Kỳ lam hương xuất tự đầu núi các xã thuộc hai phủ Bình Khang và Diên Khánh xứ Quảng Nam là thứ tốt nhất; xuất tự Phú Yên và Quy Nhơn là thứ hai. Hương ấy là do ở ruột cây gió kết thành Gió có ba loại: Gió lưỡi trâu thì thành khổ trầm, gió niệt thì thành
trầm hương, gió bầu thì thành kỳ lam hương. Người ta thấy cây già lá
vàng mà nhỏ, thân cây nhiều u bướu, thì biết ngay là có hương, chặt mổ
để lấy. Họ Nguyễn trước đặt đội am sơn, hàng năm cứ tháng hai thì đi
kiếm, tháng sáu thì trở về, số được nhiều ít không nhất định, lấy sắc
sáp trắng là tốt nhất, sắc xanh đầu vịt là thứ hai, sắc sáp xanh là kém
nữa, sắc sáp vàng lại kém nữa, sắc như vằn hổ là kém nhất; lấy chất mềm
như phấn đông có thể cắt thành miếng là hạng tốt nhất, bền rắn là hạng
xấu. Tục ngữ nói: Nhất bạch, nhị thanh, tam hoàng, tứ hắc.. Muốn phân
biệt trầm hương và kỳ lam thì lấy hình chất khí vị mà phân biệt. Trầm
hương thì cứng, nặng, ít thơm, sắc nhạt, vị đắng, kỳ lam thì mềm nhẹ, có
hơi dầu, thơm mát, vị gồm đủ cay, chua, ngọt, đắng; đốt trầm hương thì
khói kết xoáy rồi sau mới tan, đốt kỳ lam thì hơi khói lên thẳng mà dài. Trần hương thì có thể giáng khí. Kỳ lam có thể chữa bệnh trúng phong,
đàm suyễn, cấm khẩu, mọi chứng, mài vào nước mà rỏ đốt khói cho hơi
hương vào mũi thì tỉnh lại ngay. Đau bụng đầy tức thì ngậm là khỏi ngay.
Lại có thể trừ được tà khí uế khí, nên chỗ hành dịch hành quân không
thể không dùng. Trầm hương sản xuất không phải ở một nơi, ở Chân
Lạp là tốt nhất, ở Chiêm Thành là thứ nhì, ở Bốt Nê là kém nhất. Lấy
trầm hương Chân Lạp mà kể thì lại có ba bực, Lục dương là tốt nhất, Tam
lạc là thứ nhì, Bột la cương là kém nhất. Sắc thì đen là tốt nhất, sắc
vàng là thứ hai. Có thứ hình trạng như sừng tê, có thứ như miệng én, có
thứ như phụ tử. Sách Bản thảo bị yếu nói rằng: Trầm hương cay
đắng, tính ôn, các gỗ đều nổi , chỉ trầm hương là chìm, cho nên hay hạ
khí mà sa đờm dãi, hay giáng khí mà cũng hay thăng khí, hương khí vào
tỳ, cho nên hay trị được các khí mà điều hòa, sắc đen thể thơm, cho nên
vào mạnh môn hữu thận, ấm tinh, tráng dương, hành khí chứ không thương
khí, ôn trung không trợ hỏa, trị lòng bụng xói đau, cấm khẩu, độc lị,
uất kết, tà khí, sợ gió lạnh, bệnh tê. Sắc đen mà chìm xuống nước là
tốt; thơm ngọt thì tính bình, cay thì nóng. Có vân như đốm đa đa thì gọi
là hoàng trầm, đen như sừng trâu thì gọi là giác trầm; nhấm mềm, gọt
quăn, thì gọi là hoàng lạp trầm.
Tin liên quan
Các bài mới:
Các bài đã đăng:
|