Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương hai mươi ba - TUYÊN MINH NGŨ KHÍ THIÊN
Chương hai mươi ba - TUYÊN MINH NGŨ KHÍ THIÊN
17/01/2019
KINH VĂN

 Sự dẫn vào các Tàng của năm vị: Toan vào Can, Tân vào Phế, Khổ vào Tâm, Hàm vào Thận, Cam vào Tỳ.

 Năm khí gây nên bệnh: Tâm phát ra chứng nấc; Phế phát ra chứng khái; Can phát ra chứng nộ, muốn nói luôn; Tỳ phát ra chứng miệng thường phải nuốt nước miếng; Thận phát ra chứng hay vươn vai và hắt hơi; Vị phát ra chứng khí nghịch, chứng ọe (ợ) và chứng khủng (sợ); Đại trường, Tiểu trường phát ra chứng tiết (tả); Hạ tiêu ràn thành chứng thủy; Bàng quang không lợi thành chứng long (tiểu tiện vít, đau), hoặc bất cước (tức tiểu tiện bất cấm) và di niệu (són đái); Đởm phát ra chứng nộ. Đó là năm bệnh của năm Tàng, hợp với khí hậu của năm hành.

***

 Tinh khí của năm Tàng cùng dồn lại, sẽ phát ra các chứng: Tinh khí dồn lên Tâm thì thành chứng hay hỷ; dồn lên Phế thì thành chứng hay bi; dồn lên Tỳ thì thành chứng hay úy; dồn xuống Thận thì thành chứng hay khủng. Năm chứng "dồn" đó, bởi vì hư mới có thể dồn.

 Năm sự ghét của năm Tàng: Tâm ghét nhiệt; Phế ghét hàn; Can ghét phong; Tỳ ghét thấp; Thận ghét táo.

 Năm Tàng hóa ra chất lỏng: Tâm hóa ra hãn; Phế hóa ra thế (nước mũi); Can hóa ra lệ (nước mắt); Tỳ hóa ra diên (nước dãi); Thận hóa ra thóa (nước miếng).

 Sự cấm kỵ của năm vị: vị tân dẫn vào khí, khí mắc bệnh không nên ăn nhiều vị tân; vị hàm dẫn vào huyết, huyết mắc bệnh không nên ăn nhiều vị hàm; vị khổ dẫn vào xương, xương mắc bệnh không nên ăn nhiều vị khổ; vị cam dẫn ra thịt, thịt mắc bệnh không nên ăn nhiều vị cam; vị toan dẫn vào cân, cân mắc bệnh không nên ăn nhiều vị toan.

 Các chứng bệnh phát ra ở năm Tàng: Thận âm mắc bệnh phát ra ở cốt; Tâm dương mắc bệnh phát ra ở huyết; Tỳ âm mắc bệnh phát ra ở nhục; Can dương mắc bệnh phát về mùa đông; Phế âm mắc bệnh phát về mùa hạ.

 Năm sự rối loạn phát sinh bởi tà khí: Tà lấn vào dương thì phát bệnh cuồng; Tà lấn vào âm thì phát bệnh tý; Dương khí dồn lên thì phát bệnh đau ở đầu; Âm khí dồn lên thành chứng không nói được; tà ở dương phận lấn vào âm thì bệnh nhân yên tĩnh; tà ở âm phận lấn vào dương thì bệnh nhân hay nộ.

 Năm tà khí hiện ra mạch: Mùa xuân hiện mạch của mùa thu, mùa hạ hiện mạch của mùa đông, mùa trưởng hạ hiện mạch của mùa xuân, mùa thu hiện mạch của mùa hạ, mùa đông hiện mạch của mùa trưởng hạ... Đó gọi là từ âm phận hiên ra dương phận đều là tà khí thắng, khó chữa.

 Các thứ "tàng" của năm Tàng: Tâm tàng thần, Phế tàng phách, Can tàng hồn, Tỳ tàng ý, Thận tàng chí.

 Các thứ sở chủ do năm Tàng: Tâm chủ về mạch, Phế chủ về bì (da), Can chủ về cân, Tỳ chủ về nhục, Thận chủ về cốt.

 Năm sự thái quá (lao, nhọc) làm thương đến năm Tàng. Trông lâu là thương đến huyết; nằm lâu làm thương đến khí; ngồi lâu làm thương đến nhục; đứng lâu làm thương đến cốt; đi lâu làm thương đến cân.

 Năm mạch ứng với bốn mùa: Mạch của Can huyền, mạch của Tâm câu, mạch của Phế mao, mạch của Tỳ đại, mạch của Thận thạch.


Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >