Tiêu-diêu
|
|
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Bảy 03, 2010, 08:17:24 PM » |
|
NGUỒN GỐC VÀ CÁC TRƯỜNG PHÁI KHÍ CÔNG NGUỒN GỐC CỦA KHÍ CÔNG
Khí Công, đã có ở Trung Quốc từ 5000 năm trước (Mã Tế Nhân), nhưng không được phổ biến rộng rãi, và chỉ được truyền đạt trong khuôn viên đền chùa hay võ đường.
Ngay ở thế kỷ này, cách đây 50 năm, những bậc thầy về khí công cũng chỉ truyền đạt cho con trai hay một số người thật thân tín ; do đó, đã có một thời khí công được coi như môn tập luyện thần bí.
Ngoài ra, khí công mà tập sai sẽ không mang lại kết quả đôi khi còn gây hại nên nhìêu người không dám tập; vì vậy lại thêm phần chậm phát triển.
Khí công lấy Kinh Dịch với nguyên lý âm Dương, rồi sau đó thuyết Ngũ hành làm cơ sở chính. Người sáng lập ra Kinh Dịch là Vua Phục Hy (4477 - 4363 TCN) lập ra Hà Đồ, Tiên thiên Bát quái và Trùng quái với 64 quẻ ; sau đó Đại Vũ ở thời nhà Hạ (2205 - 1766 TCN) lập ra Lạc thư. Hơn 1000 năm sau, tới đời nhà Chu (1100 - 22 TCN), Chu Văn Vương ding văn tự để giải thích các quẻ (thoán từ) và lập ra Hậu thiên Bát quái rồi đến Chu Công Đán (Chu công) đặt ra hào từ hay tượng từ cho mỗi quẻ. Thoán từ và hào từ được trình bày rất cô đọng nhưng khó hiểu ; Khổng Tử (551 - 479 TCN) đã có công san định làm 12 thiên cho dễ hiểu và phổ biến vào đại chúng. Vào những năm gần đây, đã tìm thấy được những di tích chú khảo trên đồng đen và những hình vẽ trên lụa, thực hiện vào thời nhà Chu, mô tả các động tác thể dục trị bệnh kết hợp với hơi thở (168 TCN).
Bộ sách nổi tiếng vận dụng Âm Dương vào Y học là cuộn "Hoàng Đế Nội Kinh" trong đó nói: "Âm Dương là Đạo của Trời Đất, giềng mối của muôn vật, cha mẹ của biến hóa" lấy "sinh trưởng thu tàn" của bốn mùa làm nguồn gốc bảo dưỡng mạng sống. Hoàng Đế Nội kinh mang tên vua Hoàng Đế, một thủy tổ của Trung Quốc, sáng vào khoảng 4670 năm trước đây, nhưng thực ra sách không thể soạn thảo vào thời đó được, vì chưa có văn tự. Các học giả cho rằng bộ sách này được viết vào thời Tân – Hán và do một tập thể hoàn thành. Hoàng Đế Nội kinh đề cập tới Khí, dưới nhiều nghĩa khác nhau ; trong đó có nghĩa chức năng của tạng – phủ, phần bổ ích cho Khí công chính là chương bàn về Kinh mạch bệnh.
Thuyết Ngũ hành dựa vào nguyên lý Âm – Dương của Thái cực lập ra. Thái cực động sinh Âm Dương, Âm Dương biến hóa, Dương biến, Âm hợp tuần tự sinh ra ngũ hành : Thủy rồi Hỏa, Mộc, Kim, Thổ. Ngũ hành phối hợp với vạn vật và vận hành theo quy luật tương sinh tương khắc để thúc đẩy sự biến hóa. Dựa vào quy luật này, Khí công lập ra một số phương pháp tập luyện.
Trong quá trình phát triển, giao lưu quốc tế, Khí công sau này chịu ảnh hưởng của Phật giáo với thuyết Nhân quả Luân hồi và phương pháp Thiền. Đạt Ma Sư Tổ, là một nhà truyền bá Phật giáo từ ấn Độ vào Trung quốc và lập ra Dịch Cân Kinh, nên Khí công không tránh được ảnh hưởng của Yoga với phương pháp luyện Luân xa (Chakra).
Vì vậy, hiện thời có nhiều trường phái Khí công.
NHỮNG TRƯỜNG PHÁI KHÍ CÔNG
Có năm trường phái Khí công chính : Trường phái Lão học, trường phái Phật học, trường phái Khổng học, trường phái y học và trường phái võ thuật, trường phái Lão học.
Trường phái Lão học
Lão Tử sống cùng thời với Khổng Tử. Khổng Tử có công san định Kinh Dịch như đá nói ở trên, và từ những tư tương cùa người xưa lập nên một thế giới quan và một nhân sinh quan dựa trên đức Nhân, để xây dựng một trật tự xã hội trong cái thế Chiến quốc của thời phong kiến. Lão Tử, trước cảnh điêu linh thống khổ của dân chúng, cũng lập nên một học thuyết nhất quán về vũ trụ và con người. Sinh ra vạn vật không phải là Trời mà là “Đạo". "Có một vật do sự hỗn hợp mà thành, vừa trống không, vừa yên lặng, đứng yên một mình mà không biến cải, trôi đi mọi nơi mà không thôi, nó là mẹ đẻ của thiên hạ. Ta không biết nó là gì, phải đặt tên chữ cho nó là “Đạo".
Đạo là gốc của vạn vật nhưng để vạn vật hình thành và tồn tại phải nhờ Đức.” Đạo sinh ra nó. Đức nuôi nấng nó". Vũ trụ tuần hành không ngừng theo luật tự nhiên và luật mâu thuẫn, nhưng sau cùng vạn vật lại trở về với Đạo “ôi vạn vật trùng trùng đều trở về với cội nguồn của nó"(Đạo đức kinh).
Đạo của Lão Tử như vậy giống như Thái Cực của Dịch. Còn Đức là Âm Dương sinh ra ngũ hành và muôn vật. Ngũ hành biến hóa nhưng sau cùng cũng trở về với Thái cực. Từ học thuyết Đạo Đức, Lão Tử lập ra chủ nghĩa Vô vi. Vô vi ở đây không có nghĩa là không làm mà là làm theo tự nhiên, nên mới nói rằng: "Không làm mà không có cái gọi là không làm", “làm mà không cậy công", “thành công mà không ở lại". Ngược với học thuyết của Khổng Tử lấy Nhân, Nghĩa, Lễ làm phương châm xử thế, Lão Tử cho rằng Nhân, Nghĩa, Lễ là hữu vi ; "Mất Đạo mới có Nhân, mất Nhân mới có Nghĩa, mất Nghĩa mới có Lễ".
Đạo của Trời
Bớt chỗ dư
Bù chỗ thiếu
Đạo của người
Bớt chỗ thiếu
Bù chỗ dư"
(Đạo đức Kinh)
Người ta đặt ra Nhân, Nghĩa, Lễ để che lấp cái bất công, còn nếu biết sống như trẻ thơ thì làm gì phải đặt ra Nhân, Nghĩa, Lễ để trị thiên hạ. Cũng từ học thuyết Đạo Đức, Lão Tử lập ra đạo nhiếp sinh hay trường sinh bất tử để thoát khỏi luật tuần hoàn của vũ trụ và sớm trở về với hư vô, tức với Đạo. "Bởi vì cái thể của Đạo là trống không, nhưng cái dụng của nó thì vô tận", nên trở về với Đạo là bất diệt. người đã sống được với bẩm tỉnh của mình, đồng thời với bản thế của Đạo, thì làm sao chết được, vì họ đã sống trong cái không thể chết".
Đạo nhiếp sinh của Lão Tử dựa vào thuật luyện đan. Luyện đan của Lão Tử là luyện ba huyệt đan điền trên cơ thể tức là đan điền Tinh, đan điền Khí, đan điền Thần. Tinh, Khí, Thần là ba phần của con người. Nó trụ ở ba đan điền trên cơ thể, tạo ra đời sống vật chất, tinh thần và tình cảm. Tinh là gốc của sinh trởng gồm phần bẩm sinh do cha mẹ truyền lại trong bào thai và phần hấp thu sau này do ăn uống. Khí là tinh hoa của Trời Đất thu thập đợc và chu lu khắp cơ thể. Thần bao gồm ý thức, t tởng và tình cảm. Giữa Tinh, Khí, Thần có mối quan hệ mật thiết hai chiêu để duy trì sự sống và sức sống Tinh hóa Khí.
Nhưng Tinh cần có Khí mới vận hành đợc. Thần sinh ra từ Khi, nhưng sau cùng chính Thần lại là chủ thể để vận dựng Tinh, Khí nên mới nói giữ đợc Thần thì sống, mất Thần thì chết. Luyện đơn là luyện để làm chủ được Tinh, Khí, sau cùng luyện Thần là để hòa mình vào cảnh giới hư không. Bí quyết của phương pháp luyện Tinh Khí Thần là lấy tâm pháp diệt ái dục, để Tinh đầy đủ, rồi từ đó Khí sung mãn và Thần vững vàng ; Thần không còn dao động sẽ hòa đồng với vũ trụ.
Còn phương châm xử thế thì có thể thâu gọn vào một câu Đạo của Thánh nhân, làm mà không tranh". Câu này cũng là câu chót của Đạo Đức Kinh.
Trong những người nối nghiệp Lão Tử phải kể đến Trang Tử, với cuốn Nam Hoa Kinh. Trang Tử nói là con người thực sự phải thở tới gót chân - ý muốn nói phải biết thu hút khí từ bàn chân.
Trang Tử cũng quan niệm vạn vật là một, nên bình đẳng, luôn luôn biến hóa và tự hóa do đó sống và chết chỉ là thay đổi hình thế. Lý tương đối cũng chi phối mọi sự vật, nên ở cảnh nào phải vui với cảnh ấy, và trong đạo dữơng sinh, cần "Thuận theo con đường giữa".
Trang Tử cũng chủ trương hòa mình với vạn vật và thuận theo tự nhiên bởi vì vạn vật là một. "Giữ tâm cho đIũm đạm, Khí cho điềm tĩnh. Thuận theo tính tự nhiên của mọi vật mà không theo ý riêng của mình, thì thiên hạ trị vậy".
Trường phái Phật học
Phật Giáo cũng quan niệm vạn vật nhất thể, và mọi người đều có tâm Phật , con người bị ràng buộc vào 12 nhân duyên nên mới sinh nghiệp và chịu luân hồi, theo luật nhân quả. Tu Phật là diệt thất tình, và tập luyện Trí Huệ bát nhá Ba La Mật, đạt tới vô niệm, vô tưởng, vô trụ, tức tới tâm vô sai biệt, tâm bình đẳng như như.
Một phương pháp để đạt được mục tiêu này là quán giống như dhyana của Yoga và Thiền định, bát nhã vô niệm. ở Trung Quốc, vào đời nhà Lương, Đạt ma Sư tổ (525 - TCN) soạn Dịch Cân Kinh và lập ra phái võ thuật Thiếu Lâm (337 - TCN) và phổ biến phương pháp Thiền. Sau này, tới đời nhà Tống (1104 - 1142), xuất phát từ Dịch Cân Kinh có những môn võ thuật như: "Thập nhị đoạn cẩm" và Bát đoạn cẩm", "Ngũ cầm hí" tương tự như Ngũ cầm hí của Hoa Đà ; Ngũ cầm của Hoa Đà là hổ, gấu, nai, hầu và hạc.
Trường phái Khổng học
Khổng Tử (500 - TCN) và Mạnh Tử (300 - TCN) lập ra thuyết Nhân Nghĩa và Đạo trung dung trong xử thế. Riêng về Khí công, người tập quyền phải làm chủ được tư tưởng, và có đức độ. Sau này, những thi sĩ nổi tiếng như Lý Thái Bạch, Tô Đông Pha, Bạch Cư Dị, Thân Tôn Trung cũng lấy Khí công để rèn luyện tâm trí.
Trường phái y học
Trong y học Trung Quốc, có hai phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp Ngoại tượng giải phẫu, tức tìm hiểu cơ thể con người bằng phẫu tích, hay bằng các nghiên cứu vật lý như y học hiện đại tại các phòng thí nghiệm.
2. Phương pháp Nôị thị công phu, trong đó học giả bằng nội quan, tự nhận xét những biến động của cơ thể trong mối tương quan với ngoại cảnh. Chính qua phương pháp thứ hai này mà người xưa khám phá ra Khí ; Khí ở trong cơ thể cũng như ở ngoài cơ thể rồi dựa vào Kinh Dịch và thuyết Âm Dương quân bình với thuyết Ngũ hành sinh khắc mà xây dựng Khí công trong điều trị.
Hai cuốn sách có bàn nhiều tới Khí công là cuốn “Khí hóa luận” nói về sự liên quan giữa Khí với tự nhiên ; và cuốn Kinh lạc luận", mô tả sự tuần hoàn của Khí trong cơ thể và là căn bản cho khoa châm cứu.
Tới đời nhà Tùy và nhà Đường (581 - 907 SCN) có :
* Sào Nguyên Phương, soạn ra cuốn "Cư bệnh, nguyên hậu luận", mà có thể coi như cuốn bách khoa về các phương pháp luyện Khí (260 phương pháp). * Tôn Tử Mạc trong cuốn "Thiên Kim Phương '' ding 6 tiếng phát âm liên hệ tới phủ tạng để vận khí và hướng dẫn 49 cách xoa bóp. * Vương Đạo trong cuốn "Ngoại thai bí yếu'', bàn về cách dùng hơi thở và dược thảo để điệu trị những rôí loạn lưu thông của Khí.
Tới các đời nhà Tống, Kim, Nguyên (960 - 1368 SCN) có nhiều công trình quý giá về Khí công, như cuốn :
* "Dưỡng sinh quyết" của Trưởng An Đạo bàn về tập luyện Khí công. * “Nhu môn thị sự" của Trưởng Tử Hòa nói về cách dùng Khí công đìêu trị ngoại thương. * "Lan thất bí tàng" của Lý Quả, luận về cây cỏ điều trị nội thương. * “Cách trí dư luận" của Chu Đan Khuê, trình bày cơ chế tri bệnh bằng Khí công. Cũng nên nhắc lại là chính dưới thời nhà Tống (960 - 1279 SCN) mà Trương Tam Phong lập ra Thái Cực Quyền.
Rồi vào năm 1026 SCN, Vương Duy Nhất đúc tượng đồng thau trên đó vạch ra các kinh mạch và đục lỗ huyệt để học thâm cứu cho dễ và có hệ thống.
Dưới thời nhà Minh và nhà Thanh (1368 - 1911 SCN), phải kể tới :
* Cuốn "Kỳ kinh bát mạch khảo" của Lý Thời Trân, luận về liên hệ giữa khí và kinh mạch. * Cuốn "Bảo thân bí yếu” của Tào Nguyên Bạch, luận về động công và tĩnh công. * Cuốn “ Dưỡng sinh phụ ngữ” của Trần Kế Như, luận về Tinh, Khí, Thần, và hướng dẫn phương pháp tiết dục để tồn tinh. * Cuốn “Y phương tập giới" của Uống Cân Yêm, tổng hợp những lành sách nói về Khí công.
|