Trang chủ arrow Châm cứu án ma arrow 24. Bệnh quyết (Quyết bệnh)
24. Bệnh quyết (Quyết bệnh)
01/10/2017
Nội dung: Quyết là khí nghịch - Phần này nói về 5 loại đau đầu do quyết, 6 loại bệnh Tim do quyết, gồm triệu chứng, điều trị, tiên lượng.

- Đau đầu do quyết, mặt nặng, tâm phiền, lấy Túc dương minh, thái âm.

- Đau đầu do quyết, làm mạch ở đầu đau từng cơn, bi quan, hay khóc. Nếu mạch ở đầu thịnh, châm nặn máu để tả hết huyết ứ, rồi sau mới điều hòa Túc quyết âm (kinh Can hội ở đỉnh đầu).

- Đau đầu do quyết, có đầu nặng và đau thì tả (khí nghịch) ở 25 huyệt trên 5 hàng mạch ở đầu, nhưng trước hết phải tả (nhiệt) ở kinh Thủ thiếu âm rồi đến kinh Túc thiếu âm để bổ thủy (25 huyệt là: mạch đốc 5 huyệt - Thượng tinh, Tín hội, Tiền đình, Bách hội, Hậu đỉnh. 10 huyệt của hai hàng kinh Bàng quang - Ngũ xứ, Thừa quang, Thông thiên, Lạc khước, Ngọc chẩm. 10 huyệt của 2 hàng kinh Đởm - Lâm khấp, Mục song, Chính doanh, Thừa linh, Não không).

- Đau đầu do quyết làm trí nhớ giảm, sờ không thấy chỗ đau rõ ràng thì lấy mạch đập (Dương minh) 2 bên đầu mặt (để tả tà khí) sau đó lấy Túc thái âm (để bổ Tỳ khí).

- Đau đầu do quyết làm đầu đau nặng, mạch lạc ở trước và sau tai đầy ắp và nóng, tả nhiệt bằng châm, nặn máu huyết đó, sau đó châm Túc thiếu dương.

- Chân đầu thống (do phong hàn qua các kinh dương ở đầu vào não) có đầu rất đau, óc rất đau (tà vào não) chân tay lạnh toát quá gối, khuỷu (âm tà vào tủy hải) bệnh khó chữa và chết.

- Có bệnh đau đầu song không thể lấy huyệt du để chữa được. Như đau do bị đánh ngã, ngã từ cao xuống, huyết ứ tắc ở trong, nếu đau của cơ bị thương chưa hết, thì chỉ có thể châm ở chỗ đầu đau, không lấy huyệt ở xa chỗ đau để chữa được (vì đau ở đấy không phải do khí nghịch gây nên).

- Đau đầu mà không thể châm được là vì ác chứng của bệnh tý nặng. Song nếu ngày nào cũng lên cơn đau, châm có thể giảm nhẹ, nhưng không chữa khỏi được.

- Đau 1/2 đầu do lạnh, lấy Thủ thiếu dương, Dương minh trước, rồi lấy Túc thiếu dương, Dương minh để chữa (do hàn vào hai kinh trên).

- Quyết Tâm thống (Tim đau do quyết) có đau lan ra lưng, thỉnh thoảng co rút ở trước, sau như là đau khi sờ vào Tim, chạy từ sau ra trước, làm cho người gù lại, đó là Thận Tâm thống, lấy Kinh cốt, Côn lôn để chữa trước, nếu cơn đau không dứt, lấy Nhiên cốc để chữa (tả thực nhiệt ở Bàng quang, Thận).

- Tim đau do quyết gây bụng trướng, ngực đầy (do Vị khí nghịch), Tâm đau nặng (lên tâm), là do Vị Tâm thống, châm Đại đô, Thái bạch (kinh Tỳ) (để đưa khí nghịch của Vị ra ngoài).

- Tim đau do quyết gây đau như chùy đánh, đâm vào Tim làm Tim rất đau, là do tý Tâm thống, châm Nhiên cốc, Thái khê (kinh Thận) (để tả thấp khí, hàn khí, tụ ở Thận thừa lên Tâm).

- Tim đau do quyết có sắc bệnh như chết và cả ngày không thể thở dài được, là do Can Tâm thống, châm Hành gian, Thái xung để chữa.

- Tim đau do quyết có nằm hoặc nghỉ thì Tim đau nhẹ, nếu động thì Tim đau tăng song sắc không đổi, là do Phế Tâm thống. Châm Ngư tế, Thái uyên (để tả Phế khí nghịch) - Chân Tâm thống (tà vào Tâm), có chân tay lạnh đến gối khuỷu trở lên, Tim rất đau, ban ngày phát thì đêm chết, ban đêm phát thì sớm hôm sau chết (vì Tâm không thể bị tà khí vào).

- Có lúc Tim đau không thể châm được là vì trong (Tim) có tích tụ hoặc huyết ứ, không thể chữa bằng châm huyệt được.

- Khi trong ruột có khối do trùng (trùng hà) và giun, thì đều không thể dùng hào châm để chữa. Tâm trường thống gây cơn đau mạnh không chịu nổi, hoặc bụng có hòn hoặc đau xuyên lên xuống ra vào, lúc đau lúc không, bụng nóng, hay khát, chảy dãi đều do giun cả. Chữa bằng cách ngón tay chụm lại sờ nắn chỗ đau, nếu thấy giun thì giữ lại, lấy kim to châm, giữ cho đến khi giun không động nữa mới rút kim. Nói chung, cơn đau bụng do giun không chịu nổi và khối cục từ trung công lên thượng tiêu.

- Tai điếc không nghe thấy lấy Thính cung, tai ù lấy động mạch trước tai (Nhĩ môn). Tai đau mà không thể châm được là do trong tai có mủ hoặc dáy tai nhiều quá nút mất lỗ tai, làm cho không nghe được. Tai điếc có thể châm mé ngoài móng ngón tay thứ 4 (Quan xung), lấy kinh Thiếu dương tay trước (Quan xung), lấy kinh chân sau (Khiếu âm). Tai ù lấy huyệt tay bên trái và ngược lại. lấy kinh Quyết âm tay trước (Trung xung), lấy kinh chân sau (Đại đôn)..

- Chi dưới từ bàn chân đến háng không động được, để bệnh nhân nằm nghiêng, châm huyệt Hoàn khiêu bằng kim tròn sắc (viên lợi châm), không dùng kim to để châm được.

- Bệnh (do khí nghịch đổ vào kinh lạc làm) ỉa máu (là do Can không nạp huyết) dùng huyệt Khúc tuyền.

- Phong tý làm hao người, bệnh diễn biến ngày một xấu, chân lạnh như ngâm vào băng, có lúc lại nóng như ngâm vào nước nóng, đùi cẳng chân hao mòn, tâm phiền đau đầu, lúc nôn. lúc bồn chồn, vừa hết đầu váng mắt hoa thì ra mồ hôi, lâu ngày thành mắt hoa quay cuồng, bi ai hoặc vui, hoặc sợ hãi, ngắn hơi, không vui, không sống nổi đến 3 năm thì chết (âm dương bị bệnh).

Tin liên quan

Các bài mới:

Các bài đã đăng:

 
< Trước   Tiếp >