Trang chủ arrow Tản mạn arrow CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
04/11/2006
Image

Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng, một người đấu tranh giành độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam và là một người cộng sản theo chủ nghĩa dân tộc. Hồ Chí Minh là một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập và sau này thống nhất nước Việt Nam. Người làm Chủ tịch (1945-1969) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người còn có các tên khác là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Hồ Quang hay Bác Hồ, Cụ Hồ . Và khi ở chiến khu  Việt Bắc người được dân địa phương gọi là Ông Ké.

Theo lý lịch chính thức thì Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890. Nhưng trong một đơn thư xin vào học Trường hành chính thuộc địa gửi Tổng thống Pháp năm 1911, người tự ghi là sinh năm 1892. Năm 1920, người khai với một quận cảnh sát tại thành Paris là sinh ngày 15 tháng 1 năm 1894. Còn theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên (tên nôm là làng Sen), huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An, quê nội thì người sinh tháng 4 năm 1894. Tờ khai của người tại Đại sứ quán Liên Xô ở Bá Linh (Berlin) tháng 6 năm 1923 lại ghi ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
 
Người tên thật là Nguyễn Sinh Cung (giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành, sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa) cùng huyện Nam Đàn và sống ở đây cho đến năm 1895. Thân phụ người là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ Phó bảng. Thân mẫu người là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901).Người có một người chị là bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950), tự là Tất Đạt, còn gọi là ông Cả Khiêm và một người em trai nhưng mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901).
 
Năm 1895 Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), người được đưa về Nghệ An cho bà ngoại chăm sóc một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội. Khi về sống với cha ở làng Kim Liên năm 1901, người lấy tên là Nguyễn Tất Thành.
 
Năm 1906 Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Sau khi học xong tiểu học, tháng 9 năm 1907, Nguyễn Tất Thành vào học tại trường Quốc Học, Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911người vào Phan Thiết dạy chữ Hánchữ Quốc ngữ cho học sinh lớp nhì tại trường Dục Thanh do một số nhân sĩ yêu nước lập ra năm 1907. Sau đó người vào Sài Gòn.
 
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, người lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche Tréville với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Mỹ một năm (cuối 1912-cuối 1913) người quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917 người trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
 
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, nhân danh một nhóm người Việt Nam yêu nước, người đã gửi "Yêu sách của nhân dân An Nam" gồm 8 điểm bằng tiếng Pháp (Revendications du peuple annamite), ký tên Nguyễn Ái Quốc tới Hội nghị Hòa bình Versailles đòi chính phủ Pháp ân xá chính trị phạm, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.Người còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu sách cho các đoàn đại biểu Đồng Minh dự hội nghị, nhưng không gây được sự chú ý. Từ đó người dùng tên Nguyễn Ái Quốc.
 
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó người theo chủ nghĩa cộng sản. Thời gian đó, người tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp, tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921 người cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922 người cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925 tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp, đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa
.
Tháng 6 năm 1923 Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đâyngười đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, dự Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
 
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
 
Năm 1925, người thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí HộiQuảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh mà người là tác giả tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
 
Năm 1925, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và người làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam,người rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, người được cử đi Pháp rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc (từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927) tại Bruxelles (Bỉ). Mùa thu 1928, người từ châu Âu đến Thái Lan với bí danh Thầu Chín tuyên truyền, huấn luyện cho Việt kiều.
 
Cuối năm 1929, người rời Thái Lan sang Trung Quốc. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Cửu Long (Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông thống nhất 3 tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương" rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
 
Năm 1931 dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn Sơ được thả. Người đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
 
Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935) và dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935).
 
Năm 1938 người trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung QuốcHồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
 
Người trở về Việt Nam vào đầu năm 1941, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu để lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập mặt trận Việt Minh.
 
Ngày 13 tháng 8 năm 1942 người lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của Việt Minh để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc thì bị chính quyền địa phương của Trung hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 và giam hơn một năm trời, trải qua khoảng 30 nhà tù. Nhật ký trong tù được cho là do người sáng tác vào thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943).
 
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Cuối tháng 9 năm 1944, người trở về Việt Nam tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa, đứng về phía Đồng Minh chống phát xít Nhật.
 
Ngày 16 tháng 8 năm 1945 Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 đã thành ngày Quốc khánh của nước Việt Nam ngày nay. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do ông làm Chủ tịch. Người trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (và đảm nhiệm công việc của Thủ tướng).
 
Khi thực dân Pháp quay trở lại chiếm đóng Việt Nam lần thứ hai (1946-1954), người lãnh đạo Việt Minh đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam bằng cả con đường chính trị lẫn quân sự. Người ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, công nhận nước Việt Nam là một nước tự trị trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp vào ngày 6 tháng 3 năm 1946, nhằm giành lấy sự công nhận quốc tế với nước Việt Nam độc lập. Trong nỗ lực cứu vãn hòa bình và giao hảo giữa hai nước Việt Nam và Pháp, người sang thăm Pháp và ký với đại diện Chính phủ Pháp, Bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi) ngày 14 tháng 9 năm 1946, nhưng vẫn không tránh được chiến tranh.
 
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động cuộc kháng chiến chống Pháp của người Việt Nam. Cuộc kháng chiến chỉ được kết thúc vào năm 1954 với thất bại tại trận Điện Biên Phủ của người Pháp.
Vừa là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa là Chủ tịch Đảng Lao Động Việt Nam, người lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trong thời gian từ 1954 cho tới khi mất. Ông đã tạo dựng được một chính quyền mạnh và thay đổi lối sống của người dân, với sự giúp đỡ của Liên XôTrung Quốc. Nhà nước này đã bị các quan sát viên Tây phương cho là hà khắc và cực quyền.
 
Hồ Chí Minh đã tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam vào thập niên 1960.
 
Người đã mãi mãi ra đi vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi với di chúc là được hỏa táng và rải tro khắp ba miền đất nước. Tuy nhiên, từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản ở Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội để mọi người có thể đến viếng, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva.
 
Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập, gần với Phủ toàn quyền Đông Dương. Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, Phủ toàn quyền Đông Dương được chọn là nơi làm việc của Đảng, Nhà nước và nơi ở, nơi làm việc của Chủ tịch nước. Từ đó nơi đây trở thành Khu Phủ Chủ tịch, là nơi sống và làm việc lâu nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người (từ 19 tháng 12 năm 1954 đến 2 tháng 9 năm 1969). Đây cũng là khoảng thời gian người có những đóng góp quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam. Nơi này hiện nay thành Khu di tích Phủ Chủ tịch, hàng năm đón nhiều khách tham quan quốc tế và Việt Nam.
 
Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh được thành lập theo Quyết định của Bộ Chính trị ngày 12 tháng 9 năm 1977.
 
Năm 1976, kỳ họp Quốc hội đầu tiên sau ngày đất nước được thống nhất đã thống nhất quyết định đổi tên thành phố Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tôn vinh người . Tên của người được Nhà nước CHXHCN Việt Nam đặt cho giải thưởng cao quý nhất dành cho những cống hiến trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ của công dân Việt Nam.
 
Tại Việt Nam ngày nay, người được xem là nhân vật chính trong công cuộc giải phóng dân tộc. Đối với nhiều người, người là một nhà yêu nước vận dụng chủ nghĩa cộng sản vào công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và đế quốc. Ảnh tượng của người hiện diện tại nhiều nơi công cộng, cũng như trên tất cả các đồng tiền giấy đang lưu hành tại Việt Nam. Tên của người, tên của thành phố lớn nhất Việt Nam, cũng được đặt cho nhiều công trình công cộng, như đường quốc lộ, quảng trường. Tính giản dị và kiên cường của người làm nhiều người kính mến và vì thế người được xem là một danh nhân chẳng những của Việt Nam mà còn của thế giới.
 
Nhiều người dân Việt Nam yêu quý mà đã gọi người bằng cái tên thân mật như "Bác Hồ" hay "người Cha già của dân tộc", theo nghĩa tôn kính người như bậc sinh thành ra mình. Một số gia đình Việt Nam còn đặt cả ảnh thờ, thậm chí bà con dân tộc thiểu số Việt Nam, như Vân Kiều, Pa Cô, Kor, đã lấy họ Hồ vì yêu quý người-chủ tịch Hồ Chí Minh.
 
Nguyễn Hạnh (Theo nhiều tư liệu)
 

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >