Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương bốn mươi tư - NUY LUẬN THIÊN
Chương bốn mươi tư - NUY LUẬN THIÊN
20/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng, gây nên chứng nuy thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế chủ bì mao, Tâm chủ về huyết, Can chủ về cân mạc, Tỳ chủ về cơ nhục, Thận chủ về cốt tủy. Phế nhiệt thì lá phổi khô, bì mao do đó hư nhược cấp bách, gây nên chứng nuy bịch. Tâm khí nhiệt thì mạch ở dưới quyết mà nghịch lên trên, do đó mạch ở dưới hư; vì hư sinh ra mạch nuy, ống chân rã rời không bước đi được. Can khí nhiệt thì Đởm ràn ra mà miệng đắng, cân mạc khô; vì khô nên cân cấp mà co rút, thành chứng cân nuy. Tỳ khí nhiệt thì Vị khô mà khát, cơ nhục bất nhân, thành chứng nhục nuy. Thận khí nhiệt nên "yêu, tích" không cất lên được, xương khô mà tủy vơi, thành chứng cốt nuy.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Xin cho biết rõ nguyên nhân...

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế là một quan "trưởng" của các Tàng, nó như cái "lọng" che cho Tâm. Có sự gì bỏ mất, cầu không thể được, thì gây nên chứng Phế minh (kêu). Kêu thì Phế nhiệt mà Phế diệp khô đét đi... Nên mới nói: "Năm Tàng do Phế nhiệt, diệp tiêu", gây nên chứng nuy bịch (chân lỏng gân, không lê đi được).

 Bi ai quá độ thì Bào mạch tuyệt. Bào mạch tuyệt khiến cho dương khí phát động ở bên trong, do đó Tâm hạ huyết băng, thành chứng tiểu ra huyết. Cho nên ở bản kinh nói: "Đại kinh không hư, gây nên chứng cơ tý, truyền làm chứng mạch nuy".

 Nghĩ ngợi quá độ, không được toại nguyện, ý dâm ở bên ngoài, lại nhập phòng vô hạn, tông cân rã rời, thành chứng cân nuy và bạch dâm (tinh khí tự tiết ra). Cho nên kinh nói: "Chứng cân nuy sinh ra bởi Can, mà nguyên nhân là sự nhập phòng".
 
 Vì yêm lưu ở nơi ẩm thấp, khiến cho thấp khí thấm thía ở trong cơ nhục, thành "tý" mà bất nhân, do đó gây nên chứng nhục nuy. Cho nên Kinh nói: "Nhục nuy gây nên bởi thấp".
 
 Vì sự đi xa nhọc mệt, gặp đại nhiệt mà khát; vì khát nên dương khí bị suy sút ở bên trong, do đó nhiệt sẽ thừa cơ ký túc ở Thận. Thận là thủy Tàng. Giờ thủy không thắng được hỏa, thì xương khô mà tủy vơi, nên chân không thể đi xuống đất, gây nên chứng cốt nuy. Cho nên Kinh nói: "Chứng cốt nuy gây nên bởi đại nhiệt".

 Hoàng Đế hỏi:

 - Lấy gì để phân biệt?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Phế nhiệt thì sắc mặt trắng bợt mà lông rụng. Tâm nhiệt thì sắc mặt đỏ mà lạc mạch ràn. Can nhiệt thì sắc mặt tái xanh mà móng tay khô. Tỳ nhiệt thì sắc mặt vàng mà thịt thường rung động. Thận nhiệt thì sắc mặt đen sạm mà răng se.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Vậy sao nói đến phương pháp trị chứng. Nay lại chuyên trách về Dương minh, là thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Dương minh là cái biểu của năm Tàng, sáu Phủ, chủ về làm nhuận cho tông cân; Tông cân chủ về  bó đàng ngoài xương, để cho các khớp được hoạt lợi. Xung mạch là biểu của kinh mạch. Chủ thấm nhuần cho các khê, cốc (các bắp thịt lớn, nhỏ), cùng với Dương minh hợp vào tông cân. Âm, dương bao trùm tất cả chỗ hội họp của tông cân để hội ở khí khái, mà Dương minh sẽ là trưởng, đều thuộc về Đái mạch, mà "lại" sang Đốc mạch. Cho nên hễ Dương minh bị hư thì Tông cân bị lỏng ra, Đái mạch không dẫn tới nữa, cho nên chân "nuy" không dùng được.

 - Điều trị thế nào?

 - Trước phải bổ vinh, rồi thông đến Du, làm cho những hư thực được quân bình, những nghịch thuận được điều hòa, cân mạch, cốt, nhục đều theo đúng vào mùa và tháng... Thì bệnh khỏi.

Chú giải

 (1) Đây nói về phương pháp trị nuy. Cân, mạch, cốt, nhục đều theo về từng mùa mà có tháng mắc bệnh. Như Can mắc bệnh về mùa xuân là cân nuy, Tâm mắc bệnh về mùa hạ là mạch nuy, Tỳ mắc bệnh về tháng chí âm là nhục nuy, Phế mắc bệnh về mùa thu là bì nuy, Thận mắc bệnh về mùa đông là cốt nuy... Giờ chuyên trách ở kinh Dương minh, lại phải lấy cả ở cái kinh mắc bệnh... Giả như trị chứng cân nuy, phải hợp cả Vị lẫn Can để điều trị, và bổ vinh huyệt, Nội đình của Dương minh, vinh huyệt là Hành gian của Can, du huyệt Hãm cốc của Vị, du huyệt Thái xung của Tỳ... Lại điều sự hư thực: hư thì bổ mà thực thì tả; hòa sự thuận nghịch; bổ thì nghịch thủ, tả thì thuận thủ v.v...

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >