Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương thứ ba mươi sáu - THÍCH NGƯỢC THIÊN
Chương thứ ba mươi sáu - THÍCH NGƯỢC THIÊN
20/01/2019
KINH VĂN

 1. Chứng ngược phát từ kinh túc Thái dương, khiến người yếu đau, đầu nặng, rét từ phía lưng phát sinh, trước hàn sau nhiệt, hơi nóng bừng bừng ngùn ngụt... Lúc nhiệt, mồ hôi toát ra mà bệnh vẫn không dứt. Thích ở huyệt Ủy trung cho ra huyết.

 2. Bệnh phát từ mạch túc Thiếu dương, khiến người thân thể mỏi mệt; không hàn lắm, không nhiệt lắm, ghét thấy người; thấy người phấp phỏng sợ hãi... Nhiệt nhiều, hãn ra nhiều... Nên thích ở huyệt túc Thiếu dương, Hiệp khê.

 3. Bệnh ngược phát từ túc Dương minh, khiến người trước rờn rợn ghê rét... Dần dần lâu mới nhiệt; đến lúc nhiệt giảm, hãn ra, thấy nhật nguyệt quang và hỏa khí, đều lấy làm thích... Thích huyệt túc Dương minh

 4. Bênh ngược phát ra từ túc Thái âm, khiến người không vui, thường thở dài; không thiết ăn, hàn nhiệt nhiều, một khi hãn ra thời bệnh lại phát, phát thời ọe; ọe khỏi thời bệnh lui. Nên thích ngay.

 5. Bệnh ngược phát ra từ túc Thiếu âm khiến người nôn thổ nhiều, nhiệt nhiều hàn ít, chỉ muốn đóng kín cửa lại để nằm... Bệnh này khó khỏi.

 6. Bệnh ngược phát ra từ túc Quyết âm, khiến người yếu đau, Thiếu phúc mãn, tiểu tiện không lợi, như long bế, mà không thật long bế, nhưng lại muốn tiểu luôn; ý chí như sợ sệt, khi bất túc, trong bụng thường áy náy khó chịu... Nên thích túc Quyết âm, Thái xung.

 7. Bệnh ngược phát ra từ Phế, khiến người Tâm hàn, hàn rồi lại nhiệt; nhiệt đỡ lại hay sợ, như trông thấy vật gì... Thích thủ Thái âm, Dương minh.

 8. Bệnh ngược phát ra từ Tâm, khiến người trong Tâm rất phiền, chỉ muốn uống nước mát, lại hàn nhiều nhiệt ít... Nên thích thủ Thiếu âm, Thần môn.

 9. Bệnh ngược phát ra từ Can, khiến người sắc mặt tái xanh, hay thở dài, như người sắp chết... Nên thích túc Quyết âm cho ra máu: Trung phong.

 10. Bệnh ngược phát ra từ Tỳ, khiến người hàn, trong bụng đầy, nhiệt thời ruột sôi; sôi rồi hãn ra. Nên thích túc Thái âm.

 11. Bệnh ngược phát ra từ Thận, khiến người nhờn nhờn ghét, yêu tích đau, phải uốn éo luôn, đại tiện khó, mắt trông trơ tráo mà không tỏ, tay chân lạnh... Thích túc Thái dương, Thiếu âm.

 12. Bệnh ngược phát ra từ Vị, khiến người hay đói mà không ăn được; ăn vào lại đầy nghẽn, bụng to; thích hoành mạch ở túc Thái âm cho ra huyết.

 Bệnh ngược phát rồi mình mới nóng, thích động mạch ở trên xương khoai, lay châm cho rộng, chờ cho ra huyết, sẽ mát ngay.

 Bệnh ngược đương lúc muốn hàn, thích thủ Dương minh, Thái âm, túc Dương minh, Thái âm.

 a. Ngược mạch mãn và đại cấp dùng "trung châm", thích Bối du và bên năm Khư du, mỗi huyệt một châm, theo đúng người béo gầy, chờ cho ra huyết.

 Ngược mạch tiểu, thực và cấp, "cứu" huyệt Thiếu âm ở ống chân, thích huyệt Chỉ tỉnh (là tỉnh huyệt).

 b. Ngược mạch mãn, đại và cấp, thích Bối du, năm Khư du, mỗi nơi một lần, chỉ để vừa hành huyết thời thôi.

 Ngược mạch hoãn và quá hư, nên dùng thuốc uống, không nên dùng châm.

 Phàm trị bệnh ngược, trước khi phát bệnh bằng một bữa ăn (ước nửa giờ đồng hồ) mới có thể chữa. Nếu quá lúc đó, sẽ lỡ, không nên chữa.

 Các bệnh ngược, nếu không thấy biểu hiện ra ở mạch, thích mười đầu ngón tay cho ra huyết, huyết ra tất khỏi. Lại xem ở mình có những nốt đỏ và nhỏ như hạt đậu, cũng thích cả đi.

 c. Mười hai chứng ngược, lúc phát ra không giống nhau và cùng một lúc, phải nên xem xét bệnh hình, để biết thuộc về Tàng nào...

 Biết lúc phát bệnh, trước một lát bằng bữa ăn cơm, sẽ thích. Một lần thích thời tà khí suy, hai lần thích thời bệnh bớt, ba lần thích thời khỏi. Nếu chưa khỏi, thích hai mạch ở dưới lưỡi cho ra huyết; nếu vẫn không khỏi, thích huyệt Ủy trung cho ra huyết; lại thích luôn cả Khư du và Bối du, tất khỏi. Hai mạch dưới lưỡi, tức là Liêm tuyền.

 Thích bệnh ngược, phải thích vào khoảng giữa nơi bệnh sẽ phát. Nếu trước nhức đầu và chân đi khó khăn, nên thích trên đầu với hai bên trán, khoảng giữa hai lông mày trước, cho ra huyết. Nếu cổ và lưng đau trước, cũng thích trước ở các huyệt đó. Nếu yêu tích đau trước, thích huyệt Ủy trung cho ra huyết. Nếu tay và cánh tay đau trước, trước thích ở huyệt thủ Thiếu âm, Dương minh. Nếu ống chân đau nhức trước, thích mười ngón chân thuộc túc Dương minh trước, cho ra huyết.

 Về chứng phong ngược, khi bệnh phát thời hãn ra và ố phong. Thích bỏ huyết ở Tam dương kinh và Bối du.

 Ống chân đau quá, bóp mãi không khỏi, gọi là "Phụ tủy bệnh" dùng "Xàm châm" thích sâu vào xương, huyết ra, khỏi ngay.

 Thân thể hơi đau thích Chí âm.

 Các tỉnh huyệt thuộc âm kinh, chưa ra huyết, nên cách ngày thích một lần.

 Ngược không khát, cách ngày bệnh phát, thích túc Thái dương; khát mà cách ngày bệnh phát, thích túc Thiếu dương.

 Ôn ngược, hãn không ra được, nên thích năm mươi chín huyệt.


Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >