Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Ba 28, 2024, 08:52:30 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 2 [3] 4 5 6   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca  (Đọc 28912 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #30 vào lúc: Tháng Ba 12, 2018, 11:03:43 AM »

Mục 21

Kìa ai trướng mãn phúc trung,
Hiệu là đầy bụng cho thông chứng rày.
Ăn vào lại mửa ra ngay,
Nhân chưng con Vị (Dạ dày) chẳng sai những là.
Cứu huyệt Đản trung chớ ngoa,
Cùng Thượng quản huyệt vậy hòa cho minh.
Ta lại cứu huyệt Trung đình,
Cùng Hạ quản huyệt mấy linh nghiệm rày.
Nào huyệt Thái bạch đâu nay?

1820. Ở ngón chân cái ngày rày bên trong.
Cứ bản tiết hậu cho thông,
Lấy ngay ở dưới làm song cho tường.
Thịt đỏ thịt trắng hai phương,
Huyệt điểm lấy giữa một dường phải thay.
Châm đến một phân bằng nay,
Ngải đốt ngày rày mỗi huyệt năm trang.

21. Chữa bụng đầy không muốn ăn, ăn vào thì mửa ra:

K14. Đản trung: (Xem mục 3 ở trên) cấm châm, cứu 7 mồi.

K14. Thượng quản: (Xem mục 18 ở trên) châm 1 phân, cứu 14 đến 100 mồi.

K14. Trung quản: (Xem mục 8 ở trên) châm 8 phân, lưu 7 hô, cứu 14 đến 100 mồi.

K14. Trung đình: (Xem mục 3 ở trên) châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K14. Hạ quản: (Xem mục 4, 8 ở trên).

K4. Thái bạch: 2 huyệt ở chỗ lõm phía sau đốt xương /thứ nhất/ mé trong ngón chân cái. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 12, 2018, 11:44:00 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #31 vào lúc: Tháng Ba 12, 2018, 11:45:12 AM »

Mục 22

Kìa ai thoát giang (lòi dom) lạ sao,
Ta cứu huyệt nào thu được dom lên.
Lấy huyệt Bách hội ở trên,

1830. Cùng Mệnh môn huyệt cho yên thuở rày.
Lại cứu huyệt Trường cường nay,
Này khỏi lỗ đít ngày rày cho thông.
Trường cường ở dưới xương cùng,
Bên trên lỗ đít làm song những là.
Ta liền lấy giữa chớ ngoa,
Mực điểm làm dấu vậy hòa kể đi.
Châm vào một phân một khi,
Ngải đốt vậy thì cho hai bảy tao (14 mồi).
Lại cứu Trung cực hay sao,

1840. Ngải đốt ba bảy châm vào ba phân.

22. Đại tràng hư lạnh, lòi dom không thu vào được:

K13. Bách hội: (Đã nói ở trên).

K13. Mệnh môn: Huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 14, cúi mà lấy huyệt. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K13. Trường cường: Huyệt ở chót xương cùng /chỗ lõm ở khoảng giữa đầu mút xương cùng và hậu môn/. Châm 2 phân, cứu 30 đến 100 mồi. Chổng mông mà lấy huyệt.

K14. Trung cực: (Xem mục 4 ở trên).
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 12, 2018, 06:11:51 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #32 vào lúc: Tháng Ba 12, 2018, 06:22:06 PM »

Mục 23

Này đoạn tiểu nhi kể ra,
Các chứng cho biết vậy hòa mấy hay.
Mới sinh được ba bốn ngày,
Hoặc là hai bảy ngày rày chẳng yên.
Vợ chồng năn nỉ kêu van,
Con nó chẳng biết vì chưng thế nào.
Đêm ngày nó những khóc gào,
Năm canh chẳng ngủ khôn (khó) sao những là.
Mời thầy mở sách xem ra,

1850. Hoặc có phải tà nó quấy con tôi.
Thầy rằng chẳng lệ (gở) chi nuôi,
Ta cứu một mồi tẩn ngẩn cắt thân.
Lấy huyệt thừa tương cho cần,
Châm vào cho đến một phân thuở rày.
Một viên bằng phân rơi nay,
Ngải đốt ngày rày cho đủ làm song.

23. Chữa trẻ con khóc đêm không bú:

K14. Thừa tương: (Xem mục 13 ở trên).
Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #33 vào lúc: Tháng Ba 12, 2018, 06:35:54 PM »

Mục 24

Này là tiểu nhi kinh phong,
Chân tay giật hết giồ rung khi này.
Lại thêm cấm khẩu bằng nay,

1860. Mắt thì trực thị ngày rày ngược lên.
Hình như đã chết tự nhiên,
Nước rãi nhầy nhớt hai bên nước hàm.
Hiệu là Càn sát càn bà (ma quan sát),
Nào ai có biết bệnh hòa kinh phong.
Cứu Bách hội huyệt cho thông,
Ngải tày phân sẻ đốt tày ba trang.
Xem nơi nó bú cho yên,
Lấy Phục nguyên huyệt bên trên những là.
Lấy mé thịt đen chớ xa,

1870. Ngay xuống vậy hòa Trực cốt huyệt nay.
Trên huyệt Phục nguyên khi nay,
Ngải tày phân sẻ đốt rày ba trang.
Bảo cứu huyệt ấy cho tường,
Nam tả nữ hữu phải phương kẻo nhầm.

24. Chữa trẻ con kinh phong, chân tay co giật, cắn răng trợn mắt:

K13. Bách hội: (Xem mục 6 ở trên).

(1) Phục nguyên: 2 huyệt, ở trên vú tận chỗ thịt đen, đối với huyệt Trực cốt /ở dưới/, nam dùng bên tả, nữ dùng bên hữu. Cứu 3 mồi.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 12, 2018, 06:38:53 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #34 vào lúc: Tháng Ba 12, 2018, 06:39:54 PM »

Mục 25

Kìa ai nóng rét bằng nay,
Hoặc phải cách nhật, hoặc rày liên chi.
Hoặc có đau đầu một khi,
Càng thêm nháy mắt vậy hòa khốn sao.
Chứng ấy ta cứu huyệt nào?

1880. Cứu Thượng tinh huyệt bảo tao trên đầu.
Khiến nó đứng dậy chớ lâu,
Hai bàn chân lại kề nhau cho bằng.
Tức thì lấy cái thích thằng (dây),
Quàng lấy hai gót cho năng thuở này.
Đo vi nhiễu (vòng quanh) dây chân nay,
Chập lại ngày rày đến ngón cái chân.
Hai đầu giáp lại cho cân,
Lấy dao cắt hẳn hòa phân hai đầu.
Đem lại sau lưng chớ lâu,

1890. Quàng ngang trước cổ lẽ màu hòa suy.
Hai đầu rủ xuống một khi,
Chung lại làm một vậy thì bằng nhau.
Rủ ngay xương sống đến đâu,
Mực điểm áp đầu dây ấy chớ xa.
Hoặc đương nóng rét kia là,
Lấy huyệt khi tỉnh vậy hòa mấy hay.
Đợi cơn nó sốt đến nay,
Ngải ta liền đốt thuở rày ba trang.
Danh gọi là huyệt Bối lam,

1900. Chủ trị ngược tật (sốt rét) thường thường hay chi.
Hoặc có người sốt lâu ghê,
Thích (dây) đo hai đầu nuốm vú kia ơi.
Cắt ra chập lại chung đôi,
Ta bẻ lấy nửa, nửa rồi bỏ đi.
Đặt xuống nuốm vú một khi,
Đo thẳng liền xuống vậy thì đều nhau.
Mực điểm dây ấy áp đầu.
Bẩy trang ngải đốt chớ lâu chi là,
Tiên hiền người đã dạy ta

1910. Nam thì cứu tả, nữ hòa hữu nay.
Cùng cứu huyệt Hợp cốc tày,
Lấy y như trước thuở này mấy thông.
Hoặc là sốt rét làm song,
Cứu Đại chùy huyệt liền cùng Bách lao.

25. Chữa sốt rét cơn lâu năm hay mới phải, đều dùng:

K13. Thượng tinh: (Xem mục 1 ở trên) dùng kim tam lăng nhỏ mà châm, cứu 7 mồi.

(n) Bối lam: Bảo người bệnh đứng thẳng, hai bàn chân để sát nhau, dùng một sợi dây quây vòng quanh hai bàn chân đến đầu ngón chân cái, lấy dao cắt đi. Rồi đem dây ấy quàng trước cổ cho hai đầu múi dây thòng về sau lưng, chập hai múi đầu dây vào giữa xương sống đến đâu là huyệt ở đấy.

(m) Nhũ ảnh: Huyệt này, dùng một sợi dây (rơm) đo khoảng hai đầu vú, cắt lấy một nửa (tức đến huyệt Đản trung), để đo từ nuốm vú thòng xuống đến đâu là huyệt ở đấy. Nam cứu bên tả, nữ cứu bên hữu, cứu 3 mồi.

K2. Hợp cốc: (Xem mục 6 ở trên) châm 5 phân, cứu 7 mồi.

K13. Đại chùy: (Xem mục 13 ở trên) châm 5 phân, lưu 3 hô, cứu mỗi tuổi một mồi.

(b) Bách lao: (Xem mục 5 ở trên) châm 5 phân, cứu 7 mồi.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 14, 2018, 03:18:30 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #35 vào lúc: Tháng Ba 14, 2018, 03:23:36 PM »

Mục 26

Kìa ai nằm thường chiêm bao,
Đêm đêm nhấp thấy quỷ giao dâm cùng.
Ăn ở như hình vợ chồng,
Khiến tinh bất cấm (tiết ra) làm song những là.
Cứu huyệt Cao hoang trừ tà,

1920. Cùng Quỷ nhãn huyệt vậy hòa phải thay.
Cùng huyệt Gian sử bằng nay,
Cùng Thận du huyệt thuở rày cho yên.
Lại huyệt Trung Cực cho an,
Cùng Nhiên cốc huyệt phép tiên như thần.
Lại tả Tam lý cho cần,

1926. Cùng huyệt Khí hải vân vân những là.

26. Chữa nằm ngủ thấy mê giao cấu và xuất tinh
(Mộng tinh)

K7. Cao hoang: (Xem mục 5 ở trên) cứu 100 đến 300 mồi.

K14. Trung cực: (Xem mục 4 ở trên) châm 8 phân, lưu 10 hô, cứu 100 đến 300 mồi.

(e) Quỷ nhãn: (Xem mục 7 ở trên).

K9. Giản sử: (Xem mục 7 ở trên) châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K14. Khí hải: (Xem mục 4 ở trên).

K7. Thận du: (Xem mục 5 ở trên).

K10. Nhiên cốc: 2 huyệt ở giữa chỗ lõm dưới xương trước mắt cá trong. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K3. Túc tam lý: (Xem mục 5 ở trên) châm 1 phân, cứu 7 mồi.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 15, 2018, 09:11:53 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #36 vào lúc: Tháng Ba 15, 2018, 09:57:40 AM »

Tóm tắt phần 2
(Của người dịch)

 Tổng hợp việc dùng huyệt chữa bệnh theo các mục (*) trong thiên "Tổng luận kinh sử chư bệnh dụng huyệt quốc ngữ ca".

1. Nhức đầu, nhức óc, chóng mặt:

Thượng tinh (13), Bách hội (13), Tứ hoa ở đầu (a), Phong trì (11), Phong phủ (13), và tả Thân mạch (7).

Thái y viện Hậu Lê thêm: Thừa quang (7), Thái dương (ngoài kinh) (a), Thần đình (13), Não hộ (13).

2. Đau đầu cứng gáy, đau vai mỏi cổ:

Phong trì (11), Đại chùy (13), Bách lao (ngoài kinh) (b), Đại trữ (7).

Bổ sung: Kiên ngung (2), Kiên tỉnh (11).

3. Đau mỏ ác, nhức nhói ở hông sườn:

Đản trung (14), Trung đình (14), Đại lăng (9), Nội quan (9), Thiên ứng (châm cứu trên chỗ đau).

Bổ sung: Kỳ môn (12), Tâm khí (c).

4. Đau bụng đi tả, kiết lỵ mót rặn, đại tiện táo kết:

Hạ quản (14), Thủy phân (14), Khí hải (14), Quan nguyên (14), Trung cực (14), Thiên xu (3).

Bổ sung: Thổ tả hoắc loạn thì cứu thêm huyệt Thần khuyết (đổ muối lấp đầy rốn, cứu lên trên).

5. Lao truyền nhiễm, ho thổ huyết, mọi chứng hư tổn gày gò vàng võ, mỏi mệt kém ăn mất ngủ, phiền nhiệt, mồ hôi trộm:

Bách lao (b), Cao hoang (7), Tứ hoa sau lưng (d), Mệnh môn (13), Khí hải (14), Thiên đôt (14), Đản trung (14), Trực cốt (đ), Túc tam lý (3), Phế du (7), Thận du (7).

Bổ sung: Tâm du (7).

6. Trúng phong bại liệt nửa người, méo mồm lệch mắt, cắn răng không nói:

Bách hội (13), Thượng tinh (13), Nhân trung (13), Kiên ngung (2), Khúc trì (2), Hợp cốc (2), Hoàn khiêu (11), Phong thị (11), Dương lăng tuyền (11), Tuyệt cốt (11), Túc tam lý (3), Tam âm giao (4), Địa thương (14), Giáp xa (3).

Bổ sung: Á môn (13).

7. Phụ nữ kinh nguyệt không đều, ngủ hay mê mộng, sinh đẻ khó nuôi:

Cao hoang (7), Gản sử (9), Quỷ nhãn (e).

Bổ sung: Khí hải (14), Trung cực (14), Tử cung (ngoài kinh) (g), Tam âm giao (4), Túc tam lý (3), Quỷ khốc (h), và một phương thuốc xông.

8. Phù thũng, trướng đầy:

Khí hải (14), Trung quản (14), Hạ quản (14), Khúc trì (2), Hợp cốc (2), Nhân trung (13), Thái xung (12), Hành gian (12), Chương môn (12), Tam âm giao (4), Nội đình (3), Túc tam lý (3).

9. Phong thấp, đau nhức, tê dại:

Kiên ngung (2), Khúc trì (2), Đại lăng (9), Trung trữ (10), Quỷ nhãn (e), Hoàn khiêu (11), Túc tam lý (3), Điều khẩu (3), Phong thị (11), Lao cung (9), Ngoại quan (10).

Bổ sung: Âm lăng tuyền (4), Dương lăng tuyền (11), Tam âm giao (4), Thái xung (12), Côn lôn (7), Thái khê (7+1=8), Đại đôn (12), Thận du (7).

10. Kinh nguyệt không đều, trước và sau khi thấy kinh đau bụng, rũ mỏi tiểu tiện không thông:

Thiên xu (3), Quan nguyên (14), Trung cực (14), Khí hải (14), Tử cung (g), Thận du (7), Túc tam lý (3), Tam âm giao (4).

11. Xích bạch đới (khí hư) gầy xanh:

Bách hội (13), Thận du (7), Quan nguyên (14), Khí hải (14), Trung cực (14),  Tam âm giao (4), Túc tam lý (3).

12. Sau khi đẻ, máu hôi ra không dứt:

Thủy phân (14), Cao hoang (7), Quan nguyên (14), Tam âm giao (4).

13. Điên cuồng hoảng hốt:

Bách hội (13), Thần đình (13), Cùng cốt (p), Đại chùy (13), Thân trụ (13), Nhân trung (13), Cự khuyết (14), Thừa tương (14), Thần môn (5), Đại lăng (9).

Bổ xung: Xung dương (3).

14. Động kinh và trẻ kinh phong, co giật, chảy rãi:

Nhân trung (13), Bách hội (13), Thần đình (13), Cùng cốt (p), Đại chùy (13), Đản trung (14), Cự khuyết (14), Khí hải (14), Hợp cốc (2), Thần môn (5), Túc tam lý (3), Thái xung (12), Hành gian (12), Chiếu hải (7+1=8), Thân mạch (7).

Bổ sung: Thần đạo (13), Tích trung (13), Cưu vỹ (14), Lao cung (9), Tứ hoa ở đầu (a), Quân dần (i), Quỷ nhãn (e), và một phương thuốc (xác rắn độc, uống với rượu 1 đồng cân).

15. Sa đì (hòn dái sưng đau và sa xuống):

Đại đôn (12), Ẩn bạch (4), Đới mạch (11), Quy lai (3), Mỗ tự (k).

16. Hen suyễn, hông ngực căng tức, đờm dãi tắc nghẽn:

Thiên đột (14), Tuyền cơ (14), Đản trung (14), Trực cốt (đ), Phế du (7), Du phủ (7+1=8), Túc tam lý (3).

Bổ sung: Thái uyên (1).

(Mục này có giới thiệu hai phương thuốc trục đờm trong đó có vị Nhân ngôn (As) độc bảng A, uống dễ gây tử vong nguy hiểm, hoặc di hại về sau nếu dùng lâu với liều ít, không nên dùng).

17. Cước khí, chân sưng đau:

Độc tỵ (3), Ủy trung (7), Côn lôn (7), Thân mạch (7), Công tôn (4), Chiếu hải (7+1=8), Dũng tuyền (7+1=8), Thái xung (12), Tất quan (12), Quỷ nhãn (e).

Bổ sung: Dương lăng tuyền (11), Túc tam lý (4).

18. Hoắc loạn, thổ tả:

Thần khuyết (14), Hạ quản (14), Hợp dương (7), Thừa cân (7). Có chuyển gân thì không dùng huyệt Hợp dương. Chuyển gân tay thì dùng Khúc trì (2), chuyển gân chân thì dùng Thừa sơn (7).

Bổ sung: Ủy trung (7).

19. Đau mắt:

Thượng tinh (13), Toản trúc (7), Đồng tử liêu (11), Tình minh (7), Hợp cốc (2), Lâm khấp (11), Tiền cốc (6).

Bổ sung: Khúc trì (2), Phong trì (11), Tam lý (93), Thái dương (a) huyệt ngoài kinh.

20. Ù tai, điếc tai:

Nhĩ môn (10), Thính cung (6), Ế phong (10), Thận du (7), Túc tam lý (3).

Bổ sung: Khúc tân (11).

21. Ăn không tiêu, bụng đầy nôn mửa:

Đản trung (13), Thượng quản (24), Trung đình (14), Hạ quản (14) Thái bạch (4).

22. Lòi dom:

Bách hội (13), Mệnh môn (13), Trường cường (13), Trung cực (14).

23. Trẻ khóc đêm không bú:

Thừa tương (4).

24. Trẻ kinh phong:

Bách hội (13), Phục nguyên (1).

25. Sốt rét cơn:

Thượng tinh (13), Đại chùy (13), Hợp cốc (2), Bách lao (b) ngoài kinh, Nhũ ảnh (m), Bối lam (n).

26. Di mộng tinh:

Cao hoang (7), Quỷ nhãn (e), Giản sử (9), Thận du (7), Túc tam lý (3), Nhiên cốc (7+1=8), Trung cực (14), Khí hải (14).

(*) Chúng tôi đánh số các mục để tiện tham khảo sách dẫn và chú riêng "bổ sung" các huyệt do Thái y viện thêm vào.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 17, 2018, 08:52:16 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #37 vào lúc: Tháng Ba 17, 2018, 08:57:36 AM »

PHẦN 3

Tổng luận chứng huyệt ca
(Bàn chung về việc dùng huyệt chữa bệnh)

Thong dong nhân buổi hạ thiên (khi nhàn),
Dọn pho châm cứu để truyền thế nhân (người đời).
Trúng phong bán toại bán thân (liệt nửa người),

1930. Bách hội vi chủ như thần trị chi (chữa rất hiệu).
Lại có Kiên ngung, Khúc trì,
Kìa ai cấm khẩu miệng thì bất ngôn (không nói):
Cứu Giáp xa huyệt liền yên,
Miệng liền nói được phép tiên những là.
Thiên phong khẩu nhãn oa tà (méo mồm lệch mặt):
Địa thương vi chủ (làm chủ) càng gia lạ dường.
Lại cứu lấy huyệt Thừa tương,
Miệng méo liền đã viên phương (tròn vuông) lại lành.
Cũng nên cứu huyệt Nhân nghinh,

1940. Cùng Thủy câu huyệt đinh ninh những là.
Tả méo cứu hữu càng gia,
Hữu méo cứu tả, lẽ đà bằng nhau.
Mục khai bất ngữ (mở mắt không nói) cứu đâu?
Cứu Á môn huyệt thực mau lạ dường.
Có người mục ám hạng cường (nhắm mắt cứng gáy),
Tỵ tắc xuất thế (mũi tắc chảy nước) thường thường lưu liên.
Ấy chứng phong hàn tự nhiên,
Cứu Phong môn huyệt thần tiên nghiệm hèo.
Có người ngột thống (đau ngột) (70) chẳng tiêu,

1950. Thần đình huyệt ấy một liều năm trang.
Có người đờm suyễn càng thương,
Cứu Phế du huyệt thường thường càng gia.
Có người tê tay chẳng giơ,
Cứu Trung chữ huyệt thực là càng yêu.
Kinh thuộc nhân thân Tam tiêu,
Tại bản tiết hậu (sau đốt xương gốc) một liều mười trang.
Này chứng hư tổn phiền thay,
Tạng phủ hư nhược, khôn (khó) hay lẽ nào.
Chứng ấy thực là bệnh lao,

1960. Cứu Quan nguyên huyệt hay sao những là.
Cùng huyệt Khí hải càng gia,
Cứu đến nhất bách hoặc gia thường thường (100 mồi).
Cố đông (đau lâu) tạng phủ ở trong,
Nội hư tả tiết (ỉa chảy) huyết hằng chảy ngay.
Thần khuyết huyệt ấy thiêng thay,
Rồi ta lại cứu huyệt này Thận du.
Hư tiết (đi lỏng mạn tính) cứu huyệt Địa cơ,
Tam âm /giao/, Kinh cốt cũng cho những là.
Có người tạng dịch (tân dịch) bất hòa,

1970. Bạo bệnh tâm thống (tim đau đột ngột) kêu ca thật buốn.
Liền tay cứu huyệt Thần môn,
Đại lăng, Giản sử nào còn có đau.
Cứu huyệt Thượng quản cực mầu,
Tự nhiên bệnh đã bởi đâu nghiệm hèo.
Thương Tỳ tạng thống (đau lá lách) kíp đau,
Cứu huyệt Phủ xá lẽ mầu liền tan.
Này chứng mỏ ác mửa khan,
Òa òa ụa miệng kêu vang ngày rày:
Cứu Trung đình huyệt càng hay,

1980. Đản trung, Nhiên cốc thuở này anh linh.
Tử cung, Giản sử càng lành,
Xích trạch, Ẩn bạch đinh ninh càng mầu.
Cứu bấy nhiêu huyệt tày nhau,
Chủ trị can ẩn ở đầu mửa khan.
Đầu phong là chủ bách ban,
Cứu huyệt Bách hội liền an những là.
Thần đình huyệt ấy càng gia,
Đầu mục hôn ám (đầu mắt tối xẩm) cứu huyệt Thượng tinh.
Lại gia cứu huyệt Thần đình,

1990. Tín hội, Thân mạch cho tinh một đường.
Có người phải chứng điên cuồng,
Bỏ áo mà chạy miệng thường nói rông:
Ta liền cứu huyệt Phong long,
Bách hội, Giản sử đều cùng Thương khâu.
Thần đình, Thân trụ tày nhau,
Tâm bi (buồn sầu) gia huyệt Thương khâu những là.
Cùng huyệt Giản sử càng gia,
Tâm thần hoảng hốt nói ma nó làm.
Có người bất tỉnh nhân sự (hôn mê),

2000. Cứu Bách hội huyệt cùng Cự khuyết nay.
Kinh khủng nằm chẳng yên nơi,
Cứu Thần đình huyệt thuở rày càng thiêng.
Có người khủng cụ (sợ hãi) tâm kinh,
Cứu Đại lăng huyệt đinh ninh an bài.
Lại thêm cứu huyệt Lệ đoài,
An hồn định phách định tài càng gia.
Rày huyệt Cao hoang, Tứ hoa,
Chủ trị lao trái, khử nhà truyền thi (lao trùng).
Phế du huyệt ấy càng ghê,

2100. Thận du, /túc/ Tam lý cứu thì càng gia.
Này chứng tê thấp kể ra,
Cứu Dương phụ huyệt chưa qua mà chầy,
Cứu huyệt Thừa tương thiêng thay.
Có người âm thũng ở rày ngọc môn:
Tiên nguyên cứu huyệt Đại đôn,
Cùng Thủy đạo huyệt cực khôn nhiệm mầu.
Có người phải chứng chuyển bào (chuyển dạ con tức đái),
Cứu Trung cực huyệt một liều hay sao.
Ta lại cứu huyệt /Tam/ âm giao,

2020. Bằng thũng (nếu sưng) dường nào ấy chứng cực khôn (khó):
Chủ thì lấy huyệt Đại đôn,
Có người cứu huyệt Côn lôn cũng hèo.
Tiểu tràng (ruột non) bằng có thống (đau) nhiều,
Đại đôn, Trung cực cứu liền bảy trang.
Còn đau âm ỉ nhiều đàng,
Lại cứu Khí hải huyệt càng hèo thay.
Thiên trụy (sa đì) bế tật ngày rày,
Tiểu tiện xuất huyết ngày rày càng thương:
Ta phải cứu huyệt Quan nguyên,

2030. Đại đôn, Trung cực phép càng anh linh (công hiệu).
Có người phải chứng di tinh,
Tiểu tiện bạch trọc rành rành huyết lâm (đái đục ra máu):
Liền tay cứu huyệt /Tam/ âm giao,
Cùng Trung chữ huyệt chớ nhầm làm chi.
Có người huyết thóa (nhổ ra máu) tạng suy,
Cứu Thái âm huyệt (71), Đại chùy, Hồn môn.
Còn chứng thoát giang (lòi dom) chẳng khôn (khó),
Cứu huyệt Khí hải nào còn có đau.
Trường cường, Bách hội tày nhau,

2040. Có người thũng thống yết hầu chẳng thông (sưng họng):
Cứu huyệt Giản sử, Trung phong,
Cùng Trung chữ huyệt làm song thuở rày.
Hầu tý (họng tắc) chứng ấy khốn thay,
Cứu Khúc trì huyệt cùng rày Đại lăng.
Lại cứu Trung chữ cũng bằng,
Này chứng nục huyết lại càng xót xa.
Mũi thường có máu chảy ra,
Cứu Thần đình huyệt phép hòa thiêng thay.
Liền cứu Thân mạch bằng nay,

2050. Tật thì lại đã phép rày anh linh.
Có người mũi xuất thế thanh (chảy nước mũi trong),
Tín hội, Thần đình huyệt ấy càng gia.
Tỵ hàn thương phế quá đa (mũi lạnh hại phổi nhiều),
Thượng tinh, Bách hội, lại hòa Tín môn (Tín hội).
Này bí đại tiện chỉn khôn (thật khó),
Cứu Thừa tương huyệt, Đại đôn hòa dùng.
Đại tiểu câu bí (đều bế) bất thông,
Ta liền cứu huyệt Phong long tức thì.
Đại đôn, Đan điền càng ghê,

2060. Cứu hai huyệt ấy nhiều bề nghiệm thay.
Đại tiện bế sáp (táo bón) bằng nay,
Đại tràng du huyệt thuở rày càng thiêng.
Thần khuyết cùng huyệt Quan nguyên,
Thạch môn huyệt ấy cứu càng phép tiên.
Tiểu tiện bất cấm tương liên (vãi đái luôn):
Ta lại cứu huyệt Quan nguyên thuở rày.
Huyệt ấy cấm châm thương thay,
Gia Thiếu phủ huyệt ngày rày bảy trang.
Có người ra chứng minh tràng (sôi bụng),

2070. Bụng sôi bằng sấm kêu vang rào rào:
Cứu huyệt /Túc/ tam lý, /Tam/ âm giao,
Cùng Thủy phân huyệt lẽ nào tày nhau.
Huyết hà (báng máu) đầy bụng thêm đau,
Cứu Chương môn huyệt khỏi đau những là.
Chứng thực bất hạ (ăn không vào) càng gia,
Cứu Trung quản huyệt cùng là Thủy phân.
Có người đói chẳng hay ăn,
Cứu Trung cực huyệt mười phân lạ lùng.
Hung mãn bất tiến thực song (đau bụng kém ăn),

2080. Ta liền cứu huyệt Huyền chung những là.
Ẩm thực bất hạ (ăn uống không vào) càng gia,
Cứu Đản trung huyệt thực là hèo thay.
Hay ăn chứng ấy lạ sao,
Đa thực thân sấu (ăn nhiều mà gầy) huyệt nào chớ quên.
Ta cứu Thận du cho đều,
Cùng Thiên xu huyệt hèo sao những là.
Cuồng tật sát nhân (điên cuồng giết người) kinh là,
Đánh người bỏ áo nói ma chạy càn:
Cứu Thân trụ huyệt cho an,

2090. Tự nhiên thấy phép thần tiên rành rành.
Muốn nằm thì cứu Thần đình,
Nằm mà chẳng ngủ cứu danh Đại chùy.
Huyệt ấy thậm thương chỉn ghê,
Thần tiên diệu phép thật thì anh linh.
Này chứng huyết áp (tim đè) mơ màng,
Thấy những ma quỷ tà tinh đến đè:
Ta cứu huyệt Thương khâu đi,
Tự nhiên lại đã thần thông nghiệm hèo.
Này ách nghịch chứng chỉn nghèo,

2100. Đêm ngày những nấc khôn tiêu bệnh hàn:
Ta liền cứu huyệt Hành gian,
Đại lăng, Cự khuyết, Hành gian an bài.
Nghịch suyễn chứng nọ nghèo thay,
Hung trung suyễn cấp (ngực thở gấp) cứu rày Thận du.
Thần đình, Đại lăng cùng cho,
Đản trung, Thiên đột mọi đồ rất thiêng.
Này chứng khí suyễn Tỳ kinh,
Cứu Khí hải huyệt đinh ninh lạ dường.
Cũng nên cứu huyệt Đản trung,

2110. CÙng Thiên đột huyệt, với cùng Phế du.
Bôn đồn sán khí bô phù (đau rằn bụng lên ngực):
Thạch môn, Thiên đột ấy đồ cứu tiêu.
Vả lại cứu huyệt /Tam/ âm giao (72),
Này chứng ái khí (ợ hơi) tạng nào phải ra:
Cứu huyệt Chí âm càng gia,
Cung Tỳ du huyệt cứu hòa đã ngay.
Lại cứu Đại chùy thiêng thay,
Tiểu nhi kinh giản gọi là động kinh:
Bách hội vi chủ rất lanh,

2120. Thân trụ, Thần đình ba huyệt cùng cho.
Này chứng khái thấu đờm ho,
Cứu Đản trung huyệt, Phế du càng hèo.
Hầu trung đàm suyễn chưa tiêu,
Cứu Thiên đột huyệt một liều bảy trang.
Tích tụ khí khối (báng) càng thương,
Dạ bằng bát áp (bụng như bát úp) nhiều dường đau thay:
Cứu Âm giao huyệt chớ chày,
Thượng, Trung, Hạ quản ba nơi cũng bằng.
Nha đông là chứng nhức răng,

2130. Cứu Khúc trì huyệt làm song đã đành.
Tâm phúc trướng mãn bành bành (ngực bụng đầy căng):
Thạch môn, /Túc/ tam lý (73) huyệt lành cứu đi.
Ẩn bạch huyệt ấy chỉn ghê.
Này chứng phúc thống dạ này đau thay:
Phong long cùng Khí hải này,
Suốt cứu liền đã, phép nay lạ dường.
Bành trướng bụng cả (cổ trướng) chẳng đang,
Thảng như tang trống đầy trương bành bành:
Thủy phân huyệt ấy càng lanh,
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 19, 2018, 05:02:47 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #38 vào lúc: Tháng Ba 18, 2018, 11:32:13 AM »

2140. Cùng Thần khuyết huyệt đã đành chớ lo.
Phù thũng mình lớn tày bồ,
Cứu /Túc/ tam lý huyệt, Thận du càng hèo.
Thủy phân, Trung cực /Tam/ âm giao,
Cùng Tỳ du huyệt hay sao chước mầu.
Cứu sáu huyệt ấy bằng nhau,
Những là tề tích (tích ở rốn) cũng là rốn đau.
Những người kêu van xót xa,
Còn liền đau bụng cứu hòa những đâu?
Cứu huyệt Khí hải, /Tam/ âm giao,

2150. Cùng Quan nguyên huyệt hay sao làm vầy.
Có người yêu bối (lưng) đau thay,
Rát nóng như lửa, hóa rày chứng khôn (khó):
Thần đường, Phách hộ, Côn lôn,
Cứu ba huyệt ấy phép truyền hiệu thay.
Có người tức nương long (ngực) nay,
Đản trung huyệt ấy khỏi ngay tức thì.
Tay đau thì cứu Kiên ngung,
Cùng Khúc trì huyệt, cứu song (hai nơi) chớ nhầm.
Tý thống vô lực (cánh tay đau mỏi) đau âm,

2160. Bất nhân ma mộc (tê dại) khôn (khó) cầm được nay:
Cứu Khúc trì huyệt hèo thay,
Cùng Kiên ngung huyệt thuở rày càng gia.
Thủ túc (tay chân) quyết lạnh hay là,
Cứu Khúc trì huyệt chớ qua mà chày.
Có Phong long huyệt mấy hay,
Có chứng ma mộc chân rày bất nhân (chân tê dại):
Trung đô cùng huyệt Thừa cân,
Cứu hai huyệt ấy thì chân lại hành.
Tam âm /giao/, /Túc/ tam lý càng nhanh,

2170. Thừa sơn huyệt ấy đã đành tiêu tan.
Cước thũng (chân sưng) cứu huyệt Thừa sơn,
Côn lôn, /Túc/ tam lý liền an tức thì.
Có người hoãn nhược tứ chi (tay chân yếu mỏi),
Cử động bất đắc (không được) nhiều bề thương thay.
Nhấc chẳng nổi chân nổi tay,
Cứu Chương môn huyệt bằng nay nghiệm hèo.
Thi quyết (chết giả) chứng ấy rất nhiều,
Thốt trúng cấm khẩu (bỗng cắn răng) cứu liền Đại đôn.
Mười tráng chưa đẫy hãy còn,

2180. Lại cứu Ẩn bạch liền yên những là.
Cước tất đông thống (chân gối đau nhức) xót xa,
Cứu Thừa sơn huyệt thật là rất tinh.
Bất nhân câu cấp (tê dai co quắp) chẳng lành,
Thận du, Độc tị đã đành cứu nay.
Đau lưng như bẻ khốn thay,
Bất năng chuyển trắc (trăn trở khó) ấy rày chứng khôn:
Thận du, cùng huyệt Mệnh môn,
Thừa sơn huyệt ấy chẳng khôn (khó) nhiệm mầu.
Yêu bối (lưng) đau xương bởi đâu?

2190. Khâu khư huyệt ấy phép mầu càng gia.
Có người cốt thống ai qua,
Đêm ngày nhức nhối thực là nhức xương:
Tử cung cùng huyệt Ngọc đường,
Mấy Cự khuyết huyệt phải càng anh linh.
Tai kêu là chứng nhĩ minh,
Ve kêu trống đánh thùng thình một khi.
Điếc tai chẳng biết tiếng gì,
Cứu Trung chữ huyệt tức thì lại an.
Thiên vàn cứu huyệt Thượng quan,

2200. Có người nhĩ thống (đau tai) chẳng an nhiều bề:
Trung chữ cùng huyệt Khúc trì,
Ta cứu tức thì lại đã (khỏi) liền tay.
Nhĩ tủng (tai điếc) chứng ấy khốn thay,
Thận du, Bách hội ấy rày huyệt linh.
Có người nóng huyết rành rành,
Tiếng ve tiếng sấm dần dần kêu vang:
Nhĩ môn cùng huyệt thượng quan,
Cứu hai huyệt ấy được an được lành.
Có người mục ám bất minh (mắt mờ):

2210. Cứu Thận du huyệt đã đành rằng an.
Tam lý cùng huyệt Hành gian,
Cứu ba huyệt ấy mấy toan những là.
Có người mắt đỏ mắt đau,
Mục hôn châu lệ (mắt mờ chảy nước) nhỏ sa càng phiền:
Cứu huyệt Lâm khấp, Hành gian,
Cùng Bách hội huyệt thiên ban càng hèo.
Mục ế xích vân (mắt bị màng tía đỏ che) rất nhiều.
Trong ngoài như máu cứu liền Chí âm,
Thúc cốt, Kinh cốt nhập thâm (châm sâu).

2220. Khâu khư bốn huyệt cứu châm hay là,
Có người xích bạch /đới/ khí ra.
Con mắt đỏ tía cứu hòa Đại lăng,
Cứu huyệt Kinh cốt cũng bằng.
Tự nhiên bệnh đã lâng lâng lại lành.
Có người phải chứng thanh manh,
Cứu Thương khâu huyệt lại thanh nhãn đồng (sáng con ngươi).
Có người miệng nói chẳng thông,
Phải chứng ấm à (câm ngọng) cong lòng vũ (buồn) âu:
Ta cứu Thủy câu chớ lâu,

2230. Cùng Thừa tương huyệt phép mầu tiêu tan.
Có người chứng táo yết can (họng khô),
Cứu huyệt Thiên đột lại hoàn (còn) Đại nghinh.
Cứu hai huyệt ấy lại lành.
Này chứng hoàng đản mắt xanh nhiều đàng,
Bụng da măt mũi da vàng.
Cứu Thận du huyệt nghiệm bằng phép tiên,
Có người phải chứng nhiệt hàn (nóng rét).
Cứu Huyền chung huyệt mà toan chớ nhầm,
Có người phát hãn (mồ hôi) như dầm.

2240. Mồ hôi chảy xuống nhỏ xâm dòng dòng,
Ấy nó là chứng hãn phong.
Ta liền lấy huyệt cứu dòng Cách du,
Có người nhiệt bệnh hãn thu (mồ hôi không ra).
Buồn phiền bứt rứt toan lo chước nào:
Mệnh môn cùng huyệt Thương khâu.
Cứu hai huyệt ấy đều cùng được thông,
Có người ẩn chẩn (mề đay) ngoại phong.
Biến thân tao dạng suốt mình ngứa gãi cùng ngứa ngon,
Ấy là phong huyết tẩu bôn (máu phong chạy).

2250. Giát (mề đay) nổi máu ngứa gãi mòn móng tay:
Cứu Khúc trì huyệt thiêng thay.
Tiêu phong tán huyết, liền tay (khỏi ngay) tức thì.
Cốt tiết (khớp xương) nhức nhối tứ chi,
Cứu huyệt Khúc trì liền đã (khỏi) tự nhiên.
Phụ nhân xuất huyết tương liên,
Băng trung lậu hạ (rong huyết, bạch đới) mình phiền tanh dơ:
Ta cứu Khí hải tự như,
Cùng Đại đôn huyệt huyết hư liền nhuần.
Có người phiền muộn (buồn bực) thập phân,

2260. Xích bạch đới hạ, tần tần (luôn luôn) di tinh.
Tanh hôi mình mẩy thể hình.
Cứu Khí hải huyệt đã đành hèo sao,
Đại đôn cùng Tam âm giao.
Cứu ba huyệt ấy lẽ nào tày nhau,
Phụ nhân kinh nguyệt bất điều.
Ta liền cứu liều Trung cực, Quan nguyên,
Liền thông khí huyết một đàng.
Da đỏ bằng ngọc bằng vàng tốt sao,
Có người ung nhũ (sưng vú) kêu đau.

2270. Cứng ngờ hòn đá huyệt nào cứu linh,
Thiếu trạch, Nhũ căn thực lanh.
Cứu hai huyệt ấy đinh ninh chớ nhầm,
Huyết dịch khí cố bao trầm.
Chứng nó đau ngầm nhưng nhức trong xương,
Tụ huyết âm thì thắng dương.
Cứu Trúc mã huyệt phép thường hai bên,
Phép cứu tan huyết thì yên,
Tức thì lại đã phương viên (vuông tròn) thay là.
Ngũ tạng chủ khí bất hòa.

2280. Ác sang phát thũng (đơn sưng) đầy da lạ dường,
Ấy chứng âm đới thắng dương.
Ta liền đặt ngải một mồi mười trang,
Kìa chứng anh lựu (bướu cổ) càng thương.
Huyết ngưng thành tật bằng dường ung thư (mụn nhọt),
Tráng ngải đốt bằng phép xưa.
Đau đâu cứu đấy bây giờ chớ lâu,
Phát bối nên cái (nhọt độc sau lưng) thậm đau.
Lấy mực mà điểm trong đầu hòa coi,
Tay ấn cho thật chính ngôi.

2290. Lấy mảnh gừng đặt rồi cho yên,
Để hẳn đặt nó (ngải) ở trên.
Cứu tan khử trệ (khỏi tụ) ngải liền mười trang,
Tự nhiên lại đã (khỏi) lạ dường.
Ấy là chủ phép hòa lường cho thông,
Lược bày tự thủy chi chung.

2296. Để cho nhân thế (người đời) hòa dùng hậu lai (sau này).

Chú giải các huyệt trong bài ca "Tổng luận chứng huyệt"
(Trừ các huyệt đã nói ở phần trước)

K13. Tín hội: Huyệt ở chân tóc trước trán vào 2 thốn (hay cách trước huyệt Bách hội 3 thốn).

K3. Nhân nghinh: Huyệt ở chỗ hai bên cổ, dưới hàm cong, nơi có động mạch.

K7. Phong môn: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ hai, ngang ra mỗi bên 1,5 thốn.

K4. Địa cơ: 2 huyệt ở dưới đầu gối 5 thốn giữa khoảng hai xương (mé phía sau cạnh xương ống chân).

K7. Kinh cốt: 2 huyệt ở mé cạnh ngoài bàn chân dưới đốt xương to, chỗ thịt trắng đỏ (sau đốt xương thứ nhất ngón chân út).

K4. Phủ xá: 2 huyệt ở thẳng dưới huyệt Kỳ môn 8 thốn (dưới huyệt Trung cực giữa bụng nửa thốn, ngang ra hai bên mỗi bên 4 thốn).

K14. Tử (tía) cung (74): Huyệt ở dưới huyệt Thiên đột 3 thốn 6 phân (giữa ngực ngang khoảng sườn thứ hai).

K1. Xích trạch: 2 huyệt, ở dưới khuỷu tay mé trên động mạch vào giữa (mé cạnh ngoài cái gân to chính giữa ngấn ngang chỗ lõm của khuỷu tay).

K3. Phong long: 2 huyệt, ở trên mắt cá ngoài 8 thốn, chỗ lõm phía ngoài xương ống chân.

K4. Thương khâu: 2 huyệt chỗ lõm xế dưới mắt cá trong hơi chệch về phía trước.

K11. Dương phụ: 2 huyệt ở thẳng mắt cá ngoài đi lên 4 thốn mé sau xương hai ống chân.

K3. Thủy đạo (75): 2 huyệt ở dưới huyệt Thiên xu 5 thốn (3 thốn).

K7. Hồn môn: 2 huyệt ở hai bên dưới đốt xương sống thứ 9 đi ra, cách mỗi bên 3 thốn, chỗ lõm. Ngồi thẳng mà lấy huyệt.

K12. Trung phong: 2 huyệt ở chỗ lõm trước mắt cá trong 1 thốn, thẳng đầu ngón chân, giữa mé ngoài đi vào. Ngửa duỗi bàn chân mà lấy huyệt.

K14. Đan điền:  (76) ở chỗ rốn.

K14. Thạch môn: Một tên là Thần cơ, một tên là Lộ tinh, một tên là Đan điền (ở dươi rốn 2 thốn).

K5. Thiếu phủ: Huyệt ở trong bàn tay, co ngón tay út lại đến chỗ nào là huyệt ở chỗ đó, ngang với huyệt Lao cung (vào chỗ giữa kẽ ngón út và ngón thứ tư).

K7. Tỳ du: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 11 ngang ra, cách mỗi bên 1,5 thốn.

K7. Thần đường: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 5 ngang ra hai bên, mỗi bên cách 3 thốn.

K7. Phách hộ: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 3, ngang ra hai bên mỗi bên 3 thốn.

K12. Trung đô: 2 huyệt, ở chỗ mé trong xương ống chân, thẳng mắt cá trong đi lên 7 thốn.

K11. Khâu khư: 2 huyệt, ở chỗ lõm xế phía trước xương mắt cá ngoài, thẳng ngón chân thứ tư vào, cách huyệt Túc lâm khấp 3 thốn.

K14. Ngọc đường (77): Ở chỗ lõm dưới huyệt Thiên đột 5 thốn (ngang với khoảng giữa xương sườn thứ 3, hay dưới huyệt Thiên đột 5 thốn 8 phân).

K7. Chí âm: 2 huyệt ở đầu ngón chân út (mé cạnh ngoài ngón chân út, cách góc móng 1 phân).

K7. Thúc cốt: 2 huyệt ở chỗ lõm sau đốt xương ngón chân út.

K3. Đại nghinh: 2 huyệt ở chỗ lõm trên xương trước nơi cong góc hàm 1 thốn 3 phân.

K3. Thủy đột: Ở trước ngấn lớn trên cổ, thẳng giữa huyệt Nhân nghinh và huyệt Khí xá.

K14. Âm giao: Huyệt ở thẳng dưới rốn 1 thốn.

K11. Thượng quan: 2 huyệt ở giữa chỗ nhô ra trước tai (ở mé trên đầu xương trước tai). Nên cứu 7 mồi, châm thì nằm nghiêng.

K7. Cách du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 7 đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn.

K7. Đại tràng du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 16 đi ra hai bên, mỗi bên cách 1,5 thốn.

K3. Nhũ căn (78): 2 huyệt ở dưới vú 1 thốn (chỗ lõm dưới huyệt Nhũ trung 1 thốn 6 phân).

* Chú thích phần 3:

(70): Đau đột ngột rung động không yên.

(71): Huyệt Phế du.

(72): Đây là huyệt Tam âm giao thuộc kinh Tỳ (4) không phải huyệt Âm giao thuộc mạch Nhâm (14). Xem bảng tóm tắt ở sau để phân biệt.

(73): Đây là huyệt Túc tam lý thuộc kinh Vị (3) ở chân, không phải huyệt Tam lý thuộc kinh Đại trường (2)
ở tay . Xem bảng tóm tắt ở sau để phân biệt.

(74): Huyệt Tử cung ở trên huyệt Đản trung 3 thốn 2 phân, hay ở dưới huyệt Tuyền cơ 3 thốn 2 phân, tức là ở dưới huyệt Thiên đột 4 thốn 2 phân (sách chép nhầm là 3 thốn 6 phân): Đính chính.

(75): Huyệt Thủy đạo ngang với huyệt Quan nguyên đi ra 2 thốn, tức ở dưới huyệt Thiên xu 3 thốn (không phải 5 thốn): Đính chính.

(76): Đan điền là biệt danh của huyệt Thạch môn. Theo Nạn kinh, vùng Đan điền ở cách dưới rốn 3 thốn (huyệt Quan nguyên) với đường kính 4 thốn.

(77): Huyệt Ngọc đường ở trên huyệt Đản trung 1,6 thốn, hay ở dưới huyệt Thiên đột 5 thốn 8 phân (không phải 5 thốn): Đính chính.

(78): Huyệt Nhũ căn ở ngang với huyệt Trung đình đi ra, thẳng dưới nuốm vú 1,6 thốn (không phải 1 thốn): Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 19, 2018, 10:16:42 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #39 vào lúc: Tháng Ba 20, 2018, 03:34:54 PM »













« Sửa lần cuối: Tháng Năm 29, 2018, 10:21:40 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #40 vào lúc: Tháng Ba 20, 2018, 03:55:40 PM »

PHẦN 4

A - Bài ca về mười hai kinh mạch thuộc lục phủ ngũ tạng

Thong dong cất lấy bút nghiên,
Chép âm dương mạch để truyền người ta.
Từ thủ đại chỉ (ngón tay cái) kể ra,

2300. Thiếu dương vậy hòa /Thủ/ Thái âm kinh.
Thứ chỉ nội trắc (mé trong ngón trỏ) /Thủ/ Dương minh,
Thương dương thuộc Đại tràng kinh chẳng nhầm.
Trung chỉ (ngón giữa) tâm bào /Thủ/ Quyết âm,
Trung xung huyệt ấy chớ nhầm, tư (lo) lường.
Vô danh chỉ (ngón thứ tư) mạch /Thủ/Thiếu dương,
Tam tiêu kinh huyệt thực đàng Quan xung.
Tiểu chỉ nội (mé trong ngón út) thuộc /Thủ/ Thiếu âm,
Tam kinh tùy (theo) huyệt Thiếu xung một đàng.
Tiểu chỉ ngoại trắc (mé ngoài ngón út) /Thủ/ Thái dương,

2310. Tiểu tràng: Thiếu trạch phép thường cổ kim.
Thủ chỉ (ngón tay) ta kể đã xong,
Này túc tiểu (79) /đại/ chỉ (ngón chân cái) ta cùng kể ra:
/Túc/Quyết âm: Can kinh chẳng ngoa,
Ngoại trắc (mé ngoài) có huyệt gọi là Đại đôn.
Đại chỉ nội trắc (mé trong ngón chân cái) càng khôn,
Ẩn bạch tuần hoàn: /Túc/ Thái âm Tỳ kinh.
Thứ chỉ đương bối (trên lưng ngón chân thứ hai) Túc dương minh,
Lệ đoài huyệt ấy thực hình ngoại biên (bên ngoài).
Trung chỉ túc tâm (ngón giữa, ở lòng bàn chân) Dũng tuyền,

2320. Thận tạng đến đấy thuộc quyền /Túc/ Thiếu âm.
Vô danh (ngón chân thứ tư) /Túc/ Thiếu dương chớ nhầm,
Đởm phủ có huyệt Khiếu âm một đường.
Tiểu chỉ (ngón chân út) Bàng quang /Túc/ Thái dương,
Chí âm huyệt ấy, trắc phương (phía mé) bên ngoài.
Đo hết thiên kim, Bảo đài (80),
Đông nhân, Từ thị chẳng sai chút nào.
Mạch đốc: hàng giữa hai mươi bảy huyệt:
Ngận giao, Nhân trung, Đoài đoan, Tố liêu...
Mạch nhâm: hàng giữa hai mươi bốn huyệt (81).

* Chú thích mục A:

(79) Huyệt Đại đôn  của kinh Can ở mé ngoài ngón chân cái, túc đại chỉ (sách chép nhầm là tiểu chỉ): Đính chính.

(80) Sách Thiên kim phương của Tôn Tư Mịch (thế kỷ 7) và ngoại đài bị yếu của Vương Đạo (thế kỷ tám).
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 22, 2018, 10:31:25 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #41 vào lúc: Tháng Ba 22, 2018, 10:06:53 AM »

B - Ca về mạch Đốc mạch Nhâm, vùng lưng hông sườn bụng, hàng giữa từ đầu đến hậu môn, xương cùng (81).

1.  BÀI CA BÀN VỀ 27 HUYỆT Ở HÀNG GIỮA:


Này đoạn Đốc Nhâm kể ra,
Hai mươi bảy mạch vậy hòa ở đâu?
Ngận giao huyệt ấy làm đầu

2330. Lên trong răng ấy giáp hầu lợi nay.
Bảo cho hay Đoàn đoan huyệt ấy,
Hòa xem lấy giữa đầu mi môi.
Lên Nhân trung dưới mũi môi,
Trên Tố liêu cùng ở bên trên mũi này.
Ấn đường huyệt ấy liền ngay,
Hai bên đầu mày huyệt giữa chính ngôi.
Bước lên phát tế (chân tóc) một thôi,
Gọi là chân tóc kia ơi những là.
Có người lại rậm tóc ra,

2340. Hói trán vậy hòa ta biết cứ đâu?
Lại bảo cho biết trước mầu,
Cứ Ấn đường huyệt tu cầu hòa suy (nên tìm mà suy ra).
Bẻ lấy ba tấc (thốn ở đầu) một khi,
Đo lên khúc huyệt mực ghi dấu rày.
Tấc ấy đến đâu bằng nay,
Ấy là chân tóc thuở này phân minh.
Cứ chân tóc ấy cho bằng,
Đo lên Thần đình nửa tấc (thốn) phải chăng.
Bảo cho các huyệt cũng vậy,

2350. Cũng cứ chân tóc nơi này đo lên.
Thượng tinh một tấc cho yên,
Tín hội hai tấc cùng liền đấy na.
Tiền đình ba tấc ghi rày (82),
Bách hội năm tấc thẳng ngay giữa đầu.
Lại xem lấy huyệt bên sau,
Cứ Bách hội huyệt tu cầu hòa suy.
Đo xuống tấc rưỡi một khi
Đấy Hậu đính huyệt vậy thì phải thay.
Lại cứ Hậu đính xuống ngay,

2360. Đo xuống tấc rưỡi vậy rày Cường gian.
Cứ Cường gian tấc rưỡi xuống đấy,
Não hộ huyệt rày đấy thấy khi nay.
Lại bảo chân tóc sau này,
Hoặc nó rậm xuống phép rày cứ đâu?
Cứ lấy ba tấc chớ lâu,
Cứ xuống u cổ trước đầu đo lên.
Tấc ấy đến đâu cho yên,
Mực điểm áp liền đầu tấc làm ghi.
Ấy chân tóc sau một khi,

2370. Hiệu phát tế hậu vậy thì hòa khôn.
Đo lên đến huyêt Á môn,
Cứ chân tóc ấy chính còn năm phân.
Tìm lên Phong phủ ân cần,
Lại cứ chân tóc mà nhuần khi nay.
Đo lên một tấc khi nay,
Ấy huyệt Phong phủ thuở này làm xong.
Bảo cho thông Đại chùy huyệt ấy,
Xem lấy đấy giữa u cổ xương.
Hai đốt Đào cốc (Đào đạo) (83) cho tường,

2380. Thân trụ ba tấc (đốt) một đường phải thay.
Thần đạo thứ năm đốt này,
Linh đài thứ sáu bảy rày Chí dương.
Lại bảo Cân thú (Cân súc) thứ chín,
Lại xuống đến Thập nhất chùy chi (đốt thứ 11).
Ấy Tích trung huyệt một khi,
Tiếp cốt huyệt thì thứ mười hai này.
Huyền trụ (Huyền xu) mười ba đốt rày,
Mệnh môn mười bốn khi nay cho tường.
Ngay liền bằng rốn một đường,

2390. Bảo cho biết ấy mà lường mấy thông.
Dương quán mười sáu làm xong,
Hai mươi bốn đốt huyệt cùng Yêu du (84).
Bảo cho hay Cùng cốt huyệt ấy,
Thực ở đấy là xương cùng trôn.
Trường cường huyệt trước giang môn (hậu môn) (85),
Sau Cùng cốt huyệt, ỉ /khôn/ lạ dường.
Các huyệt sau trước cho tường,
Lấy cho chính giữa khớp xương thực rày (86).

* Chú thích mục B:

(81) Sách xưa gọi gộp hai mạch Nhâm Đốc với nhau. Nguyên bản có chú thích thêm về mạch Đốc và mạch Nhâm: "Bộ Đốc nam giới lấy sau lưng là làm dương, lấy trước ngực là âm. Nữ lấy ngực bụng làm dương, lấy sau lưng làm âm". Về mạch Đốc, sách này đã giới thiệu thêm 3 huyệt: Ấn đường, Tiếp cốt, Cùng cốt. (Phân đoạn "thốn" để lấy huyệt ở đầu và dọc lưng đã nói ở phần 1).

(82) Huyệt Tiền đình ở cách huyệt Bách hội 1,5 thốn, hay kể từ chân tóc lên 3,5 thốn (sách chép nhầm là 3 tấc): Đính chính.

(83) Huyệt Đào đạo (chép nhầm là Đào cốc) ở khoảng dưới đốt xương thứ nhất (không phải đốt xương thứ 2): Đính chính.

(84) Huyệt Yêu du ở chỗ xương mông và xương cùng giáp nhau, tức ở đốt 21 kể từ trên xuống (chép nhầm đốt thứ 24): Đính chính.

(85) Huyệt Trường cường ở dưới chót xương cùng 5 phân.

(86) Còn có một câu: "Bảo cho hay Nhâm mạch từ đấy" nhưng chính đoạn trên nói về mạch Đốc, mà lại thiếu mất về sau?
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 23, 2018, 09:02:30 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #42 vào lúc: Tháng Ba 23, 2018, 08:51:53 AM »

2. BÀN VỀ CÁC HUYỆT Ở HAI BÊN MẠCH ĐỐC ĐI RA TỪ HUYỆT ĐẠI CHÙY (hàng thứ hai).

Lại dạy bộ hai hàng kia,

2400. Cứ đốt thứ nhất hạ chùy (dưới đốt).
Đo ra tấc rưỡi vậy thì cho hay,
Hai bên ba tấc bằng nay.
Ấy Đại trữ huyệt lại rằng Bách lao (87),
Xem chỗ cao đốt thứ hai ấy,
Lại cứ đo ra hai bên,
Lấy một tấc rưỡi cho yên.
Hai bên ba tấc vậy liền phải thay,
Bảo cho hay ấy Phong môn huyệt.
Rồi lại xem đốt ở thứ ba,
Ta lại cứ đấy đo ra.

2411. Mỗi bên tấc rưỡi vậy hòa chớ nghi,
Hai bên ba tấc một khi.
Ấy Phế du huyệt vậy thì cho thông,
Đốt thứ ba, bốn làm song.
Quyết âm du huyệt lưỡng đồng hai bên (88),
Lại xem xuống đốt thứ năm.
Thì cứ ở đấy đo ra lưỡng bàng,
Ấy Tâm du huyệt cho tường.
Lại xuống một đường đốt thứ bảy nay,
Ấy Cách du huyệt khi nay.

2421. Hai bên hai tấc thửa này song song (9),
Ấy Can du huyệt lưỡng đồng bày nhau.
Thẳng đốt thứ mười chớ lâu,
Là Đởm du huyệt ở hầu hai bên,
Mười một đốt ấy xuống liền.
Là Tỳ du huyệt phân yên lưỡng bàng,
Bảo cho tường thứ mười hai đốt.
Vị du huyệt cứ đấy đo ra,
Lại xuống thứ đốt mười ba.

2431. Tam tiêu du huyệt cứ hòa đo ngay (90),
Bảo cho hay huyệt Thận du đấy (91).
Cứ mười bốn đốt cho ngang bên này,
Khí hải du thứ mười năm.
Bảo cho mà biết lưỡng bàng hòa đo,
Lại bảo cho biết thứ mười sáu đốt:
Đại tràng du ngồi hai bên này,
Tiểu tràng du mấy gọi rày.
Một bên tấc rưỡi phép nay gia truyền,

2440. Huyệt ấy liền dưới mười tám đốt.
Bàng quang du lại kể cho hay:
Mười chín đốt ấy ngồi rày hai bên.
Từ đấy lại lấy đo liền,
Một bên tấc rưỡi đều thì đo ngang.
Hai bên ba tấc phải dường cho hay,
Lại lấy huyệt Trung lữ du nay.
Huyệt ấy ta rày biết lấy ở đâu?
Cứ đốt mười chín hai dưới đầu (92).
Một bên tấc rưỡi chớ lâu chi là,
Hai mươi mốt đốt chẳng xa.
Bạch hoàn du huyệt thì ta tu cầu (nên tìm),
Hoành xuất (ngang ra) tấc rưỡi ở đâu?
Hai bên ba tấc thực rày sau lưng,
Bảo cho ta biết chung từ đấy.
Dù ai đọc thấy phải dụng tâm suy,

*Chú thích:

(87) Huyệt Bách lao không phải cùng tên với huyệt Đại trữ (xem chú thích số 52 ở phần 2).

(88) Huyệt Quyết âm du ở dưới đốt thứ tư ngang ra 1,5 thốn.

(89) Các huyệt đều ngang ra 1,5 thốn (không phải hai bên hai tấc): Đính chính.

(90) Huyệt Tam tiêu du ở ngang đốt xương eo lưng thứ nhất, tức huyệt Huyền khu đo ra 1,5 thốn.

(91) Huyệt Thận du ở ngang đốt xương eo lưng thứ 2, tức huyệt Mệnh môn đo ra 1,5 thốn.

(92) Huyệt Trung lữ du ở ngang đốt xương mông 3, tức là đốt thứ 20 từ trên xuống (sách chép nhầm là thứ 12: Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 23, 2018, 04:23:51 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #43 vào lúc: Tháng Ba 23, 2018, 09:36:57 AM »

3. BÀN VỀ VIỆC LẤY HUYỆT MẠCH NHÂM HÀNG GIỮA TRƯỚC BỤNG (*)

Này đoạn Nhâm mạch kể ra,
Hai mơi bốn huyệt vậy hòa ở đâu:
Từ Thừa tương ấy làm đầu,
Huyệt ở môi dưới trũng sau phải rày.
Bảo cho hay xương hầu cổ ấy,

2461. Liêm tuyền huyệt chỗ ấy ở trên.
Lại xuống liền khớp xương cổ ấy,
Thiên đột huyệt ở đấy chớ nghi.
Đo xuống một tấc huyệt thì Tuyền cơ.
Cứ Tuyền cơ đo xuống tấc sáu,
Ấy là Hoa cái huyệt này xuống ngay.
Lại xuống tấc sáu huyệt rày Tử cung,
Bảo cho thông cứ Tử cung huyệt.
Xuống đấy rày một tấc sáu phân.
Ấy Ngọc đường huyệt chớ nhầm,

2471. Đoạn ta lại nhuần trực lưỡng nhũ gian (thẳng khoảng hai vú),
Đản trung ở giữa đã an.
Xuống Đản trung huyệt hòa bàn cho minh:
Một tấc sáu phân thực hình,
Danh gọi là huyệt Trung đình chớ nghi.
Bảo một khi trong này giữa rốn,
Cứ đo lên bảy tấc rưỡi nay (93).
Ấy huyệt Cưu vỹ khi nay,
Cự quan (Cự khuyết) sáu tấc rưỡi huyệt rày chẳng xa (94).
Bảo chẳng xa Thượng quản năm tấc,

2481. Lại bảo cho cứ đấy mà suy:
Trung quản bốn tấc chớ nghi,
Kiến lý ba tấc vậy thì cho thông.
Hạ quản hai tấc làm xong,
Thủy phân một tấc đo cùng lên trên.
Bảo cho hay tề thượng (trên rốn) từ đấy,
Lại xuống lấy tề hạ (dưới rốn) một khi.
Cứ giữa rốn ấy mà suy,
Các huyệt cũng vậy xuống thì cho ngay.
Một tấc huyệt Âm giao nay,

2491. Tấc rưỡi Khí hải yêu thay lạ dường.
Hai tấc Thạch môn cho tường,
Quan nguyên ba tấc mà lường cho thông.
Trung cực bốn tấc làm xong,
Khúc cốt năm tấc đều cùng phải thay.
Bảo cho hay Hội âm huyệt ấy,
Xuống ở đấy bên trước giang môn (lỗ đít).
Bên sau lưỡng âm chỉn khôn,
Rất chính ở giữa chớ còn hồ nghi.
Bảo hòa suy Nhâm mạch từ đấy,

2501. Lại lấy lên rốn bộ hai hàng.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về thốn đo dọc trước thân chia theo 3 phần:

- Phần ngực từ huyệt Thiên đột đến huyêt Trung đình: 9 thốn.

- Bụng trên từ huyệt Trung đình đến giữa rốn: 8 thốn.

- Bụng dưới từ huyệt Thần khuyết đến huyệt Khúc cốt: 5 thốn.

(93) Huyệt Cưu vỹ ở trên rốn 7 thốn (theo sách châm cứu ngày nay): Đính chính.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 23, 2018, 04:27:54 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #44 vào lúc: Tháng Ba 23, 2018, 09:53:27 AM »

4. BÀN VỀ CÁC HUYỆT HAI BÊN MẠCH NHÂM

Cứ Tuyền cơ huyệt đo ngang (95),
Một bên hai tấc lưỡng bàng cho thông (95b).
Ấy du phủ huyệt làm song,
Lại cứ Du phủ đo cùng xuống ngay.
Một tấc với sáu phân này,
Ấy Quắc trung huyệt khi nay cho tường.
Đo Quắc trung xuống một đường,
Sáu phân một tấc hòa lường chớ nghi.
Ấy Thần tàng huyệt một khi,

2511. Lại cứ Thần tàng xuống vậy thì cho ngay.
Một tấc với sáu phân rày,
Ấy Linh khư huyệt thở rày cho thông.
Cứ Linh khư xuống làm song,
Sáu phân một tấc Thần phong huyệt ngồi.
Cứ Thần phong xuống một thôi,
Sáu phân một tấc vừa rồi Bộ lang.
Ấy là hung bộ lưỡng bàng (hai bên ngực),
Này phúc bộ (vùng bụng) huyệt hai hàng hòa gia:
Cứ Cự khuyết huyệt đo ra,

2521. Một bên tấc rưỡi (96) vậy hòa phải thay.
Hai bên một tấc thuở rày,
Là U môn huyệt đã tày chớ ghi.
Cứ U môn huyệt một khi,
Đo xuống một tấc vậy thì cho minh.
Ấy huyệt Thông cốc thực hình,
Cứ Thông cốc xuống cho minh hòa lường.
Đo lấy một tấc phải phương,
Là Âm đô huyệt một dường cho yên.
Từ Âm đô xuống Thạch quan,

2531. Thì có một tấc hòa bàn khi nay.
Bảo cho hay cứ Thạch quan huyệt,
Ấy xuống đấy thấy huyệt Thương khúc kia.
Cùng có một tấc như y,
Đoạn lui tức thì xuống huyệt Hoang du.
Cùng cứ thương khúc hòa đo,
Đo xuống hai tấc thì so đoạn tề (tầy đầu) (97).
Trung chú huyệt ấy chỉn ghê,
Ngang Âm giao huyệt vậy thì năm phân.
Tứ mãn đo ngang mấy nhuần,

2541. Cứ Thạch môn huyệt mà lường năm phân.
Lại lấy Khí huyệt cho cần,
Ngang Quan nguyên huyệt năm phân đấy rày.
Đo từ Khí huyệt xuống ngay,
Cứ một tấc chẵn điều vậy chớ ngoa.
Ấy huyệt Đại hách đã qua,
Này huyệt Hoành cốt vậy hòa cho hay.
Đo Đại hách xuống bằng nay,
Có một tấc chẵn để nay hòa lường.
Bảo cho tường đo hai hàng từ đấy,

2551. Lại lấy bộ tam hàng (hàng thứ 3) kia ơi (98):
Cứ từ U môn đo ra (theo phân thốn ở ngực) (98b),
Lấy một tấc rưỡi vậy hòa Bất dung.
Cứ Bất dung một tấc xuống đấy,
Là Thừa mãn huyệt ấy vừa đến ngôi.
Lại cứ Thừa mãn kia ơi,
Đo xuống cho rồi một tấc Lương môn.
Lương môn đo xuống Quan môn,
Thì có một tấc càng khôn thuở rày,
Cứ Quan môn đo xuống Thái nhất (Thái ất).

2561. Đo cho tất một tấc chớ ngoa.
Cứ Thái ất đo xuống hòa gia,
Đến huyệt Hoạt nhục /môn/vậy hòa mười phân.
Lại lấy Thiên xu cho cần,
Cứ giữa rốn ấy hòa nhuần đo ngang.
Một bên ba tấc (99) lưỡng bàng,
Hai bên sáu tấc (99) chính đường Thiên xu.
Cứ Thiên xu một tấc đến đấy,
Ngoại lăng huyệt ấy lại vừa đến nay.
Lại cứ Ngoại lăng xuống rày,

2571. Đo xuống một tấc khi nay cho tường.
Huyệt ấy Đại cự một dường,
Lại lấy Thủy đạo hòa lường cho thông.
Cứ Thiên xu huyệt xuống làm song,
Thủy đạo năm tấc (100) lẽ cùng chớ sai.
Bảy tấc (101) thì huyệt Quy lai,
Xuống đến tám rày (102) thì huyệt Khí xung.
Bảo cho thông bộ hàng đã hết,
Lại xem biết đệ tứ hàng kia:

2581. Đến tấc rưỡi vậy thì Kỳ môn (103),
Cứ Kỳ môn đo xuống Nhật nguyệt.
Bảo cho biết thì cứ năm phân (104),
Lại cứ Nhật nguyệt hòa nhuần.
Đo xuống tấc rưỡi ấy phần Phúc ai (105),
Xuống đến Đại hoành huyệt nay,
Cứ ngang giữa rốn đo ngang ấy rày.
Một bên ba tấc rưỡi này (106),
Hai bên bảy tấc (106) thì rày chẳng ngoa.
Ấy huyệt Đại hoành chẳng xa,

2591. Lại nói huyệt khác bảo ta mấy màu.
Đo Đại hoành xuống chớ lâu,
Lấy ba phân chẵn rằng Phúc kết nay (107).
Ấy là chính huyệt phải thay,
Lại cứ Hoành cốt khi nay hòa bàn:
Ba tấc Phủ xá cho an (108).
Lại cứ Đại hoành xuống ngay,
Lấy đo năm tấc huyệt rày Xung môn
Huyệt Xung môn thẳng ngay xuống ấy,

2600. Phải xem hòa lấy đấy mấy nên.

***

Ấy bộ tứ hàng đã yên,
Này phúc bộ tiếp (hông bụng) lưỡng bàng hai hàng.
Lại cứ Hạ quản đo ngang,
Một bên sáu tấc lưỡng bàng khi nay.
Hai bên mười hai tấc rày,
Chương môn thuở ấy huyệt này chớ nghi.
Lấy huyệt nằm ngửa một khi,
Hiệu là ngọa trắc bảo thì cho thông.
Lại lấy Kinh môn làm song,

2610. Mẻ xương sườn cụt liền cùng đấy nay (110).
Bảo cho hay cứ xương cụt ấy,
Đo xuống rày một tấc tám phân.
Lấy Đới mạch huyệt mà nhuần (111),
Đoạn lui lại nhuần lấy huyệt Ngũ xu (112).
Cứ Đới mạch xuống hòa đo,
Có ba tấc chẵn thì so cho tường.
Ở Thủy đạo bàng (bên) một dường,
Lại bảo hòa lường ở Thủy đạo ra.
Đo hai tấc rưỡi chớ ngoa,

2620. Ấy Ngũ xu huyệt vậy hòa làm song.
Bảo cho thông lấy Duy đạo huyệt (113),
Cứ Chương môn đo hết xuống ngay.
Năm tấc ba phân bằng nay,
Ấy Duy đạo huyệt tên rày lạ sao.
Huyệt Cự liêu (114) cứ Chương môn ấy,
Đo xuống đấy làm tấc ba phân (114).
Lại bảo cho biết ân cần,
Hiếp bộ từ đấy hòa nhuần chớ sai.

* Chú thích:

(95) Bàn về các huyệt hàng thứ 2 thuộc kinh Túc thiếu âm - thận.

(95b) Tấc đo ngang: kể từ đầu vú bên trái sang đầu vú bên phải là 8 thốn.

(96) Huyệt U môn ở ngang huyệt Cự khuyết đo ra cách 5 phân (không phải tấc rưỡi): Đính chính.

(97) Huyệt Hoang du ngang huyệt Thần khuyết (giữa rốn) cách dưới huyệt Thương khúc 2 thốn.

(98) Bàn về các huyệt ở hàng thứ 3 trước thân thuộc kinh Túc dương minh - vị.

(98b) Thốn đo ngang ngực như đã chú ở hàng thứ 2 (số 49b).

(99) Huyệt Thiên xu ở ngang rốn cách ra 2 thốn (không phải 3 thốn) tức là 2 bên 4 thốn (không phải 6 thốn): Đính chính.

(100) Huyệt Thủy đạo cách dưới Thiên xu 3 thốn (chép nhầm là 5 thốn): Đính chính.

(101) Huyệt Quy lai cách huyệt Thiên xu 4 thốn (chép nhầm là 7 tấc): Đính chính (xem chú thích (67) ở trên.

(102) Huyệt Khí xung cách dưới huyệt Thiên xu 5 thốn (không phải 8 tấc).

(103) Huyệt Kỳ môn thuộc kinh Túc quyết âm - can, ở ngang huyệt Cự khuyết đi ra cách 3,5 thốn (theo phân thốn ở ngực).

(104) Huyệt Nhật nguyệt thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở khoảng sườn thứ 7, dưới huyệt kỳ môn khoảng sườn thứ 6 độ 1 thốn (theo Giáp ất kinh là 1,5 thốn. Châm cứu đại thành là 5 phân).

(105) Huyệt Phúc ai thuộc kinh Túc thái âm - tỳ, ở dưới huyệt Nhật nguyệt 2 thốn (Đại thành : 1,5 thốn) hay trên huyệt Đại hoành 3 thốn.

(106) Huyệt Đại hoành thuộc kinh Tỳ ở ngang rốn đi ra, cách mỗi bên 4 thốn (không phải 3 tấc rưỡi) tức hai bên 8 thốn (không phải 7 tấc).

(107) Huyệ Phúc kết (kinh Tỳ) ở dưới huyệt Đại hoành 1,3 thốn (không phải 3 phân chẵn).

(108) Huyệt Phủ xá (kinh Tỳ) ở dưới huyệt Đại hoành 4 thốn 3 phân. Nếu lấy huyệt Hoành cốt làm mốc thì ngang trên huyệt Hoành cốt 7 phân đi ra mỗi bên 3,5 thốn.

(109) Huyệt Chương môn thuộc kinh Túc quyết âm - can, ở chỗ dưới chót xương sườn thứ 11.

(110) Huyệt Kinh môn thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở chỗ xương sườn cụt (thứ 12).

(111) Huyệt Đới mạch thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở khoảng giữa hai huyệt Chương môn và Kinh môn đi xuống, ngang với rốn, cùng các huyệt Đại hoành, Thiên xu.

(112) Huyệt Ngũ xu (khu) thuộc kinh Đởm, ở dưới huyệt Đới mạch, ngang với huyệt Quan nguyên, cách huyệt Thủy đạo 2,5 thốn.

(113) Huyệt Duy đạo thuộc kinh Đởm, ở dưới huyệt Ngũ xu 5 phân.
« Sửa lần cuối: Tháng Ba 24, 2018, 09:44:15 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 2 [3] 4 5 6   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn