới hay.
Cứ trên từ Đại chùy nay,

170. Hạ chí cùng cốt (đến xương cùng) thực rày thông tri.
Bằng nay (nếu như) béo lớn phát phì,
Lấn chẹt xương sống ta thì làm sao?
Ta chẳng biết đổi huyệt nào,
Đến khi lấy huyệt làm sao khó lòng.
Phải cứ bên trước tề trung (theo giữa lỗ rốn),
Đứng bằng đo lấy giữa trong rốn rày.
Chuyển hâu đem về đằng sau,
Điểm vào xương sống hiệu rày Mệnh môn.
Ấy mười bốn đốt chẳng hơn,

180. Đại chùy đến đấy nào còn phải suy.
Dưới còn bảy đốt hạ chùy,
Cứu đâu đo đấy kẻo thì suyễn sai.
Cho biết ba bộ ngắn dài,
Nhược bằng hoành tấc (đo ngang) đốt tay rõ ràng.

***

Hậu bối sau lưng đã nói tỏ tường,
Lại dẫn phúc bộ trung hàng (dọc bụng) kể ra:
Thượng, Trung, với Hạ kể ba,
Trên từ Thiên đột dưới hòa Vĩ cưu (Cưu vĩ) (23)
Đấy là Kỳ cốt giáp nhau,

190. Kể trên thượng bộ biết hầu bao nhiêu,
Tam tấc bốn phân (23) chẳng nhiều,
Thứ tự bẩy huyệt càng yêu thay là.
Thượng tiêu trung bộ kể ra,
Từ nơi Kỳ cốt đến hòa Tề trung (giữa rốn).
Ấy là giữa rốn dòng dòng,
Bẻ chín tấc chẵn (23) cho thông chớ nhầm,
Có một trung tiêu dài hơn,
Hạ tiêu lại kể nguồn cơn chép bày.
Từ rốn đến Khúc cốt nay,

200. Phân làm năm tấc thực rày đinh ninh.
Trung hàng tam bộ phân minh,
Đã chia rộng hẹp thực tình cho xong.
Lại nói đến huyệt Đản trung,
Cứ hai đầu vú ấy dùng cứu ta.
Giả linh (ví thử) cứu chị đàn bà,
Vú dài chảy xuống thày ta kể nào.
Đản trung khôn ý làm sao,
Phải tìm Thiên đột kể cao hàng dùng.
Từ Thiên đột đến Đản trung,

210. Sáu tấc ròng ròng mấy lại tám phân (24).
Vừa đương chính huyệt trung tuần,
Tức ho cứu đấy, kẻo còn lệ (e) chi.
Luận đến huyệt Cưu vĩ kia,
Có người thẳng cổ hồ nghi khôn dùng.
Ta lại cứ từ Đản trung,
Đo xuống hai tấc cũng cùng một phân (25).
Ấy huyệt Cưu vỹ như thần,
Song le cấm cứu biết phần mà noi.
Tổng danh các huyệt mọi nơi,
Khắp cả mình người tính cộng mấy nên:
Ba trăm đủ sáu mươi nhăm.

(*) "Thốn", "Phân" dùng trong châm cứu là những đơn vị đo riêng biệt, không nhất luật đối với các bộ phận của cơ thể và khác hẳn với tấc phân thông thường về trắc lượng, cho nên có thể phiên âm như một thuật ngữ, để khỏi hiểu nhầm nhất là về mức châm, chiều sâu.

(22) Tuyền cơ là một dụng cụ để xem thiên văn, Tuyền cơ cũng có ý nghĩa nói về sự xoay vần của tạo hóa.

(23) Theo sách châm cứu ngày nay: Thượng bộ kể từ huyệt Thiên đột đến huyệt Trung đình là 7 huyệt: 9 thốn. Trung bộ kể từ huyệt Trung đình đến huyệt Thần khuyết (giữa rốn): 8 thốn. Tính chẵn, từ Thiên đột đến Cưu vĩ là mười thốn.

(24) Từ huyệt Đản trung đến Cưu vĩ tính 2 thốn 6 phân.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 01, 2018, 02:12:05 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Một 31, 2018, 03:40:25 PM »

Huyệt cấm

Huyệt nào cấm cứu, cấm châm đâu là?
* Cấm châm trước sá kể ra:
Hai mươi tám huyệt thực là chỉn khôn:
Não hộ, Tín Hội, Giác tôn,
Thần ưng, Lạc cước, lại còn Thừa linh.
Lư ngạch (Lư tín), Thừa khấp (28) là danh,
Linh đài, Thần đạo lại hình Đản trung.
Thủy phân, Thần khuyết mấy cùng,

230. Hội dương (Hội âm), Hoành cốt, Khí xung mựa (chớ) hề.
Tam âm (27), Thừa cân huyệt kia,
Thanh linh cũng vậy ta thì khoan tay.
Kìa người thai dựng (nghén) cho hay,
Cấm châm Hợp cố cùng rày /Tam/ Âm giao.
Thạch môn, Cưu vĩ nơi nào, Vân môn Gián khách (28) người nào dám tra,
Khuyết bồn, Kiên tỉnh kia đà,
Thủ tam lý huyệt cũng là phải kiêng.
* Cấm cứu mấy lại càng thiêng:

240. Bốn mươi nhâm huyệt biết liền càng khôn.
Thừa quang, Phong phủ, Á môn,
Thiên trụ, Lâm khấp, kể dồn Tố liêu,
Tình minh, Toản trúc hòa nào,
Nghinh hương, Ty trúc, Hòa liêu cho tường.
Bạch hoàn /du/, Thiên phủ, Nhân nghinh,
Quyền liêu, Cưu vĩ, cùng hòa Đầu duy.
Hạ quan, Tích trung chớ hề,
Kiên trinh cùng về đến huyệt Tâm du,
Nhũ trung, Chu vinh mọi đồ,

250. Uyên dịch, Ngư tế đến hầu Phúc ai.
Thiếu thương, Kinh cự làm nơi,
Thiên phủ, Ngũ hội lại rày Trung xung.
Dương quan, Dương trì đều cùng,
Ẩn bạch, Lậu cốc, Ủy trung chẳng hiền.
Độc tỵ với Dương lăng tuyền (29),
Điều khẩu, Âm thị lại thêm Thừa phù.
Phục thỏ, Bễ quan một đồ,
Ân môn, Thân mạch, bảo cho mà phòng.
Tùy bệnh cứu ít mặc lòng,
260. Chẳng nên tăng vội từ vòng ba trang (mồi).

Quỷ huyệt

Cấm kỵ đã bảo tỏ tường,
Này lại dạy đường khu quỷ trừ tinh (30).
Phép ông Tư mịch tiên sinh (30),
Châm mười ba huyệt trong mình người ta:
Tự nhiên trừ hết quỷ ma,
Chẳng còn ám ảnh vào ra khỏi hề.
Trước ta phá nhà nó đi,
Châm Nhân trung huyệt quỷ tà hãi kinh.
Sau phá Quỷ tín là danh,

270. Đầu ngón tay cái châm rành hai bên (31).
Phá vào quỷ lụy kẻo bền,
Đầu ngón chân cái hai bên đấy rày (32).
Dưới móng một chút ghê thay,
Châm hai bên rày quỷ liền tuyệt tâm.
Rồi lại xuyên vào quỷ tâm,
Trước bàn tay cầm là huyệt Đại lăng.
Lại cấm lấy quỷ đi đường,
Là huyệt Thân mạch ở đường bàn chân.
Phá liền quỷ chẩm tần tần,

280. Hậu (sau) đầu một thốn ngay chưng Đại chùy (33).
Thứ bảy châm ở nhĩ thùy (dái tai) (34),
Là giường quỷ đấy trừ đi tan tành.
Tám phá chợ quỷ chính danh,
Là Thừa tương huyệt phân minh tỏ tường.
Giản sử (35), Thượng tinh, Ấn đường (35),
Châm vào một đường quỷ chẳng dám coi.
Âm hạ (Hội âm), ngọc môn hai nơi,
Chẳng nên châm đấy, húy (kiêng) nơi đàn bà.
Khúc trì, đầu thiệt (chót lưỡi) kể ra,

290. Ấy trừ tà quỷ mười ba huyệt thần.
Dầu hòa (dù mà) cứu thế độ dân,
Đắc truyền biết hết có phần tinh thông.
Chớ bì dốt nát đốt xông,
Lửa là tước (cướp) sạch khô lòng thế gian.

* Chú thích:

(26) Nghi là huyệt Thần tàng hay huyệt Ưng song.
(27) Tam dương lạc chép nhầm là Tam âm (đính chính).
(28) Theo sách cổ thì cấm châm gồm có huyệt: Cơ môn và Thủ tam ngũ lý mà không có huyệt Thần ưng, Thừa khấp và Gián khách.
(29) Đính chính: Âm lăng tuyền (chép nhầm chữ dương).
(30) Thuyết duy tâm theo sách Thiên kim phương của Tôn Tư mịch (581 - 683).
(31) Huyệt Thiếu thương.
(32) Huyệt Ẩn bạch.
(33) Huyệt Phong phủ (theo Châm cứu đại thành).
(35) Có huyệt Lao cung mà không có huyệt Giản sử, Ấn đường (Châm cứu đại thành).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 01, 2018, 02:13:55 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Một 31, 2018, 06:33:52 PM »

Bàn về huyệt Cao hoang, Hoạn môn, Tứ hoa, Trúc mã, Mỗ tự

Cao hoang mới lại luận bàn,
Trước bày chứng bệnh sau toan hành dùng.
Chẳng nề giầu khó trẻ trung,
Nam nữ lão thiếu đều cùng luận xưa.
Phụ âm bão dương kia là,

300. Thực vị bị sắc (ăn uống sắc dục) há là một ai.
Hoặc khi cảm khí đất trời,
Tứ thời bất chính trong ngoài chẳng ưa.
Huống chi là sự khôn trừ
Càng thêm chất lửa nào chừa nước hao.
Nhân cường tật nhược xem sao,
Chẳng lo rằng nó trơ vào vui riêng.
Lấy làm đắc ý chẳng kiêng.
Nào hay tự kỷ (sửa mình) biết giềng thiên cơ.
Đến khí hao kém sờ sờ,

310. Một ngày một tí nào ngờ bệnh mê.
Tiếng ho húng hắng hằng lề (thường khi),
Muốn ăn lóng mía cùng thì quả chua.
Càng thêm lạnh khí vào cho,
Tỳ  hư trở miệng, mép phô thở dài.
Hóa suyễn khi ngủ vắng người,
Chiêm bao kể thấy nói cười lăng nhăng.
Thức dậy mê mẩn khác hằng (thường),
Thần bất thủ xá (tinh thần hỗn loạn) lại rằng quý nhân.
Có người tham lộc đòi ăn,

320. Rối đùa mọi vẻ, hương phần tương liên (đốt hương luôn).
Khăn hồng yếm thắm vắt lên,
Coi vừa con mắt, bệnh liền khinh khinh (nhẹ nhẹ).
Lại khen vu hịch (thày phép ông đồng) thời danh,
Nào còn biết sự chân kinh (chân lý) là gì.
Hoặc người bẩm khí bạc suy (suy nhược),
Mỏng manh sức cốt thường khi yếu liền.
Hoặc ho, hoặc dãi, hoặc hen,
Lạnh liền đau bụng, nắng liền nhãn hoa (hoa mắt).
Ho đờm khạc huyết sinh ra,

330. Trong lòng bẩm nhẩm, ngoài da rùng rùng.
Khí suy huyết thiểu thực song,
Chưa hè đã quạt, chưa đông đã vầy (sấy).
Có khi trên ức đầy đầy,
Sái vai mỏi cổ lại hay ngáp dài.
Da vàng mái mái chẳng tươi.
Biếng ăn cơm gạo, muốn say mận đào.
Có người nguyên phải liệt lao.
Mạnh trên chưa kể được bao nhiêu ngày.
Giầu tham khó tiếc ai tày.

340. Cho nên lăn lội đông tây chẳng nề.
Ngoại thương xem đã bề bề,
Ngày hôm rượu thịt đêm kề lửa rơm.
Lạ chi mây đã nhóm cơn,
Chẳng mưa thì gió bình yên được nào.
Mượn say giả tỉnh ít nhiều,
Tinh thần hao tán mệnh nghèo sinh ra.
Cho nên chợt thấy đẫy đà,
Da trắng mỡ gà, bụng cả ễnh ương.
Phù kia phép nọ lạ dường,

350. Thuốc thì đã ít muôn phương đã nhiều.
Gái thì tuyệt thủy (kinh nguyệt) chẳng đều,
Biến làm trăm chứng gửi trêu ở mình.
Như hình giả cách ướm tình.
Mỏi mòn nặng nhẹ, trọng khinh đôi ngày.
Bụng thì khi đói khi đầy,
Mặt xem bỗng tái, bỗng hây đỏ hồng.
Khí thăng (lên) ừng ực nương long,
Ủa lên máy miệng phán rông phán dài.
Ấy là quỷ chúa bời bời,

360. Máu hay nát (dọa) người chẳng biết dễ nghe.
Chiều lòng cho khỏi ủ ê,
Mời bà xem lại nói về phần ma.
Khó tìm, giàu sắm của nhà.
Ngờ là vua chúa một ta biết người.
Kẻ thì mồ mả chuyển dời,
Sấy khô hài cốt cho người mới yên.
Dầu ai thượng trí nên ngoan,
Hễ điều tổn đức thiên vàn chớ nghe.
Có người lao trái truyền thi (lao trùng),

370. Cường tà ngoan quỷ nó thì cũng nên.
Hoặc nguyên tông phái tổ tiên
Hoặc phải phí truyền ăn mặc khí ai.
Hoặc là tôi tớ nuôi người,
Lấy phải uế khí nó dời biến sang.
Lâu ngày nhân nhược tật cường,
Nào ai biết trước kiếm phương giữ mình.
Kẻ tham bể bạc non tiền.
Vô tài dụng lực tìm miền xa khơi.
Non cao rừng rậm mọi nơi,

380. Đất thiêng nước độc ít người nhiều ma.
Dầm khe lặn suối lân la,
Cây cao bóng cả khí tà nhiễm xâm.
Trong nhiều thương thực cố tâm.
Ngoài nhiều dầu dãi sơn lâm hiểm nghèo.
Cho nên quỷ mị yêu kiều,
Ám ảnh dập dìu như gió bẻ măng.
Đến khi về tới đất bằng,
Lạ ăn phải nước, tật hằng sinh ra.
Rùng mình sởn óc ngoài da,

390. Bụng trong hòn chói báng là một bên.
Cho nên ngược chứng (sốt rét) phát liền,
Tật cùng nước độc nó liền hóa sinh.
Liền ngày, gián (cách) nhật phát hành.
Thổ tả, khái thấu (nôn, ỉa, ho) trong mình nọ kia.
Thuốc hay đã được một ai,Tích là khí nó ngày rày chưa tan.
Dĩ thượng (trên đây) các chứng luận bàn,
Cứu trừ tuyệt tích mới toan khỏi rày.
Luận cho cùng lẽ mới hay.

400. Chư hư bách tổn lâu ngày nhiễm xâm.
Lại phàm tà khí hai bên.
Phép thì cũng có, lý liền chẳng không.
Cho nên thảo mộc sinh trùng,
Nhớ người khí yếu tà tòng thừa hư (nhân yếu sinh bệnh).
Cây toan (chua) mọt mối dễ ưa,
Hễ ai có tật da thưa nhiễm vào.
Huống chi cửu khiếu bì mao (chín khiếu, chân lông),
Phong dẫn khí vào sự phải có ngoa.
Dễ xui chân tính thiên tà,
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 01, 2018, 02:15:57 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #4 vào lúc: Tháng Hai 02, 2018, 07:28:26 AM »

410. Vả khi có việc hô la trăm đường.
Chân nguyên chẳng có chủ trương,
Càng nhiều gió cả cành càng dễ lay.
Khác nào tầm gửi chọn cây,
Nhớ khi lâu ngày mượn miệng truyền hơi.
Phép thiêng cũng có chuyển dời,
Dại miệt lòng người cảm ứng chẳng thông.
Dầu ai thượng trí tài trên,
Nội công ngoại kích thực liền có hay.
Nếu mà cứu được huyệt này,

420. Như chim phá tổ, rắn nay dập đầu
Như thiên vạn quỷ âu sầu,
Lục phủ ngũ tạng mấy hầu bổ nguyên.
Bách bệnh chủ trị vi tiên,
Thượng cổ thánh hiền đã truyền Nội kinh (kinh điển)
Đắc truyền học được bảo minh,
Chữ nào nghĩa ấy dành dành như soi.
Tay làm, thầy dạy, mắt coi,
Nghĩa thông lý biết hẳn hoi rõ ràng.
Thánh sư đem hiệu cũng thường,

430. Lập làm quốc ngữ một phương nhiệm mầu.
Ông Hoàn xưa trị Tấn hầu,
Lấy chẳng nên huyệt người dầu đã chê.
Tuy nhiều sách nọ pho kia
Tiên hiền di bút người thì dấu ai.
Bởi ta sức học vắn dài,
Chữ đen đã thấu nghĩa vai còn ngờ.
Nghe hơi bắt chước tình cờ,
Khổ dê ỷ núi bây giờ chan chan.
Cậy rằng đắc thế làm càn,

440. Chẳng nề kinh chỉ (sách dạy) chẳng toan đắc truyền.
Kìa trong hòa cũng được nên,
Nào nhớ lời truyền Thiên thử phục ai.
Ấy là bàn bạc luận chơi,
Mặc sở phúc người, mặc sở lộc ta.
Hễ ai cửa thánh dạy ra,
Tìm thầy học hỏi kẻo mà đúng sai.
Cứu được huyệt ấy ai ai,
Thần kinh quỷ cụ (sợ), tuổi dài dài thêm.
Tính thiêng khí sảng bệnh êm,

450. Bách phát bách trúng giá nên ngàn vàng.
Vậy bèn dẫn huyệt Cao hoang:
Dạy bảo tỏ tường cho kẻo phân vân.
Trước đo lấy tấc (thốn) đồng thân (36).
Khiến bệnh ngồi nhổm khép chân vừa vừa.
Hai tay ôm hai gối co,
Cúi cúi mặt xuống ngồi chờ cho yên.
Hai tay kẹp nách hai bên,
Chớ hề dao động nữa liền sai đi.
U cổ kể lại một chùy (đốt xương).

460. Ngón tay áp đè cứ chỗ đốt xương.
Lấy từ Đại chùy cho tường,
Cứ trong xương sống kể hàng ấy tên (37).
Bốn, năm kể lấy cho yên (38).
Là đầu xương dưới phép truyền đã phân.
Chung ba cản lấy hai phần,
Bút điểm làm cứ (mốc) để phân lưỡng bàng (2 bên).
Tấc đồng (đồng thân) chỉ mới đo ngang,
Một bên ba tấc (thốn) lưỡng bàng: sáu nay.
Bút điểm hai huyệt cho ngay,

470. Đã hầu chính huyệt phép này càng gia.
Nguyên vai nó đã tỏ ra,
Bên trong xương ấy tay ta sờ vào.
Ngay đầu xương vai chốn nào,
Tìm ấn xuống huyệt Cao hoang cho tường.
Xương sườn kẽ nó bốn xương
Tam gian (3 khoảng) phải trái bằng dường thịt không,
Thực huyệt hình như hãm trung (chỗ lõm).
Nặng tay ấn xuống xem trong biết rày.
Xương sườn chẳng có phạm nay,

480. Mạch liền khiên dẫn (dằng đến) vai rày biết đau.
Ấy là thực huyệt nhiệm mầu,
Lại bảo một phép cứ sau cho tường.
Phải điểm giữa dưới đầu xương,
Dưới bốn tấc nữa môt đường cho ngay.
Lấy bút điểm lấy đấy rày,
Để làm sở cứ cho hay thực truyền.
Một bên năm tấc cho yên,
Lên đến hai huyệt hai bên biệt tình.
Hoặc bằng hoặc lệch phân minh,

490. Xem đã bình chính (bằng thẳng) rành rành như in.
Ngải cứu tước phẩn (bằng phân sẻ) đặt lên,
Tiên tả hậu hữu (trước trái sau phải) phép truyền cứ xưa.
Thần hỏa hạ Ngải bấy giờ,
Tiên khinh hậu trọng (trước nhẹ sau nặng) thần cơ phép cầm.
Một huyệt phỏng tự một trăm.
Phải bệnh có đờm lũng thũng chảy xuôi,
Hoặc là hai ba trăm mồi,
Cứu làm hai cữ (lần) kẻo ngồi mỏi tay.
Hoặc là bệnh /nhân/ kêu mỏi nay.

500. Bảo vịn vai cổ ngồi rày cho yên.
Chớ cho tay rũ hai hông,
Xương vai giáp lại chẳng thông khí vào.
Này phép Từ thị có công,
Trước xem bằng mặt vẽ vòng vách kia.
Khiến bệnh /nhân/ coi vòng chớ lìa,
Ngồi cho, yên chính ta thì dễ toan.
Lại như phép trước cho an.
Đại chùy cứ trước tuần hoàn kể đi,
Bằng người chẳng có Đại chùy,

510. Bằng vai lấy giữa mà suy cho tường.
Tứ ngũ chùy hạ lưỡng bàng (2 bên giữa đốt 4, 5),
Lại phân sáu tấc y tuân phép thường.
Có người béo cả (to) lấp xương,
Tay ấn chẳng tường sự ấy khôn toan,
Ta cứ bình tề (ngang rốn) Mệnh môn,
Ấy mười bốn chùy (đốt) phép còn chẳng sai.
Từ đấy lên đến đầu vai,
Làm mười bốn trụ nào ai biết tuần (bàn).
Một trụ một tấc (thốn) ba phân,

520. Lượng kỳ trường đoản vân vân như tiền (đo theo mức trên).
Mỗi trụ một phân cho yên,
Từ Đại chùy hạ (xuống) kể liền mười lăm.
Hai chùy ấy đo cản tâm,
Phân ba trung chính (chính giữa) tay cầm đinh ninh.
Lấy hai bỏ một phân minh,
Năm chùy đầu thượng (trên đốt thứ năm) điểm hình lên trên.
Đầu cản (đầu sợi rơm) đầu trụ (làm mốc) cho yên,
Điểm đầu cản độ (chấm đầu rơm) huyệt liền nảy ra.
Trong xương vi thiểu vi đa,

530. Trên nhiều dưới ít coi ra rành rành.
Học hải (học hỏi) dùng châm cho thông,
Lại dẫn đến cùng vi thiểu vi đa:
Nguyên lấy hai đốt chia ba,
Trên hai ấy chẳng vi đa thì gì.
Dưới nó nguyên có một chùy,
Kém trên hơi ít gọi thì "thiển" nay.
Kẻo còn sai suyễn ghe ngày,
Hễ ai đọc ít ca này dễ thông.

Thơ rằng:
 
"Cao hoang huyệt pháp thiểu nhân tri,
Phá trái trừ tà chân bảo y.
Lưỡng thủ tất vi linh chính tọa,
Song kiên giáp cốt sử khai ly.
Tam thiểu phân trừ tu bút ký,
Lưỡng tam bàng khứ huyệt tương kỳ.
Chân hạ phân minh u hữu tứ,
Châm câu tuy ngũ pháp vô nghi".

Dịch nghĩa:

Ít người biết phép lấy huyệt Cao hoang
để trừ tà lao trung rất là hiệu nghiệm.
Bảo người bệnh ngồi ngay hai tay bó gối,
khiến cho hai xương bả vai mở rộng ra.
Lấy huyệt ở khoảng 1/3 dưới đốt xương sống thứ tư, 2/3 trên đốt xương sống thứ năm,
làm dấu ở đấy, rồi đo thẳng ra hai bên cách 3 thốn là đúng huyệt.

Đã nói những người manh xong,

540. Bằng như người yếu khôn mong dậy ngồi.
Đồng nhân phép dạy đã rồi,
Khiến người nằm ghé ta coi dạng hình.
Huyệt thì phỏng đã dè tình,
Tay mình khiến nó vai mình hai bên.
Tay hữu vai nó mó lên
Cánh tay bằng miệng đã truyền cứ xưa.
Phỏng chừng gần huyệt sau vai,
Trực chỉ áp bối (ngón tay ôm lưng) thẳng tay rành rành..
Ngón tay giữa ngọ vị cho thông,

550. Mó chẳng đến huyệt, mó không đấy là.
Ấy cùng phải huyệt thực thà,
Bút liền điểm lấy thật là Cao hoang.
Đoạn (rồi) tay ta lại mó sang,
Hai bên cũng vậy cho bằng như in.
Xem hình thực huyệt mới yên,
Ngải mới châm cứu phép truyền rằng hay.
Hai tay hãy vịn vai này.
Đầu thì cúi xuống cho rày hở xương.
Nhược bằng tay để buông luông,

(36) Nguyên bản chú thích: Nam dùng tay trái, nữ dùng tay phải, cong ngón tay giữa lại, đo theo phía bên ngang giữa hai chỉ ngón tay, lấy chiều dài làm một thốn đồng thân.

(37) Nguyên bản chú thích: Trước lấy hàng giữa, mỗi bên một đốt xương thì chấm một điểm làm dấu.

(38) Nguyên bản chú thích: Lấy chỗ dưới đốt xương sống thứ tư trên đốt xương sống thứ năm.
« Sửa lần cuối: Tháng Hai 04, 2018, 08:25:18 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #5 vào lúc: Tháng Hai 02, 2018, 04:30:12 PM »

560. Xương vai giáp lại chẳng thông khí vào.
Một là càng đốt được nhiều,
Một trăm với nửa cho tiêu khí tà.
Cứu rồi kiêng kỵ càng gia,
Chớ cho ngoại cảm cùng tà nội thương.
Đêm ngày điều dưỡng tư (lo) lường,
Lại luận (bàn) bệnh ấy thêm phương huyệt nào,
Tam lý, Khí hải làm sao,
Tùy cơ ứng biến dạy nào xiết chi.
Hoặc là lòng nó hồ nghi,

570. Tam hàng bối bộ (hàng thứ ba ở lưng), ấy là Cao hoang.
Hạ chùy là dưới đốt xương,
Bảo cho tỏ tường minh bạch trước sau.
Bệnh nghèo huyệt lạ nhiệm mầu,
Bất khả tự cầu (không thể cầu xin) vô vật bất linh.
Dù ai lòng có chí thành,
Thánh sư giúp sức thần kinh bàng hoàng.
Lửa là chân khí Thái dương,
Ngải kia thượng đế thực phương trừ tà! (39)
Lại kể Thôi Thị (40) Tứ hoa,

580. Mệnh môn (41) hai huyệt thực là sáu yêu.
Trước dùng tơ se một điều (sợi),
Ước ba bốn thước chớ nhiều làm chi.
Xe rồi sáp ong vuốt đi,
Cho nó chính trực (ngay thẳng) kẻo thì suyễn sai.
Khiến người bệnh ấy ai ai,
Nam tả nữ hữu chân đạp một khi.
Đứng lên bằng đất tức thì,
Dây để cho thẳng chân thì đạp lên.
Đầu ngón chân cái chớ thiên,

590. Ngay bàn đến gót mấy nên phép nào.
Cứ đấy hướng về bên sau,
Dẫn thẳng tuần cước (men dây theo chân) lên hầu trái chân.
Áp thịt thẳng đến hoành văn (chỉ ngang),
Giữa Ủy trung huyệt như cân cho bằng.
Cắt dây từ đấy rõ ràng,
Đoạn mấy bảo rằng bệnh, /nhân/ ngồi cho ngay.
Đầu rẽ mái tóc phân hai,
Từ ngôi đến gáy thực nơi như truyền.
Nào dây chân đạp đo lên

600. Từ trên sống mũi gần miền Nhân trung.
Nào cứ tề chính (tày giữa) cho song,
Áp vào dọc mũi lên thông Thần đình.
Vượt qua Bách hội rành rành,
Áp thịt đến cổ dẫn thẳng (men dây) về sau.
Xuống ngay não hậu (sau chẩm đầu) chớ lâu,
Đầu dây rủ xuống đến hầu nơi nao.
Bút liền điểm lấy phải sao,
Để lấy làm cứ (mốc) chước cao phép truyền.
Đoạn lui lấy một tấc rơm,

610. Khiến người bệnh ấy miệng liền ngậm ngay.
Chớ cười chớ động cho hay,
Lấy nõn rơm bẻ khi  nay mà lường.
Xem trong chỗ bẻ cho tường,
Đặt giữa chỗ bẻ lên miền Nhân trung.
Hai đầu rơm ấy chia đồng,
Hai bên áp hai lần vòng cho yên.
Chớ cho cười, há, ta liền hòa xem.
Hình như "Mỗ tự' (24) đã lên,
Bút ta điểm mực dây liền cắt ra.

620. Đầu thừa chẳng kể đâu là,
Dao thầy cắt cản (rơm) kẻo mà suyễn sai.
Nào ghi điểm trước kìa ơi,
Bên sau tích bối (sống lưng) mấy đời cản sang.
Cản là ruột lúa đặt ngang,
Giữa điểm giữa gấp lưỡng bàng hai bên.
Coi cho bằng phẳng phương viên (vuông vắn),
Bút mấy điểm lấy hai bên lưỡng bàng.
Lại như lưỡng vẫn (hai môi) rõ ràng,
Học cho có ý lạ đường chỉn khôn (thật khó).

630. Ấy là lưỡng (hai) huyệt Hoạn môn (43).
Ngải ta liền đặt cứu dồn trăm trang (mồi).

***

Tứ hoa mấy lại bảo đường:
Phép có dạy rằng cứ Cưu vỹ kia,
Có người chẳng có hồ nghi,
Ta phải cứ lấy một khi gia truyền.
Đo lấy giữa rốn ngay lên,
Bầy tấc (thốn) rưỡi liền đến Cưu vỹ nay.
Bút điểm trung chính (chính giữa) cho tày,
Bảo /người/ bệnh trở dậy tấc này bỏ đi (44).

640. Đứng lên bình chính (ngay thẳng) một khi,
Chớ cúi chớ ngửa áo thì lột sa.
Song tay chớ động nhưng là,
Bút mực lấy lại thầy ta điểm vào.
Bên trước giữa cái yết hầu,
Bên sau u cổ (45) phép mầu bằng nhau.
Lấy dây vuốt sáp chưa lâu,
Gấp lại hai đầu buộc lấy nút trên.
Hai đầu rủ xuống song toàn (bằng nhau),
Nào nơi u cổ ta liền mấy coi.

650. Bút điểm để đấy hẳn hoi,
Lại đầu dây nớ đem đòi về nương (giữa ngực).
Cho đến Cưu vỹ tỏ tường,
Hai đầu giáp mực dao thường cắt đi (46).
Đoạn lui trở dây ấy về sau lưng,
Nó thì một chốc chưa lâu,
Đầu dây cứ mực ở nơi yết hầu.
Hai bên rủ xuống về sau trung hàng.
Cứ trong xương sống cho tường,
Rút hai đầu xuống bằng đường chính trung.

660. Đầu dây tận xứ (hết chỗ) thực song,
Bút điểm lấy đấy ta cùng cứu chi.
Nào phép cản đạo (rơm lúa) xưa kia,
Bảo nó ngậm cản (rơm) ta thì cứ xem.
Cắt đến hai mép cho in,
Gấp cản (rơm) đem lại về miền đằng sau.
Rồi vào mực điểm trung hàng,
Giữa mực giữa gấp hoành bàng (ngang ra) hai bên.
Bình chính (bằng thẳng) chớ lệch chớ thiên,
Điểm lấy hai huyệt ngang bên cản cùng (cuối rơm).

670. Rồi lại trở cản lập tung (trở rơm dựng dọc),
Hình như thập tự "+" ấy dòng tổ sư.
Lại xem cứ giữa biết chưa,
Đầu trên đầu dưới huyệt vừa phải danh.
Bình chính giữa xương phân minh,
Trên cản (rơm) một huyệt chính danh điểm vào.
Dưới điểm huyệt nữa phải sao.
Chính danh hiệu gọi là huyệt Tứ hoa.
Đã nên tường tận chẳng ngoa,
Ngải mới đặt cứu thật là chính tông.

680. Cứu năm ba mươi tráng mặc lòng,
Sang dũ tật dũ (lở khỏi bệnh khỏi) y trong tiên hiền.
Huyệt ấy cứu nhiều chẳng nên,
Lại có Tam lý phép truyền tả cho.
Dạy tường kẻo nữa hồ đồ,
Cao hoang là chủ, thứ (sau) cầu Tứ hoa.

***

Trúc mã mới lại kể ra,
Nghĩa đen ai nói thực là mấy nên:
Trúc là cây tre cho yên,
Mã giả là ngựa, cỡi lên hòa (mà) ngồi.

(39) Ý nói tác dụng của châm cứu huyền diệu vượt lên trên thần quyền.

(40) Huyệt Tứ hoa của Thôi trí Để dùng chữa bệnh hư lao (Châm cứu Tư Sinh).

(41) Huyệt Hoạn môn (chép nhầm là Mệnh môn): đính chính.

(42) Hình chữ "Mỗ" tức hình tam giác đều.

(43) Hai huyệt Hoạn môn tương đương với hai huyệt Tâm du ở dưới đốt xương sống thứ năm ngang ra 1,5 thốn (dùng chữa lao suyễn).

(44) Nguyên bản chú thích: Lấy được đúng huyệt rồi thì bỏ dây đi.

(45) Nguyên bản chú thích: Chính huyệt Đại chùy.

(46) Nguyên bản chú thích: Bỏ đoạn dây thừa.
« Sửa lần cuối: Tháng Hai 07, 2018, 12:09:43 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #6 vào lúc: Tháng Hai 04, 2018, 04:18:11 PM »

690. Hoành văn (vân ngang) cứ biết thực coi,
Thế gian cứ sách mà coi thất truyền.
Cho nên lỗi phép thánh hiền,
Cứu chẳng linh nghiệm, tật liền chẳng sai (khỏi).
Kể công huyệt ấy mọi lời,
Hay chữa những người phát bối ung thư (nhọt giữa lưng).
Sang độc loa dịch (nhọt độc tràng nhạc) bất trừ,
Thường thường máu dữ hằng lề nổi ra.
Thuốc hèo dầu uống dầu tra,
Đỡ một hai chút cũng là chẳng tan.

700. Hầu hiền hiền (gần như lành) lại phát lên,
Sưng sưng mủ mủ triền miên đủ đời.
Mạch lươn xuyên hạch mọi nơi,
Chốc lở đời đời lưng cổ mặt chân.
Khắp mình thẩy thẩy toàn thân,
Cứu được thần huyệt các miền đều yên,
Trước khiến tay bệnh song bàn.
Nam tả nữ hữu mấy toan luận bàn.
Hoặc dây đo hầu trung chỉ (ngón tay giữa) đến rày hoành văn.
Ngưỡng chưởng ngọ vị chính chân (ngửa thẳng chính giữa bàn tay),

710. Chớ kể ngoài móng có phần sai dư.
Nhập chưởng tận trung (vào hết giữa bàn tay) thì vừa,
Hoành văn (vân ngang) bấy giờ giữa huyệt Đại lăng.
Dao cắt lấy dây cho bằng,
Đoạn mấy bảo rằng lấy một đòn tre.
Phỏng dài năm thước (10 gang tay) bạt đi,
Cứng thẳng ngay kẻo nữa người thì khó khiêng.
Hai người tốt sức hai bên,
Ghé vai quỳ gối, /người/ bênh liền bước ngang.
Giữa trôn giữa đòn rõ ràng.

720. Lại hai người nữa giữ ràng hai bên,
Cho hai tay /người/ bệnh nương thìn (gìn).
Thầy ta mới bảo khiêng lên dần dần.
Năm người dẫn cả ra sân,
Lộ thiên đối nhật (cho dọi mặt trời) kẻo phân thiên tà.
Bóng ngay người chính thật thà,
Chân lên khỏi đất, hình đà không thiêng.
Chớ cao chớ thấp chẳng nên,
Nào dây khi ấy ta liền lấy ra.
Đo từ để cốt (xương cùng) kia là,

730. Tre xương giáp lại cứ mà thẳng lên.
Giữa xương sống ấy đo lên,
Bút ta mấy điểm thực liền phân minh.
Đây chưa phải huyệt biệt tình,
Đồng chỉ cản độ (47) rành rành phép xưa.
Hai tấc (thốn) gấp lại bây giờ,
Áp hoành (ngang) điểm cứ (chỗ mốc) gấp vừa chính trung (giữa).
Bút ta điểm lấy hai đầu.
Chẳng còn nghiêng lệch Ngải ta đặt vào,
Dặn rằng chẳng há động dao (chớ động đậy).

740. Hòa (vừa) khiêng hòa cứu kể cao chước mầu.
Tam thất tráng (3 x 7 = 21 mồi) khí lâu lâu,
Rồi đoạn hạ xuống bước vào ngồi yên.
Tìm kinh thủ (lấy) huyệt cơ quyền(tùy nên),
Đau đâu cứu đấy gần miền chung quanh.
Bệnh tiêu thấy mấy đáng danh,
Cho cam sở chí học hành chính tông.

***

Còn huyệt "Mỗ tự" dễ song,
Có thầy chẳng biết khi dùng khó thay.
Trị bệnh thiên trụy (sa đì) thật hay,

750. Hạ nang sán khí (đau hòn dái) ngày rày cả (to) ra.
Kẻ thì có đi đường xa,
Thấp khí dẫn xuống sinh ra tức thì.
Thêm chưng tửu sắc quá kỳ,
Trệ khí ngưng huyết phạm khí thử hàn (nắng rét).
Thường thường lại có kêu van,
Có người con nước nó liền phát đau.
Bên kia bên nọ đối nhau,
Trước còn dễ giấu ngày sau nặng dài.
Hóa nên đại tật (bệnh lớn) chẳng sai,

760. Bấy giờ nên bệnh khôn nài thuốc thang.
Dầu ai trước biết vội vàng,
Tìm thầy đến cứu kẻo thương tật nguyền.
Tuy rằng chứng dễ hiền hiền,
Khi đau dù bạc dù tiền tiếc ai.
Có mời ta hãy cứu chơi,
Được đỡ bệnh người trước phúc sau ơn.
Đắc truyền thực huyệt thì hơn,
Trước bảo người bệnh miệng liền há ra.
Dây liền ta mấy sẻ tra.

770. Đặt vào ngang miệng khiến hòa ngậm nay.
Chớ cười chớ động cho hay,
Đo bằng hai mép dao thầy cắt đi.
Chung ba ngần ấy một khi,
Bắt làm ba góc bẻ y lưỡi gà.
Hình như "Mỗ tự" chẳng ngoa,
Ba góc đã đoạn (xong rồi) áp hòa đâu nay.
Khiến /người/ bệnh nằm ngửa cho ngay,
Một góc giữa rốn hai bên cho bằng.
Hai bên góc nọ lưỡng bàng,

780.Bút điểm hai huyệt rõ ràng chẳng sai.
Thiên tả (sa bên trái) cứu hữu cho hay,
Thiên hữu (sa bên phải) cứu tả thực nay hiệu thần.
Hai hòn cùng cả (to) bội phần,
Đều cứu hai huyệt như cân bệnh trừ.
Dưới thì đại chỉ huyệt kia (huyệt Đại đôn),
Là hiệu ngón cái huyệt thì hai bên.
Lại phân tả hữu như tiền (trước),
Bảy tráng (mồi) đốt liền bệnh cắt thần thông.
Trước sau biện bạch dọi lòng,

790. Để khuyên hậu giác (người sau) về dòng hoạt nhân (cứu người).
Cứu là đoạt dược (cướp thuốc) chi thần,
Đã làm phải học cho cần mới hay.
Gia truyền cấp trị phép này,
Chép ra cho biết để rày tế nhân (giúp người).
Trị chư trùng độc hại nhân,
Khuyển cuồng xà giảo (chó dại, rắn cắn) vân vân bấy chày.
Lông hùm nào có đạp trầy,
Trượng thương trụy mã (bị đòn, ngã ngựa) sa cây nhiều bề.
Ngư thích phong độc (cá châm ong đốt) phạm chi,

800. Phải đâu cứu đấy như hình phép tiên.
Bảy tráng ngải đốt ngải liền,
Hoàn sinh cải tử (sống lại) gia truyền chẳng sai.
Kìa như luận sự xem ngày,
Bình thường chi bệnh (bệnh thường) ta rày cứ xưa.
Bạo thốt chi bệnh (bệnh cấp) gió mưa chẳng nề,
Cứu rồi kiêng kỵ cho hay,
Lại xem huyệt cứu có rày lở chăng.
Sang phát (lở ra) tật dũ (bệnh khỏi) lâng lâng,

810. Nhược sang bất phải (nếu không lở) nhưng nhưng có gì.
Làm phép cho lở tức thì,
Đốt quả Tạo giác (bồ kết) bôi thì lở ra.
Củ hành nướng chín đem tra,
Đặt vào thì lở lọ là (há phải) tìm đâu.
Nhược bằng quá kỳ phát đau,
Điều dưỡng Tứ vật /thang/ (48) lại cầu bổ nguyên.
Thu thập các huyệt bí truyền,
Lập làm ca nói một thiên để đời.

(47) Nguyên bản chú thích: Cắt rơm làm thốn đồng thân mà đo.

(48)Thang Tứ vật gồm: Địa hoàng (Sinh địa 3 đồng cân), Thược dược (Bạch thược 2 đồng cân), Đương quy 2 - 3 đồng cân), Xuyên khung (1 đồng 5 phân).
« Sửa lần cuối: Tháng Hai 07, 2018, 12:16:38 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #7 vào lúc: Tháng Hai 06, 2018, 11:56:00 PM »

TÓM TẮT PHẦN MỘT
(CỦA NGƯỜI DỊCH)

Mở đầu

 Với sự tham khảo các sách "Châm cứu Tư Sinh" của Từ Chính Khanh và sách "Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh" của Vương Duy Nhất, quyển CHÂM CỨU TIỆP HIỆU DIỄN CA đúc kết phương pháp châm cứu hiệu nghiệm, và diễn bằng ca nôm đơn giản để giúp việc chữa bệnh được chóng khỏi.

 Phép cứu dùng Ngải hái ngày 3 tháng 3 âm lịch, phơi râm gói kín, trữ sau 3 năm đem dùng chữa bệnh mới hay. Nó là một cách chữa bệnh kết quả và đỡ tốn tiền, như câu tục ngữ lưu truyền "Uống thuốc ba năm không bằng dùng Ngải đốt cứu một mồi".

 Theo sách xưa  trừ trường hợp cấp cứu phải kịp thời, đối với các bệnh thường thì châm cứu nên chọn những ngày tốt, những thời giờ thích hợp, và nên kiêng kỵ như sau để tránh những tai biến có thể xảy ra:

 - Nên chọn những ngày thời tiết tốt, trời quang mây tạnh, không mưa gió sấm sét. Nên cứu vào giờ ngọ giữa trưa, lúc ấy khí dương thịnh, huyết lưu thông tốt, không nên cứu vào buổi chiều, khí âm thịnh kém hiệu quả.

 - Các trường hợp no đói thất thường, khí huyết hao tổn, tức là lúc đói lòng mệt nhọc kém sức chống đỡ, hay nguyên khí suy nhược, mất máu hao tinh, chính khí bị tổn thương, châm cứu không có lợi.

 - Kiêng ngày Đinh mùi là ngày kỵ Biển Thước (tác giả  cuốn Nạn kinh, coi như tỵ tổ của khoa châm cứu) châm cứu không tốt.

 - Nên kiêng những ngày bộ vị của cơ thể theo tuổi người bệnh, theo ngày châm cứu, và kiêng một số ngày trong từng tháng như sau:



« Sửa lần cuối: Tháng Năm 29, 2018, 10:25:32 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #8 vào lúc: Tháng Hai 22, 2018, 10:10:56 AM »

Cách chia phân thốn để đo lấy huyệt

Đầu

Từ chân tóc trước đến chân tóc sau chia làm 12 thốn. Nếu người bệnh hói trán hay chân tóc sau khong rõthì kể từ huyệt Ấn đường (giữa hai lông mày) đến u cổ (huyệt Đại chùy) là 18 thốn, trừ phía trước 3 thốn và phía sau 3 thốn, tức còn lại 12 thốn.

Lưng

Chia theo 21 đốt xương sống:

 - Lưng trên: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 4 phân 1 ly.
 - Lưng giữa: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 6 phân 1 ly, tính đến eo lưng (huyệt Mệnh môn) đốt thứ 14 ngang với rốn.
 - Lưng dưới: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 2 phân 1 ly (6 ly), tính từ eo lưng đến đít.
Đo ngang thì lấy thốn đồng thân, theo chiều dài lóng ngón giữa của ngón tay giữa (nam dùng tay trái, nữ dùng tay phải).

Bụng

Chia làm ba bộ (theo ngày nay).

 - Thượng bộ: Từ huyệt Thiên đột đến huyệt Trung đình = 9 thốn.

 - Trung bộ: từ huyệt Trung đình đến giữa rốn = 8 thốn.

 - Hạ bộ: từ rốn (huyệt Thần khuyết) đến Khúc cốt = 5 thốn.
(Từ huyệt Thiên đột đến huyệt Đản trung: 7 thốn 4 phân, từ huyệt Đản trung đến huyệt Cưu vỹ: 2 thốn 6 phân).

Huyệt cấm: Trong toàn thân có 365 huyệt, cấm châm cứu các huyệt như sau:

1. Cấm châm 28 huyệt:

Não hộ, Tín hội, Giác tôn, Thừa khấp, Lạc cước, Thừa linh, Lư tín, Linh đài, Thần đạo, Đản trung, Thủy phân, Thần khuyết, Hội âm, Hoành cốt, Khí xung, Tam dương lạc, Thừa cân, Thanh linh, Thạch môn, Cưu vỹ, Vân môn, Khuyết bồn, Kiên tỉnh, Thủ tam lý, ợp cốc, Tam âm giao đối với phụ nữ có mang. Sách này có 3 huyệt Thần ưng, Thừa khấp và Gián khách không thấy ở sách châm cứu Trung y, ngược lại thiếu hai huyệt Cơ môn và Thủ ngũ lý theo Châm cứu đại thành.

2. Cấm cứu 45 huyệt:

Thừa quang, Phong phủ, Á môn, Thiên trụ, Lâm khấp,  Tố liêu, Tình minh, Toản trúc, Nghinh hương, Ty trúc, Hòa liêu, Cưu vỹ, Bach hoàn du, Thiên phủ, Nhân nghinh Quyền liêu, Đầu duy, Hạ quan, Tích trung, Kiên trinh, Tâm du Nhũ trung, Chu vinh, Uyên dịch Ngư tế, Phúc ai, Thiếu thương, Kinh cự, Thiên phủ, Địa ngũ hội,Trng xung, Dương quan, Dương trì, Ẩn bạch, Lậu cốc, Ủy trung, Độc tỵ, Âm lăng tuyền, Điều khẩu, Âm thị, Phục thỏ, Thừa phù, Bễ quan, Ân môn, Thân mạch.

3. Trừ 13 quỷ huyệt, theo Tôn Tư Mịch:

Nhân trung, Thiếu thương, Ẩn bạch, Đại lăng, Thân mạch, Phong phủ, Giáp xa, Thừa tương, Thượng tinh, Khúc trì, Đầu lưỡi, Âm hạ (nam dung huyệt Hội âm, nữ châm đầu Ngọc môn). Sách này chép hai huyệt Ấn đường, Gián sử, nhưng lại thiếu huyệt Lao cung, so với Châm cứu đại thành.

Bàn về huyệt Cao hoang, Hoạn môn, Tứ hoa, Trúc mã, Mỗ tự.

1. Huyệt Cao hoang chữa hư lao và các chứng quái lạ:

* Lấy huyệt: bảo người bệnh ngồi hai tay bó gối, khiến cho hai xương br vai mở rộng ra. Lấy mốc khoảng 1/3 dưới đốt xương sống thứ tư, 2/3 trên đốt xương sống thứ 5, ngang thẳng ra hai bên, mỗi bên cách 3 thốn đồng thân, là huyệt.

2. Huyệt Hoạn môn chữa lao suyễn:

Lấy một sợi dây đo từ đầu ngón chân cái đến giữa khoeo chân của người bệnh, bằng cách men sợi dây ấy thẳng lòng bàn chân, lên sau gót chân thẳng giữa trái chân đến ngấn chỉ ngang khoeo chân (huyệt Ủy trung), cắt dây ở đấy. Rồi lấy dây ấy đo từ sống mũi men thẳng lên giữa đỉnh đầu, qua các huyệt Thượng tinh, Bách hội, sau chẩm đầu, gáy cổ, xuống giữa cột xương sống, đầu múi dây đến đâu thì làm dấu ở đấy. Rồi lấy một sợi dây rơm bảo người bệnh ngậm để đo khoảng giữa hai mép miệng đem đoạn rơm này chia đôi, đặt chỗ giữa vào đúng điểm làm dấu ở xương sống, thẳng ra hai bên, đầu cuối sợi dây là hai huyệt Hoạn môn (tức hai huyệt Hoạn môn cách nhau bằng chiều ngang giữa hai mép miệng).

3. Huyệt Tứ hoa sau lưng cũng chữa ho lao, suyễn thở:

Trước lấy huyệt Cưu vỹ cách trên rốn 7 thốn rưỡi, làm dấu ở đấy. Rồi lấy dây quàng sau cổ người bệnh, bỏ hai múi ra phía trước chấp vào chỗ đã làm dấu (huyệt Cưu vỹ) cắt đoạn dây thừa bỏ đi. Sau lấy dây ấy quàng trước cổ rủ hai đầu múi về sau lưng ngang nhau chập vào giữa xương sống đến chỗ nào thì làm dấu ở chỗ ấy. Rồi lấy sợi rơm bảo người bệnh ngậm, đo ngang hai mép miệng, gấp đôi lại làm dấu ở giữa. Đem sợi rơm ấy đặt vào sau lưng, để điểm chính giữa sợi rơm đúng với chỗ làm dấu ở sống lưng từ trước (ngang huyệt Cưu vỹ), ngang hai đầu múi rơm là hai huyệt. Rồi lại trở sợi rơm ấy dọc theo xương sống, giữ cho giữa sợi rơm vừa đúng điểm đã làm dấu trước, lấy hai đầu múi rơm hai huyệt nữa, cộng là 4 huyệt “Tứ hoa”.

(Theo sách Trung y ngày nay thì Tứ hoa tương đương với hai huyệt Đảm du và hai huyệt Cách du, khác với sách này).

4. Huyệt Trúc mã hay Kỵ trúc mã, chữa mụn nhọt sưng lở, bướu cổ, tràng nhạc:

Bảo người bệnh ngồi trên đòn tre, hai người khiêng hai đầu như dáng cưỡi ngựa để lấy huyệt (nên gọi là Kỵ trúc mã: cưỡi ngựa tre). Lấy dây đo từ ngấn chỉ ngang cổ tay (huyệt Đại lăng) ra tận chót ngón tay giữa làm mực. Dùng dây này để đo từ ống tre làm đòn khiêng, thẳng lên xương sống của người bệnh làm mốc, rồi đi ngang ra hai bên mỗi bên cách một thốn đồng thân là huyệt. Tức là khoảng cách từ mút xương cùng đến điểm mốc ở giữa sống lưng bằng chiều dài từ huyệt Đại lăng ra tận chót ngón tay giữa của người bệnh.

(Theo sách Trung y ngày nay, thì huyệt ở đốt xương sống thứ 10 ngang ra mỗi bên 5 phân, khác với sách này).

5. Huyệt Mỗ tự chưa sa đì (hòn dái sưng sa xuống):

Lấy sợi rơm đo khoảng cách hai mép miệng bệnh nhân, gấp 3 lần làm mức, bẻ 3 góc thành hình tam giác. Dùng hình tam giác này để lấy huyệt: Đặt một góc vào giữa rốn, 2 góc buông cân xuống hai bên, lấy 2 huyệt ở hai đầu góc này (cách nhau bằng khoảng hai mép miệng).

Cứu bỏng

Phép xưa cứu bỏng cho vết cứu lở ra thì bệnh sẽ bớt dần dần. Nếu xem chỗ cứu không lở thì làm cho lở, bằng cách đốt quả Bồ kết tán bột bôi vào và đặt củ hành nướng chín rịt vào thì sẽ lở. Trường hợp lở lâu sưng đau, thì dùng thang Tứ vật (Sinh địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung) uống bổ huyết sẽ khỏi.
« Sửa lần cuối: Tháng Hai 22, 2018, 11:14:35 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #9 vào lúc: Tháng Hai 22, 2018, 11:18:21 AM »

PHẦN HAI

Tổng luận kinh sử chư bệnh dụng huyệt quốc ngữ ca
(Bài ca nôm về dùng huyệt chữa bệnh theo sách)

Mục 1

Kìa ai nhức đầu như xuyên,

820. Cùng là nhức óc tương liên ngày rày.
Lại thêm chóng mặt chóng mày,
Coi xa chẳng tỏ bằng nay cơ cầu.
Chứng ấy cứu những huyệt đâu,
Xem chính ngôi đầu hòa lấy mấy nên.
Cứ chân tóc trước đo lên,
Đo ngay một tấc (thốn) chớ thiên kia là.
Mực điểm đầu tấc chớ xa,
Ấy Thượng tinh huyệt vậy thì phải hay.
Lại lấy Bách hội khi nay,

830. Điểm mực đầu tấc thuở rày làm ghi.
Ngắm đi ngắm lại một khi,
Huyệt trên huyệt dưới vậy thì thẳng nhau.
Châm lấy một phân cho lâu,
Hai huyệt cũng vậy lẽ mầu là thông.
Ngải thì phải đặt cho xong,
Mỗi huyệt hai bảy tráng (14) mồi đồng chớ ngoa.
Lại lấy bốn huyệt Tứ hoa (49),
Cứ Bách hội huyệt đo ra những là.
Bốn bên bốn tấc (thốn) chớ ngoa,

840. Mỗi huyệt ta đốt vậy hòa bảy trang (mồi).
Lại cứu Phong trì lưỡng bàng,
Hai bên hai thứ đo ngang sau đầu.
Huyệt ấy cứ đo ở đâu?
Lấy Phong phủ huyệt tu cầu hòa suy (nên tìm suy ra).

***

Cứ chân tóc sau một khi,
Đo lên môt tấc (thốn) vậy thì đến nơi.
Ấy Phong phủ lại chẳng sai,
Ta liền cứ đấy một hai mà lường.
Một bên ba tấc (thốn) cho tường,

850. Hai bên sáu tấc phải phương huyệt này.
Ấy Phong trì huyệt bằng nay,
Châm cho đến huyệt thuở rày một phân.
Ngải thì ta đốt ba lần,
Thêm bốn mồi nữa ân cần cho hay.
Lại tả Thân mạch bằng nay,
Hai bên huyệt ấy ở rày bàn chân.
Huyệt ấy ở đâu mà nhuần,
Ở ngoài dưới mắt cá chân mà lường.
Thịt đỏ thịt trắng hai phương,

860. Ta liền lấy giữa cho tường chớ nghi.
Lại bảo phép này mà suy,
Lấy cho phải huyệt thực thì thần tiên.
Trong kinh (sách) lại bảo vi tiên (hơi về trước),
Ta quen ra trước phép truyền chính tông.
Châm ba bốn phân làm xong (hai bên),
Cấm bất khả cứu lý cùng lo toan.
Kìa pho Tư sinh (50) lại bàn,
Huyệt ấy cho cứu được dùng ba trang (mồi).

1. Đầu óc đau nhức, mắt tối xầm, chóng mặt như đi xe thuyền.

Nên bổ sung thêm huyệt pháp (51)

K11. Phong trì: 2 huyệt ở 2 bên, cách huyệt Phong phủ 3 thốn; huyệt Phong phủ ở dưới huyệt Não hộ 1,5 thốn. Có sách nói sau dái tai 1,5 thốn trên lằn ngang giáp Phong phủ. Châm 3 phân, cứu 7 đến 100 mồi thì thôi.

K13. Phong phủ: Huyệt này có tên là Thiệt bản ở chính giữa sau gáy trên chỗ chân tóc một thốn chỗ lõm, châm 3 phân. Có bản sách nói ở giữa gân to (cơ gáy) dưới huyệt Não hộ 1,5 thốn, châm 4 phân, cấm cứu.

K13. Thượng tinh: Huyệt ở trên chân tóc trước trán một thốn, châm 3 phân, cứu 14 mồi.

K7. Thân mạch: 2 huyệt ở hai chân, dưới mắt cá ngoài, cách chỗ da thịt trắng đỏ giáp nhau bằng móng tay, châm 3 phân, cứu 3 mồi (ở chỗ lõm phía dưới cách xương mắt cá 5 phân).

(a) + Thái dương: 2 huyệt ở hai bên góc đầu, ngang chỗ cuối đám tóc dày nơi có động mạch, cứu 3 mồi (ở chỗ lõm cách đuôi mi mắt độ 1 thốn).

K7 + Thừa quang: 2 huyệt ở ngang hai bên huyệt Thượng tinh, cách ra 3 thốn ở chỗ lõm, châm 3 phân, cấm cứu.

K13 + Thần đình: Huyệt ở thẳng dọc mũi đi lên trong chân tóc trước trán 5 phân, cấm châm, cứu 14 đến 72 mồi thì thôi. Có sách nói cứu đến 100 mồi.

K13 + Não hộ: Ở sau huyệt Bách hội 4,5 thốn, châm 3 phân, cứu 7 mồi. Có sách nói cấm cứu. (huyệt Bách hội ở chính giữa đỉnh đầu, xem mục 6).

* Chú thích:

(49) Huyệt Tứ hoa trên đỉnh đầu, nay Trung y gọi là Tứ thần thông.

(50) Sách châm cứu Tư sinh kinh của Vương Chấp Trung.

(51) Thái y viện triều hậu Lê đã phụ thêm bằng chữ Hán phần này và bổ sung một số huyệt có mang dấu + ở trước. Để tiện tra cứu, chúng tôi phụ thêm ký hiệu theo số thứ tự các kinh mạch ngày nay và phân biệt riêng đối với các huyệt đặc biệt ngoài kinh.

Mục 2

Kìa ai đầu thống hạng cường (đau đầu cứng gáy),

870. Đau vai mỏi cổ tư (lo) lường hay ra.
Đêm ngày nghiêng ngửa xót xa,
Cúi hòa chẳng được ngẩng ra phiền lòng.
Lại cứu Phong trì làm song (hai huyệt),
Đại chùy một huyệt cho thông ngày rày.
Huyệt ấy ở đâu bằng nay,
Ở trung (giữa) u cổ huyệt rày chính ngôi.
Châm cho đến thịt thì thôi,
Trang ngải ta đốt bảy mồi chớ ngoa.
Lại cứ dưới đốt đo ra,

880. Một bên tấc rưỡi vậy hòa chớ lâu.
Hai bên đo bằng tày nhau,
Chớ cho nghiêng chệch thấp cao chút nào.
Danh (tên) gọi là huyệt Bách lao,
Có danh Đại trữ lẽ nào chớ nghi (52).
Châm đến ba phân một khi,
Mỗi huyệt ta đốt vậy thì bảy trang.

2. Đau đầu cứng gáy, vai lưng không thể cúi ngửa được.

Bổ sung thêm huyệt pháp:

K11. Phong trì: (xem ở mục 1 trên đây)
K13. Đại chùy: (xem ở mục 13 sau đây, ở đốt xương sống thứ nhất)

(b) Bách lao: (xem ở mục 5 sau đây: hai bên sau gáy)

K7. Đại trữ: (xem chú thích 52)

K2 + Kiên ngung: 2 huyệt ở giữa chỗ lõm trong khoảng hai xương đầu vai, giơ vai lên mà lấy huyệt; châm 6 phân, cứu 7 đến 14 mồi

K11 + Kiên tỉnh: 2 huyệt ở chỗ lõm trên vai, sau xương quai xanh từ huyệt khuyết bồn ra một thốn 5 phân. Áp ba ngón tay vào mà lấy huyệt đúng ở chỗ lõm dưới ngón giữa.

* Chú thích:

 (52) Huyệt Bách lao ở trên huyệt Đại chùy 2 thốn ngang ra 1,5 thốn. Huyệt Đại trữ ở dưới đốt xương sống thứ nhất. Đời xưa, huyệt Đại chùy có biệt danh là Bách lao, nhưng huyệt Đại trữ không phải cùng tên với Bách lao. Đây có thể dùng  cả hai huyệt.

* Ở đây ghi chú huyệt Đại trữ bị sai - Tứ Hải.
« Sửa lần cuối: Tháng Hai 27, 2018, 10:59:12 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #10 vào lúc: Tháng Hai 22, 2018, 06:30:28 PM »

Mục 3

Kìa ai tức tối kêu vang,
Đau trên mỏ ác thấu ngang cạnh sườn.

890. Cứu Đản trung huyệt phép tiên lạ dường.
Huyệt ấy phép lấy giữa nương (ngực),
Đo hai đầu vú cho tường chung đôi.
Ta lại đặt đấy hòa coi,
Nào nơi bẻ gấp chính ngôi thực rày.
Ấy huyệt cấm châm bằng nay,
Ngu sư (thày dốt) chẳng biết châm rày phải thương.
Ngải thì đốt lấy mười trang,
Thêm bốn trang nữa cho tường phân minh.
Ta lại cứu huyệt Trung đình,

900. Đo Đản trung dưới thực hình phải thay.
Một tấc (thốn) đủ sáu phân nay,
Lấy mực điểm dấu ngày rày làm ghi.
Châm đến một phân một khi,
Đốt bảy tráng ngải như y chớ chầy.
Lại tìm huyệt ở cổ tay,
Cứ tự ngấn chỉ đo ngay lượng vào.
Huyệt ấy thể tấc làm sao?
Cứ hai tấc chẵn đo vào cho yên.
Chỗ ấy có lưỡng cân gian (ở giữa hai gân),

910. Xem tường cho biết Nội quan đấy rày.
Châm vào ba phân bằng nay,
Đốt bảy tráng ngải thuở này cho hay.
Ta lại tìm huyệt Đại lăng,
Ở trong ngấn chỉ thường hằng cổ tay.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải thì ta lấy phép rày ba trang.
Lại bảo khi nay cho tường,
Tức đâu đốt đấy một dường kẻo hay.
Bảo tên huyệt ấy cho hay,

920. Gọi là Thiên ứng huyệt rày hay chi.
Lại bảo chỗ ấy mà suy,
Học cứu cho biết kẻo khi hại người.
Dày thịt ta đốt hai mươi,
Mỏng thịt ta đốt mười mồi bằng nay.

3. Đau nhói trong hông sườn khó chịu không yên
Bổ sung thêm huyệt pháp:

K14. Đản trung: 1 huyệt ngay chính giữa khoảng hai núm vú, bênh nhân nằm ngửa mà lấy huyệt, cứu 14 mồi, cấm châm.

K14. Trung đình: 1 huyệt ở chỗ lõm dưới huyệt Đản trung 1,6 thốn, cứu 5 mồi, châm 2 phân.

K9. Nội quan: 2 huyệt ở phía sau bàn tay, cách cổ tay 2 thốn, thuộc kinh Thủ quyết âm - Tâm bào, châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K9. Đại lăng: 2 huyệt ở sau bàn tay khoảng giữa hai gân, chỗ lõm, thuộc kinh Thủ quyết âm - Tâm bào. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K12 + Nội môn (Kỳ môn) (53) huyệt ở hai bên huyệt Cự khuyết, chỗ lõm giữa khoảng xương sườn, mỗi bên cách 3,5 thốn. Châm 4 phân cứu 3 mồi.

(c) Tâm khí: Tìm huyệt, trước lấy một sợi rơm dài đo ngón tay - nam thì dùng tay trái, nữ dùng tay phải, đo từ chỉ ngang ở gốc ngón tay cái đến chỗ thịt giáp móng, lấy mực làm dấu, rồi đo ngón tay trỏ, ngón giữa, ngón thứ tư, ngón út, cũng đều như thế, sau thêm vào một thốn đồng thân. Lại dùng một sợi khác, trước cũng đo 5 ngón tay cùng như trên, lại thêm một thốn đồng thân (Hai sợi dài bằng nhau) đem chắp lại làm một, rồi bảo người bệnh ngồi ngay thẳng, bỏ áo ra, tách hai đầu sợi dây ra đem quàng trên cổ, lấy tay đè giữ chỗ gút sợi dây vào xương Thiên đột giữa cổ, 2 bên thòng ra sau lưng. Lấy hai đầu sợi dây thòng xuống cho tày ngang nhau chập vào giữa xương sống , đó là huyệt. Cứu 5 đến 7 mồi.

Thiên ứng: Đã nói ở trên (trên chỗ đau).

* Chú thích:

(53) Huyệt Kỳ môn, (chép nhầm là Nội môn): Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 15, 2018, 09:35:57 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #11 vào lúc: Tháng Hai 28, 2018, 10:41:22 AM »

Mục 4

Kìa ai đau dạ /ỉa/ chảy ngay,
Hoặc là đau kiết ngày rày gian nan.
Trong bụng âm ỷ đau ran,
Đêm ngày trằn trọc những toan đi đồng.
Đến nơi chẳng tập (đứng) chổng mông,

930. Ngờ là đã ỉa lại không những là.
Quặn chốc đau bụng xót xa,
Tự nhiên lại ỉa bằng hòa cứt dê.
Những mong đứng dậy đi về,
Nó lại đau vắt nhiều bề đắng cay.
Ngồi thì mong mỏi thôi chầy,
Ra thứ máu cá thuở rày gian nan.
Ta tìm lấy huyệt Hạ quản,
Điểm cho thực huyệt thiên ban càng mầu.
Huyệt ấy ta đo ở đâu?

940. Cứ từ giữa rốn tu cầu hòa suy:
Bẻ lấy hai tấc (thốn) một khi,
Đo lên đến huyệt mực ghi điểm vào.
Lấy kim hơ ngọn đèn nay,
Tức thì châm xuống huyệt rày ba phân.
Lại bảo phép này cho cần,
Khiến người đốt lấy ba lần sẽ thôi.
Ngải thì đốt lấy mười mồi,
Thêm bốn mồi nữa cho rồi đủ no.
Ta lại cứ rốn này đo,

950. Ngang ra hai tấc (thốn) phải dò cho ngay.
Ấy huyệt Thiên xu (khu) một khi,
Châm cho đến huyệt tức thì ba phân.
Bảy tráng ngải đốt cho cần,
Thêm bảy tráng nữa khí nhuần mấy tiêu.
Lại cứu Khí hải cho đều,
Huyệt ấy đệ nhất chỉn yêu lạ dường.
Lại cứ rốn ấy mà lường,
Đo xuống tấc (thốn) rưỡi ấy phương huyệt rày.
Châm đến ba phân bằng nay.

960. Ngải đốt ba bảy tráng (21 mồi) này cho yên.
Cứu thôi cất chứng như thần,
Ta lại thêm huyệt Thủy phân,
Tả Tiểu tràng nhiệt cho thông một dường.
Lại cứ giữa rốn mà lường,
Đo lên tấc chẵn ấy phương huyệt này.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải đốt ba bảy tráng rày cho yên.
Ta lại cứu huyệt Quan nguyên,
Lại cứ giữa rốn đo liền xuống ngay.
Huyệt ấy ba tấc (thốn) bằng nay,

970. Trung cực, Khí hải huyệt này cho thông.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Một huyệt tam thất (21) châm rày ba phân.

4. Ỉa chảy, đi lỏng, bụng ruột đau quặn, mót rặn tức đít, đại tiên táo bón:

K14. Hạ quản: Một hyệt ở trên rốn 2 thốn, châm 8 phân, lưu 3 hô (hơi thở), tả 5 hấp (hơi hít vào), cứu 21 mồi đến 100 mồi thì thôi.

K3. Thiên xu: Hai huyệt ở hai bên rốn, cách ra 2 thốn, cứu 100 mồi, châm 5 phân, lưu 10 hô.

K14. Khí hải: Một huyệt ở dưới rốn, cách 1,5 thốn. Châm 8 phân, cứu 100 mồi.

K14. Thủy phân: Một huyệt ở trên rốn 1 thốn. Châm 8 phân, lưu 3 hô, cứu 7 mồi đến 100 mồi thì thôi.

K14. Quan nguyên: Một huyệt ở dưới rốn 3 thốn. Châm 8 phân, lưu 3 hô, tả 5 hấp, cứu 100 đến 300 mồi thì thôi.

K14. Trung cực: Một huyệt ở dưới rốn 4 thốn. châm 8 phân, lưu 3 hô, cứu 100 đến 300 mồi thì thôi.

***

Này đoạn cấp cứu bệnh nhân,
Thấy ai đau quá ân cần cho hay.
Cứu huyệt Thần khuyết bằng nay,
Huyệt ấy giữa rốn thuở này chớ nghi.
Lại bảo trước này hào suy,
Muối thì lót xuống như y phép truyền.
Ngải tày hột táo đốt lên,

981. Đốt lấy năm mươi (mồi) phép tiên như thần.
Hoặc ai đau bụng lại luận (bàn),
Cứu bấy nhiêu huyệt vân vân như tiền (trước).

4b. Chữa hoắc loạn đau bụng đi tả
Bổ sung thêm huyệt pháp:

K14. Thần khuyết: Một huyệt ở chính giữa rốn. Lấy Ba đậu tán nhỏ đặt lên, để ngải lên trên mà cứu 21 mồi. Như đau bụng nhiệt kết thì cấm dùng Ba đậu. Nếu bệnh nhân hoắc loạn thổ tả thì không kể hàn hay nhiệt, đều dùng muối ăn đem lấp lỗ rốn rồi cứu. Nếu đi kiết hoặc đau bụng, hoặc đầy bụng, thì dùng huyệt Khí hải làm chủ. Đi ỉa chảy thì không dùng.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 01, 2018, 10:04:05 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #12 vào lúc: Tháng Ba 01, 2018, 10:16:26 AM »

Mục 5

Kìa ai phải chứng lao truyền,
Đêm ngày mòn mỏi hư phiền khốn thay.
Cơm ăn chẳng ngon bằng nay,
Thân thể ngày rày vàng vọt xanh xao.
Đêm đêm nhấp thấy chiêm bao,
Dường bằng trai gái ra vào thông dâm.
Tự nhiên tinh khí hại âm,

991.Thần thái mơ mộng lầm lầm nhọc thay.
Lại thêm bải hoản chân tay,
Chờ lâu mấy tỉnh nhọc rày một thôi.
Có khi toát cơn mồ hôi,
Ấy chứng đạo hãn (mồ hôi trộm) kia ơi những là.
Có khi thức ngồi liền ra,
Ấy chứng tự hãn (tự ra mồ hôi) vậy hòa cho hay.
Đêm ngày ho lắm bằng nay,
Ngày thì thủng thẳng nôn đầy đờm diên (rãi).
Có người phải hai ba niên (năm),

1001. Ho ra những máu tâm phiền khốn thay.
Ấy bấy nhiêu chứng thực lao,
Thế gian chẳng biết đường nào hòa (mà) suy.
Những toan phù thủy khoa nghi (cúng lễ),
Lại ngờ tinh tổ cúng thì Bán thiên (54).
Lại thêm cắt đoạn oan khiêu (55),
Dời mồ dời mả tổ tiên ông bà.
Mời thầy tróc quỷ bắt tà,
Phù kia phép nọ vậy hòa ghê sao.
Người thì một ngày một hao,

1011. Bệnh thì chẳng giảm(bớt) lẽ nào cho yên.
Đất sao chẳng biết bệnh nguyên (nguyên nhân),
Lại chê trời đất thánh hiền chẳng minh.
Nhân chưng tửu sắc thất tình (56),
La đà chén rượu sự mình ỷ khôn (cậy mình là khôn).
Cho nên thân thể gầy mòn,
Âm hư hỏa động đờm thăng thịnh đầy(57).
Tổn hao tinh khí chầy ngày,
Xảy nên lao trái liền ngày truyền thi (lao trùng).
Mười người được một chẳng nghi,

1021. Dù tài Biển thánh (Biển Thước) lương y cũng nhiều.
Còn một phép cứu chỉn yêu,
Cứu hòa chẳng được thì liều sẽ thôi.
Này đoạn khiến bệnh nhân ngồi,
Lấy Bách lao huyệt cho rồi cứu đi.
Lại lấy Phế du một khi,
Hai bên hai huyệt vậy thì cho thông.
Điểm xương u cổ làm song,
Đếm xuống ba đốt đều dùng sẽ toan.
Mực điểm giữa khớp cho an,

1031. Nào nơi nó nổi có giàn cao lên.
Cứ mực đo ra hai bên,
Một bên tấc (thốn) rưỡi vậy liền chớ nghi.
Mực điểm đầu tấc làm ghi,
Hai bên ba tấc đều thì song song.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Một huyệt mười bốn cho thông ngày rày.
Châm trước ba phân bằng nay,
Đoạn ta đốt ngải khi nay cho rồi.
Này đoạn (xong) lại khiến /người/ bệnh ngồi,

1041. Ta xem lấy lại hòa coi cho tường.
Hoặc là ngồi ghế ngồi giường,
Hai đầu gối áp bằng nương (ngực) đấy rày.
Ta bảo nó lấy hai tay,
Bó hai đầu gối thuở này bằng nhau.
Mười kẽ ngón tay giáp nhau,
Khiến nó cầm gậy trước màu mà suy.
Lấy mực điểm gậy một khi,
Điểm bằng mắt nó tức thì cho coi.
Bảo bấy nhiêu lời đã rồi,

1051. Dặn đi dặn lại thì ngồi cho ngay.
Ta điểm xương sống chớ chầy,
Điểm từ u cố xuống ngay cho cần.
Đếm lấy bốn đốt hòa phân,
Cứ khớp xương ấy mực nhuần làm ghi.
Lại bảo trước ấy mà suy,
Nào khớp xương ấy vậy thì cao lên.
Mực điểm giữa khớp cho yên,
Bẻ lấy ba tấc (thốn) vậy liền đo ra.
Hai bên sáu tấc chớ ngoa,

1061. Ấy Cao hoang huyệt trừ tà ai đương.
Lẽ này phải bảo cho tường.
Bẻ bốn tấc (thốn) khác mà lường khi nay.
Chỗ điểm trên xương khớp này,
Lại đo cứ đấy xuống ngay cho bằng.
Mực điểm đầu tấc cho năng,
Để ta làm dấu hòa rằng cho yên.
Bẻ năm tấc (thốn) khác cho liền,
Ta bẻ dấu ấy đo lên ngày rày.
Đo quân (đều) đến mực bằng nay,

1071. Hai bên cũng vậy phép này tày nhau.
Lấy ngón tay ta chớ lâu,
Ấn vào huyệt ấy có đâu chẳng là.
Đau thì thực huyệt chẳng ngoa,
Châm vào đến huyệt vậy hòa ba phân.
Ngải thì ta đốt một trăm,
Hai bên hai trăm /mồi/ cho cân ngày rày.
Một bên trăm nữa cho tày,
Hai bên cũng vậy thực này chẳng ngoa.
Lại xem lấy huyệt Tứ hoa:

1081. Ở trong lưng ấy thật là chẳng nghi.
Bảo nó nằm ngửa một khi,
Ta đo giữa rốn vậy thì lên ngay.
Bẻ lấy bảy thốn bằng nay,
Thêm nửa thốn nữa cho tày hòa phân.
Mực điểm đầu thốn cho cần,
Để ta làm dấu mà nhuần kẻo nghi.
Bảo nó đứng dậy một khi,
Đứng cho bình chính (ngay thẳng) vậy thì chớ sai.
Ta lấy cái dây cho dài,

1091. Quanh  ngang u cổ chung hai cho tày.
Rủ xuống đến mỏ ác nay,
Nào nơi dấu mực cứ tày như y.
Lấy dao cứ mực cắt đi,
Đoạn rồi tức thì lần lại bên sau.
Giữa vai cứ từ xương hầu,
Quang ngang u cổ hai đầu tày nhau.
Hai bên rủ xuống đến đâu,
Cho ngay xương sống mực hầu làm ghi.
Mực điểm đầu dây một khi.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 02, 2018, 09:54:47 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #13 vào lúc: Tháng Ba 02, 2018, 11:03:17 AM »

1101. Ta liền để đấy vậy thì cho xong.
Đoạn lại bên trước đối đồng,
Ta lấy dây khác cho thông ngày rày.
Đem lên miệng nó bằng nay,
Khiến nó ngậm lấy thuở này cho năng.
Đo hai bên mép cho bằng,
Lấy ra gấp lại thường bằng chung đôi.
Đem ngang sau cổ cho rồi,
Nào nơi dấu mực thì coi đấy rày.
Đem lên đến dấu bằng nay,

1111. Chỗ gấp đặt giữa dấu này hòa gia.
Dọc ngang bốn huyệt đo ra,
Lấy mực làm dấu vậy hòa bốn bên.
Dọc ngang cho bằng chớ thiên (lệch),
Lấy cho phải huyệt tự nhiên sẽ dùng.
Giữa chẳng có cứu để không,
Bảo cho biết ấy mới thông chăng là.
Tên gọi là huyệt Tứ hoa,
Châm bốn huyệt ấy vậy hòa một phân.
Lại bảo đếm ngải mà nhuần,

1121. Mỗi huyệt ta đốt mười lần sẽ thôi.
Huyệt ngang thêm hơn bốn mồi,
Hai bên cũng vậy cho rồi đủ trang.
Lấy xuống Thận du lưỡng bàng (hai bên),
Ở trên yêu phố ngang sang rốn rày.
Khiến nó đứng dậy cho ngay,
Lấy gậy thuở này cứ đất đo lên.
Áp tận bụng nó cho yêu,
Bằng giữa rốn nó vậy liền cắt đi.
Đem sang sau cổ một khi,

1131. Lại xuống từ đất thuở rày đo lên.
Đến giữa xương sống chớ thiên,
Mực ta lấy dấu cho liền đầu que.
Gọi là phép đo bằng tề (rốn),
Ấy Mệnh môn huyệt danh đề ai đang.
Cứ huyệt Mệnh môn đo ngang,
Hai bên hai huyệt lưỡng bàng cho thông.
Một bên tấc rưỡi làm song,
Hai bên ba tấc đều cùng phải thay.
Ấy huyệt Thận du bằng nay,

1141. Châm cho đến huyệt phép rày ba phân.
Lại bảo đếm ngải mà nhuần,
Đếm bằng tuổi nó vân vân những là.
Đếm được bao nhiêu phân ra,
Đốt hai huyệt ấy vậy hòa tày nhau.
Lại bảo huyệt giữa chớ lâu,
Bảo cho biết ấy phép mầu mới thông.
Nào huyệt ở giữa làm song,
Nhưng cứu huyệt ấy như không ngày rày.
Ta quay lại trước nó nay,

1151. Tìm Thiên đột thì ngày rày ở đâu.
Huyệt ấy thì ở dưới hầu,
Ở trước dưới cổ dường sâu những là.
Lấy huyệt bảo nó ngửa ra,
Mực điểm liền phết vậy hòa phải thay.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải đốt ngày rày ba bảy (21 mồi) cho thông.
Ta lại cứu huyệt Đản trung,
Đo hai đầu vú chung đôi cho tường.
Huyệt ấy chính ở giữa nương,

1161. Đã có đường trước mà lường chớ nghi.
Lấy huyệt Trực cốt một khi,
Hai bên hai huyệt vậy thì ở đâu?
Lại bảo huyệt ấy chớ lâu,
Ở dưới đầu vú lẽ mầu mà suy.
Trừ trên thịt đen ấy đi,
Điểm từ thịt trắng xuống thì cho ngay.
Ấy huyệt Trực cốt bằng nay,
Hai bên cũng vậy châm rày một phân.
Ta lại đốt ngải mà nhuần,

1171.Một bên ba trận ân cần khi nay.
Lại lấy huyệt xuống rốn này,
Ấy Khí hải huyệt yêu thay lạ dường.
Ấy huyệt đệ nhất thần phương,
Đốt cho nhiều ngải mà lường đến trăm.
Khí hải trọng nớ thiên kim (quý như vàng),
Lại bảo thức giả (người biết) tri âm thường dùng.
Năng cứu huyệt ấy cho thông,
Cố chân nguyên khí đều cùng tráng dương (58).
Lại tả Tam lý cho tường,

1181. Tinh kỳ nghĩa lý (thông suốt y lý) chư phương huyệt rày,
Huyệt ấy dưới đầu gối mà nhuần khi nay.
Cứ trong mắt đầu gối này,
Đo xuống dưới rày ba tấc (thốn) chớ nghi.
Bấm mé sống chân một khi,
Chớ có lên quá đừng thì xa xa.
Gọi rằng Phụ cốt những là,
Ấy huyệt có cân cốt gian (khoảng gân xương).
Châm đều ba phân cho an,

1190. Mỗi huyệt ta cứu ngải hòn bảy trang.
Hai chân hai huyệt cho tường,
Ngải đốt cũng vậy lẽ lường cho thông.

5. Già trẻ trai gái bị lao trùng truyền nhiễm, ho, thổ huyết và các chứng hư tổn lao thương, mặt mắt vàng võ, thân thể gày gò, tay chân rũ mỏi, ăn uống không ngon, giấc ngủ mê mộng, đổ mồ hôi trộm, âm hư bốc nóng, ngũ tâm phiền nhiệt.
Bổ sung thêm huyệt pháp:

b) Bách lao: 2 huyệt ở sau gáy, chỗ lõm ở hai bên dưới đốt xương cổ thứ nhất, cách ra một thốn, châm 8 phân, cứu 7 mồi.

K7. Cao hoang: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 4 trên đốt thứ 5 ngang ra hai bên, cách 3 thốn ở chỗ lõm. Cứu 200 đến 300 mồi thì thôi (đã nói ở trên).

d) Tứ hoa sau lưng: Cách lấy huyệt đã nói ở trên. Trước cứu hai huyệt ở hai bên, mỗi huyệt 7 mồi, sau cứu thêm dần đến 100 mồi. Nhưng đối với hai huyệt trên sống lưng thì chỉ nên cứu ít, như 1 mồi đến 3 - 5 mồi, không nên cứu nhiều, cứu nhiều thì sẽ còng lưng.

K7. Thận du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 14, đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn, châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu mỗi tuổi một mồi.

K14. Thiên đột: Huyệt ở giữa chỗ lõm dưới yết hầu 1 thốn, châm 5 phân, cứu 5 mồi.

đ) Trực cốt: 2 huyệt ở chỗ mé thịt đen dưới vú thẳng xuống, ở phụ nữ núm vú thõng xuống thì huyệt vào chỗ đầu nuốm vú chấm đến, Nam dùng huyệt ở bên tả, nữ bên hữu, châm 1 phân, cứu 7 mồi.

K3. Túc tam lý: 2 huyệt ở dưới đầu gối 3 thốn, ngoài xương ống chân, giơ chân lên mà lấy huyệt. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K7. Phế du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 3, đi ra hai bên, mỗi bên cách 1,5 thốn. Ho thì châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu đến 100 mồi.

K7. Tâm du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 11 (59) đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn. Ho do Tỳ (nhiều đờm) thì dùng, châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu 7 mồi.

K14. Đản trung: (Đã nói ở mục 3) cứu 21 mồi, cấm châm.

K14. Khí hải: (xem mục 4 ở trên).

* Chú thích mục 5:

(54). Bán thiên mão dậu: Thần linh được cầu cúng theo quan niệm duy tâm.

(55). Cắt đứt dây oan: Cách giải bệnh hoạn, tai nạn trong việc cầu cúng đời xưa.

(56). 7 mối tình chí xúc động tinh thần: Mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, kinh.

(57). Tinh huyết sút kém sinh bốc nóng và đờm đọng sộc lên.

(58). Làm mạnh dương khí để nâng cao thể năng khí lực.

(59). Huyệt Tâm du ở dưới đốt xương sống thứ 5 ngang ra hai bên (không phải đốt thứ 11): Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 15, 2018, 09:38:59 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #14 vào lúc: Tháng Ba 02, 2018, 11:17:11 AM »

Mục 6

Kìa ai phải bệnh trúng phong,
Bán thân bất toại (liệt nửa người) cong lòng thiết thay.
Phải liệt một chân một tay,
Co vào chẳng được ngày rày buông ra.
Lại thêm khẩu nhãn oa tà (méo mồm lệch mắt),
Miệng méo mắt đỏ vậy hòa buôn muôn.
Lại thêm khẩu cấm bất ngôn (cắn răng không nói),

1200. Nói hòa chẳng được chỉn khôn (thật khó) lạ dường.
Cứu Bách hội huyệt cho tường,
Rồi ta đoạn lại cứu lường Thượng tinh.
Ấy là đầu bộ phân minh,
Ta lại xem hình ở đầu xương vai.
Cất cánh nó lên chẳng sai,
Nào nơi dường ấy trước bài làm ghi.
Huyệt giữa khớp xương một khi,
Nhấc xuống vậy thì ta cứu giữa ngôi.
Cứu chính giữa khớp kia ơi,

1210. Ấy Kiên ngung huyệt lấy rồi cứu đi.
Châm đến một phân một khi,
Ngải đốt ba bảy (21 mồi) vậy thì cho thông.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Bảo cho biết ấy lẽ cùng mà suy.
Ta lại cứu huyệt Khúc trì,
Huyệt ấy vậy thì ngay cánh tay ta.
Ta lại bảo nó rằng bay,
Bàn tay nắm lại cánh rày dăng ra.
Ta bấm khúc xương kia là,

1220. Nắm chỗ khoanh lại vậy hòa khi nay.
Chỗ ấy bấm trũng vào nay,
Huyệt trong trũng ấy áp rày phụ xương.
Trước có nắm thịt cho tường,
Lại có ngấn chỉ một đường hòa xem.
Cứ hết đầu ngấn chớ thiên,
Lường ta làm dấu áp liền mé xương.
Lại bảo lẽ ấy cho tường,
Hai bên tả hữu hai bên huyệt rày.
Châm xuống ba phân bằng nay,

1230. Ngải đốt một huyệt thuở rày bảy viên.
Cứu Khúc trì huyệt đã yên,
Lấy huyệt Hợp cốc vậy liền ở đâu?
Tìm ra bàn tay chớ lâu,
Hễ nó thấp xuống mấy hầu lấy lên.
Đem ngón tay cái đem lên,
Ngón trỏ nó liền phải thác cách nhau.
Hình như kèo nhà giao đầu,
Bấm vào trũng ấy những đau kia là.
Bấm từ gốc ấy xem ra,

1240. Nào nơi máu mạch vậy hòa theo nhau.
Lấy huyệt giữa mạch mấy mầu,
Lựa vào chỗ ấy chớ hầu phạm xương.
Châm xuống ba phân cho tường,
Đốt bảy tráng ngải một đường cho thông.
Ấy là thủ bộ (ở tay) đã xong,
Xem cứu túc bộ (ở chân) đều cùng kể ra:
Xem nơi trái trôn (mông) kia là,
Chân dưới duỗi thẳng mà lường khi nay.
Cầm gót chân lên thuở rày,

1250. Ta bắt co lại phép này đem lên.
Gót chân đến giữa đọi đòn (chỗ lõm),
Cho in đầu gót ta liền cứ nay.
Khiến bắt chân nó duỗi ngay,
Ấn vào thấy trũng bảo nay hòa lường.
Bắt gót ôm lại cho tường,
Cứ ngay đầu gót một dường phải thay.
Ta cứ mé trũng xương này,
Ấy Hoàn khiêu huyệt khi nay tỏ tường.
Châm đến ba phân (?) mới thần,

1260. Ngải đốt ba bảy (21 mồi) cho cần mấy hay.
Bảo cho hay hai ba huyệt ấy,
Lấy phải phép bệnh ấy tiêu tan.
Kìa huyệt Phong thị lại bàn,
Ở ngoài trái vế hòa toan ngày rày.
Khiến nó chân duỗi cho ngay,
Bàn tay áp vế xuống rày từ đâu.
Cứ ngón tay trỏ chớ lâu (60),
Mực chỉ áp đầu ngón chỉ (60) làm ghi.
Lại bảo chỗ ấy mà suy,

1270. Chỗ ấy vậy thì có lưỡng cân gian (khoảng giữa hai gân).
Một huyệt mười bốn ngải hòn mà thôi.
Cứu huyệt Phong thị đã xong,
Lại huyệt Tam lý phép dùng cứu đi.
Cứ lấy như tiền (trước) một khi,
Đoạn rồi tức thì cứu huyệt Dương lăng /tuyền/.
Bảo nó ngồi trôn cho bằng,
Xem nơi đầu gối bảo rằng cho hay.
Có ba khúc xương ngồi bày,
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 02, 2018, 04:36:59 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: [1] 2 3 ... 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn