Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương bốn mươi mốt - THÍCH YÊU THỐNG THIÊN
Chương bốn mươi mốt - THÍCH YÊU THỐNG THIÊN
20/01/2019
KINH VĂN

 Túc Thái dương mạch khiến người yêu thống (đau ngang chỗ thắt lưng), đau rút suốt xương sống lên cổ, dưới xuống tới xương khu... Lưng như mang vật gì nặng. Thích Ủy trung thuộc chính kinh Thái dương cho ra huyết. Mùa xuân đừng để thấy huyết.

 Mạch kinh Thiếu dương khiến người yêu thống, như người lấy kim đâm vào trong da cứ co ro, không thể cúi ngửa, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Thích vào đầu thành cốt thuộc kinh Thiếu dương cho ra huyết. Mùa hạ đừng để cho thấy huyết.

 Mạch kinh Dương minh khiến người yêu thống, không thể ngảnh đi ngảnh lại... Nếu ngảnh lại hoảng hốt như trông thấy gì lạ... thích ba nốt tại trước ống chân thuộc kinh Dương minh, để cho trên dưới điều hòa và ra huyết. Mùa thu đừng để cho thấy huyết.

 Mạch kinh túc Thiếu âm khiến người yêu thống, đau suốt xương sống và cổ "nội liêm". Thích hai nốt tại phía trong xương khoai thuộc kinh Thiếu âm. Mùa xuân đừng để cho thấy huyết. Nếu ra huyết quá nhiều sẽ khó hồi phục.

 Mạch kinh Quyết âm khiến người yêu thống, trong "yêu" cứng đờ như giương dây cung nỏ... Thích ở mạch Quyết âm, mạch đó ở sau trong bọng chân, rờ tay vào thấy chỗ nào xúc xỉu tức là mạch, sẽ thích. Bệnh này khiến người hay nói, nhưng lại nói dớ dẩn, nên thích ba nốt.

 Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống, đau rút lên vai, mắt trông mập mờ, thỉnh thoảng lại di niệu. Thích giải mạch tại chỗ bên ngoài khe khớp xương đầu gối, thích hoành mạch ở đó cho ra huyết, mủ trông thấy sắc huyết đổi khác thì thôi. Bệnh ở giải mạch khiến người yêu thống như buộc chắc dây lưng, thường như muốn gãy, lại hay sợ. Mạch này tại Ủy trung, có kết lạc nổi lên như hạt gạo, thích vào đấy sẽ bắn máu ra. Thấy máu biến sắc đen thì thôi.

 Bệnh tại mạch Đồng âm khiến người yêu thống, tại yêu nổi lên như cái dùi nhỏ, sưng và đau. thích mạch Đồng âm tại đầu, Tuyệt cốt phía trên xương khoai thích ba nốt.

 Bệnh ở Dương duy khiến người yêu thống, đau mà nổi cồn lên như thũng. Mạch này cùng với mạch Thái dương hợp, cách xương khoai bảy tấc, cách đất một thước (tức huyệt Thừa sơn).

 Bệnh ở mạch Hành lạc khiến người yêu thống, không thể cúi ngửa. Nếu ngửa lên thời như muốn ngã. Bệnh này gây nên bởi mang vật nặng làm thương đến yêu, ác huyết tụ lại đó. Thích ở khoảng gần Khích dương hai nốt cho ra huyết (ở giữa Ân môn và Ủy trung).

 Bệnh ở mạch Hội âm khiến người yêu thống, lúc đau mồ hôi ra đầm đìa, tới khi mồ hôi ráo đi, khiến người khát muốn uống nước, lúc uống nước rồi lại muốn chạy. Thích mạch trước dương. Thích trên mạch trực dương ba nốt. Mạch này tại trên kiều dưới khích năm tấc, nó nằm ngang. Thấy mạch đó thịnh, phải để cho xuất huyết.

 Bệnh ở mạch Phi dương khiến người yêu thống, lúc đau tê tái ràu rĩ, quá lắm thời kiêm cả bi và khủng. Thích mạch Phi dương tại phía trong xương khoai năm tấc, trước mạch Thiếu âm, cùng hội với mạch Âm duy.

 Bệnh ở mạch Xung dương khiến người yêu thống, đau rút sang TTTg ngực, quá lắm lưng như gãy, mắt trông lòe loẹt, lưỡi cong lại không thể nói. Thích hai nốt ở Nội cân huyệt tại trước Đại cân phía trên xương khoai và dưới xương khoai sau huyệt Thái âm hai tấc.

 Bệnh ở Tán mạch khiến người yêu thống mà nhiệt, nhiệt quá sinh phiền. Trong yêu như có mảnh gỗ chắn ngang, quá lắm thời di niệu. Thích Tán mạch tại khe thịt trước xương gối, tức là Thúc mạch. Thích ba nốt.

 Bệnh ở mạch Nhục lý khiến người yêu thống đau không thể ho, ho thời gân rút gấp. Thích hai nốt ở mạch Nhục lý, huyệt tại bên ngoài huyệt Thái dương và phía sau Tuyệt cốt thuộc Thiếu dương.

 Yêu thống suốt lên xương sống, đau đến nỗi cổ chỉ hơi ngọ ngoạy được; mắt trông lòe loẹt, như muốn ngã. Thích ở huyệt Khích trung thuộc Thái dương cho ra huyết.

 Yêu thống mà bộ phận trên hàn, thích ở huyệt Thái dương, Dương minh. Bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt túc Quyết âm; đau không thể cúi ngửa, thích ở huyệt Thiếu dương, bên trong nóng mà suyễn, thích ở huyệt Thiếu âm và thích ở huyệt Ủy trung cho ra huyết.

 Yêu thống mà bộ phận trên hàn, đến không thể ngảnh đi, âm thụ ngảnh lại, thích ở huyệt túc Dương minh; nếu bộ phận trên nhiệt, thích ở huyệt túc Thái âm; nếu trung nhiệt mà suyễn, thích ở huyệt túc Thiếu âm.

 Đại tiện khó, thích ở huyệt túc Thiếu âm (Dũng tuyền).

 Thiếu phúc mãn, thích ở huyệt túc QUyết âm (Thái xung).

 Đau như gãy, không thể cúi ngửa, không thể cử động, thích huyệt túc Thái dương.

 Đau rút lên trong đường xương sống, thích ở huyệt túc Thiếu âm.

 Yêu thống rút xuống Thiếu phúc, không thể ngửa, thích ở huyệt yêu cầu giao hai bên, lấy số ngày "sinh, tử" của mặt trăng để định nốt thích (1), rút châm, khỏi ngay. Đau bên tả thích bên hữu; đau bên hữu thích bên tả.

Chú giải

 (1) "Nguyệt sinh" tức là từ ngày trăng mới mọc đến ngày mười lăm; "Nguyệt tử" tức là từ ngày mười sáu đến ngày ba mươi. Tính theo số ngày, như mồng một thích một châm, mồng hai thích hai châm v.v... cho đến ngày mười lăm thích 15 châm; từ ngày mười sáu trở đi, lại mỗi ngày rút đi một châm, theo sự khuyết của mặt trăng...

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >