Tên khác: Mễ nhân
Khí vị: Vị ngọt nhạt hơi hàn, không độc là âm trong dương dược, là thuốc giáng xuống, vào hai kinh Tỳ và Phế.
Chủ dùng: Trừ phong thấp chữa thấp tê, gìn giữ táo kim mà chữa chứng phế ung, gân co rút, co duỗi khó khăn, ho ra đờm dãi, máu mủ lẫn lộn, chữa đau nhức gân xương, tiêu thủy thũng ở ngoài da, thông lợi đường ruột chữa tiêu khát, khai vị làm cho ăn được. Nhưng tính nó chậm chạp lại không có tính ghen ghét, bởi thế lúc dùng phải dùng liều lượng nhiều hơn các vị thuốc khác.
Cấm kỵ: Tính nó chủ đi xuống nên chứng thuộc hư mà khí hãm xuống thì không nên dùng. Người có thai kiêng dùng.
Cách chế: Nhai mà dính là thực, rửa nước sao qua, hoặc sao với gạo nếp rồi bỏ gạo nếp đi.
Mễ nhân thuộc hành thổ, vốn là thuốc của Tỳ, bệnh của Phế kinh dùng nó tức là con hư thì bổ mẹ; bệnh của gân xương cũng lấy kinh Dương minh làm gốc, cho nên bệnh gân dùng nó; Thổ chế được Thủy cho nên chứng tiết tả và thủy thũng đều dùng nó.
* Khi xưa Mã Viện sang đánh nước Nam, khi sang nước Nam không hợp thủy thổ bị chứng thống phong, được dân bản địa mách uống Ý dĩ, uống vào khỏi bệnh. Khi về nước ông mang giống cây Ý dĩ về trồng tại Trung Quốc.