Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Thận kinh
Thận kinh
20/12/2021

 
Mệnh môn với Thận cùng một ở một cung, đó là tạng thứ 6. Tính của nó là trí, ứng với quẻ Khảm, cho nên vẽ kín ở giữa, thuộc phía chính Bắc cung Tí.

Thận kinh có bệnh, thì thấy các chứng: miệng khô ráo hoặc tiêu khát, họng đau (thủy suy), hư nhiệt, đau xương, nóng trong xương, chân liệt, mình nặng, tai ù, tai điếc, ngang lưng đau, lưng lạnh, ngoài sợ gió lạnh, trong sợ thức ăn sống lạnh, tiết tả, đi tả lâu ngày, đi tả sáng sớm, đi lỵ, thủy thũng, mặt đen, mặt xanh bủng, mắt mờ không trông được xa (đó là chứng vô Hỏa), lòng đen mắt xanh, đồng tử tán, tiểu tiện đi luôn mà ít, đại tiện lợi hoặc hư bí hoặc khỏi rồi mà về đêm hay đi tiểu tiện, đại tiện táo bón (đó là chân thủy suy). Đàn ông Di tinh, Bạch trọc, phụ nữ Đới hạ Bạch dâm. Bụng to, ngọc hành sưng đau, bìu dái co rút, ướt ngứa, liệt dương. Trong bụng thấp thỏm như đói, đói mà không ăn được hoặc ăn xong đói ngay; khí từ dưới rốn đưa ngược lên, ho suyễn mặt đỏ hồng, má sưng, đầu và mặt sưng to thành chứng thũng độc. Trên nóng dưới lạnh.

Xác định rằng, khát mà hay uống nước là thủy suy, không muốn uống là hỏa suy. Răng rụng sớm, răng đau, sợ hãi sinh bệnh, khỏi bệnh rồi mất tiếng. Trẻ em xương sống lưng biến dạng, nghẹo cổ, năm chứng mềm, năm chứng chậm, và tất cả các bệnh nặng, các bệnh kỳ dị, các chứng hư tổn đều gốc ở thận, mà Mệnh môn là căn bản của sự lập mệnh.

Cách dùng thuốc: Bổ chân âm thủy dùng Thục địa, Sơn thù, bổ chân dương chân hỏa dùng Nhục quế, Phụ tử. Muốn bổ mạnh tinh huyết, làm mạnh âm dương, bổ gân xương, sinh con cái, đẹp nhan sắc thì có những loại hữu hình như Nhung hươu, Nhung nai, cao gạc Hươu, gạc Nai, rau thai nhi. Cố tinh thì dùng Lộc giác sương. Thêm tinh tráng dương bổ hỏa thì dùng Câu kỷ, Nhục thung dung, Tỏa dương. Bổ Thận dương chỉ hoạt tinh, làm bền thận khí, làm khỏi tiết tả và các chứng mộng tinh, hoạt tinh, ỉa lỏng, ỉa chảy thì dùng Phá cố chỉ. Chữa chứng vong âm tiểu tiện đi luôn không có chừng mực thì dùng Ích trí. Mạnh gân bổ xương chữa đau lưng đau gối thì dùng Ngưu tất, Đỗ trọng. Tiếp xương nối gân thì dùng Tục đoạn. Bổ thận âm chữa thóp hở thì dùng Qui giáp. Làm ấm thận thì dùng Trầm hương, Sa nhân, Bá tử nhân, Khiếm thực. Cố sáp tinh thì dùng Long cốt, Mẫu lệ. Chữa chứng nóng trong xương, có mồ hôi thì dùng Địa cốt bì. Thanh loại hư hỏa vô căn thì dùng Huyền sâm. Phạt hỏa thì dùng Tri mẫu, Hoàng bá. Thấm thủy thì dùng Trư linh, Trạch tả. Thấm mà nhuận thì dùng Ý dĩ, Phục linh, Xa tiền.


Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >