Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương bốn mươi hai - PHONG LUẬN THIÊN
Chương bốn mươi hai - PHONG LUẬN THIÊN
20/01/2019
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi:

 - Phong nó làm thương người, hoặc phát chứng hàn nhiệt, hoặc là chứng nhiệt trung, hoặc là chứng hàn trung, hoặc là lệ phong, hoặc là thiên khô, hoặc là phong... Bệnh đã khác nhau, danh cũng không giống, hoặc phạm tới cả năm Tàng sáu Phủ... Không hiểu nguyên nhân ra sao, xin cho biết rõ.

 Kỳ Bá thưa rằng:
 
 - Phong khí tàng ở khoảng bì phu, trong không thể thông, ngoài không thể tiết... Nó "dẫn đi rất chóng mà biến đổi luôn"; làm tấu lý mở rỗng, thời ghê rợn mà rét; làm tấu lý vít lấp, thời nhiệt mà khó chịu. Nó hàn thời uống ăn sút kém, nó nhiệt thời cơ nhục hao mòn... Nếu làm cho người bợt bạt mà không ăn được thì gọi là hàn nhiệt.

 Phong khí với khí Dương minh dồn vào Vị, đi vòng lên đến phía đầu mắt, nếu là người béo thì phong khí không tiết ra ngoài được, sẽ gây nên chứng nhiệt trung mà mắt vàng; nếu là người gầy thời tiết ra ngoài mà hàn, sẽ gây nên chứng hàn trung và chảy cả nước mắt, nước mũi.

 Phong khí cùng vào với khí của Thái dương, dẫn đi ở mạch du, rải rác ở khoảng phận nhục, cùng xung đột với vệ khí, khiến cho mạch đạo không thông lợi, gây nên chứng cơ nhục sùi sưng thành mụn lở. Vệ khí có chỗ không dẫn hành được, sẽ gây nên chứng bất nhân.

 Về lệ phong, do vinh khí nhiệt tụ ở cơ nhục, khiến khí không trong mát, gây nên chứng dọc mũi toét nát mà sắc bại, bì phu lở nát. Phong hàn ký lục ở mạch mà không dẫn đi được, gọi là lệ phong, hoặc lại gọi là "hàn, nhiệt".

 Tiết lập xuân, ngày Giáp, Ất bị thương về phong, gọi là Can phong; mùa hạ ngày Bính, Đinh bị thương về phong, gọi là Tâm phong; mùa quý hạ ngày Mậu, Kỷ bị thương về phong, gọi là Tỳ phong; mùa thu, ngày Canh, Tân bị trúng về tà, gọi là Phế phong; mùa đông, ngày Nhâm, Quý bị trúng về tà gọi là Thận phong.

 Phong trúng du huyệt của năm Tàng sáu Phủ, cũng gọi là phong của Tàng, Phủ.

 Nếu trúng vào cửa ngõ của khí huyết, thì gọi là thiên phong.

 Phong khí theo Phủ mà dẫn lên, gọi là não phong.

 Phong khí phạm vào đầu hệ, thì gây nên chứng mục phong, nhãn hàn.

 Uống rượu mà trúng phong, thì là lậu phong.

 Nhập phòng, hãn ra mà trúng phong, thì gọi là nội phong.

 Mới gội đầu mà trúng phong, thì gọi là thủ phong.

 Phong phạm vào bộ phận trong đã lâu ngày, thì là chứng trường phong, xôn, tiết.

 Phong lưu ở ngoài tấu lý, thì gọi là tiết phong...

 Cho nên "phong là trưởng của trăm bệnh". Đến khi nó biến hóa để gây nên chứng bệnh khác thì không có phương hướng nhất định... Nhưng tóm lại thì lúc nào cũng do "phong khí" mà gây nên.

 Hoàng Đế hỏi:

 - Năm Tàng bị phong, chứng trạng khác nhau thế nào và xin cho biết phép chẩn với bệnh nặng (sự biến chuyển của bệnh...).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Chứng trạng của Phế phong, nhiều hãn mà ố phong, thỉnh thoảng ho, hơi thở ngắn; ban ngày nhẹ, về đêm nặng. Chẩn ở phía trên lông mày, sắc trắng bợt.

 Chứng trạng của Tâm phong, nhiều hãn mà ố phong, môi khô rộp, hay giận dữ. Bệnh nặng thì nói ra khó khăn. Chẩn ở miệng, sắc đỏ.

 Chứng trạng của Can phong, nhiều hãn mà ố phong, hay bi (buồn, thương), họng khô, hay giận, có ý như ghét đàn bà. Chẩn ở dưới mắt, sắc mặt tái xanh.

 Chứng trạng của Tỳ phong, nhiều hãn mà ố phong, thân thể mỏi mệt, tứ chi không muốn cử động, không muốn ăn. Chẩn ở trên mũi, sắc vàng.

 Chứng trạng của Thận phong, nhiều hãn mà ố phong, mặt phù thũng, xương sống đau không đứng thẳng được, trong lòng có sự như không được toại ý. Chẩn ở ngoài da, sắc sạm đen.

 Chứng trạng của Vị phong, cổ nhiều hãn mà ố phong, uống ăn khó khăn, như có vướng mắc nuốt không trôi; phúc bộ hay đầy; nếu không đắp bụng thì hay trướng; ăn thức hàn thì sinh tiết tả. Chẩn thấy thân thể gày mà bụng to.

 Chứng trạng của Thủ phong, đầu và mặt nhiều hãn mà ố phong, trước chứng phong phát sinh một ngày thì bệnh nặng, đầu nhức đến nỗi không thể bước ra ngoài; đến ngày phong phát, thì bệnh lại hơi bớt.

 Chứng trạng của lậu phong, có nhiều hãn, thường không dám mặc áo đơn, đến bữa ăn thì hãn ra, có khi hãn nhiều mà thở suyễn, ghê gió, áo thường ẩm ướt vì hãn, miệng khô và khát, không làm được công việc nhọc mệt.

 Chứng trạng của Tiết phong, nhiều hãn, hãn ra ướt cả áo, trong miệng khô, không làm được việc nặng nhọc, toàn thân đều đau và rét... (rét vì ra nhiều hãn, thành vong dương).

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >