Trang chủ arrow Âm nhạc dân tộc arrow HÁT TRỐNG QUÂN
HÁT TRỐNG QUÂN
20/10/2006

 

 Trong kho tàng dân ca Việt Nam, Trống quân là một loại hát rất bình dân và phổ biến tại miền bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu, nhất là trong những đêm trăng sáng đẹp của trung tuần tháng tám.

Nguồn gốc hát Trống quân có nhiều thuyết.
 
Các nhà nho Việt nam cho rằng “Trống quân” do hai chữ “Tống quân” (tiến bạn) mà ra. Theo tương truyền ngày xưa khi một ông quan rời tỉnh này đi tỉnh khác, bạn bè tiễn đưa một quãng đường. Lúc sắp chia tay, người đi đưa đặt một cái trống xuống đất rồi vừa nhịp trống vừa hát bài tiễn bạn, trong đó có câu “Tống quân nam phó thương như chi hà” (Khi ta tiễn bạ về phía nam, lòng đau đớn thế nào ai rõ được)
 
Có thuyết cho rằng: Trống quân bày ra từ đời Nguyễn Huệ. Nguyên khi ra bắc đánh bọn xâm lựợc Thanh (cuối thế kỷ 18), quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà, vua Quang Trung Nguyễn Huệ mới bày ra một cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối đáp với nhau để cho quân sĩ vui lòng. Đang khi hát có đánh trống làm nhịp nên gọi là Trống quân(1).
 
Có thuyết gần giống như thuyết thứ 2 cho rằng: Hát Trống quân có nguồn gốc từ lối hát “trung quân” một điệu hát của quân lính đi theo nhịp trống. Mà quân đây là quan Nghệ Tĩnh của đạo binh Nguyễn Huệ kéo ra bắc đánh giặc Thanh xâm lăng, cõng nhau rong ruổi ngày đêm không nghỉ (1). Về sau chiến tranh đã qua, nhân dân đem lối hát này vào những buổi hội hè gọi là “Hát Trống quân”.
 
Có thuyết cũng cho rằng loại hát này xuất phát từ những điều kiện lịch sử gần giống như hai thuyết vừa kể, chỉ khác về mặt thời gian, là trống quân có từ đời Trần lúc chống giặc Nguyên xâm lược (thế kỷ thứ 13). Tục truyền rằng : những lúc đóng quân để nghỉ ngơi, muốn giải trí , binh sĩ Việt Nam ngồi thành hai hàng đối diện nhau, gõ vào tang trống mà hát. Cứ một bên “hát xướng” vừa dứt thì bên kia lại “hát đối”. Sau khi đuổi được quân xâm lăng khỏi bờ cõi, hòa bình được lập lại, điệu hát Trống quân được phổ biến trong dân gian. Có nơi gõ nhịp vào tang trống, có nơi căng một dây thép thật thẳng để đánh nhịp.Người ta chưa đưa được thuyết nào đúng.


Hát Trống quân cũng như hát Quan họ không phải thuộc hát lao động, mà thuộc về loại hát lễ hay hát hội. Người hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội nông thôn, nhà nho, thư sinh hát với con gái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thường dân. Họ hoàn toàn không phải ca sỹ chuyên nghiệp mà chỉ là “tài tử” nghiệp dư sinh hát, biết hát… Phần đông là trai và gái đến tuần cập kê, đi hát hội để tìm gặp tài sắc, định ước tương lai.
 
Từ hai tỉnh Quảng bình, Quảng trị vào Nam không có hát Trống quân . Từ Thanh hóa trở ra loại hát này chỉ để hát vào thu nhất là trong tháng tám. Nhưng không hát vào ban ngày mà chỉ hát vào những đêm trăng , nhất là đêm rằm.
 
Hát hội có hai hình thức:

 Hát vui chơi và hát thi lấy giải. Nơi hát hát có thể là nhà riêng, giữa làng, đầu xóm hay trên sân đình Thành hoàng.Thi hát có khi tổ chức giữa hai xóm trai và gái. Có khi giữa hai thanh nam thanh nữ. Ngoài mấy cuộc thi hát tại nhà, trai gái nông dân tự động tổ chức nhiều hội hát trên đám đất rộng giữa làng, bên bờ ruộng hay ở đầu cổng xóm. Trai gái ngồi ra hai bên cách nhau chừng mươi thước. giữa hai toán có một cái “trống quân” ngày xưa gọi là “thổ cò”. Trai hát xướng lấy que tre đánh vào dây kêu binh binh; gái hát đáp gõ cái sênh kêu cách cách làm nhịp.

Trống quân cũng như hầu hết các loại dân ca khác, vay mượn nhiều nơi kho tàng phong dao. Văn thể trống quân là thơ lục bát. Nhưng khi hát, câu 6 chữ và câu 8 chữ biến thể là cứ sau tiếng thứ hai của mỗi câu, người hát đệm tiếng thời, thì, hay, này v.v… Và cứ đến tiếng thứ tư của mỗi câu thì lên giọng và thêm vào mấy tiếng í a hay ư, ứ; có khi người hát lặp lại chữ chót của câu 8 chữ.

Thí dụ:
 
“Trên trời (này) có đám (ứ u) mây xanh
Giữa thì (này) mây trắng (ứ u) chung quanh mây vàng
Ước gì (này) anh lấy được nàng
Thi anh (nay) mua gạch Bát tràng (đem) về xây.
Xây dọc (rồi) anh lại xây ngang
(chứ) xây hồ (này) bán nguyệt (để) cho nàng (chân) rửa chân.
Nên ra (thì) tình ái nghĩa ân.
Chẳng nên (thì) phú giả (ừ) về dân (tràng) Bát (ứ) tràng”
 
Những tiếng thư; thời, này, rồi, rằng, mà, ấy, mấy nó, cái,com, anh, em v.v… Thêm vào khi hát gọi là tiếng đệm, và những tiếng như í, a, a, ư, ư ,ừ.. gọi là tiếng đưa hơi dùng để ngân nga. Âm hưởng dịu dàng hay réo rắt của tiếng đệm và tiếng đưa hơi làm giọng trống quân mang sức truyền cảm mạnh mẽ.
 
Đó là đặc điểm quan trọng của Trống quân về hình thức. Đặc điểm này lại phù hợp với nội dung Trống quân là biểu lộ được nỗi vừa vui vẻ vừa chứa chan cảm động, và nói lên được những thích thú cao thượng của sự sinh hoạt nông thôn, những cảnh đẹp đẽ của quê hương, những điều trù phú đặc biệt của đất nước. Trống quân còn là một loại hình hát tình tứ, hoặc nói đến nghĩa bạn bè, nhất là hay đề cao tình luyến ái giữa trai gái nông dân.

Trống quân có tính chất đối thoại. nó là một lối hát đối giữa trai và gái , một lối đối đáp hỏi qua lại.

Thí dụ:
 
Bên trai đố:

“Anh đố em câu này em giải làm sao?   
Cái gì (mà) thấp cái gì (mà cao);
Cái gì (mà) mà sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời.
Cái gì (mà) em giải (cho) anh ngồi,
Cái gì (mà) thơ thẩn (ứ) ra chơi (ứ) (đào) vườn đào.
Cái gì (mà) sắc hơn dao (ứ)
Cái gì (mà) phơi phới (ứ) lòng đào (thì) em bảo anh”
 
Bên gái trả lời:
 
“Anh đã đố thì em xin giảng ra,
Dưới đất (thì) thấp, trên giời (thì) cao
Ngọn đèn (thì ) sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời…
Chiếu hoa (này) em giải cho anh ngồi (mà)
Đêm rằm (thì) mơ tưởng (ứ) ra chơi (ư) (đào) vườn đào.
(Chứ) Nước kia thì (nó) sắc hơn dao
(Chứ) Trứng gà (thì) phơi phới (ứ) lòng đào (thì em) bảo anh.”
 
Hát Trống quân, trai gái bao giờ cũng thiên về tình cảm. Hoặc bằng câu ướm hỏi, thử thách, hoặc bằng lời tâm sự. Do đó, Trống quân có tính chất trữ tình, tính chất giao duyên rất sâu sắc. Vì đối đáp, hỏi trả, nên hát Trống quân đòi hỏi người hát phải có tài mẫn tiệp, xuất khẩu thành thi, đột xuất nhanh trí…nhưng bao giờ cũng vẫn giữ thái độ phong nhã, lời không sàm sỡ, lố lăng.

Trống quân không phải là một loại trống, mà là một sợi dây dài độ 3,4 thước tây và dày độ một phân tây. Người ta cắm hai đầu sợi mây dưới đất bằng 2 cây cọc nhỏ bằng gỗ hay bằng tre. Ngay chính giữa sợi mây , người ta đào một lỗ vuông độ 4 tấc mỗi bề, rồi bịt lỗ ấy bằng miếng vải mỏng. Có khi người ta dùng một khúc tre, một đầu chống lên sợi mây, một đầu chịu trên mặt gỗ.

Có khi người ta cột sợi mây với mặt ván. Người đánh trống quân dùng 2 chiếc đũa con đánh lên sợi mây. Sợi mây rung làm mặt ván rung, và tiếng mây rung nhờ lỗ đất làm vang thêm nghe thình thùng như tiếng trống. có khi người ta đào một lỗ miệng tròn và hình như cái chum và đậy miệng lỗ bằng một miếng ván tròn và mỏng.

Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu hỏa. Trên miệng thùng có tấm ván và cây cọc để chống chính giữa sợi mây. Có thùng này tiếng vang càng mạnh. Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu lửa. miệng quay về phía dưới, phía trên có cây cọc chống đáy thùng và căng sợi mây.không cần dùng tấm ván nữa. Có khi người ta không đào lỗ, chỉ lật úp thùng dầu lửa (hay thùng trà) trên mặt đất và căng dây lên trên thùng.

Tóm lại, Trống quân là một loại hát hội vấn đáp giữa nam nữ thanh niên, khuyến khích họ giãi bày tình cảm, thông minh và cốt cách qua trung gian của nghệ thuật, trong không khí vui vẻ tưng bừng của hội thu.

Trích: điển hay tích lạ - Nguyễn Tử Quang


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >