Trang chủ arrow Đông y khái luận arrow Chương chín - LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬN
Chương chín - LỤC TIẾT TẠNG TƯỢNG LUẬN
28/01/2018
KINH VĂN

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tôi nghe: Trời do cái tiết "sáu sáu" để làm nên một năm; người do cái số "chín chín" để "chế hội"; tính ra người cũng ba trăm sáu nhăm tiết, để hợp với trời đất, đã lâu rồi. Nghĩa đó như sao, xin cho biết (1).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cái tiết "sáu sáu" và "chín chín" chế hội, là cốt để phân rõ "thiên độ" và ghi rõ "khi số" (2).
 
 Thiên độ cốt là chỉ để đo sự vận hành của nhật nguyệt. Khí số cốt để ghi cái công dụng của hóa sinh (3).

 Thiên là dương, địa là âm; nhật là dương, nguyệt là âm; sự vận hành có phận kỷ, mỗi một chu có đường lối. Nhật vận hành được một độ, thì nguyệt vận hành được mười hai độ, mà còn lẻ nữa. Cho nên tính cả tháng thiếu, tháng đủ, cộng ba trăm sáu mươi nhăm ngày mà thành một năm, chứa các khí "doanh, sóc, hư" lại mà thành ra tháng nhuận (4).

 Lập cây thẳng lên làm nêu để nhận phương hướng , tính kỹ những giờ khắc thừa... Đó là hoàn tất cái nhiệm vụ thiên độ (5).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tôi nghe thiên độ rồi. Xin cho nghe khí số, hợp lại với nhau như thế nào? (6)

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Trời lấy "sáu sáu" làm tiết, đất lấy "chín chín" chế hội (7).

 Trời có mười ngày, chọn sáu lần mười ngày mà chu giáp thì thành một năm (VIII).

 Những bực thông thiên đời xưa, biết được cái gốc về sự sống của con người, là gốc ở âm dương. Cái khí đó ở đất thì chín châu, ở người thì là chín khiếu và thông với tam khí (9).

 Cho nên sinh ra năm, mà khí thì có ba (10). Do ba mà thành trời; do ba mà thành đất; do ba mà thành người (11).

 Ba mà nhân với ba, hợp lại thì thành chín, chí chia ra làm chín dã (khu vực); chín dã chia ra làm chín tàng(12).
 
 Cho nên ở con người, về hữu hình có bốn Tàng, về "thân có năm Tàng" hợp lại thành chín Tàng để ứng với chín "dã" ở trên (13).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tôi được nghe cái tiết "sáu sáu" và cái số "chín chín" rồi. Trên kia Phu Tử nói: "Chứa khí... thành nhuận". Vậy chẳng hay thế nào là khí? (14)

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Năm ngày là một "hậu", ba "hậu" là một "khí", sáu "khí" là một mùa, bốn mùa là một năm... Mà đều theo khí của mùa để làm chủ trị (15).

 Năm vận cùng rập theo nhau, để cùng đi; cứ đến chọn cái tháng cuối năm, hết vòng rồi lại bắt đầu. Mùa đã lập, khí tán bố, như vòng không chỗ nối. Về "hậu" cũng một khuôn phép ấy (16).

 Cho nên nói rằng: "Không biết sự da lâm" trong một năm, sự suy hay thịnh của khí và hư thực bởi đâu phát sinh... Không thể gọi là  "lương công" (17).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 Bắt đầu năm vận, quanh đi như vòng không đầu mối. Vậy về "thái quá" và "bất cập" như thế nào? (18)

 Kỳ Bá thưa rằng: 

 - Năm khí thay đổi, đều có "sở thắng", "thịnh" hay "hư" xảy ra là cái lệ thường (19).

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Thế nào là bình khí?

 Kỳ Bá thưa rằng: 

 - Không sai với thường hậu là bình (20).

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Thế nào là thái quá và bất cập?

 Kỳ Bá thưa rằng: 

 - Ở kinh đã có nói rồi (21).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Thế nào là sở thắng?...

 Kỳ Bá thưa rằng: 

 - Xuân thắng Trưởng hạ, Trưởng hạ thắng Đông, Đông thắng Hạ, Hạ thắng Thu, Thù thắng Xuân... Đó là được cái thắng về năm hành; nhân lấy cái khí đó để đặt tên cho Tàng (22).

Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Sao lại biết là thắng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Cốt tìm ở cái khí của nó, nhưng đều phải bắt đầu từ mùa Xuân. Nếu khí chửa đến mà đã đến, thì gọi là thái quá. Nó sẽ bách cái "sở bất thắng", mà lấn cái "sở thắng". Như thế gọi là khí dâm không phân, tật bệnh sẽ sinh ra ở bên trong, lương công cũng không thể ngăn được (23). Nếu đã đến mà không đến, thì gọi là bất cập. Như thế thì cái "sở thắng" nó sẽ vọng hành, mà cái "sở sinh" sẽ thụ bệnh. Vì cái sở bất thắng nó bách đến nỗi thế. Nên gọi là "khí bách" (24).

 Ta cần phải cầu cái lúc khí nó đến. Cẩn thận để chờ cho đúng lúc, khí có thể cùng hẹn. Nếu trái cái thời hậu ấy, thì cái khí của năm vận sẽ không phân, tật bệnh sẽ sinh ra ở bên trong, dù lương công cũng không chữa được (25).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Có sự gì duyên tập (26) chăng?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Khí của trời, không thể nào vô thường. Nếu khí không duyên tập, tức là phi thường; phi thường thì là biến (27).

 Hoàng đế hỏi rằng:

 - Phi thường thì sẽ biến như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Biến đến thì mắc bệnh; sở thắng thì nhẹ, sở bất thắng thì nặng. Nhân đó mà lại mắc thêm tà khí thì sẽ chết. Cho nên không phải "thời" của nó thì bệnh nhẹ, đúng vào thời của nó thì bệnh nặng (28).

***

 Hoàng Đế hỏi rằng:

 - Tôi nghe: Khí hợp mà có hình, nhân biến mà đặt tên; cái vận của trời đất, sự hóa của âm dương, đối với muôn vật, cái gì ít, cái gì nhiều, xin cho biết (29).

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Loài thảo sinh ra năm sắc, đến sự biến của năm sắc, sức mắt không thể trông siết; loài thảo sinh ra năm vị; đến cái ngon của năm vị, người ta không thể dùng siết (30).

 Sự thị dục của các Tàng không giống nhau, mà đều có giao thông với nhau (31). Trời nuôi con người lấy năm khí, đất nuôi con người bằng năm vị. Năm khí vào mũi, chứa ở Tâm Phế, khiến cho năm sắc sáng sủa, tiếng nói rõ ràng; năm vị vào miệng, chứa ở Trường Vị. Vị có nơi chứa, để nuôi năm khí. Khí hòa sẽ cùng sinh tân dịch thấm nhuần, "thần" do đó sẽ sinh ra (32).

***

 Hoàng Đế hỏi:

 - Hình tượng của các Tàng như thế nào?

 Kỳ Bá thưa rằng:

 - Tâm là cái gốc của sinh mệnh con người, sự biến hóa của thần do đó mà sinh ra. Vẻ tươi đẹp hiện lên mặt và đầy đủ khắp huyết mạch. Nó là kinh Thái dương ở trong dương, thông với khí mùa Hạ (33).

 - Phế là cái gốc của khí, phách ký túc ở đó. Nó phát hiện ra ngoài lông và đầy ở trong bì phu. Nó là Thái âm ở trong dương, thông với khí mùa Thu (34).

 - Thận là một nơi gốc của sự bế tàng, "tinh" chứa ở nơi đó, nó tốt đẹp lên tóc, đầy đủ ở trong xương. Nó là âm ở trong Thiếu âm, thông với khí mùa Đông (35).

 - Cần là cái gốc của sự làm lụng khó nhọc, hồn ký túc ở đó, nó tươi đẹp ra các móng tay chân và đầy đủ ở trong gân. Nó sinh ra huyết khí. Thuộc về vị là chua, thuộc về sắc là xanh. Nó là Thiếu dương ở trong dương, thông với khí mùa Xuân (36).

 - Tỳ, Vị, Đại trường, Tiểu trường, Tam tiêu, Bàng quang... là cái gốc của kho đụn. Vịnh gửi ở nơi đó, gọi nó là một cơ quan như đồ dùng. Nó hóa được các chất cặn bã và du chuyển các vị vào hay ra. Nó tươi đẹp lên môi và xung quanh miệng. Nó đầy đủ ra ở thịt. Thuộc về vị là ngọt, thuộc về sắc là vàng. Nó là chí âm, thông với thổ khí (37).

* Tổng cộng tất cả mười một Tàng đều thủ quyết ở Đởm (38).

 Cho nên: Mạch ở Nhân nghinh thấy một thinh thì bệnh ở Thiếu dương; thấy hai thịnh thì bệnh ở Thái dương; thấy ba thịnh thì bệnh ở Dương minh; thấy bốn thịnh trở lên thì tức là cách dương (39).

 Mạch ở thốn khẩu thấy một thịnh thì bệnh ở Quyết âm; thấy hai thịnh thì bệnh ở Thiếu âm; thấy ba thịnh thì bệnh ở Thái âm, thấy bốn thịnh trở lên thì tức là Quan âm (40).

 Mạch ở Nhân nghinh với Thốn khẩu đều thấy thịnh, gấp bốn lần trở lên thì gọi là quan cách. Mạch về chứng quan cách, nếu quá không thể hợp được với tinh khí của trời đất, thì sẽ phải chết (41).

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >