Ông tên tự là Tiết Phu, người làng Lũng Đông huyện Chí Linh (Hải Dương)
thông minh hơn người, nhưng tướng mạo xấu xí. Triều Anh Tông đỗ trạng
nguyên. Khi mới đỗ, vua chê xấu, ông bèn làm bài phú "Ngọc tỉnh liên" để
tự ví mình, có câu: "Không phải là bên trong trống rỗng không có gì:
Than cho số phận thuyền quyên phần nhiều gặp sự trắc trở; nếu cái cuống
lá của ta vẫn đứng thẳng, thì mưa gió có hại gì". Trần Anh Tông xem rồi
khen hay, nhấc lên làm thái học sinh dũng thủ, sung chức nội thư gia.
Ông
đi sứ nhà Nguyên, người Nguyên khinh là nhỏ bé, thường triệu vào phủ tể
tướng; mời ngồi. Trong phủ có bức trướng thêu con chim sẻ đậu trên cành
trúc. Ông chạy đến xem; người Nguyên cười là quê mùa. Ông mới kéo xé
rách con chim sẻ, mọi người lấy làm lạ, hỏi tại sao? Ông đáp: "Tôi nghe
người xưa chỉ vẽ cây mai chim sẻ thôi. Vì trúc là quân tử, sẻ là tiểu
nhân; nay tể tướng lấy trúc với sẻ thêu vào bức trướng thế là lấy tiểu
nhân ở trên quân tử. Tôi sợ đạo tiểu nhân lớn lên, đạo quân tử mòn đi,
nên vì thánh triều trừ bỏ". Mọi người phục là nhanh trí. Khi vào chầu,
gặp người ngoại quốc dâng quạt, ông vâng mệnh làm bài minh, cầm bút viết
ngay. Bài minh rằng:
Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô, Nhĩ ư tư thời hề; y Chu cự nho; Bắc phong kỳ thê vũ tuyết tải đồ, Nhĩ ư tư thời hề: Di tề ngã phu. Y! "Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng". Duy ngã dữ nhữ, hữu thị phù! Nghĩa
là: "Nắng chảy vàng đá ra, trời đất làm lò, mày ở lúc bấy giờ như ông Y
ông Chu là bậc cự nho; gió bấc lạnh lẽo, mưa tuyết đầy đường, mày ở lúc
bấy giờ như ông Di, ông Tề là người chết đói. Ôi! "Dùng đến thì làm,
không dùng thì cất đi, chỉ có ta và mày thôi!".
Người Nguyên càng
thêm khen phục. Thời Minh Tông ông càng được tin dùng hậu đãi. Khi Hiến
tông lên ngôi cho ông làm chức nhập nội hành khiển, lang trung hữu ty,
chuyển sang lang trung tả ty, trải đến chức tả bộc xa ở hàng quan to.
Ông làm quan rất liêm khiết thẳng thắn. Trần Minh tông có lần sai đem
mười quan tiền đến đặt ở cửa; ông vào chầu liền đem việc ấy tâu lên. Đối
với tiền tài, không có cẩu thả như thế. Còn lời thơ thì thanh thoát
đáng ngâm, nhiều bài giọng như thơ đời Đường xưa.
Về sau cháu bảy
đời của ông là Mạc Đăng Dung tiếm ngôi Lê, truy tôn ông là Huệ Cảm Linh
khánh vương và nhân nền cũ của ông ở xã Lũng Đông, xây lên điện Sùng
đức.
* Mạc Đĩnh Chi phảng phất giống với Án Anh thời Xuân thu chiến quốc.
Các bài mới:
Các bài đã đăng:
|