Trang chủ arrow Tản mạn arrow GIỚI THIỆU QUA VỀ NỀN PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
GIỚI THIỆU QUA VỀ NỀN PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
04/11/2006

Image

Mông cổ hay tên tiếng Anh là Mongolia  một quốc gia Cộng hòa Châu Á, xứ sở bao gồm hầu hết các vùng cao nguyên với sa mạc Gobi ở phía Nam, một quần hồ lớn phía Tây Bắc và núi Altai, Khangai ở phía Tây.

 

Mông Cổ nổi tiếng với sự xuất hiện của  Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, 1162-1227). Ðộc lập năm 1911 và theo chế độ Cộng Sản vào năm 1924, có quan hệ mật thiết với Liên Xô (cũ). Từ năm 1989, tiến trình dân chủ hóa đã bắt đầu và đưa tới sự cải tổ sâu rộng về các mặt kinh tế và chính trị. Thế nhưng sự cải tổ đó cũng chẳng can hệ gì đến một thế giới tâm linh thiêng liêng chốn này. Đó chính là Phật Giáo (PG).

Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton, Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch bằng con đường tơ lụa (Sichou zhi lu; Silk Road) qua các nhà buôn Ấn, hồi đó gọi là nước Quyên Độc. Từ đó PG dần dà phát triển đến thế kỷ thứ 13 Tây lịch với sự khuếch tán rộng rãi của Phật Giáo Tây Tạng và Phật Giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, PG Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ hơn hẳn. Việc chứng tỏ cho sự ảnh hưởng đó có lẽ là  Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 4 lại là người Mông Cổ (1588). Trước khi PG được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shamantistic, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư, có liên quan nhiều đến những danh từ quen thuộc như Bái hoả giáo, Hiên giáo, Thiên giáo, thực chất là những trò phù thuỷ mang tính chất tín ngưỡng sơ khai.

PG Mông Cổ trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, trôi nổi, thời kỳ thứ nhất xảy ra vào thế kỷ thứ 13 theo sau các cuộc xâm lăng của Mông Cổ trên khắp Á Châu. Kết quả của sự mở rộng bờ cõi này đã mang về Mông Cổ các truyền thống văn hóa và tôn giáo từ ngoại quốc, trong số đó, Phật giáo Tây Tạng (Phái Thích Ca - Shakya Order) chiếm phần ưu thế, được người dân Mông Cổ ưa chuộng và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân. Trong số những Hoàng đế Mông Cổ thời bấy giờ có Kubilai Khan (Hốt Tất Liệt, 1216-94) là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, là người kế thừa và hoàn thành việc chinh phục hoàn toàn Trung Hoa bằng cách lật đổ triều đại nhà Tống (1279) và lập nên triều Nguyên (Yuan, 1279-1368). Kubilai Khan là người ngưỡng mộ và quy y theo Ðạo Phật, đặc biệt ông từng tham dự lễ điểm đạo quan trọng về pháp tu Mật tông Kalachakra và ông là người có công lao trong việc khuyến khích và bảo trợ công việc phiên dịch Kinh điển sang tiếng Mông Cổ.

Thời kỳ Phật giáo hưng thịnh thứ hai bắt đầu từ triều đại của Hoàng đế Altan Khan (1507-83), khi Mông Cổ có cuộc tiếp xúc mới với Tây Tạng, chính vì thế mà phái Hoàng Giáo (Gelugpa) của Tây Tạng được chính thức truyền vào Mông Cổ và phát triển rất nhanh trên đất nước này qua sự bảo trợ của hoàng đế Altan Khan , và từ đó trở đi, Hoàng Giáo phái (Gelugpa) đã thay thế vị trí của phái Thích Ca để làm công cuộc truyền giáo ở Mông Cổ. Trong thời điểm ấy, một sự kiện quan trọng xảy ra cho Phật giáo Tây Tạng là sau cuộc chinh phục hoàn toàn Tây Tạng vào 1614, để lấy lòng dân, triều đình Mông Cổ đã ban hành một pháp lệnh rằng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của phái Hoàng Giáo là vị “Đế sư”, đứng đầu ở thủ đô Lhasa, có quyền quản lý Thế quyền và Giáo quyền ở Tây Tạng.

Cả dân tộc Tây Tạng lẫn Mông Cổ đều tin tưởng rằng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma là hóa thân của đức Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara), nên việc điều hành chính trị và tôn giáo ở Tây Tạng luôn được người dân tin tưởng vào khả năng của vị tái sinh và được thừa nhận là Dalai Lama. 

Thời kỳ thứ ba, dưới triều đại nhà Thanh (1662-1911), là triều đại ủng hộ Phật giáo ở Trung quốc, khi họ xâm chiếm Nội Mông (Inner Mongolia) họ có những ưu đãi cho Phật giáo, nhiều tông phái của Phật giáo Trung Quốc cũng được truyền vào Mông Cổ. Từ năm 1622 đến năm 1749, có nhiều Kinh điển được dịch từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Mông Cổ.

Thế kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, xung đột chính trị từ các cường quốc bên ngoài, sau Trung quốc (1912), Nhật Bản đánh chiếm vào Manchuria (Mãn Châu lý) vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng quân của Liên Xô bắt đầu cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ đó trở đi, với chính sách không khoan nhượng tôn giáo của chính quyền Xô Viết, có 20 ngàn tăng ni và cư sĩ Phật tử trí thức bị giết, 40 ngàn người khác bị tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800 tự viện bị phá hủy hoàn toàn trên khắp đất nước Mông Cổ.

Từ năm 1989 đến nay, quốc gia Mông Cổ trở nên độc lập, các rào cản về sinh hoạt tín ngưỡng được tháo bỏ, các hoạt động của Phật giáo đã từng bước trở lại bình thường, có hơn 160 ngôi Tu Viện được xây dựng hoặc mở cửa trở lại và rất nhiều người xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo.

Ðiều đáng chú ý trong thế kỷ 20, tại Mông Cổ có Hội Phật giáo thế giới ra đời là Hội Phật Giáo Châu Á vì Hòa Bình (Asian Buddhist Conference for Peace) được thành lập vào năm 1970 và đặt trụ sở trung ương tại thủ đô Ulan Bator, các quốc gia thành viên của Hội này gồm có: Tây Tạng, Mông Cổ, Ấn Ðộ, Nga, Tích Lan, Việt Nam, Nhật Bản, Campuchia, Thái Lan, Bangladesh, Triều Tiên, Hồng Kông, Lào, Nepan, Singpapore, Thái Lan, Ðài Loan... Người đồng sáng lập Hội này là vị trụ trì Chùa Gandatechebling, Hòa thượng Khambo Lama Gambojav (1901-1980), người Mông Cổ. Ngài sinh năm 1901, xuất gia năm 9 tuổi, một người làu thông Kinh điển và trở thành nhà lãnh đạo Phật Giáo Mông Cổ trong thời hiện đại. Ngài là người có công gìn giữ các Tàng Kinh Các của Mông Cổ trong thời gian chiến tranh của Mông Cổ. Ngài là giáo sư triết học thuộc đại học quốc gia Mông Cổ. Vì hiểu được sự thống khổ của chiến tranh, nên Ngài đã kêu gọi chính quyền Xô Viết cho thành lập Hội ABCP để vận động các cường quốc trên thế giới bãi bỏ vũ khí hạt nhân nguyên tử, loại vũ khí giết người hàng loạt, và kết quả Hội ABCP đã được thành lập và hoạt động như ước nguyện của Ngài. Hội ABCP cũng cho ra một tờ đặc san Buddhist for peace ( Phật giáo vì hòa bình) bằng tiếng Anh, để phổ biến rộng rãi lời dạy của Phật về hòa bình và dân chủ.

Sự kiện thứ hai là Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã viếng thăm Mông Cổ vào năm 1982 và ngài đã truyền dạy pháp tu Mật tông Yamantaka cho 140 vị Lạt Ma Mông Cổ tại Chùa Gandatechebling. Trong dịp này một buổi thuyết giảng quần chúng, có trên 20 ngàn Phật tử tại gia đến tham dự. Lần viếng thăm gần đây nhất là năm 1995, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã truyền dạy pháp Mật tông Kalachakra cho nhiều ngàn Tăng tín đồ, đây là lễ điểm đạo đầu tiên xảy ra kể từ năm 1934 tại Mông Cổ.

Ðỉnh cao của nền Phật học Mông Cổ là Tam Tạng Kinh Ðiển PG (Tipitaka) đã được dịch sang tiếng Mông Cổ. Bản dịch Ðại Tạng Cam Thù (Kanjur) gồm 108 quyển được phiên dịch từ Tạng ngữ (Tibetan) vào năm 1628-1629 và bản chú sớ của bộ Ðại Tạng này gồm 220 quyển từ các vị học giả Ấn-Tạng cũng đã hoàn thành việc chuyển ngữ. Một vài phần của Cam Thù, như bộ Bodhisaryvatara (Nhập Bồ Ðề Hạnh Luận) được dịch thẳng từ bản tiếng Sanskrit.

Ngoài bản dịch quan trọng trên, Phật giáo Mông cổ còn có nhiều nhà Phật học nổi tiếng khác như Khaikha Zaya Pandit Lubsangperenici (1642-1775); Sumbo Khampo Ishbaljir (1794-1788); Agvandandar Ikharamba (1758-1830); Lubsangdagva Darjaa (1734-1803); Agvankhaidub (1779-1838); Avanbaldan (1797-1864); Chakhor Bebshi Lubsang Chultem (1740-1810), những tác phẩm của họ được viết bằng cả tiếng Mông Cổ và tiếng Tây Tạng về các lĩnh vực triết học và sử học PG và được phổ biến rộng rãi khắp ở Tây Tạng và Mông Cổ.

Về mặt nghiên cứu Phật học, Phật học viện Gandatechebling được xây dựng năm 1838 và được xem là một trường Ðại học Phật giáo ở Mông Cổ thời bấy giờ, là nơi đào tạo tăng tài cho Mông Cổ. Từ thế kỷ thứ 17, trường này đã đào tạo hơn 200 nhà Phật học Mông cổ để nghiên cứu và sáng tác nhiều tác phẩm tiêu biểu bao gồm 93 học giả về nghi lễ, 53 vị nghiên cứu về triết học, 8 vị về logic học, 11 vị về văn học, 12 vị về triết học, 7 vị về sử học, 12 vị về thiên văn học PG, và 12 vị về dược học và có 40 từ điển Tạng, Mông, Ấn ngữ cũng được ấn hành.

Nguyễn Hạnh (Theo tài liệu Phật giáo quốc tế)


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >