Trang chủ arrow Dược học arrow ĐINH LĂNG
ĐINH LĂNG
28/09/2006

 

 Không chỉ là cây cảnh thông dụng, cây rau được ưa dùng khi ăn gỏi, đinh lăng còn là một vị thuốc nam có tính năng chống dị ứng, giải độc thức ăn, chống mệt mỏi và làm tăng sức dẻo dai của cơ thể.

 
Mô tả
 
Đinh lăng còn được gọi là cây gỏi cá, tên khoa học là Polyscias Fruticosa Harms thuộc họ ngũ gia bì (Araliaceae). Cây có lá kép, mọc so le, lá 3 lần xẻ lông chim, mép khía có răng cưa. Hoa nhỏ màu trắng, mọc thành tán. Quả dẹt, dài 3 - 4 mm, dày khoảng l mm. Lá đinh lăng phơi khô, nấu lên có mùi thơm đặc trưng, dân gian gọi nôm na là mùi 'thuốc bắc'. Lá tươi không có mùi thơm này.
 
Dược tính và công dụng
 
Trong dân gian, đinh lăng thường dùng để trị ho ra máu, chữa tắc tia sữa, làm mát huyết, lợi tiểu, chữa mẫn ngứa. Lá đinh lăng cũng được dùng để nấu canh với thịt, cá để bồi bổ cho sản phụ, người già hoặc người ốm mới dậy.
 
Theo y học cổ truyền, rễ đinh lăng có vị ngọt, hơi đắng, tính mát có tác dụng thông huyết mạch, bồi bổ khí huyết, lá có vị đắng, tính mát có tác dụng giải độc thức ăn, chống dị ứng, chữa ho ra máu, kiết lỵ. Nói chung, ngoài tác dụng lương huyết và giải độc thức ăn, những tính chất khác của đinh lăng gần giống như nhân sâm.
 
Theo nghiên cứu của Học viện Quân sự Việt Nam, dung dịch cao đinh lăng có tác dụng:
 
Tăng biên độ điện thế não, tăng tỉ lệ các sóng alpha, bêta và giảm tỉ lệ sóng delta. Những biến đổi này diễn ra ở vỏ não mạnh hơn so với ở thể lưới.
 
Tăng khả năng tiếp nhận của các tế bào thần kinh vỏ não với các kích thích ánh sáng.
 
Tăng nhẹ quá trình hưng phấn khi thực hiện phản xạ trong mê lộ.
 
Tăng hoạt dộng phản xạ có điều kiện gồm phản xạ dương tính và phản xạ phân biệt.
Nhìn chung, dưới tác dụng của cao đinh lăng, vỏ não được hoạt hóa nhẹ và có tính đồng bộ, các chức năng của hệ thần kinh về tiếp nhận và tích hợp đều tốt hơn.
 
Một vài đơn thuốc có sử dụng đinh lăng
 
Bồi bổ cơ thể, ngừa dị ứng
 
Lá đinh lăng tươi từ 150 - 200 g, nấu sôi khoảng 200 ml nước (có thể dùng nước sôi có sẵn ở 'phích'). Cho tất cả lá đinh lăng vào nồi, đậy nắp lại, sau vài phút, mở nắp và đảo qua đảo lại vài lần. Sau 5 - 7 phút, chắt ra để uống nước đầu tiên, đổ tiếp thêm khoảng 200 ml nước vào để nấu sôi lại nước thứ hai. Cách dùng lá tươi thuận tiện vì không phải dự trữ, không tốn thời gian nấu lâu, lượng nước ít, người bệnh dễ uống nhưng vẫn bảo đảm được lượng hoạt chất cần thiết.
 
Chữa tắc tia sữa
 
Rễ đinh lăng 40 g, gừng tươi 3 lát đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
 
Chữa nổi mề đay, mẩn ngứa do dị ứng
 
Lá đinh lăng khô 80 g, đổ 500 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày.
 
Ho suyễn lâu năm
 
Rễ đinh lăng, bách bộ, đậu săn, rễ cây dâu, nghệ vàng, rau tần dày lá tất cả đều 8 g, củ xương bồ 6 g; Gừng khô 4 g, đổ 600 ml sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống lúc thuốc còn nóng.
 
Phong thấp, thấp khớp
 
Rễ đinh lăng 12g; cối xay, hà thủ ô, huyết rồng, cỏ rễ xước, thiên niên kiện tất cả 8 g; vỏ quít, quế chi 4 g (riêng vị quế chi bỏ vào sau cùng khi sắp nhắc ấm thuốc xuống).
 
Đổ 600 ml nước sắc còn 250 ml. Chia làm 2 lần uống trong ngày. Uống khi thuốc còn nóng.
 
Nguyễn Hạnh (Sưu tầm theo báo Sức khỏe & Đời sống)

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >