Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Năm 05, 2024, 09:39:35 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 2 [3] 4 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nội kinh tố vấn  (Đọc 30613 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #30 vào lúc: Tháng Năm 04, 2018, 07:03:00 AM »

Chương ba mươi

DƯƠNG MINH MẠCH GIẢI THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Túc Dương minh mạch mắc bệnh, ghét người và lửa, nghe tiếng gỗ thời giật mình sợ hãi... Chuông trống không sợ, mà lại sợ tiếng gỗ, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Dương minh tức là Vị mạch. Vị thuộc thổ, nghe tiếng gỗ thời sợ hãi đó là vì thổ ghét mộc.

 - Sao lại ghét lửa?

 - Dương minh chủ về nhục; mạch của nó huyết khí đều thịnh, tà khí phạm vào thời nhiệt, nhiệt quá nên ghét lửa.

 - Sao lại ghét người?

 - Dương minh quyết thời suyễn mà uất, vì uất nên ghét người.

 - Hoặc có người suyễn mà chết, lại có người suyễn mà sống, là vì sao?

 - Quyết nghịch, chứng liền với Tàng thời chết, liền với kinh thời chết (mạch của Thái âm, vòng quanh Vị, lạc của Dương minh thông với Tâm. Như nhiệt tà quyết nghịch ở trên, phạm vào kinh mạch của Tâm, Phế, gây nên chứng suyễn, uất thời sống; nếu phạm thẳng vào Tâm, Phế thời chết).

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có chứng bệnh nặng, cởi bỏ áo mà chạy, trèo lên nơi cao mà hát, hoặc có khi không ăn tới vài ngày, lại trèo qua tường, leo lên nóc nhà. Những nơi leo trèo đó, đều không phải những nơi lúc vô bệnh có thể lên được. Thế mà giờ ốm, lại lên được, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Tứ chi là cái gốc của mọi dương khí. Dương khí thịnh thời tứ chi "thực", vì "thực nên mới lên được nơi cao".

 - Cởi bỏ áo là vì sao?

 - Nhiệt quá ở mình, nên mới cởi bỏ áo để chạy.

 - Nói càn chửi bậy, không kể gì thân sơ, là vì sao?

 - Vì dương thịnh nên sinh ra nói bậy chửi càn, không kể thân sơ, mà không muốn ăn; vì không muốn ăn nên chạy càn (1).

Chú giải

 (1) Vị lạc trên thông lên Tâm; Dương thịnh thì tâm thần hỗn loạn, khiến người ta nói càn chửi bậy. Không biết người thân kẻ sơ. Nhiệt thịnh ở Vị nên không muốn ăn, mà lại muốn chạy càn, vì bốn chân tay bẩm khí ở Vị (tứ chi thuộc Tỳ Vị). Vị nhiệt nên tay chân nóng cuồng muốn leo trèo chạy càn.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 11:48:34 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #31 vào lúc: Tháng Năm 04, 2018, 09:57:14 AM »

Chương ba mươi mốt

NHIỆT BỆNH THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phàm nhiệt bệnh, phần nhiều cùng một loại với thương hàn hoặc có người khỏi, hoặc có người chết; người chết phần nhiều ở trong vòng 6, 7 ngày; người khỏi đều từ 10 ngày trở lên, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:
 
 - Cự dương (tức Thái dương Bàng quang) là nơi tụ hội của mọi khí dương. Mạch của nó liền với Phong phủ, cho nên nó chủ khí cho Chư dương. Người ta phạm phải hàn tà, sẽ phát bệnh nhiệt. Nhiệt dù nặng, cũng không chết. Nếu "lưỡng cảm" về hàn mà mắc bệnh, thời khó sống.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết rõ ràng...

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Thương hàn, ngày thứ nhất, Cự dương phải chịu. Cho nên gây chứng đầu và cổ nhức đau, yêu tích (ngang lưng và đường xương sống) cứng đờ.

 Sang ngày thứ hai, kinh Dương minh phải chịu. Dương minh chủ về nhục; mạch của nó qua mũi chằng lên mắt, cho nên gây nên chứng mình nóng, mắt đau và mũi khô, không năm được.

 Sang ngày thứ ba, kinh Thiếu dương phải chịu. Thiếu dương chủ về Đởm; mạch của nó vòng qua sườn, chằng lên tai, nên chứng hung hiếp đau mà tai điếc.

 Vì kinh, lạc của ba kinh dương đều mắc bệnh, mà chưa phạm vào tới Tàng, nên có thể phát hãn cho khỏi.

 Sang ngày thứ tư, kinh Thái âm phải chịu. Mạch của kinh này truyền khắp trong Vị, chằng lên cuống họng, cho nên gây nên chứng bụng đầy mà cổ khô.

 Sang ngày thứ năm, kinh Thiếu âm phải chịu. Mạch của kinh này suốt Thận chằng lên Phế, buộc vào cuống lưỡi. Cho nên gây chứng miệng ráo, lưỡi khô mà khát.
 
 Sang ngày thứ sáu, kinh Quyết âm phải chịu. Mạch của kinh này vòng qua âm khí, mà chằng lên Can, cho nên gây nên chứng phiền mãn và nang xúc (thận nang co rúm lại).

 Tam âm, tam dương, năm Tàng, sáu Phủ đều mắc bệnh, vinh, vệ không lưu hành, năm Tàng không giao thông, thời sẽ chết.

 Nếu không "lưỡng cảm" vì hàn, qua ngày thứ bảy, bệnh ở Cự dương sẽ giảm, chứng nhức đầu hơi bớt qua ngày thứ tám, bệnh ở Dương minh sẽ giảm, mình nóng hơi bớt; qua ngày thứ chín, bệnh ở kinh Thiếu dương giảm, tai điếc hơi nghe tiếng; qua ngày thứ mười, bệnh ở kinh Thái âm giảm, bụng xẹp xuống như cũ, nên đã nghĩ đến sự uống ăn; qua ngày thứ mười một, bệnh ở kinh Thiếu âm giảm, chứng khát khỏi và bụng khỏi đầy; qua ngày thứ mười hai, bệnh ở kinh Quyết âm giảm, Thận nang nở ra, Thiếu phúc lép lại, đại khí tiết ra hết, rồi các chứng khỏi dần.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Về phương pháp điều trị, nên thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Về phép điều trị, cần phải làm cho Tàng mạch lưu thông, bệnh sẽ bớt dần.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Chứng nhiệt đã khỏi, mà có khi lại còn sót, không dứt hẳn, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Sở dĩ còn sót, không dứt hẳn, đó là vì lúc đương nóng nhiều, mà cố gượng ăn uống, nên mới sót lại như vậy. Vì lúc bệnh đã giảm, nhiệt chưa dứt hẳn, nhân cốc khí áp bách, hai thứ "nhiệt" hợp lại, nên mới phát bệnh.

 - Nên điều trị thế nào?

 - Xét rõ hư thực, điều hòa sự thuận nghịch, sẽ khiến cho khỏi được.

 - Nhiệt bệnh nên kiêng cấm gì?

 - Nhiệt bệnh mới khỏi, ăn thịt thời bệnh lại hồi phục. Do đó phải cấm.

 Về bệnh "lưỡng cảm", vì hàn, mạch, ứng với bệnh hình như thế nào?

 Sở dĩ gọi là "lưỡng cảm", ngày thứ nhất, Thái dương với Thiếu âm đều mắc bệnh, thời có những chứng đầu nhức, miệng khô và phiền, mãn. Ngày thứ hai, Dương minh với Thái âm đều mắc bệnh, thời có những chứng bụng đầy, mình nóng, không muốn ăn, nói mê lảm nhảm.

 Ngày thứ ba, Thiếu dương với Quyết âm đều mắc bệnh, thời có những chứng: Tai điếc, nang xúc mà quyết, không thể nhỏ một giọt nước vào miệng, bất tỉnh nhân sự... Tới ngày thứ sáu sẽ chết.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng đã thương, sáu Phủ không thông, vinh vệ không dẫn hành... Bệnh  như vậy, ba ngày đã chết, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Dương minh là một thứ mạch đứng đầu của mười hai kinh, huyết khí đều thịnh; giờ Vị khí tuyệt, nên bất tỉnh nhân sự và chết.

 Phàm mắc bệnh thương hàn mà lại xoay sang "bệnh ôn", đó là bệnh phát sinh trước ngày Hạ chí, thời là bệnh ôn; nếu bệnh phát sinh sau ngày Hạ chí, là bệnh thử. Bệnh thử nên để cho có mồ hôi, thử tà sẽ cùng mồ hôi mà tiết ra, đừng hãm mồ hôi lại.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:17:24 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #32 vào lúc: Tháng Năm 04, 2018, 11:07:38 AM »

Chương ba mươi hai

THÍCH NHIỆT THIÊN



KINH VĂN

 - Can mắc bệnh nhiệt, tiểu tiện vàng trước, bụng đau, hay nằm, mình nóng. Nhiệt tranh với hàn, thời nói cuồng và kinh, "hiếp" mãn và đau; tay chân vật vã (táo), không thể nằm yên. Gặp ngày Canh, Tân nặng thêm, gặp ngày Giáp, Ất mồ hôi ra nhiều. Nếu khí nghịch thì chết ngay từ ngày Canh, Tân.

 Nên thích ở kinh Túc Quyết âm và Thiếu dương. Nếu khí nghịch thời đầu nhức choáng váng, vì mạch xung lên đầu.

 - Tâm mắc bệnh nhiệt, thoạt tiên có ý như không vui, vài ngày sau mới phát nhiệt. Nếu hàn tranh với nhiệt, thời bỗng Tâm thống, phiền, muộn, hay ọe, đầu nhức, mặt đỏ, không có mồ hôi. Gặp ngày Nhâm, Quý nặng thêm, gặp ngày Bính, Đinh thời mồ hôi toát ra nhiều. Nếu khí nghịch thời chết ngay từ ngày Nhâm, Quý.

 Nên thích ở kinh thủ Thiếu âm và Thái dương.

 - Tỳ mắc bệnh nhiệt, thoạt tiên đầu nặng, dưới má đau. Tâm phiền, sắc mặt xanh muốn ọe, mình nóng. Nếu hàn với nhiệt tranh thời yếu đau không thể cúi ngửa, phúc mãn và tiết tả, hai quai hàm đau. Gặp ngày Giáp, Ất nặng thêm; ngày Mậu, Kỷ mồ hôi toát ra nhiều. Nếu khí nghịch thời chết ngay từ ngày Giáp, Ất.

 Thích ở kinh túc Thái âm và Dương minh.

 - Phế mắc bệnh nhiệt, thoạt tiên ngoài da ghê rợn và quyết, đứng các chân lông; ghét phong hàn, lưỡi vàng, mình nóng. Hàn với nhiêt tranh thời thở suyễn và ho, đau chạy khắp hung và lưng, khó thở, đầu nhức không thể chịu được, mồ hôi toát ra rồi lại rét. Gặp ngày Bính, Đinh nặng thêm; gặp ngày Canh, Tân, mồ hôi ra nhiều. Nếu khí nghịch thời chết ngay từ ngày Bính, Đinh.

 Thích ở kinh thủ Thái âm, Dương minh, huyết ra bằng hạt đậu, khỏi ngay.

 - Thận mắc bệnh nhiệt, thoạt tiên yếu đau, xương ống chân mỏi nhức, khát nhiều, uống nước luôn, mình nhiệt. Hàn với nhiệt tranh thời cổ đau mà cứng; xương ống chân lạnh và mỏi nhức; dưới bàn chân nóng, không muốn nói. Nếu khí nghịch thời cổ đau, đầu nhức ê ẩm. Gặp ngày Mậu, Kỷ nặng thêm; Gặp ngày Nhâm, Quý thoát nhiều mồ hôi. Nếu khí nghịch, sẽ chết từ ngày Mậu, Kỷ

 Thích ở kinh túc Thiếu âm, Thái dương.

 - Phàm gặp ngày "sở thắng" thời mồ hôi ra (ngày bản khí vượng, gọi là sở thắng).

 Can mắc bênh nhiệt, má bên tả đỏ trước; Tâm mắc bệnh nhiệt, sắc mặt đỏ trước; Phế mắc bệnh nhiệt, má bên hữu đỏ trước; Thận mắc bệnh nhiệt, mép đỏ trước. Khi bệnh chưa phát, thấy hiện sắc đỏ thời thích ngay, thế gọi là trị vị bệnh.

 Bệnh nhiệt phát ra ở bộ vị (mặt), đến kỳ thời khơi (như Can bệnh nhiệt, má bên tả đỏ trước, gặp ngày Giáp, Ất, mồ hôi ra nhiều mà khỏi...).

 - Nếu thích để cho bệnh khí quay nghịch lại thuận, ba lần "chu" (tức qua ba lượt) sẽ khỏi. Nếu lại nghịch, tức "trùng nghịch" sẽ chết.

 - Phàm các chứng nên ra mồ hôi, gặp ngày "sở thắng" mồ hôi sẽ ra nhiều.

 - Phàm chữa bệnh nhiệt, trước cho uống nước lạnh, rồi mới thích; lại phải cho mặc áo lạnh, ở nơi lạnh, toàn thân lạnh rồi mới thôi.

 - Phàm bệnh nhiệt, trước hung, hiếp đau; tay chân vật vã, thích túc Thiếu dương, bổ túc Thái âm. Nếu bệnh nặng, phải thích 59 huyệt.

 - Bệnh nhiệt, thoạt tiên đau ở cánh tay, thích thủ Dương minh, Thái âm, mồ hôi ra sẽ thôi.

 - Bệnh nhiệt, thoạt tiên phát ở đầu, thích huyệt Thái dương ở cổ, mồ hôi ra sẽ thôi.

 - Bệnh nhiệt, thoạt tiên phát ra ở ống chân, thích túc Dương minh, mồ hôi ra sẽ thôi.

 - Bênh nhiệt, thoạt tiên mình nặng, xương đau, tai điếc, hay nhắm mắt, thích túc Thiếu âm; nếu bệnh nặng, phải thích 59 huyệt.

 - Bệnh nhiệt, thoạt tiên chóng mặt mà nhiệt, hung, hiếp mãn, thích túc Thiếu âm, Thiếu dương.

 Mạch sắc của kinh Thái dương "vinh" lên xương gò má, đó là bệnh nhiệt. Nếu chưa kịp lan sang bộ khác, hãy nói: "hãy để cho có mồ hôi", đợi đến ngày "sở thắng" sẽ khỏi. Nếu cùng với mạch sắc của Quyết âm cùng phát hiện, chẳng qua ba ngày sẽ chết.

 Mạch sắc của Thiếu dương "vinh" lên trước má đó là bệnh nhiệt. Nếu chưa kịp lan sang bộ khác hãy nói: "hãy để cho có mồ hôi", đợi đến ngày "sở thắng" sẽ khỏi. Nếu cùng với mạch sắc của Thiếu âm cùng phát hiện, chẳng qua ba ngày sẽ chết.

 Khí huyệt của nhiệt bệnh, khoảng dưới xương sống đốt thứ ba, chủ về Hung trung nhiệt, khoảng đốt thứ tư, chủ về Cách trung nhiệt, khoảng đốt thứ sáu, chủ về Tỳ nhiệt, khoảng đốt thứ bảy, chủ về Thận nhiệt.

 Nếu muốn lấy vinh, nên lấy ở trên đốt thứ mười bốn, tức Câu cốt, và chỗ lõm ở đốt thứ ba trên xương cổ.


 Sắc hiện ở dưới má, ngược lên gò má, là chứng tiết tả, ngày xuống dưới Nha sa là chứng phúc mãn, lan ra xương gò má là chứng hiếp thống, nếu đau ở má là đau ở cách...
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:19:12 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #33 vào lúc: Tháng Năm 04, 2018, 06:05:23 PM »

Chương ba mươi ba

BÌNH NHIỆT BIỆT LUẬN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc bệnh ôn, mồ hôi ra rồi, lại phát nhiệt mà mạch "táo, tật", không vì mồ hôi dã ra rồi mà giảm bớt, nói cuồng, không ăn được... Đó là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh đó tên là "Âm, Dương giao". Giao như thế sẽ chết (vì chính không thắng tà).

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết rõ nguyên nhân.

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Người ta sở dĩ có mồ hôi, đều sinh ra ở cốc khí; cốc khí sở dĩ sinh ra được là nhờ ở tinh khí. Giờ tà khí với chính khí giao tranh ở nơi xương thịt, nên mới có mồ hôi. Sở dĩ có mồ hôi là tà bại mà tinh thắng; tinh đã thắng thời nên ăn được và không còn nóng nữa. Vì làm nên nhiệt là tà khí, làm ra mồ hôi là tinh khí. Giờ mồ hôi ra rồi mà lại nóng, thế là tà thắng; không ăn được thời tinh không sinh ra được nữa. Bệnh sẽ cứ lưu mãi, mà tính mệnh cũng khôn toàn. Và ở nhiệt luận đã nói: "Mồ hôi đã ra mà mạch còn táo thịnh, thời chết"... Giờ mạch không cùng mồ hôi ứng nhau, thế là không thắng được bệnh còn sống sao được. Nói cuồng là mất trí, mất trĩ cũng chết. Giờ thấy ba triệu chứng chết, không một triệu chứng nào sống... Bệnh dù có bớt sau rồi tất cũng chết.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc bệnh mình nóng, mồ hôi ra mà phiền, mãn; chứng phiền, mãn không vì hãn ra mà giải... Như thế gọi là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Hãn ra mà mình nhiệt là phong; hãn ra mà phiền, mãn vẫn không giải là quyết. Bệnh đó gọi là phong quyết.

Hoàng Đế hỏi:

 - Nguyên nhân vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cự dương chủ về khí, cho nên bị tà trước. Thiếu âm với Cự dương cũng là biểu, lý. Gặp nhiệt thời ngược theo lên, vì theo lên nên thành quyết.

 - Điều trị thế nào?

 - "Biểu, lý" đều thích và cho uống thêm thuốc nước.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh "lao phong" như thế nào? (làm lụng khó nhọc, hãn ra, gặp gió mà phát bệnh, gọi là lao phong).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng lao phong phát sinh từ dưới Phế, chứng trạng của nó cổ cứng, đau và mắt mờ. Nước miếng nhỏ ra như nước mũi, ố phong và rét run...

 - Điều trị thế nào?

 - Vì thủy tà ràn lên, không cúi ngửa được. Phải làm cho thông lợi tiểu tiện, để sự cúi ngửa được dễ dàng. Người khí ở Cự dương mạnh, ba ngày khỏi; người trung niên năm ngày khỏi; người già bảy ngày khỏi (ba, năm, bảy... đều thuộc về dương số). Nếu ho ra như nước mũi sắc xanh vàng, tựa như mủ, hoặc tròn như viên đạn, khạc ở trong miệng ra... hoặc ra cả ở mũi. Những cái đó không ra được, sẽ làm thương Phế, thương Phế thời chết.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc chứng Thận phong, mặt và "xương khoai" chân sưng ụ lên, nó làm nghẽn ở cổ, nói ra cũng khó. Có nên thích chăng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Người khí hư không nên thích. Không nên thích mà cứ thích, sau năm ngày, khí tất lại nghịch.

 - Điều trị như thế nào?

 - Tà khí đến, tất chính khí ít, thỉnh thoảng nhiệt. Thỉnh thoảng nhiệt từ trong hung, bối dẫn lên đầu, hãn ra, tay nhiệt, miệng khô, khát quá, tiểu tiện vàng, dưới mắt sưng, trong bụng sôi, mình nặng nề, đi lại khó khăn, nguyệt sự không xuống, phiền mà không ăn được, không thể nằm ngửa, nằm ngửa thời ho. Bệnh đó gọi là phong thủy. Đã bàn rõ ở trong Thích pháp (tức thủy huyệt luận).

 - Xin cho biết rõ manh mối.

 - Tà phạm tới được, tất bởi chính hư. Âm hư, dương tất phạm tới... Cho nên "thiểu khí, thỉnh thoảng nóng và hãn ra, tiểu tiện vàng" do thiếu phúc có nhiệt "không thể nằm ngửa", do trong vị không hòa, "nằm ngửa thời ho", vì thủy nghịch bách lên Phế; phàm các chứng thuộc về thủy, thời thũng ở dưới mắt trước...

 - Vì sao?

 - Thủy thuộc âm, phía dưới mặt cũng thuộc âm. "Phúc" (bụng) là nơi chính cư của Chí âm. Vì thủy ở trong phúc, nên phía dưới mắt thũng; vì chân khí nghịch lên, nên miệng đắng, lưỡi khô, nằm không thể nằm, nếu nằm ngửa thời ho ra nước trong. Các bệnh thuộc về thủy cũng không thể nằm, vì nằm thời kinh và khái; trong bụng sôi vì gốc bệnh do tự vị; bách lên Tỳ thời phiền và không ăn được, vì nó bị nghẽn cách ở vị quản, mình nặng nề và thũng khó đi lại, vì mạch của vị dẫn xuống cả chân; nguyệt thủy không xuống, và bào mạch bị vít; bào mạch thuộc Tâm mà chằng vào trong bào, giờ chân khí phách lên Phế, khiến Tâm khí không thông xuống được, mới gây nên chứng trạng như vậy.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:21:49 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #34 vào lúc: Tháng Năm 05, 2018, 10:32:27 AM »

Chương ba mươi bốn

NGHỊCH ĐIỀU LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Thân thể con người, không phải lúc nào cũng có ôn ở biểu và có nhiệt ở lý. Vậy sở dĩ gây neencasc chứng nhiệt mà phiền mãn, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Âm khí ít mà Dương khí thắng, cho nên nhiệt mà phiền mãn.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Thân thể con người, không phải lúc nào cũng có hàn ở biểu và ở lý, vậy sao lại có hàn từ trong sinh ra?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bởi người đó nhiều Tỳ khí (khí bị vít nghẽn). Dương khí ít, Âm khí nhiều, cho nên mình lạnh như người mới lội nước lên.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người tứ chi nhiệt, gặp phong hàn mà vẫn nóng như đốt, như lửa, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Người đó, Âm khí hư, Dương khí thịnh. Tứ chi thuộc về dương, hai dương cùng xung đột nhau, mà Âm khí hư ít, "nước ít không thể làm tắt được lửa nhiều", khiến cho dương một mình chuyên trị. Nhưng chẳng qua nó chỉ là "độc thắng" đấy thôi, không sao sinh trưởng được.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có hạng người, thân thể giá lạnh, nước lửa không thể làm cho nhiệt, áo dầy không thể làm cho ấm... Vậy mà người ấy không rét, không run... Như thế là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Người ấy, vốn Thận khí thắng, lấy thủy làm chủ. Thái dương khí suy, Thận chi (chất mỡ ở trong Thận)  khô kiệt, do đó ột thủy không thể thắng được hai Hỏa. Thận thuộc Thủy, mà sinh ra xương, nếu Thận không sinh, thời tủy không được đầy đủ... Nên hàn quá vào tới xương. Nhưng sở dĩ không rét run là vì: Can là Nhất dương, Tâm là Nhị dương, Thận là cô Tàng. Một Thủy không thể thắng được hai Hỏa, cho nên không rét run. Bệnh đó gọi là cốt tý. Rồi sau tất sẽ co quắp tay chân.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc chứng nhục a (da thịt tê dạ,i đau đớn không biết gì), dù mặc áo bông, vẫn tê dại, đau đớn như thường. Như thế là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là do Vinh khí hư, vệ khí thực. Vinh khí hư thời bất nhân (tê dại không biết gì), vệ khí hư thời bất dụng (không cử động được). Vinh, vệ đều hư thời vừa bất nhân, vừa bất dụng, mà coi thịt thời vẫn như thường.

 Nếu người đó, thần với chí không tương ứng với nhau, sẽ chết.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người bị nghịch khí không thể nằm, hơi thở khò khè thành tiếng; lại có người dù không nằm được mà thở không thành tiếng; lại có người nằm dậy như thường, mà thở lại thành tiếng; lại có người nằm được, mà lại suyễn hổn hển, lại có người không nằm không đi được, mà suyễn hổn hển, lại có người không nừm được, nằm xuống thì suyễn hổn hển. Vì Tàng nào gây nên chứng trạng như vậy?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Không nằm được mà thở thành tiếng, đó là do sự nghịch của Dương minh. Túc Tam dương vốn dẫn đi trở xuống, giờ lại nghịch trở lên, nên thở thành tiếng. Dương minh là vị mạch. Vị là bể của sáu Phủ, khí của nó cũng dẫn trở xuống. Do Dương minh nghịch, không đi theo được đường chính của nó, nên không thể nằm. Đến như nằm dậy như thường, mà hơi thở thành tiếng, đó là do lạc mạch của Phế nghịch. Lạc mạch không theo được với kinh mạch để lên xuống, cho nên lưu trệ ở kinh mà không đi. Lạc mạch gây nên bệnh nhẹ, nên nằm dậy như thường mà hơi thở thành tiếng. Đến như không nằm được, hễ nằm thời suyễn, đó là do Thủy gây nên. Thủy theo với tân dịch mà lưu hành; Thận là thủy Tàng, chủ về tân dịch. Giờ khách thủy phạm vào Thận, nên nằm thời suyễn (1).

Chú giải

(1) Án: ở trên, Hoàng Đế hỏi sáu câu, mà đây Kỳ Bá trả lời có ba câu, e có sự thiếu sót rách mất. Ngu không tự lượng, xin bổ túc ba câu như dưới:

a) Không nằm được mà thở không thành tiếng, đó là vì: Vị không hòa mà khí không nghịch quá.

b) Nằm được, đi được mà suyễn... Đó là Vị không mắc bệnh mà Phế, Thận mắc bệnh. Phế chủ khí, nên Phế mắc bệnh thì suyễn, Thận chủ cốt, nên đi thì Thận nhọc mà thành suyễn.

c) Không nằm, không đi được mà suyễn... Đó là cả Vị, Thận, Phế đều mắc bệnh. Đi và nằm đều khó, suyễn thì lại nặng hơn, thở thành tiếng... Có lẽ bệnh tà lại sâu hơn chăng?
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:24:27 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #35 vào lúc: Tháng Năm 05, 2018, 11:23:02 AM »

Chương ba mươi lăm

NGƯỢC LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - "Hài, ngược" đều sinh ra bởi phong. Lúc phát lúc không, không có kỳ hạn, là vì sao? (Hài cũng là ngược, nhưng chứng phát về đêm gọi là hài, phát về ngày gọi là ngược).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Khí ngược mới phát, trước khởi sự từ các chân lông (ghê, rợn), vươn vai và ngáp, rồi mới phát... Rét run lập cập, yêu tích đều đau; sau khi lạnh rét thời trong ngoài đều nóng, đầu nhức như muốn vỡ, khát muốn uống nước lạnh...

 - Vì khí gì gây nên thế?

 - Âm dương, trên dưới tranh giành lẫn nhau; hư, thực lần lượt thay đổi; âm dương lần lượt chuyển đi. Dương dồn vào âm, thời âm thực mà dương hư. Dương minh hư thời rét run cầm cập; Cự dương hư thời đầu, cổ, yêu, tích đều đau; Tam dương đều hư thời âm khí thắng; Âm khí thắng thời xương lạnh mà đau; Hàn sinh ra từ bên trong, cho nên trong ngoài đều hàn. Dương thịnh thời ngoại nhiệt, âm hư thời nội nhiệt. Ngoại nội đều nhiệt thời suyễn mà khát, nên muốn uống nước lạnh. Bệnh đó gây nên, đều bởi mùa hạ bị thương vì khí thử, nhiệt khí chưa nhiều ở bên trong bì phu, bên ngoài Trường, Vị và tà khí luôn luôn ký túc ở nơi vinh. Nhân đó khiến người dễ ra mồ hôi, tấu lý rỗng mở... Nhân gặp thu khí, mồ hôi ra lại gặp gió, hoặc do khi tắm, thủy khí cũng ký túc ở khoảng bì phu, cũng ở chen với vị khí. Vệ khí, ban ngày dẫn hành ở dương phận, đêm dẫn hành ở âm phận. Khí đó gặp dương thời tiết ra ngoài, gặp âm thời bách vào trong, trong ngoài cùng bách lẫn nhau, nên hằng ngày bệnh phát.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có chứng, cách ngày mới phát là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Khí đó ký túc ở nơi sâu, bên trong bách vào khí âm; Dương khí một mình phát ra, Âm tà bám ở bên trong. Âm với dương tranh giành nhau, không thể ra được, nên cách một ngày bệnh mới phát.
 
 - Bệnh phát có khi muộn, có khi sớm, khí nào làm nên thế?

 - Tà khí ký túc ở phong Phủ, theo thăn thịt mà dẫn xuống. Vệ khí một ngày một đêm đại hội ở phong Phủ. Đến ngày hôm sau, tức là qua một ngày, mới xuống được một đốt (đốt xương sống), nên bệnh phát muộn. Đó là do tà khí ký túc ở tích bối, nên mới khiến như vậy. Mỗi khi dẫn đến phong Phủ, thời tấu lý mở; tấu lý mở thời tà khí vào; tà khí vào thời bệnh phát. Vì cớ đó, nên cứ mỗi ngày mỗi lui muộn dần. Do phát ra từ phong Phủ, mỗi ngày xuống thấp một đốt, qua hai mươi mốt ngày, tới cầu cốt (xương khu); hai mươi ngày vào trong xương sống, lẩn vào mạch phục lữ; chân khí dẫn lên, qua chín ngày, lên tới huyệt Khuyết bồn, khí đó càng ngày càng cao cho nên bệnh phát càng ngày càng sớm.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phu Tử nói: Vệ khí mỗi khi đi đến phong Phủ, tấu lý mới mở; mở thời tà khí lọt vào; lọt vào thời phát bệnh. Giờ vệ khí mỗi ngày đi xuống một đốt, khí của nó phát ra, không đúng phong Phủ. Vậy mà hàng ngày phát bệnh, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là do tà khí ký túc ở đầu, cổ, theo thăn thịt mà dẫn xuống, hư thực không giống nhau, tà trúng không nhất định một chỗ, nên không thể đúng với phong Phủ. Tà trúng ở đầu và cổ, khí đến đầu và cổ thời bệnh phát; tà trúng ở lưng, khí đến lưng thời bệnh phát; tà trúng ở tay chân, khí đến tay chân thì bệnh phát.

 Vệ khí ở vào nơi nào, với tà khí tương hợp thời bệnh phát. Cho nên phong không nhất định lấy đâu làm "Phủ", theo khí phát ở nơi nào, tất mở cả tấu lý... Vậy cái nơi mà tà khí hợp nơi đó là Phủ.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phong với ngược, tựa như cùng một loài. Vậy mà bệnh phong không thay đổi; đến bệnh ngược, có lúc phát, có lúc không, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phong khí thường lưu ở một nơi, nên bệnh không thay đổi; ngược khí theo kinh lạc, chìm bách vào bên trong, nên khi nào gặp vệ khí mới phát

 - Bệnh ngược mà trước hàn sau nhiệt, là vì sao?

 - Mùa hạ bị thương về đại thử (nắng quá), hãn ra quá nhiều, tấu lý khai phát; nhân lại gặp cái khí hàn thủy lạnh lẽo của mùa hạ, chứa ở bên trong tấu lý bì phu, tới mùa thu lại bị thương về phong, do đó gây nên bệnh.

 Hàn là Âm khi, phong là Dương khí. Trước bị thương về hàn, sau bị thương về phong, nên bệnh phát trước, trước hàn mà sau nhiệt và bệnh phát có từng lúc, gọi là hàn ngược.

 - Trước nhiệt mà sau hàn, là vì sao?

 - Đó là do trước bị thương vì phong, sau mới bị thương vì hàn, nên trước nhiệt mà sau hàn. Bệnh đó cũng phát có từng lúc, gọi là ôn ngược.

 Nếu chỉ nhiệt mà không hàn, là Âm khí tuyệt trước, Dương khí phát ra một mình. Do đó mới có chứng thiểu khí, phiền oan, tay chân nóng mà muốn ọe. Bệnh đó gọi là đan ngược.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Kinh nói: "Hữu dư thời tả, bất túc thời bổ", giờ nhiệt là hữu dư, hàn là bất túc. Ngẫm như chứng hàn của bệnh ngược, nước nóng lửa đốt không thể làm cho ấm, đến khí nhiệt thời dù nước băng cũng không thể làm cho hàn. Nó đều thuộc về cái loại "hữu dư, bất túc". Gặp trường hợp đó, dù lương công cũng đành chịu bó tay, phải đợi bệnh khí tự suy giảm, rồi mới thích, là vì cớ sao? Xin cho biết rõ...

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Kinh nói: "Đừng thích lúc nhiệt đang bừng bừng, mạch đương cuồn cuộn và hãn đương đầm đìa...". Vì lúc đó, tà khí đương mạnh, chính khí đương nghịch, nên không thể thích. Ngẫm như chứng ngược khi mới phát, dương khí dồn vào âm, đương lúc dó âm hư mà dương thịnh, bên ngoài không dương khí, nên rét run trước. Âm khí đã nghịch đến cực điểm rồi, thời lại quày ra với dương. Dương với âm lại dồn cả bên ngoài, thời âm hư mà dương thực, cho nên trước nhiệt mà khát. Ngẫm như ngược khí, dồn về dương thời dương thắng, dồn về âm thời âm thắng, dương thắng thời nhiệt. Ngược phát sinh do sự bất thường của khí phong hàn; khí nó phát tới cực điểm thời khí kia đến. Lúc bệnh phát như lửa bốc cháy, như mưa sa gió táp không thể ngăn cản. Cho nên kinh nói: "Bệnh lúc đương hăng, chính khí đương bị suy tổn, phải đợi lúc tà khí giảm, sẽ thích, mới được an toàn..." tức là nghĩa đó.

 Ngược, lúc chưa phát, âm chưa dồn vào dương, dương chưa dồn vào âm, nhân lúc đó, thừa cơ mà làm cho điều hòa, chân khí được yên, tà khí sẽ hết. Cho nên không trị giữa lúc bệnh đã phát, vì phong nghịch khí vậy.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Dùng phép "công" thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng ngược lúc sắp phát, âm dương lúc sắp di dịch, tất từ "tứ mạt" trước. Dương đã thương, âm sẽ theo, nên trước khi đó, buộc chặt nơi đó cho tà khí không dẫn vào, Âm khí không thể ra, xét rõ các tôn lạc thấy nó có vẻ "thịnh kiên", thì thích ngay, đó là làm cho nó không kịp dồn vào nhau.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Lúc ngược chưa phát, mạch ứng thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Ngược khí tất có lúc thịnh, lúc hư... Bệnh tại dương, thời nhiệt mà mạch táo; bệnh tại âm, thời hàn mà mạch tĩnh. Đến thời kỳ cùng cực thời âm dương đều suy. Lúc vệ khí rời xa thời bệnh được bớt, vệ khí họp lại thời bệnh lại phát.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có khi cách hai ngày hoặc ba ngày bệnh mới phát. Lúc bệnh phát, có người khát, có người không khát, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cách ngày bệnh phát là do tà khí với vệ khí ký túc ở sáu Phủ, có lúc tương thất, không được tương đắc... Cho nên khỏi vài ngày rồi mới lại phát.

 Bệnh ngược, do âm dương thay đổi về sự "thắng", hoặc thắng nhiều hoặc thắng ít, nên mới có khát với không khát, khác nhau.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Ở luận nói: "Mùa hạ thương vì thử, thời mùa thu tất phát bệnh ngược...". Giờ xem như chứng ngược, lại không đúng thế, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là theo về bốn mùa. Đến các chứng trạng khác, lại là trái với bốn mùa. Nếu phát về mua thu thời rét nhiều, phát về mùa đông thời rét ít, phát về mùa xuân thời ố phong, phát về mùa hạ thời nhiều hãn.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Ôn ngược với hàn ngược, tà khí đều có nơi ký túc, vậy ký túc ở Tàng nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Ôn ngược gây nên bởi mùa đông trúng phải phong, hàn khí tiềm tàng ở trong cốt tủy. Đến mùa xuân thời dương khí phát ra mạnh, tà khí không thể tự tiết ra, nhân gặp đại thử, não tủy hun nóng; cơ nhục tiêu mòn, tấu lý phát tiết, hoặc vì sự nhọc mệt, tà khí theo với hãn cùng tiết ra... Đó là bệnh khí tiềm tàng ở Thận... Rồi do từ trong mà tiết ra ngoài. Như thế thời âm hư mà dương thịnh, dương thịnh thời sẽ phát nhiệt. Đến lúc khí đã suy thời quay trở vào trong, do đó dương sẽ lại hư, dương hư thời lại hàn... Cho nên trước nhiệt mà sau hàn, gọi là ôn ngược.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Đan ngược như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Về đan ngược, do Phế vốn có nhiệt, khí thịnh ở mình, quyết nghịch xung lên; trung khí thực mà không tiết ra ngoài, vì có sự nhọc mệt, tấu lý mở ra, phong hàn ký túc ở trong bì phu và khoảng phận nhục, thừa cơ phát ra; lúc phát ra thời dương khí thịnh. Dương khí thịnh mà không suy thời sẽ thành bệnh. Khí đó không trở vào với âm, cho nên nhiệt mà không hàn. Nhiệt khí đó, bên trong thời tàng ở Tâm, bên ngoài  thời ký túc ở khoảng phận nhục, khiến bệnh nhân cơ nhục tiêu mòn, nên gọi là đan ngược.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:25:29 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #36 vào lúc: Tháng Năm 05, 2018, 06:02:08 PM »

Chương thứ ba mươi sáu

THÍCH NGƯỢC THIÊN



KINH VĂN

 1. Chứng ngược phát từ kinh túc Thái dương, khiến người yếu đau, đầu nặng, rét từ phía lưng phát sinh, trước hàn sau nhiệt, hơi nóng bừng bừng ngùn ngụt... Lúc nhiệt, mồ hôi toát ra mà bệnh vẫn không dứt. Thích ở huyệt Ủy trung cho ra huyết.

 2. Bệnh phát từ mạch túc Thiếu dương, khiến người thân thể mỏi mệt; không hàn lắm, không nhiệt lắm, ghét thấy người; thấy người phấp phỏng sợ hãi... Nhiệt nhiều, hãn ra nhiều... Nên thích ở huyệt túc Thiếu dương, Hiệp khê.

 3. Bệnh ngược phát từ túc Dương minh, khiến người trước rờn rợn ghê rét... Dần dần lâu mới nhiệt; đến lúc nhiệt giảm, hãn ra, thấy nhật nguyệt quang và hỏa khí, đều lấy làm thích... Thích huyệt túc Dương minh

 4. Bênh ngược phát ra từ túc Thái âm, khiến người không vui, thường thở dài; không thiết ăn, hàn nhiệt nhiều, một khi hãn ra thời bệnh lại phát, phát thời ọe; ọe khỏi thời bệnh lui. Nên thích ngay.

 5. Bệnh ngược phát ra từ túc Thiếu âm khiến người nôn thổ nhiều, nhiệt nhiều hàn ít, chỉ muốn đóng kín cửa lại để nằm... Bệnh này khó khỏi.

 6. Bệnh ngược phát ra từ túc Quyết âm, khiến người yếu đau, Thiếu phúc mãn, tiểu tiện không lợi, như long bế, mà không thật long bế, nhưng lại muốn tiểu luôn; ý chí như sợ sệt, khi bất túc, trong bụng thường áy náy khó chịu... Nên thích túc Quyết âm, Thái xung.

 7. Bệnh ngược phát ra từ Phế, khiến người Tâm hàn, hàn rồi lại nhiệt; nhiệt đỡ lại hay sợ, như trông thấy vật gì... Thích thủ Thái âm, Dương minh.

 8. Bệnh ngược phát ra từ Tâm, khiến người trong Tâm rất phiền, chỉ muốn uống nước mát, lại hàn nhiều nhiệt ít... Nên thích thủ Thiếu âm, Thần môn.

 9. Bệnh ngược phát ra từ Can, khiến người sắc mặt tái xanh, hay thở dài, như người sắp chết... Nên thích túc Quyết âm cho ra máu: Trung phong.

 10. Bệnh ngược phát ra từ Tỳ, khiến người hàn, trong bụng đầy, nhiệt thời ruột sôi; sôi rồi hãn ra. Nên thích túc Thái âm.

 11. Bệnh ngược phát ra từ Thận, khiến người nhờn nhờn ghét, yêu tích đau, phải uốn éo luôn, đại tiện khó, mắt trông trơ tráo mà không tỏ, tay chân lạnh... Thích túc Thái dương, Thiếu âm.

 12. Bệnh ngược phát ra từ Vị, khiến người hay đói mà không ăn được; ăn vào lại đầy nghẽn, bụng to; thích hoành mạch ở túc Thái âm cho ra huyết.

 Bệnh ngược phát rồi mình mới nóng, thích động mạch ở trên xương khoai, lay châm cho rộng, chờ cho ra huyết, sẽ mát ngay.

 Bệnh ngược đương lúc muốn hàn, thích thủ Dương minh, Thái âm, túc Dương minh, Thái âm.

 a. Ngược mạch mãn và đại cấp dùng "trung châm", thích Bối du và bên năm Khư du, mỗi huyệt một châm, theo đúng người béo gầy, chờ cho ra huyết.

 Ngược mạch tiểu, thực và cấp, "cứu" huyệt Thiếu âm ở ống chân, thích huyệt Chỉ tỉnh (là tỉnh huyệt).

 b. Ngược mạch mãn, đại và cấp, thích Bối du, năm Khư du, mỗi nơi một lần, chỉ để vừa hành huyết thời thôi.

 Ngược mạch hoãn và quá hư, nên dùng thuốc uống, không nên dùng châm.

 Phàm trị bệnh ngược, trước khi phát bệnh bằng một bữa ăn (ước nửa giờ đồng hồ) mới có thể chữa. Nếu quá lúc đó, sẽ lỡ, không nên chữa.

 Các bệnh ngược, nếu không thấy biểu hiện ra ở mạch, thích mười đầu ngón tay cho ra huyết, huyết ra tất khỏi. Lại xem ở mình có những nốt đỏ và nhỏ như hạt đậu, cũng thích cả đi.

 c. Mười hai chứng ngược, lúc phát ra không giống nhau và cùng một lúc, phải nên xem xét bệnh hình, để biết thuộc về Tàng nào...

 Biết lúc phát bệnh, trước một lát bằng bữa ăn cơm, sẽ thích. Một lần thích thời tà khí suy, hai lần thích thời bệnh bớt, ba lần thích thời khỏi. Nếu chưa khỏi, thích hai mạch ở dưới lưỡi cho ra huyết; nếu vẫn không khỏi, thích huyệt Ủy trung cho ra huyết; lại thích luôn cả Khư du và Bối du, tất khỏi. Hai mạch dưới lưỡi, tức là Liêm tuyền.

 Thích bệnh ngược, phải thích vào khoảng giữa nơi bệnh sẽ phát. Nếu trước nhức đầu và chân đi khó khăn, nên thích trên đầu với hai bên trán, khoảng giữa hai lông mày trước, cho ra huyết. Nếu cổ và lưng đau trước, cũng thích trước ở các huyệt đó. Nếu yêu tích đau trước, thích huyệt Ủy trung cho ra huyết. Nếu tay và cánh tay đau trước, trước thích ở huyệt thủ Thiếu âm, Dương minh. Nếu ống chân đau nhức trước, thích mười ngón chân thuộc túc Dương minh trước, cho ra huyết.

 Về chứng phong ngược, khi bệnh phát thời hãn ra và ố phong. Thích bỏ huyết ở Tam dương kinh và Bối du.

 Ống chân đau quá, bóp mãi không khỏi, gọi là "Phụ tủy bệnh" dùng "Xàm châm" thích sâu vào xương, huyết ra, khỏi ngay.

 Thân thể hơi đau thích Chí âm.

 Các tỉnh huyệt thuộc âm kinh, chưa ra huyết, nên cách ngày thích một lần.

 Ngược không khát, cách ngày bệnh phát, thích túc Thái dương; khát mà cách ngày bệnh phát, thích túc Thiếu dương.

 Ôn ngược, hãn không ra được, nên thích năm mươi chín huyệt.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:26:25 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #37 vào lúc: Tháng Năm 06, 2018, 04:44:11 PM »

Chương ba mươi bảy

KHÍ QUYẾT LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng, sáu Phủ hàn nhiệt cùng chuyển di như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Thận di hàn tới Tỳ, gây nên chứng ung, thũng, thiểu khí. Tỳ di hàn tới Can, gây nên chứng ung thũng, co gân. Can di hàn tới Tâm, gây nên chứng cuồng và cách trung. Tâm di hàn tới Phế, gây nên chứng Phế tiêu; Phế tiêu là chứng uống vào một phần, đi tiểu ra hai phần không thể chữa được. Phế di hàn tới Thận, gây nên chứng dũng thủy; "dũng thủy" là một chứng án vào phúc bộ không kiên, thủy khí ký túc ở Đại trường, đi nhanh thời bụng kêu óc ách, như túi chứa nước. Hoàn toàn là thủy bệnh.
 
 Tỳ di nhiệt tới Can, thời gây nên chứng kinh và nục. Can di nhiệt tới Tâm thì chết, gây nên chứng cách tiêu.

 Phế di nhiệt tới Thận, gây nên chứng nhu chí. Thận di nhiệt tới Tỳ, gây nên chứng hư và trường tiết, khó chữa.

 Bào di nhiệt tới Bàng quang, gây nên chứng "long" và tiểu ra huyết. Bàng quang di nhiệt tới Tiểu trường, cách trường không thấm xuống được, gây nên chứng lở nát trong miệng. Tiểu trường di nhiệt tới Đại trường, gây nên chứng phục giả, chứng trĩ. Đại trường di nhiệt tới Vị, ăn nhiều mà gầy mòn, gọi là chứng thực diệc. Vị di nhiệt tới Đởm cũng gọi là thực diệc. Đởm di nhiệt tới não, thời đau nhức ở trán và Tỵ uyên, rồi lại thêm cả chứng nục và mờ mắt. Đó, đều gây nên bởi khí quyết.

Chú giải

(1) Đoạn này tổng kết cái nghĩa, Tàng, Phủ hàn nhiệt cùng chuyển di đều ở khí mà không ở kinh, nên mới gọi là khí quyết. Nghĩ như: nhiệt khí bốc lên, phạm vào lạc mạch thì gây nên chứng nục (đổ máu cam); thấm nhuần ra huyết ở bì mao, không thể hóa thành chất loãng để làm mồ hôi, thì gây nên chứng nhiệt (mồ hôi như máu); tà nhiệt làm thương khí nên dương khí hư, gây thành chứng mắt mờ... Đó đều là tại khí mà không tại kinh, nên bài này mới gọi là Khí quyết luận.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:27:17 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #38 vào lúc: Tháng Năm 07, 2018, 09:19:57 AM »

Chương ba mươi tám

KHÁI LUẬN THÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh ở Phế, mà thành chứng ho, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm Tàng sáu Phủ, đều gây nên chứng "khái" không riêng gì một Phế,

 - Xin cho biết chứng trạng...

 - Bì mao, gốc sinh ra tự Phế. Bì mao mắc phải tà khí trước, tà khí liền theo với chỗ gốc sinh ra nó.

 Các thức uống ăn có tính lạnh lọt vào vị theo Phế mạch dẫn lên Phế, thời Phế hàn. Phế hàn thời trong ngoài đều có tà, tà ký luôn ở đó, liền gây nên chứng Phế khái.

 Năm Tàng đều theo về từng mùa, để mắc bệnh, nếu không phải mùa, sẽ truyền lẫn cho nhau. Người với trời đất "tương tham", cho nên năm Tàng đều theo từng mùa để chủ trị. Cảm vì hàn thời mắc bệnh, nhẹ thời gây nên chứng khái, nặng thời gây nên chứng tiết, chứng thống (đau). Gặp mùa thu thì Phế bị tà trước, gặp mùa xuân thì Can bị tà trước, gặp mùa hạ thì Tâm bị tà trước, gặp chí âm thì Tỳ bị tà trước, gặp mùa đông thì Thận bị tà trước.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Chứng trạng khác nhau thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng trạng của Phế khái, khái mà thở suyễn thành tiếng, quá lắm thời nhổ ra huyết. Chứng trạng của Tâm khái, khái thời Tâm thống, trong cuống họng vướng mắc như nghẹn, quá lắm thời yết thũng, hầu tý. Chứng trạng của Can khái, khái thời hai hiếp đau, quá lắm thời không thể trở mình, trở mình thời dưới khư (dưới hiếp, tức lá lách) đầy. Chứng trạng của Tỳ khái, khái thời hữu hiếp đau, đau âm ỷ lên cả vai và lưng, quá lắm thời không thể cử động, cử động thời khái. Chứng trạng của Thận khái, khái thời đau nhức cả vai lưng, quá lắm thời khái ra dãi dây.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Chứng trạng của khái do sáu Phủ, thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm Tàng mắc khái lâu, sẽ đi sang sáu Phủ. Tỳ khái không dứt, thời di sang Vị. Chứng trạng của Vị khái, lúc khái thường nôn, quá lắm nôn cả ra giun. Can khái không dứt, thời di sang Đởm. Chứng trạng của Đởm khái, lúc khái nôn cả đởm chấp (chua, đắng). Tâm khái không dứt, thời di xuống Tiểu trường. Chứng trạng của Tiểu trường khái, lúc khái thời thất khí (trung tiện), khí với khái đều mất. Thận khái không dứt, di sang Bàng quang. Chứng trang của Bàng quang khái, lúc khái thời di niệu (són đái). Khái lâu không dứt thới di tới Tam tiêu. Chứng trạng của Tam tiêu khái, lúc khái thời phúc mãn, không muốn uống ăn. Chứng đó đều tụ ở Vị, liên quan lên Phế, khiến bệnh nhân sinh nhiều nước mũi, nước dãi, mặt phù thũng, do khí nghịch gây nên...

 - Phương pháp trị liệu thế nào?

 - Trị Tàng thời trị ở Du, trị Phủ thời trị ở Hợp, nếu phù thũng thời trị ở Kinh (1).

Chú giải

 (1) Khái do năm Tàng, đều trị ở Du. Du của năm Tàng đều ở lưng, có phép đo đã nói trước. "Hợp" để trị nội Phủ. Cho nên khái do sáu Phủ thì trị ở hợp. Như vị hợp với Tam lý (tên huyệt, dưới cũng vậy); Đại trường hợp với Cự hư, Thượng liêm; Tiểu trường hợp với Cự hư, Hạ liêm; Tam tiêu hợp với Ủy dương; Bàng quang hợp với Ủy trung; Đởm hợp với Dương lăng tuyền. Còn phù thũng thì thích ở kinh mạch thuộc Phế Vị.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:28:14 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #39 vào lúc: Tháng Năm 09, 2018, 03:15:37 PM »

Chương ba mươi chín

CỬ THỐNG LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Tôi nghe người khéo nói đạo trời, tất có nghiệm ở người; khéo nói việc cổ, tất có hợp với kim; khéo nói việc người, tất có đầy đủ ở mình... Có như thế mới khỏi nhầm lẫn và có thể gọi là minh. Giờ tôi xin hỏi Phu tử, làm sao mà nói có thể biết, trông mà có thể thấy, sờ mó mà có thể biết được... khiến cho có thể nghiệm ở mình, để khỏi có sự nhầm lẫn, có thể được chăng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Xin cho biết rõ muốn biết điều gì?

 Hoàng Đế nói:

 - Xin cho biết năm Tàng bị "thốt thống" (vụt đau), do khí gì gây nên?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Kinh mạch lúc nào cũng lưu hành không ngừng, vòng quanh không nghỉ. Nếu hàn khí vào kinh mà ngưng trệ, dịt lại không dẫn đi được, ký túc ở ngoài mạch thời huyết ít, ký túc ở trong mạch thời khí không thông, nên "thốt nhiên" mà đau.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Chứng đau có khi thốt nhiên khỏi, có khi đau quá không lúc nào dứt, có khi đau quá không thể đấm bóp, có khi đấm bóp mà đỡ đau, có khi dù đấm bóp cũng vô ích, có khi suyễn quá mạch bật lên tay, có khi Tâm với bối cùng rút mà đau; có khi hiệp lặc với Thiếu phúc cùng rút mà đau; có khi phúc thống đau xuống âm cổ, có khi đau mãi mà thành tích, có khi "thốt nhiên" đau quá mà chết ngất đi, một lát lại sống, có khi đau mà nôn, có khi trước phúc thống mà sau tiết tả,có khi đau mà vít không thông đại và tiểu... đều không giống nhau, phân biệt thế nào cho được rành mạch?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Hàn khí ký túc ở ngoài mạch thời mạch hàn, mạch hàn thời co quắp, co quắp thời cân cấp, do đó bên ngoài dẫn tới các tiểu lạc, cho nên thốt nhiên đau. Được hơi nóng thời đau khỏi ngay. Nếu lại phạm thêm khí hàn, thời chứng đau sẽ phải lâu.

 Hàn khí ký túc ở trong kinh mạch, cùng khí nóng xung đột lẫn nhau, khiến cho mạch đầy ràn. Vì đầy ràn nên đau không thể đấm bóp.

 Hàn khí ngưng trệ, khí nóng ngược lên, do đó mạch đầy lớn mà khí huyết loạn, cho nên đau không thể đấm bóp.

 Hàn khí ký túc ở khoảng Trường vị, phía dưới mạch nguyên, huyết không dẫn đi được, các tiểu lạc co rút, cho nên đau, đấm bóp thời khí huyết tan rã đi, nên đỡ đau.

 Hàn khí ký túc ấy ở mạch xương sống, cho nên án mạnh tay xuống cũng không tới, nên dù có đấm bóp cũng vô ích.

 Hàn khí ký túc ở Xung mạch, Xung mạch khởi Quan nguyên, theo "phúc bộ" dẫn lên. Hàn khí ký túc thời mạch không thông, mạch không thông khiến cho khí nghẽn lên ở hung nên suyễn và mạch động bật lên tay.

 Hàn khí ký túc ở mạch Bối du, khiến cho mạch xáp (dịt), mạch xáp thời huyết hư, huyết hư thời đau. Du đó rót vào Tâm, cho nên cùng rút mà đau. Đấm bóp thời hơi nóng dẫn được đến, nên khỏi đau.

 Hàn khí ký túc ở mạch Quyết âm. Mạch Quyết âm chằng xuống âm khí, buộc lên bào. Về hàn khí ký túc ở trong mạch, nên huyết xáp, mạch cấp, do đó gây nên chứng hiệp lạc với Thiếu phúc rút nhau mà đau.

 Hàn khí ký túc ở âm cổ, mạch âm cổ dẫn lên Thiếu phúc, huyết bị xáp lại ở dưới rút lên, nên phúc thống thì đau rút xuống cả âm cổ.

 Hàn khí ký túc ở khoảng Tiểu trường Mạc nguyên và ở bên trong Lạc huyết. Huyết bị xáp không chảy được tới đại kinh, huyết với khí ngừng trệ không dẫn đi được, cho nên dần dà thành tích...

 Hàn khí ký túc ở năm Tàng, quyết nghịch tiết trở lên, âm khí kiệt, dưỡng khí không lọt vào được cho nên thốt nhiên đau chết ngất đi... đến khi dương khí lọt vào được thời sống lại.

 Hàn khí ký túc ở Trường vị, quyết nghich ngược lên, cho nên đau mà nôn.

 Hàn khí ký túc ở Tiểu trường, tại đó không thể gây thành chứng tụ, cho nên sau khi đau thời tiết hạ.

 Nhiệt khí lưu ở Tiểu trường, trong Tiểu trường đau, nóng nhiều và tiêu khát... Khí nóng làm tiêu khô các vật cặn bã trong Tiểu trường, nên đau mà ví không thông.

 Hoàng Đế hỏi:

 - "Nói mà có thể biết, trông mà có thể thấy" là thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm Tàng, sáu Phủ đều có bộ Vị ở mặt. Trước hãy xem ở sắc: Hoàng, xích là nhiệt; bạch là hàn; thanh và hắc là thống... Đó là trông mà có thể thấy.

 - Sờ mó mà biết được, là như thế nào?

 - Trông cái mạch của chủ bệnh "kiên" mà đầy huyết, với lúc ấn tay lõm xuống... Đó đều do sờ mó mà biết.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Tôi biết trăm bệnh, phần nhiều sinh ra bởi khí. Nộ thời khí thượng (ngược lên), hỷ thời khí hoãn, bi thời khí tiêu, khủng thời khí hạ (dẫn xuống), hàn thời khí thâu, thử thời khí tiết, kinh thời khí loạn, lao thời khí háo (hao mòn), tư (nghĩ ngợi) thời khí kết... Chín thứ khí không giống nhau, vậy chứng hậu như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Nộ thời khí nghịch, quá lắm thì nôn ra máu, hoặc thành chứng xôn, tiết.

 Hỷ thì khí hòa, chí đạt, vinh, vệ thông lợi, nên khí hoãn.

 Bi thì Tâm hệ co rút. Phế xòe rộng ra, khiến cho thượng tiêu không thông, vinh, vệ, không bổ tán, nhiệt khí lưu lại bên trong, nên khí tiêu.

 Khủng thì tinh bị sụt xuống, khiến cho thượng tiêu bị vít; vít thì khí lại phải quay trở xuống, khiến cho Hạ tiêu phát trướng. Cho nên khí không lưu hành.

 Hàn thì tấu lý bị vít, khí không dẫn hành được, nên phải thâu liễm lại.

 Thử thì tấu lý giãn ra, vinh, vệ thông, hãn ra nhiều, nên khí tiết.

 Kinh thì Tâm không tựa vào đâu, thần không nhờ vào đâu, cho nên khí loạn

 Lao thì suyễn và hãn đều tiết ra, trong ngoài đều háo tán, nên khí háo.

 Tư thì Tâm buộc vào một nơi, thần chú vào một việc, khiến cho chính khí lưu trệ không lưu thông, nên mới thành khí kết.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:30:57 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #40 vào lúc: Tháng Năm 11, 2018, 11:21:06 AM »

Chương bốn mươi

PHÚC TRUNG LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc bệnh tâm phúc mãn, sớm ăn thời chiều không thể ăn... Bệnh đó tên là gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh đó có tên là cổ trướng.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Điều trị thế nào?

 Kỳ Bá đáp:

 - Dùng kê thi lễ. Một liều bớt, hai liều khỏi.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có khi lại phục phát là vì sao?

 Kỳ Bá đáp:

 - Đó là do sự uống ăn không giữ gìn, nên mới gây nên sự "ngã lại" như vậy.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc chứng "đầy ách" ở hung hiếp và chi lặc, không ăn được. Mỗi khi bệnh sắp phát, thời như ngửi thấy mùi tanh hôi, nước mũi chảy ra, nhổ ra huyết, tứ chi lạnh, mắt hoa, thường thường đại, tiểu tiện cũng ra huyết... Đó là bệnh gì? Vì sao mà mắc phải?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh đó gọi là huyết khô. Nguyên nhân do lúc ít tuổi, có sự gì thoát mất nhiều huyết, hoặc nhân lúc say rượu mà nhập phòng, trung khí kiệt, Can thương; ở con giai thời tinh khí bị khô kiệt, ở con gái thời nguyệt cự không xuống được.

 - Điều trị dùng phương pháp nào?

- Dùng bốn phần Ô tặc cốt, một phần Lự nhự. Hai vị hợp lại dùng trứng chim sẻ luyện làm hoàn, viên bằng hạt đỗ nhỏ. Mỗi lần dùng năm viên sau khi ăn cơm, tiêu với nước bào ngư... Thuốc đó làm cho lợi trường và chữa đau gan.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc chứng Thiếu phúc to phình lên, trên dưới tả hữu như có quầng gốc... Đó là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh đó tên là Phục lương.

 - Vì sao mắc chứng ấy?

 - Có một túi bọc máu và mủ đặc ở ngoài Trường vị... Rất khó chữa. Mỗi khi ấn mạnh tay vào chỗ đó, thời đau điếng người đi.

 - Vì sao mắc bệnh ấy?

 - Đó vì: Ở dưới thời liền với Tam âm, tất lúc cũng "hạ" ra đôi ít nùng huyết; ở trên thời bách liên với vị quản, tất có mọc "ung" ở trong vị quản... Tất phải trải qua lâu ngày lắm mới gây nên bệnh ấy. Rất khó chữa. Nếu ở phía trên rốn là nghịch, ở phía dưới rốn là thuận. Đừng động đến nó và cố chữa khỏi ngay. Về phép điều trị, đã bàn rõ ở thiên Thích pháp.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người suốt cả thân thể, đùi, vế, chân đều thống, lại đau ở xung quanh rốn... là bệnh gì?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh đó cũng gọi là phục lương, tức là phong căn (gốc của chứng phong. Cái khí phong tà, tràn ra ở Đại trường, mà bám vào hoang. Mà cái gốc của hoang lại ở dưới rốn, nên mới đau ở xung quanh rốn. Không nên vọng động vào nó. Nếu động vào nó sẽ gây nên chứng niệu xáp (tiểu tiện buốt, nhỏ giọt, không ra được)).

Hoàng Đế hỏi:

 - Phu Tử thường nói chứng Nhiệt trung, Tiêu trung không nên dùng các thứ cao lương, phương thảo, thạch dược... Nếu dùng thạch dược sẽ phát điên, dùng phương thảo sẽ phát cuồng... Nghĩ như chứng Nhiệt trung, Tiêu trung, phần nhiều chỉ hạng người phú quý hay mắc. Giờ cần dùng thức cao lương, thế là không hợp với lòng họ, cấm dùng phương thảo, thạch dược thì bệnh không sao khỏi được... Vậy xin cho biết phải trị liệu thế nào bệnh đó.

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cái khí của phương thảo tốt, cái khí của thạch dược hãn (dữ tợn, độc). Hai thứ khí ấy đều có cái tính "cấp, tật, kiên, kính...". Cho nên,  nếu không phải là người tâm tính hòa hoãn không uống được nó. Phàm nhiệt khí thời lật hãn (dữ tợn), dược khí cũng vậy, hai thứ khí ấy gặp nhau sẽ gây nên sự xung đột, e làm thương đến Tỳ. Tỳ thuộc thổ mà ghét mộc. Nếu uống thứ thuốc ấy, đến ngày Gáp Ất sẽ nguy.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có người mắc chứng: Ung thũng, cảnh thống, hung mãn và phúc trướng. Đó là bệnh gì? Vì sao mắc phải?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó là bệnh quyết nghịch.

 - Điều trị thế nào?

 - Nếu dùng phép cứu thời Ấm (câm không nói được), dùng phép thích thời phát cuồng... Đợi đến lúc huyết khí cùng hợp lại với nhau, mới có thể chữa.

 - Vì sao?

 - Dương khí đã bốc nhiều lên trên, tức là ở trên hữu dư, nếu cứu thời dương khí sẽ thụt vào âm, vào âm thời thành ấm; nếu thích thời dương khí hư, hư thời sẽ phát cuồng. Vậy phải đợi lúc huyết khí cùng hợp với nhau sẽ chữa, mới mong toàn vẹn được.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Sao biết đàn bà có thai?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Vì là người có bệnh (như nôn ọe, mỏi mệt, không muốn ăn v.v...), mà chẩn mạch thời mạch không có bệnh.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Người mắc bệnh nhiệt, mà có đau là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Bệnh nhiệt đó thuộc về dương mạch thịnh. Dương mạch thịnh là do khí của Tam dương động. Nhân một thịnh thuộc Thiếu dương, hai thịnh thuộc Thái dương, ba thịnh thuộc Dương minh, rồi mới vào các kinh âm. Vì Dương minh lấn vào âm, nên mới mắc bệnh ở đầu với phúc. Do đó mới sinh ra sân trướng và đầu thống.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:32:30 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #41 vào lúc: Tháng Năm 11, 2018, 06:14:24 PM »

Chương bốn mươi mốt

THÍCH YÊU THỐNG THIÊN



KINH VĂN

 Túc Thái dương mạch khiến người yêu thống (đau ngang chỗ thắt lưng), đau rút suốt xương sống lên cổ, dưới xuống tới xương khu... Lưng như mang vật gì nặng. Thích Ủy trung thuộc chính kinh Thái dương cho ra huyết. Mùa xuân đừng để thấy huyết.

 Mạch kinh Thiếu dương khiến người yêu thống, như người lấy kim đâm vào trong da cứ co ro, không thể cúi ngửa, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Thích vào đầu thành cốt thuộc kinh Thiếu dương cho ra huyết. Mùa hạ đừng để cho thấy huyết.

 Mạch kinh Dương minh khiến người yêu thống, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Nếu ngảnh lại hoảng hốt như trông thấy gì lạ... thích ba nốt tại trước ống chân thuộc kinh Dương minh, để cho trên dưới điều hòa và ra huyết. Mùa thu đừng để cho thấy huyết.

 Mạch kinh túc Thiếu âm khiến người yêu thống, đau suốt xương sống và cổ "nội liêm". Thích hai nốt tại phía trong xương khoai thuộc kinh Thiếu âm. Mùa xuân đừng để cho thấy huyết. Nếu ra huyết quá nhiều sẽ khó hồi phục.

 Mạch kinh Quyết âm khiến người yêu thống, trong "yêu" cứng đờ như giương dây cung nỏ... Thích ở mạch Quyết âm, mạch đó ở sau trong bọng chân, rờ tay vào thấy chỗ nào xúc xỉu tức là mạch, sẽ thích. Bệnh này khiến người hay nói, nhưng lại nói dớ dẩn, nên thích ba nốt.

 Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống, đau rút lên vai, mắt trông mập mờ, thỉnh thoảng lại di niệu. Thích giải mạch tại chỗ bên ngoài khe khớp xương đầu gối, thích hoành mạch ở đó cho ra huyết, mủ trông thấy sắc huyết đổi khác thì thôi. Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống như buộc chắc dây lưng, thường như muốn gãy, lại hay sợ. Mạch này tại Ủy trung, có kết lạc nổi lên như hạt gạo, thích vào đấy sẽ bắn máu ra. Thấy máu biến sắc đen thì thôi.

 Bệnh tại mạch Đồng âm khiến người yêu thống, tại yêu nổi lên như cái dùi nhỏ, sưng và đau. thích mạch Đồng âm tại đầu, Tuyệt cốt phía trên xương khoai thích ba nốt.

 Bệnh ở Dương duy khiến người yêu thống, đau mà nổi cồn lên như thũng. Mạch này cùng với mạch Thái dương hợp, cách xương khoai bảy tấc, cách đất một thước (tức huyệt Thừa sơn).

 Bệnh ở mạch Hành lạc khiến người yêu thống, không thể cúi ngửa. Nếu ngửa lên thời như muốn ngã. Bệnh này gây nên bởi mang vật nặng làm thương đến yêu, ác huyết tụ lại đó. Thích ở khoảng gần Khích dương hai nốt cho ra huyết (ở giữa Ân môn và Ủy trung).

 Bệnh ở mạch Hội âm khiến người yêu thống, lúc đau mồ hôi ra đầm đìa, tới khi mồ hôi ráo đi, khiến người khát muốn uống nước, lúc uống nước rồi lại muốn chạy. Thích mạch trước dương. Thích trên mạch trực dương ba nốt. Mạch này tại trên kiều dưới khích năm tấc, nó nằm ngang. Thấy mạch đó thịnh, phải để cho xuất huyết.

 Bệnh ở mạch Phi dương khiến người yêu thống, lúc đau tê tái ràu rĩ, quá lắm thời kiêm cả bi và khủng. Thích mạch Phi dương tại phía trong xương khoai năm tấc, trước mạch Thiếu âm, cùng hội với mạch Âm duy.

 Bệnh ở mạch Xung dương khiến người yêu thống, đau rút sang TTTg ngực, quá lắm lưng như gãy, mắt trông lòe loẹt, lưỡi cong lại không thể nói. Thích hai nốt ở Nội cân huyệt tại trước Đại cân phía trên xương khoai và dưới xương khoai sau huyệt Thái âm hai tấc.

 Bệnh ở Tán mạch khiến người yêu thống mà nhiệt, nhiệt quá sinh phiền. Trong yêu như có mảnh gỗ chắn ngang, quá lắm thời di niệu. Thích Tán mạch tại khe thịt trước xương gối, tức là Thúc mạch. Thích ba nốt.

 Bệnh ở mạch Nhục lý khiến người yêu thống đau không thể ho, ho thời gân rút gấp. Thích hai nốt ở mạch Nhục lý, huyệt tại bên ngoài huyệt Thái dương và phía sau Tuyệt cốt thuộc Thiếu dương.

 Yêu thống suốt lên xương sống, đau đến nỗi cổ chỉ hơi ngọ ngoạy được; mắt trông lòe loẹt, như muốn ngã. Thích ở huyệt Khích trung thuộc Thái dương cho ra huyết.

 Yêu thống mà bộ phận trên hàn, thích ở huyệt Thái dương, Dương minh. Bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt túc Quyết âm; đau không thể cúi ngửa, thích ở huyệt Thiếu dương, bên trong nóng mà suyễn, thích ở huyệt Thiếu âm và thích ở huyệt Ủy trung cho ra huyết.

 Yêu thống mà bộ phận trên hàn, đến không thể ngảnh đi, âm thụ ngảnh lại, thích ở huyệt túc Dương minh; nếu bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt túc Thái âm; nếu trung nhiệt mà suyễn, thích ở huyệt túc Thiếu âm.

 Đại tiện khó, thích ở huyệt túc Thiếu âm (Dũng tuyền).

 Thiếu phúc mãn, thích ở huyệt túc QUyết âm (Thái xung).

 Đau như gãy, không thể cúi ngửa, không thể cử động, thích huyệt túc Thái dương.

 Đau rút lên trong đường xương sống, thích ở huyệt túc Thiếu âm.

 Yêu thống rút xuống Thiếu phúc, không thể ngửa, thích ở huyệt yêu cầu giao hai bên, lấy số ngày "sinh, tử" của mặt trăng để định nốt thích (1), rút châm, khỏi ngay. Đau bên tả thích bên hữu; đau bên hữu thích bên tả.

Chú giải

 (1) "Nguyệt sinh" tức là từ ngày trăng mới mọc đến ngày mười lăm; "Nguyệt tử" tức là từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi. Tính theo số ngày, như mồng một thích một châm, mồng hai thích hai châm v.v... cho đến ngày mười lăm thích 15 châm; từ ngày mười sáu trở đi, lại mỗi ngày rút đi một châm, theo sự khuyết của mặt trăng...
« Sửa lần cuối: Tháng Một 20, 2019, 10:38:50 AM gửi bởi Đom đóm » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #42 vào lúc: Tháng Năm 12, 2018, 03:44:22 PM »

Chương bốn mươi hai

PHONG LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phong nó làm thương người, hoặc phát chứng hàn nhiệt, hoặc là chứng nhiệt trung, hoặc là chứng hàn trung, hoặc là lệ phong, hoặc là thiên khô, hoặc là phong... Bệnh đã khác nhau, danh cũng không giống, hoặc phạm tới cả năm Tàng sáu Phủ... Không hiểu nguyên nhân ra sao, xin cho biết rõ.

 Kỳ Bá thưa rằng:
 
 - Phong khí tàng ở khoảng bì phu, trong không thể thông, ngoài không thể tiết... Nó "dẫn đi rất chóng mà biến đổi luôn"; làm tấu lý mở rỗng, thời ghê rợn mà rét; làm tấu lý vít lấp, thời nhiệt mà khó chịu. Nó hàn thời uống ăn sút kém, nó nhiệt thời cơ nhục hao mòn... Nếu làm cho người bợt bạt mà không ăn được thì gọi là hàn nhiệt.

 Phong khí với khí Dương minh dồn vào Vị, đi vòng lên đến phía đầu mắt, nếu là người béo thì phong khí không tiết ra ngoài được, sẽ gây nên chứng nhiệt trung mà mắt vàng; nếu là người gầy thời tiết ra ngoài mà hàn, sẽ gây nên chứng hàn trung và chảy cả nước mắt, nước mũi.

 Phong khí cùng vào với khí của Thái dương, dẫn đi ở mạch du, rải rác ở khoảng phận nhục, cùng xung đột với vệ khí, khiến cho mạch đạo không thông lợi, gây nên chứng cơ nhục sùi sưng thành mụn lở. Vệ khí có chỗ không dẫn hành được, sẽ gây nên chứng bất nhân.

 Về lệ phong, do vinh khí nhiệt tụ ở cơ nhục, khiến khí không trong mát, gây nên chứng dọc mũi toét nát mà sắc bại, bì phu lở nát. Phong hàn ký lục ở mạch mà không dẫn đi được, gọi là lệ phong, hoặc lại gọi là "hàn, nhiệt".

 Tiết lập xuân, ngày Giáp, Ất bị thương về phong, gọi là Can phong; mùa hạ ngày Bính, Đinh bị thương về phong, gọi là Tâm phong; mùa quý hạ ngày Mậu, Kỷ bị thương về phong, gọi là Tỳ phong; mùa thu, ngày Canh, Tân bị trúng về tà, gọi là Phế phong; mùa đông, ngày Nhâm, Quý bị trúng về tà gọi là Thận phong.

 Phong trúng du huyệt của năm Tàng sáu Phủ, cũng gọi là phong của Tàng, Phủ.

 Nếu trúng vào cửa ngõ của khí huyết, thì gọi là thiên phong.

 Phong khí theo Phủ mà dẫn lên, gọi là não phong.

 Phong khí phạm vào đầu hệ, thì gây nên chứng mục phong, nhãn hàn.

 Uống rượu mà trúng phong, thì là lậu phong.

 Nhập phòng, hãn ra mà trúng phong, thì gọi là nội phong.

 Mới gội đầu mà trúng phong, thì gọi là thủ phong.

 Phong phạm vào bộ phận trong đã lâu ngày, thì là chứng trường phong, xôn, tiết.

 Phong lưu ở ngoài tấu lý, thì gọi là tiết phong...

 Cho nên "phong là trưởng của trăm bệnh". Đến khi nó biến hóa để gây nên chứng bệnh khác thì không có phương hướng nhất định... Nhưng tóm lại thì lúc nào cũng do "phong khí" mà gây nên.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng bị phong, chứng trạng khác nhau thế nào và xin cho biết phép chẩn với bệnh nặng (sự biến chuyển của bệnh...).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng trạng của Phế phong, nhiều hãn mà ố phong, thỉnh thoảng ho, hơi thở ngắn; ban ngày nhẹ, về đêm nặng. Chẩn ở phía trên lông mày, sắc trắng bợt.

 Chứng trạng của Tâm phong, nhiều hãn mà ố phong, môi khô rộp, hay giận dữ. Bệnh nặng thì nói ra khó khăn. Chẩn ở miệng, sắc đỏ.

 Chứng trạng của Can phong, nhiều hãn mà ố phong, hay bi (buồn, thương), họng khô, hay giận, có ý như ghét đàn bà. Chẩn ở dưới mắt, sắc mặt tái xanh.

 Chứng trạng của Tỳ phong, nhiều hãn mà ố phong, thân thể mỏi mệt, tứ chi không muốn cử động, không muốn ăn. Chẩn ở trên mũi, sắc vàng.

 Chứng trạng của Thận phong, nhiều hãn mà ố phong, mặt phù thũng, xương sống đau không đứng thẳng được, trong lòng có sự như không được toại ý. Chẩn ở ngoài da, sắc sạm đen.

 Chứng trạng của Vị phong, cổ nhiều hãn mà ố phong, uống ăn khó khăn, như có vướng mắc nuốt không trôi; phúc bộ hay đầy; nếu không đắp bụng thì hay trướng; ăn thức hàn thì sinh tiết tả. Chẩn thấy thân thể gày mà bụng to.

 Chứng trạng của Thủ phong, đầu và mặt nhiều hãn mà ố phong, trước chứng phong phát sinh một ngày thì bệnh nặng, đầu nhức đến nỗi không thể bước ra ngoài; đến ngày phong phát, thì bệnh lại hơi bớt.

 Chứng trạng của lậu phong, có nhiều hãn, thường không dám mặc áo đơn, đến bữa ăn thì hãn ra, có khi hãn nhiều mà thở suyễn, ghê gió, áo thường ẩm ướt vì hãn, miệng khô và khát, không làm được công việc nhọc mệt.

 Chứng trạng của Tiết phong, nhiều hãn, hãn ra ướt cả áo, trong miệng khô, không làm được việc nặng nhọc, toàn thân đều đau và rét... (rét vì ra nhiều hãn, thành vong dương).
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:34:43 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #43 vào lúc: Tháng Năm 12, 2018, 05:43:00 PM »

Chương bốn mươi ba

TÝ LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh tý (tê, đau) vì đâu sinh ra?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Ba khí "phong, hàn, thấp" lẫn lộn dồn đến, họp lại thành chứng tý. Trong ba khí đó, nếu phong khí thắng thì là hàn tý, hàn khí tháng thì là thống tý, thấp khí thắng thì là chước tý.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Tôi nghe lại có năm chứng tý, là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Mắc bệnh về mùa đông, là cốt tý; mắc bệnh về mùa xuân là cân tý; mắc bệnh về mùa hạ gọi là mạch tý; mắc bệnh vào thời điểm về Chí âm gọi là cơ tý; mắc bệnh về mùa thu gọi là bì tý.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Có khi ở bên trong, ký túc vào năm Tàng, vậy khí nào làm nên thế?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm Tàng đều có "hợp", bệnh mắc lâu không giải đi được sẽ ký túc vào nơi "hợp" đó. Cho nên, nếu cốt tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Thận; cân tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Can; mạch tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Tâm; cơ tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Tỳ; bì tý không dứt, lại cảm với tà, nó sẽ ký túc tại Phế... Vậy, phàm chứng tý, đều theo về từng mùa, rồi lại cảm thêm với khí phong, hàn, thấp... Mà gây nên.

 Phàm chứng tý ký túc ở năm Tàng, sinh ra các chứng trạng sau này:

 Phế tý thì phiền mãn, suyễn mà ẩu (ọe).

 Tâm tý thì huyết mạch không thông, vì tà bách dưới Tâm, dồn mạch phạm lên Tâm tàng, nên phiền, lại thêm chứng thượng khí mà suyễn, cuống họng khô, hay ợ, quyết khí ngược lên nên hay khủng.

 Can tý, đêm nằm hay giật mình, uống nước nhiều, tiểu tiện luôn, trong bụng anh ách, như đàn bà có thai.

 Thận tý hay trướng, xương khu dồ lên, xương sống gù xuống.

 Tỳ tý thì tứ chi mỏi mệt rã rời, hay lo, nôn ra nước dãi, trên hung bị nghẽn.

 Trường tý, uống nước luôn mà không tiểu tiện ra được, trung khí suyễn cấp, thỉnh thoảng lại thành chứng xôn tiết.

 Bào tý thì thuộc bộ phận thiếu phúc và Bàng quang, án mạnh tay thấy đau ở bên trong như dội nước nóng vào, tiểu tiện lại ít và hay chảy nước mũi trong.

 Phàm âm khí (tức Tàng khí) tĩnh thì tàng thần, táo thì tiêu vong, nếu uống ăn quá độ Trường vị sẽ bị thương (nếu bị thương, tà khí sẽ thừa cơ phạm vào mà gây nên chứng tý).

 Nếu thấy suyễn tức quá độ, thì biết chứng tý tụ ở Phế; thấy ưu tư quá độ, thì biết chứng tý tụ ở Tâm; thấy sự di niệu luôn luôn, thì biết chứng tý tụ ở Thận; thấy sự mỏi mệt quá độ, thì biết chứng tý tụ ở Can; thấy da dẻ khô khan xãm xĩnh, thì biết tý tụ ở Tỳ. Phàm chứng tý không khỏi, sẽ càng ngày càng nặng thêm. Duy có chứng thuộc về "phong khí thắng" thì dễ khỏi hơn.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Về chứng tý, có người bị chết, cũng có người lâu ngày mới khỏi, là vì cớ sao? Xin cho biết rõ.

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng tý phạm thẳng vào Tàng, sẽ chết; nếu lưu niên ở khoảng gân xương, thì lâu khỏi; nếu chỉ ở khoảng bì phu, thì chóng khỏi.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Nếu ký túc ở sáu Phủ thì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đó cũng chỉ là do sự uống ăn, cư sử mà gây nên. Sáu Phủ cũng đều có Du, các khí "phong, hàn, thấp", trúng vào Du, nhân có sự uống ăn tiếp theo, do Du mà vào, rồi đến ký túc vào Phủ.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Dùng châm để điều trị, thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm Tàng có Du, sáu Phủ có Hợp, theo bộ phận của mạch, để tìm nơi mắc bệnh mà thích, sẽ khỏi.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Khí của doanh, vệ có gây nên bệnh tý chăng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Vinh, là tinh khí của thủy cốc. Nó hòa điều ở năm Tàng, thấm nhuần ở sáu Phủ, rồi sau mới dẫn vào mạch. Mạch đó vòng khắp trên dưới, suốt qua năm Tàng và chằng vào sáu Phủ. Vệ, là một thứ hãn khí (mạnh, dữ) của thủy cốc. Cái tính của nó lật tật, hoạt lợi, không thể vào trong mạch, cho nên dẫn đi ở trong bì phu, khoảng phận nhục, hun lên "hoang mạc", tan ra "hung phúc". Trái khí đó thì sinh bệnh, thuận khí đó sẽ khỏi. Nó không hợp với các khí phong, hàn, thấp, nên không gây nên bệnh tý.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Bệnh tý có khi đau, có khi không đau, có khi bất nhân, có khi hàn, có khi nhiệt, có khi táo, có khi thấp... là vì sao?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Đau là do hàn khí nhiều. Còn như không đau và bất nhân, là vì bệnh lâu vào sâu. Doanh vệ dẫn đi bị rít, kinh lạc có lúc sơ rỗng, nên bất thông; bì phu không có huyết thấm nhuần, nên bất nhân. Đến như chứng hàn, do dương khí ít, âm khí nhiều, giúp thêm cho bệnh, nên mới hàn. Đến như nhiệt, do dương khí nhiều, âm khí ít, bệnh khí thắng, dương gặp âm, nên mới thành nhiệt tý. Như nhiều hãn đầm đìa, đó là vì gặp thấp nhiều. Dương khí ít, âm khí thịnh, hai khí cùng cảm nhau, nên hãn mới ra đầm đìa.

 - Lại có chứng tý, không đau là vì sao?

 - Tý mắc ở xương thì nặng, mắc vào mạch thì huyết đọng mà không chảy, mắc ở cân thì co vào mà không duỗi ra được, mắc ở thịt thì bất nhân, bì thì hàn... Gặp năm chứng đó nên không đau. Phàm bệnh tý, gặp hàn thì như kiến bò trong da, gặp nhiệt thì gân rã rời, không cử động được.
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:36:29 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #44 vào lúc: Tháng Năm 13, 2018, 04:39:23 PM »

Chương bốn mươi tư

NUY LUẬN THIÊN



KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng, gây nên chứng nuy thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế chủ bì mao, Tâm chủ về huyết, Can chủ về cân mạc, Tỳ chủ về cơ nhục, Thận chủ về cốt tủy. Phế nhiệt thì lá phổi khô, bì mao do đó hư nhược cấp bách, gây nên chứng nuy bịch. Tâm khí nhiệt thì mạch ở dưới quyết mà nghịch lên trên, do đó mạch ở dưới hư; vì hư sinh ra mạch nuy, ống chân rã rời không bước đi được. Can khí nhiệt thì Đởm ràn ra mà miệng đắng, cân mạc khô; vì khô nên cân cấp mà co rút, thành chứng cân nuy. Tỳ khí nhiệt thì Vị khô mà khát, cơ nhục bất nhân, thành chứng nhục nuy. Thận khí nhiệt nên "yêu, tích" không cất lên được, xương khô mà tủy vơi, thành chứng cốt nuy.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết rõ nguyên nhân...

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế là một quan "trưởng" của các Tàng, nó như cái "lọng" che cho Tâm. Có sự gì bỏ mất, cầu không thể được, thì gây nên chứng Phế minh (kêu). Kêu thì Phế nhiệt mà Phế diệp khô đét đi... Nên mới nói: "Năm Tàng do Phế nhiệt, diệp tiêu", gây nên chứng nuy bịch (chân lỏng gân, không lê đi được).

 Bi ai quá độ thì Bào mạch tuyệt. Bào mạch tuyệt khiến cho dương khí phát động ở bên trong, do đó Tâm hạ huyết băng, thành chứng tiểu ra huyết. Cho nên ở bản kinh nói: "Đại kinh không hư, gây nên chứng cơ tý, truyền làm chứng mạch nuy".

 Nghĩ ngợi quá độ, không được toại nguyện, ý dâm ở bên ngoài, lại nhập phòng vô hạn, tông cân rã rời, thành chứng cân nuy và bạch dâm (tinh khí tự tiết ra). Cho nên kinh nói: "Chứng cân nuy sinh ra bởi Can, mà nguyên nhân là sự nhập phòng".
 
 Vì yêm lưu ở nơi ẩm thấp, khiến cho thấp khí thấm thía ở trong cơ nhục, thành "tý" mà bất nhân, do đó gây nên chứng nhục nuy. Cho nên Kinh nói: "Nhục nuy gây nên bởi thấp".
 
 Vì sự đi xa nhọc mệt, gặp đại nhiệt mà khát; vì khát nên dương khí bị suy sút ở bên trong, do đó nhiệt sẽ thừa cơ ký túc ở Thận. Thận là thủy Tàng. Giờ thủy không thắng được hỏa, thì xương khô mà tủy vơi, nên chân không thể đi xuống đất, gây nên chứng cốt nuy. Cho nên Kinh nói: "Chứng cốt nuy gây nên bởi đại nhiệt".

 Hoàng Đế hỏi:

 - Lấy gì để phân biệt?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế nhiệt thì sắc mặt trắng bợt mà lông rụng. Tâm nhiệt thì sắc mặt đỏ mà lạc mạch ràn. Can nhiệt thì sắc mặt tái xanh mà móng tay khô. Tỳ nhiệt thì sắc mặt vàng mà thịt thường rung động. Thận nhiệt thì sắc mặt đen sạm mà răng se.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Vậy sao nói đến phương pháp trị chứng. Nay lại chuyên trách về Dương minh, là thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Dương minh là cái biểu của năm Tàng, sáu Phủ, chủ về làm nhuận cho tông cân; Tông cân chủ về  bó đàng ngoài xương, để cho các khớp được hoạt lợi. Xung mạch là biểu của kinh mạch. Chủ thấm nhuần cho các khê, cốc (các bắp thịt lớn, nhỏ), cùng với Dương minh hợp vào tông cân. Âm, dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của tông cân để hội ở khí khái, mà Dương minh sẽ là trưởng, đều thuộc về Đái mạch, mà "lại" sang Đốc mạch. Cho nên hễ Dương minh bị hư thì Tông cân bị lỏng ra, Đái mạch không dẫn tới nữa, cho nên chân "nuy" không dùng được.

 - Điều trị thế nào?

 - Trước phải bổ vinh, rồi thông đến Du, làm cho những hư thực được quân bình, những nghịch thuận được điều hòa, cân mạch, cốt, nhục đều theo đúng vào mùa và tháng... Thì bệnh khỏi.

Chú giải

 (1) Đây nói về phương pháp trị nuy. Cân, mạch, cốt, nhục đều theo về từng mùa mà có tháng mắc bệnh. Như Can mắc bệnh về mùa xuân là cân nuy, Tâm mắc bệnh về mùa hạ là mạch nuy, Tỳ mắc bệnh về tháng chí âm là nhục nuy, Phế mắc bệnh về mùa thu là bì nuy, Thận mắc bệnh về mùa đông là cốt nuy... Giờ chuyên trách ở kinh Dương minh, lại phải lấy cả ở cái kinh mắc bệnh... Giả như trị chứng cân nuy, phải hợp cả Vị lẫn Can để điều trị, và bổ vinh huyệt, Nội đình của Dương minh, vinh huyệt là Hành gian của Can, du huyệt Hãm cốc của Vị, du huyệt Thái xung của Tỳ... Lại điều sự hư thực: hư thì bổ mà thực thì tả; hòa sự thuận nghịch; bổ thì nghịch thủ, tả thì thuận thủ v.v...
« Sửa lần cuối: Tháng Bảy 26, 2018, 03:37:47 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 2 [3] 4 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn