Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 19, 2024, 01:19:52 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: 1 ... 4 5 [6]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Linh khu  (Đọc 30383 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #75 vào lúc: Tháng Mười Một 19, 2017, 05:17:24 AM »

76. Tuần hành của khí bảo vệ (Vệ khí hành)


Nội dung: Nói về 50 chu kỳ tuần hoàn trong ngày đêm của khí bảo vệ. Lúc bình minh khi mở mắt ra thì khí bảo vệ từ đầu mắt lên đầu dọc Thái dương tay chân, Thiếu dương tay chân và Dương minh tay chân để đi lên đi xuống. Ở chân nó giao với phần Âm, qua Thiếu âm chân lên mắt. Như vậy mỗi ngày đêm đi 25 chu kỳ. Từ lúc ngủ đến bình minh nó bắt đầu từ kinh Thận và theo tuần tự Thận, Tâm, Phế, Can, Tỳ, rồi về Thận, một đêm đi 25 chu kỳ. Ngày và đêm đi tất cả 50 chu kỳ. Khí bảo vệ là mẹ của 100 bệnh, nó tuần hoàn ở toàn thân và phân ra Âm Dương ngày đêm, theo một quy luật nhất định, nếu châm đúng giờ thì hiệu quả cao hơn. Khi châm cần đợi khí, nếu bệnh ở 3 kinh Dương, thì đợi khí bảo vệ tuần hành đến phần Dương hãy châm, nếu bệnh ở 3 kinh Âm, thì đợi khí bảo vệ tuần hành đến phần Âm hãy châm, để nâng hiệu quả lên, gọi là: "cẩn hậu kỳ thời, bệnh khả dữ thời, thất thời phản hậu, bách bệnh bất trừ".

Hoàng đế: Sự tuần hoàn ra vào (ở Âm Dương biểu lý) của khí bảo vệ như thế nào?

Kỳ Bá: Một năm có 12 tháng, một ngày có 12 giờ, giờ Tý giờ Ngọ (ở Nam Bắc) là đường kinh (thẳng) giờ Mão Dậu (ở Đông Tây) là đường (ngang) vĩ. Vận hành trên trời của 28 sá (sao) là mỗi phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) có 7 sá (sao), 4 phương cộng 28 sá (sao). (Từ Đông sang Tây là) từ Phòng sá đến Ngang sá là vĩ (từ Bắc đến Nam là) từ Hư sá sang Sương sá là kinh. Cho nên từ Phòng sá (của phương Đông sang phương Nam) đến Tất sá (của phương Tây gồm 14 sá) thuộc Dương. Từ Ngưỡng sá (của phương Tây qua phương Bắc) đến Tâm sá (của phương Đông, gồm 14 sá) thuộc Âm. Dương là ngày, Âm là đêm. Cho nên khí bảo vệ (tuần hoàn cũng có quy luật như sự vận hành của các thiên thể) trong một ngày đêm tuần hành 50 chu kỳ, ngày 25 chu kỳ ở phần dương, 25 chu kỳ ở phần âm trong các tạng.

Giải thích: 28 sá là từ thiên văn cổ, là nơi các thiên thể quay vòng, chia làm 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi phương có 7 sá tức 7 sao. Đông có: Giác, Cung, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Bắc có: Đẩu, Ngưu, nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Tây có: Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Chủy, Sâm. Nam có: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Chương, Dực, Chẩn. Theo 12 địa can, từ Đông qua Nam đến Tây (14 sá) là giờ Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân (ban ngày) là Dương, nên "Phòng đến Tất là Dương". Từ Tây qua Bắc đế Đông (14 sá) theo địa chi là Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần (đêm) là Âm, nên "Ngang đến Tâm là Âm".

Từ Ngang đến Tâm là Âm



Từ Phòng đến Tất là Dương

 - Lúc bình minh là Âm tận. Lúc đó khí bảo vệ (đã đi hết 25 vòng ở tạng và) đi ra ngoài ở đầu mắt. Khi mở mắt, khí bảo vệ lên đầu, qua gáy, xuống Thái dương chân, dọc lưng xuống đến đầu ngón út (chí âm). Các nhánh đi khác của nó, là từ đuôi mắt xuống theo Thái dương tay đến phía ngoài đầu ngón tay út (Thiếu trạch). Từ đuôi mắt dọc theo Thiếu dương chân đến đầu ngón chân 4 (Khiếu âm), phần ở trên dọc theo Thiếu dương tay đến đầu ngón tay nhẫn (Quan xung), nhánh tách lên trước tai hợp ở hãm mạch (giữa Thừa khấp và Giáp xa), đổ vào Dương minh chân đi xuống, đến mu chân vào khoảng giữa các ngón chân (Lệ đoài), nhánh đi khác, từ dưới tai xuống Dương minh tay vào đầu ngón cái (đáng lẽ phải ghi là đầu ngón trỏ) rồi vào trong gan tay. Nhánh theo đường Dương minh chân đến bàn chân, vào gan chân, rồi lên mắt cá trong, đi theo phần Âm rồi lại hợp ở đầu mắt và bắt đầu lại, như vậy là hết một chu kỳ.

 (Ở gan chân lên mắt cá trong là Thiếu âm chân, nhánh của Thiếu âm chân là mạch Kiểu, mạch Kiểu thuộc khóe mắt trong, nên trở về hợp ở đầu mắt - Cảnh Nhạc).

 (Khí bảo vệ vận hành có quy luật, nên) khi mặt trời đi một sá thì khí bảo vệ đi một chu kỳ 8/10 (ngày đêm 28 sá thì có 50 chu kỳ của khí bảo vệ. Vậy vệ khí đi 1 sá thì sẽ là 50:28 = 1,785 chu kỳ), mặt trời đi 2 sá, vệ khí đi 3,6 chu kỳ, mặt trời đi 3 sá, vệ khí đi 5,4 chu kỳ, mặt trời đi 4 sá, vệ khí đi 7,2 chu kỳ, mặt trời đi 5 sá, vệ khí đi 9 chu kỳ, mặt trời đi 6 sá, vệ khí đi 10,8 chu kỳ, mặt trời đi 7 sá, vệ khí đi 12,6 chu kỳ, mặt trời đi 14 sá, vệ khí đi 25,2 chu kỳ (vì đây tính tròn 1,8 nên là 25,2 chu kỳ, đáng ra chỉ có 1.785), (ban ngày vệ khí đi) hết phần dương thì sẽ chuyển vào phần âm (và bắt đầu vào đêm) phần âm tiếp thu khí bảo vệ. Nó bắt đầu từ Thiếu âm chân, đổ vào Thận, từ Thận đổ vào Tâm, từ Tâm đổ vào Phế, từ Phế đổ vào Can, từ Can đổ vào Tỳ, từ Tỳ đổ vào Thận thành một chu kỳ. Cho nên đêm (mặt trời) đi một sá thì vệ khí đi ở trong âm cũng đi 1,8 chu kỳ. Trong một đêm cũng như trong một ngày vệ khí đi 25 chu kỳ ở trong âm và lại hợp lại ở đầu mắt. Ở phần âm, phần dương, một ngày một đêm (vận hành cộng 50 chu kỳ) thêm 0,4; nếu chỉ tính ở phần âm chỉ thêm 0,2 chu kỳ. Số tính có thừa vì người lúc ngủ lúc thức sớm muộn không giống nhau vậy.

Hoàng đế: Khí vệ tuần hành trong người, lúc ở trên lúc ở dưới tùy theo giờ, làm thế nào để đợi khí mà châm được?

Bá Cao: Sự phân độ tuần hành của thiên thể có nhiều có ít, thời gian của ngày có dài có ngắn, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm có khác nhau theo quy luật 4 mùa. Song thường lấy lúc mặt trời mọc làm chuẩn, lúc đêm tận làm bắt đầu (vệ khí bắt đầu ở phần dương). Trong  1 ngày 1 đêm, đồng hồ nước báo 100 khắc, vậy 25 khắc là thời gian 1/2 ngày, và tuần hành không ngừng như vậy (cho nên ban ngày dài hay ngắn) khi mặt trời lặn là lúc hết ban ngày (dương tận). Thường lấy thời gian dài ngắn của đoạn mặt trời mọc, mặt trời lặn để làm chuẩn (cho Âm Dương ngày và đêm) và tiến hành châm cho đúng lúc. Nếu châm đúng lúc (khí hành), có thể đoán chính xác ngày khỏi bệnh, nếu không nắm đúng thời cơ châm, hoặc vi phạm khí hậu 4 mùa (châm sai), thì không chữa được các bệnh. Cho nên nói: châm chữa chứng thực, cần châm thế đến của nó (đón khí nó đến để đoạt khí làm cho nó hư đi), châm chữa chứng hư, cần châm thế đi của nó (theo thế đi của nó để bổ xung cho nó). Nghĩa là khí cảm ứng với châm còn hay mất, cần phân biệt rõ trạng thái hư thực để châm cho thích hợp. Đợi khí đến để châm đúng lúc là gập thời (nghĩa là) bệnh ở 3 kinh dương, cần đợi khi khí đến phần dương mới châm.

 - Đồng hồ nước điểm 1 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 2 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 3 khắc, vệ khí ở Dương minh (chân tay). Điểm 4 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 5 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 7 khắc, vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 8 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 9 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 10 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 11 khắc, ở Dương minh (tay chân). Điểm 12 khắc vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 13 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 14 khắc vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 15 khắc, vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 16 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 17 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 18 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 19 khắc, vệ khí ở Dương minh (chân tay). Điểm 20 khắc vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 21 khắc vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 22 khắc vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 23 khắc vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 24 khắc vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 25 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Đó là tình hình tuần hoàn của vệ khí trong 1/2 ngày. Từ Phòng sá đến Tất sá có 14 sá, đồng hồ nước điểm 50 khắc, ngày đi được 1/2 thời gian và 1/2 đường. Mỗi lúc mặt trời lặn đi được 1 sá, cần phải dùng thời gian 3 khắc 4/7 (100 khắc/28 = 3,5714 khắc). Trong thiên Đại yếu có viết: thường mặt trời đi 1 sá trong 28 sá, vệ khí (bắt đầu đi) ở Thái dương (tay chân). Cho nên, quá trình mặt trời đi 1 sá, vệ khí đi hết 3 kinh dương và vào phần âm (Thiếu âm chân), vận hành như vậy không ngừng, cùng quy luật với biến hóa của tự nhiên. Tuy rất phức tạp, nhưng vẫn có một mối không rối loạn là đi hết thì bắt đầu đi lại và qua một ngày đêm 100 khắc, vệ khí hoàn thành quá trình tuần hoàn 50 chu kỳ toàn thân của mình.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 10:45:34 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #76 vào lúc: Tháng Mười Một 20, 2017, 10:02:22 PM »

77. Chín cung tám phong (Cửu cung bát phong)


Nội dung: Nói về "Thái nhất" trong một năm, cả trung ương 8 phương thành 9 cung, chúng đổi chỗ theo tuần tự, mỗi phương lại chia 3 thời tiết, cộng tiết ước 46 ngày, 8 phương toàn năm cộng 24 tiết, 365 ngày quá một tý. Ngày mà khí "Thái nhất" chuyển từ cung này sang cung khác cũng là ngày đổi tiết trời, như tình hình biến đổi khí tượng của ngày đó và mấy ngày trước sau đó, và có thể dựa vào đó để dự báo mưa gió có thuận hòa hay không, có sinh ra hạn lụt không, và sẽ lưu hành những bệnh gì. 8 loại gió thổi từ 8 phương, nếu hợp với thời tiết sẽ thúc đẩy vạn vật sinh trưởng, nếu trái thời tiết là hư phong, sẽ khu sát vạn vật. 8 hư phong có 8 tên khác nhau, tác động vào cơ thể cũng ở vị trí khác nhau. Ở người hư gặp năm hư thì bị hư phong, 3 hư đánh nhau thì rất là nguy hiểm.


Giải thích:

1. Vị trí của 9 cung sắp xếp theo vị trí bát quái. Vị trí 8 quái sắp xếp theo 5 hành, xếp ở 8 phương vị.

Ví dụ:

Khảm = Thủy = Bắc

Ly = Hỏa = Nam

Trấn = Mộc = Đông

Tốn = Mộc = Đông nam

Đoài = Kim = Tây

Càn = Kim = Tây bắc

Không = Thổ = Tây nam

Cấn = Thổ = Đông bắc

 Tiết trời xếp vào 9 cung, căn cứ vào Âm Dương ngũ hành. Ví dụ: Trấn: Đông, Xuân phân; Ly: Nam, Hạ chí; Đoài: Tây, Thu phân; Khảm: Bắc, Đông chí...; Chủ yếu cần hiểu ý nghĩa đại biểu thời tiết của bát quái. Thông thường để vị trí Tây bên trái, Đông bên phải, Bắc ở trên, Nam ở dưới, ở đây để ngược lại nhưng tác dụng của 2 cách đặt như nhau.

2. Trong mỗi cung có 1 số, đó là số của 9 cung trong Lạc thư. Số đó đại biểu cho sự thay đổi khí hậu 4 mùa, sự mạnh yếu của ánh nắng mặt trời mỗi ngày. Thứ tự sắp xếp các số tuần tự theo vị trí Đông, Nam, Tây, Bắc là 3, 9, 7, 1. Chúng căn cứ vào số Âm 2 (chẵn), số Dương 1 (lẻ), Âm Dương hợp với nhau 1 + 2 = 3. Từ 3 nhân với số của phương trước mình lên để phân cho 4 phương. Cung Trấn phương Đông là 3, vậy cung Ly, phương Nam là 3 x 3 = 9. Cung Đoài phương Tây là 3 x 9 = 27 (7). Cung Khảm phương Bắc là 3 x 7 = 21 (1). Cung Trấn phương Đông, tiếp tục là 3 x 1 = 3. Những phương chính diện là số lẻ (kỳ số, số dương), tượng trưng cho ban ngày, mặt trời lên ở phương Đông, lặn ở phương Tây. Số lớn bé còn đại biểu cho sự biến hóa nóng lạnh của 4 mùa, và sự mạnh yếu của ánh sáng mặt trời. Như phương Đông cung Trấn là Xuân phân, số 3 đại biểu xuân ôn, vạn vật sinh trưởng, khí dương từ ôn phát triển lên nhiệt cực, chuyển đến phương Nam Ly số 9, Hạ chí, tức mùa Hạ nhiệt, vạn vật trưởng thành. Nhiệt cực chuyển thành mát, sang phương Tây cung Đoài, số 7 Thu phân, tức thu lương (mát) thì vạn vật thu lại. Mát chuyển thành hàn cực rồi chuyển sang phương Bắc, cung Khảm số 1 - Đông chí, tức đông hàn và vạn vật chết. Hàn cực lại chuyển thành ôn hòa, lại chuyển sang phương Đông, cung Trấn số 3 - Xuân phân. Lấy nhiệt độ trong một ngày, phương Đông số 3, đại biểu mặt trời mọc, lúc ánh nắng tăng dần, chuyển đến số 9 giữa trưa, ánh nắng mạnh nhất, lại chuyển sang số 7 ánh nắng giảm dần, rồi sang số 1 ánh nắng yếu nhất.

 Trong 4 góc của hình là số chẵn, số Âm, số chuyển động của nó được ngược với số dương. Bắt đầu từ số 2 tức góc Tây nam cung Khôn, 2 x 2 = 4 chuyển sang góc Đông nam cung Tốn, 2 x 4 = 8, chuyển sang góc Đông bắc cung Cấn, 2 x 8 = 16 (6) chuyển sang góc Tây bắc cung Càn, 2 x 6 = 12 (2) lại chuyển về góc Tây nam cung Khôn. Số Âm lớn nhỏ, chuyển hướng trước sau cũng đại biểu 4 mùa và sự mạnh yếu của nhiệt độ trong ngày, nói lên rét đi thì nắng lại, ngày qua thì đêm đến. Trong hình ở giữa là số 5, là nguồn gốc mọi biến hóa của các số. 2 là số khởi đầu của Âm Dương 2 x 5 = 10, các số chéo nhau của 4 phương chính cộng lại cũng thành 10, 9 + 1 = 10, 2 + 8 = 10, 7 + 3 = 10, 6 + 4 = 10. Nếu lấy số 3 x 5 = 15 thì cộng các hàng ngang, dọc của 9 cung đều là 15. 4 + 3 + 8 = 15, 2 + 7 + 6 +15, 4 + 9 + 2 = 15, 3 + 5 + 7 = 15, 8 + 1 + 6 = 15.

 Đồng thời lấy các số chẵn 2, 4, 6, 8 cộng lại và nhân với 5 là 100; các số lẻ 3, 9, 7, 1 cộng lại và nhân với 5 cũng là 100. Với cách nhân, cộng như trên của các số có thể có những kết quả như nhau, vì vậy cách phân bố số ở 9 cung suy ra 4 mặt, 8 phương, nhưng có quan hệ nhất định.

- "Thái nhất" thường bắt đầu ở ngày Đông chí, ở cung Diệp trập (chủ 3 tiết Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn) 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (ngày thứ 47) (đã sang Lập xuân và) sang cung Thiên lưu (Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Xuân phân) sang cung Thương môn (lập xuân, Thanh minh, Cốc vũ) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập hạ và) sang cung Âm lạc (Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng) cộng 45 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Hạ chí) sang cung Thiên (Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập thu và) sang cung Huyền ủy (Lập thu, Xử thử, Bách lộ) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Thu phân) sang cung Thượng quả (Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập đông) sang cung Tân lạc (Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết) cộng 45 ngày. Hết 45 ngày này tiếp ngày sau là sang Đông chí và cung Diệp trập.

Bị chú: "Thái nhất " là Bắc thìn. Theo "Tây chí" sao Trung cung, sao Thiên cực có một vị sáng là nơi ở của sao "Thái nhất" là chí tuân, "nhất" là bắt đầu của vạn vật, là chúa tể của thiên nguyên. Thái nhất là Bắc cực, Bắc cực ở giữa không vận động, sao Đẩu vận động ở ngoài. Sao Đẩu có 7 sao, phụ 1 sao, từ 1 đến 4 là Khôi, từ 5 đến 7 là Tiêu, từ Đẩu đến Tiêu là 12 thìn (giờ), lấy nó để xây dựng thời tiết, vì sao Bắc cực là thống soái nên gọi là Bắc thìn.

 Cung Khảm gọi là Diệp trập, mùa Đông chủ trập trùng, đến lúc nhất dương của sơ Đông, côn trùng bắt đầu hoạt động nên gọi là Diệp trập. Cung Cấn là Thiên lưu. Cấn là núi, không động. Cung Trấn là Thương môn, thương là tàng. Khí của trời đất vạn vật thu tàng, đến xuân phương, đông bắt đầu chấn động mở cửa gọi là Thương môn. Cung Tốn là Âm lạc ở Đông nam, chủ tháng 4. Cung Ly gọi là cung Thiên (trời), ngày tháng đẹp có mặt trời mặt trăng, chủ ly minh ở trên. Cung Khôn là Huyền ủy, Khôn là đất, huyền là du viễn, ủy là tùy thuận, đại đạo du viễn tuần tự là Huyền ủy. Cung Đoài là Thương quả, đến Thu, vạn vật thu lại thành quả. Cung Càn là Tân lạc, tân là bắt đầu, Lạc thư ghi 9 lý 1, 1 là bắt đầu của Càn.

- Thái nhất là ngày du hành, ngày đó được lấy làm Đông chí, nằm ở cung Diệp trập, được làm chuẩn để tính chỗ của các ngày khác. Phải bắt đầu từ số 1 (cung Khảm, ở phương vị đó) lần lượt du hành 9 ngày, cuối cùng lại trở lại cung Khảm số 1, và cứ tuần hoàn không ngừng như vậy.

 (Ngày 1 là Đông chí, 2 là Lập thu, 3 là Xuân phân, 4 là Lập hạ, 5 là Trung ương, 6 là Lập đông, 7 là Thu phân, 8 là Lập xuân, 9 là Hạ chí, rồi trở lại 1 là Đông chí (Mã Nguyên Đài). Nếu ở cung Diệp trập, ngày 1 đến Thiên lưu, ngày 2 đế Thương môn, ngày 3 đến Âm lạc, ngày 4 đến Thiên cung, ngày 6 đến Huyền ủy, ngày 7 đến Thương quả, ngày 8 đến Tân lạc, ngày 9 đến Diệp trập. Nếu ở cung Thiên lưu thì sau 9 ngày  lại trở về Thiên lưu).

 Ngày Thái nhất chuyển cung, trời ứng bằng có gió mưa, ngày đó nếu có gió mưa là lành, được mùa, dân yên, ít bệnh. Nếu trước mấy ngày có nhiều mưa (mưa nhiều, hoặc sau mấy ngày mới có mưa gió thì sẽ hạn nhiều (do khí thiếu). Ngày Thái nhất, tại Đông chí, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại quân. Ngày Thái nhất, tại Xuân phân nếu khí hậu có biến đổi, chiếm tại tể tướng. Ngày Thái nhất, tại trung cung, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại sứ. Ngày Thái nhất tại Thu phân, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại Bách binh (dân). Ngày khí hậu có biến đổi là ngày mà Thái nhất ở cung nào đó trong năm cung trên, có gió mạnh thổi gẫy cành đổ cây, gió thồi bay cát sỏi. Dựa vào hiện tượng đó, có thể từ phương mà Thái nhất đóng để đoán thân phận sang hèn của người bệnh. Đồng thời còn lấy hướng gió làm căn cứ trong mỗi mùa, gió từ nơi nó ở thổi đến (đúng hướng) là thực phong, chủ khí sinh trưởng, nuôi dưỡng vạn vật. Nếu hướng gió trong mùa ngược lại là hư phong, có thể làm tổn thương thân thể, chủ khí sát, chủ hại (cũng gọi là tà phong). Người ta phải tìm cách tránh phong đó. Thánh thần (người biết phép dưỡng sinh) biết sâu sắc sự cần thiết phải tránh hư tà tặc phong của mỗi ngày như tránh mũi tên hòn đạn vậy, như vậy khí tà không vào người được.

 (Thực phong: mùa Xuân gió đông, mùa Hạ gió nam, mùa Thu gió tây, mùa Đông gió bắc. Nguyệt kiến ở Tý, gió bắc là khí mùa Đông; nguyệt kiến ở Mão, gió đông, là khí mùa Xuân; nguyện kiến ở Ngọ, gió nam là khí mùa hè; nguyệt kiến ở Dậu, gió tây là gió mùa Thu. Bốn ngẫu 12 kiến, các khí đều có riêng, đúng với mắt chính của nó, chính khí vượng là thực phong - Cảnh Nhạc).

 (Hư phong: Tháng 11 (Tý) có gió nồm (Nam ở Ngọ hỏa phản thắng thủy), TÝ Ngọ tương xung (Kim thắng Mộc), tháng 2 (Mão), có gió Tây (Tây ở Dậu) Mão Dậu tương xung. Thái nhất (tháng 5) ở Ngọ có gió bấc (thủy thắng hỏa). Thái nhất ở Dậu (tháng tám) có gió Đông (Mộc phản thắng Kim).

 Nếu Thái nhất (nguyệt kiến) ở cung giữa, thì nằm ở giữa và hướng cả được về 8 phương, để đoán các ảnh hưởng xấu và tốt của nó đối với vạn vật. Gió từ Nam lại (Hỏa - Ly) gọi là Đại nhược phong (gió to yếu). Nếu vào người thì ở trong nó vào ở Tâm, ở ngoài nó lưu ở mạch, khí của nó chủ bệnh nhiệt. Gió từ Tây nam (Thổ - Khôn) lại gọi là Mưu phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Tỳ, ở ngoài nó lưu ở cơ. Khí của nó chủ bệnh suy nhược. Gió từ Tây (Kim - Đoài) lại gọi là Cương phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Phế, ở ngoài nó lưu vào da, khí của nó chủ bệnh táo (khô). Gió từ Tây bắc (Kim - Càn) lại gọi là Triết phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Tiểu trường, ở ngoài nó lưu vào mạch Thái dương tay, nếu mạch tuyệt thì khí của nó tràn ra, mạch tắc thì khí của nó kết lại không thông, dễ chết đột ngột. Gió từ Bắc lại (Thủy - Khảm) gọi là Đại cương phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Thận, ở ngoài nó lưu vào xương và gân của vai, cột sống, khí của nó chủ bệnh hàn. Gió từ Đông bắc lại (Thổ - Cấn) gọi là Hung phong (gió dữ), nếu nó vào người thì ở trong nó vào Đại trường, ở ngoài lưu ở dưới hai sườn, nách và các khớp chi thể. Gió từ Đông lại (Mộc - Trấn) gọi là Anh nhi phong (gió trẻ em) nếu vào người thì ở trong nó vào Can, ở ngoài nó lưu vào chỗ bắp cơ (cân hữu), khí của nó chủ bệnh thấp toàn thân. Gió từ Đông nam (Mộc - Tốn) lạ gọi là Nhược phong, nếu vào người thì ở trong nó vào Vị, ngoài lưu ở thịt, khí của nó chủ bệnh người nặng nề. 8 loại gió này đều đi từ hướng hư đến, đều thuộc hư phong, nên có thể gây bệnh. 3 cái hư đánh nhau (chính khí hư, khí của 5 hư, hư phong) dễ gây bạo bệnh, chết đột ngột. 2 thực 1 hư đánh nhau, bệnh thường là mệt mỏi, hàn nhiệt. Ở nơi mưa ẩm thấp (bị khí của thủy thấp) thường gây bệnh nuy. Nên nói người khôn ngoan tránh tặc phong như tránh mũi tên hòn đạn vậy. Trong 3 hư mà tà phong thiên thắng thì hay dễ bị hôn mê hay liệt 1/2 người.

 (Tây bắc là Càn - Kim. Kim chủ giết người, Chiết phong - phong vào người nam ứng ở trên, Bắc ứng ở dưới nên Tiểu trường bị bệnh. Tiểu trường là Bính, là phủ hỏa của hạ tiêu, Càn - Hợi hư phong, nó xung với Tỵ. Tây là Kim, tính là sát, Bắc là thủy, tính là tàn bạo, khí Tây bắc hợp nên bạo tử.

 Đông bắc là Cấn - Thổ. Vì âm khí chưa thoái, dương khí chưa thịnh nên gọi là hung phong, vào người nó ở Đại trường - Đại trường là Canh phủ Kim ở hạ tiêu, Cấn Dần là hư phong, nó xung với Thân, Vùng dưới hai nách, sườn ở gần chỗ của Đại trường, khớp tay là nơi đi qua của Dương minh tay. Đông nam là Tốn - Mộc, vì khí hoãn nên gió yếu gọi là Nhược phong. Ở Đông nam thì thấp thắng, Mộc vũ Thổ, nếu phong vào người thì sẽ vào Vị, lưu ở bắp thịt và gây thân thể nặng nề.

Bảng tóm tắt 8 hư phong và vị trí bị bệnh

« Sửa lần cuối: Tháng Tám 14, 2020, 05:00:29 PM gửi bởi Đom đóm » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #77 vào lúc: Tháng Mười Một 22, 2017, 03:13:39 PM »

Quyển thứ mười hai

78. Bàn về 9 loại kim (Cửu châm luận)


Nội dung: Nói về hình dáng, tính năng khác nhau của 9 loại kim và nêu chỉ định trong điều trị của chúng, từ quan điểm trời đất tương ứng, dùng các hình tượng nói lên quan hệ giữa người và tự nhiên. Nêu rõ trong điều trị cần dựa cả vào bệnh tình lẫn hoàn cảnh sinh sống, để dùng cả châm, cứu, đạo dẫn, biếm thạch lẫn thuốc ngọt, xoa bóp, uống rượu mới mong đạt kết quả tốt. Và cũng cần dựa vào công năng, thuộc tính của ngũ tạng và quan hệ tương đối về Âm Dương của thân thể, quy luật phát bệnh của Âm Dương, khí huyết để thuyết minh rõ khi chữa bệnh bằng châm cần kết hợp với các mặt tạng phủ Âm Dương.

Hoàng đế: Nguyên lý của 9 loại kim từ đâu mà có, tại sao lại có tên khác nhau?

Kỳ bá: 9 loại kim là con số lớn của đất trời. Con số bắt đầu bằng 1 kết thúc bằng 9 (mỗi loại kim đều kết hợp với hiện tượng tự nhiên). Kim thứ nhất lấy phép của trời, kim thứ hai lấy phép của đất, kim thứ ba lấy phép của người, kim thứ tư lấy phép của thời (bốn mùa), kim thứ  năm lấy phép của ngũ âm, kim thứ sáu lấy phép của (6) luật, kim thứ bẩy lấy phép ở thất tinh (7) sao, kim thứ tám lấy phép ở (tám) phong (8 gió). kim thứ chín lấy phép ở đồng ruộng (của 9 châu).

Hoàng đế: Kim ứng với 9 con số như thế nào?

Kỳ Bá: Người tài giỏi đã lập ra cách đếm số để nói lên sự biến hóa của trời đất, lấy từ số 1 đến số 9 (là các số cơ bản) làm căn cứ để phân châu. 9 nhân với 9 bằng 81, rồi lại sáng tạo số Hoàng chung (là 1 trong 12 luật, trong 5 âm cung, thương, giác, trưng, vũ, cung thuộc trung ương Hoàng chung, 12 luật của ngũ âm bắt đầu từ phần đó. Cảnh Nhạc viết: Hoàng chung là gốc của vạn vật) để kim châm và con số ứng với nhau, đó là nguồn gốc của 9 loại kim ứng với 9 con số.

- Loại thứ nhất (Sàm châm) ví như trời. Trời ở trên là Dương, tạng ứng với trời là Phế, vì Phế là tạng cao nhất, là cái lọng che hết cả 5 tạng 6 phủ (che cả vạn vật, phế khí nhẹ và hư nên ví như trời). Da là hợp của Phế, cũng là phần dương (biểu nông nhất) của cơ thể. Để chữa loại bệnh nông này, kim phải có đầu to, mũi nhọn sắc (như mũi tên) để nó chỉ châm nông ở da mà không đi sâu trong cơ để làm khí dương xuất ra ngoài da.

 - Loại thứ hai (Viên châm) ví như Thổ. Bắp thịt của cơ thể ứng với Thổ, để chữa bệnh ở bắp thịt, kim phải có thân tròn dài như trụ, mũi kim hình ô van như trứng (để xoa bóp) để nó không làm tổn thương bắp thịt (sơ tiết khí huyết ở trong bắp thịt) nếu bắp thịt bị thương thì sẽ làm khí (của Tỳ suy) kiệt.

- Loại thứ ba (Đề châm) ví như người. Do trưởng thành sự sống của người phải nhờ vào tuần hoàn của huyết mạch, nên châm bệnh của huyết mạch, kim phải có thân tương đối to, mũi kim tròn hơi nhọn làm nó có thể xoa bóp mạch lạc mà không gây nên xuyên qua da vào cơ, để lưu thông khí của nó, để (cho chính khí đầy đủ và ) chỉ đuổi tà khí ra thôi.

 - Loại thứ tư (Phong châm) ví như 4 mùa, 4 mùa có nghĩa là: tà phong của 8 phương trong 4 mùa khi xâm nhập vào kinh mạch, đều gây nên bệnh ngoan cố, cho nên để chữa bệnh này, kim cần thân hình trụ, mũi sắc nhọn để tả nhiệt, làm ra máu và hết bệnh ngoan cố.

 - Loại thứ năm (Phi châm) ví như âm thanh. 5 số của âm (ở giữa hai số 1 và 9 trong 9 cung, số 1 đại biểu Đông chí và Tý, số 9 đại biểu Hạ chí và Ngọ) số 5 ở giữa là ở giữa Đông Hè và giữa Tý Ngọ. Như Âm Dương của người chia hai đầu, hàn và nhiệt không duy trì bình thường mà đánh nhau ở một chỗ và hợp lại thành nhọt mủ. Chữa loại bệnh này, dùng loại kim có mũi nhọn như mũi kiếm để tháo mủ ra.

 - Loại thứ sáu (Viên lợi châm) ví như (6) luật. (6) luật (cao thấp có tiết tấu) điều hòa Âm Dương 4 mùa, và phối hợp với 12 kinh mạch. (Nếu khí huyết Âm Dương không điều hòa là 6 luật không điều hòa). Hư tà sẽ thừa hư vào kinh lạc và gây chứng tý cấp (Bạo tý). Để chữa loại bệnh này, kim cần nhọn như đuôi ngựa, tròn mà sắc, giữa thân kim hơi to để chữa bạo khí (chứng cấp).

 - Loại thứ bẩy (Hào châm) ví như (7) ngôi sao. 7 ngôi sao ở trên trời như 7 khiếu ở phần trên của người. Ngoại tà vào trong kinh sẽ sinh thống tý, và bệnh ở trong kinh lạc. Chữa loại bệnh này kim cần mũi nhọn như vòi của muỗi để có thể yên tĩnh đợi khí và vê châm nhẹ. Thân kim nhỏ để lưu kim lâu, làm cho khí chính đầy đủ, chân khí và tà khí đều bị ảnh hưởng của châm, khi rút kim có thể tán tà dưỡng chân được.

 - Loại thứ tám (Trường châm) ví như (tám) phong, ví như 8 khớp chân tay, 8 tiết khí trời của 4 quý đều có hư phong, thành ra 8 phong đều gây bệnh và đều nằm ở giữa khớp xương sống lưng và tấu lý mà thành chứng tý ở sâu. Chữa loại bệnh này, kim cần dài, mũi nhọn để vào đuổi tà ở sâu, tý ở sâu (viễn tà, viễn tý).

 - Loại thứ 9 (Đại châm) ví như (9 vùng) đồng ruộng, ở người nó là các khe khớp và dưới da. Tà khí vào sâu, chẩy tràn ra trong người như kiểu phong thủy, nước không qua khớp và tích lại ở khớp thành thành bệnh. Để chữa bệnh này kim cần nhọn như cây trượng (của người già) mũi kim hơi tròn, để lấy cái khí (nước tích) không qua được khớp ra.

Hoàng đế: Độ dài ngắn của các loại kim?

Kỳ Bá: Loại thứ nhất (nhọn) Sàm châm, giống như kim dệt, mũi kim nhọn như mũi tên, trừ mũi kim ra còn dài 1,5 tấc, cộng 1,6 tấc, chữa bệnh nóng ở đầu, thân (châm nông ở da để tả nhiệt). Loại kim thứ hai Viên châm, mô phỏng theo kim dệt sợi bông, thân kim hình ống dài, mũi kim hình (ô van) như quả trứng, dài 1,6 tấc (để xoa bóp) để chữa bệnh do tà lưu ở giữa các bó cơ. Loại kim thứ ba Đề châm, giống như hạt dẻ tròn mà hơi nhọn, dài 3,5 tấc, để xoa bóp kinh mạch, lưu thông khí huyết, làm tà khí tiết ra ngoài. Loại thứ tư Phong châm, cũng mô phỏng theo kim dệt sợi bông, thân hình ống dài, mũi kim sắc nhọn, dài 1,6 tấc, chữa nhiệt độc hay ung nhọt, để chích (lạc) nặn máu. Loại thứ năm Phi châm, mô phỏng theo mũi kiếm, rộng 2,5 phân, dài 4 tấc, chữa ung nhọt có mủ và hàn nhiệt không hòa (để chích tháo mủ). Loại kim thứ sáu Viên lợi châm, mô phỏng theo cái đuôi ngựa, mũi kim hơi to, thân kim nhỏ lại, để có thể châm sâu, dài 1,6 tấc, chữa ung nhọt và chứng tý. Loại kim thứ bẩy Hào châm, mô phỏng theo sợi tóc, sợi tơ, dài 1,6 tấc, chữa hàn nhiệt thống tý, khí tà ở lạc. Loại kim thứ tám Trường châm, mô phỏng theo kim kỳ dài 7 tấc, chữa khí tà ở sâu, lâu ngày không khỏi - viễn (cửu) tý. Loại kim thứ chín Đại châm, mô phỏng loại Phong châm, nhưng mũi kim sắc hơi tròn dài 4 tấc, chữa tích nước ở khớp. Đó là độ dài ngắn to nhỏ của 9 loại kim.

Hoàng đế: Dáng người ứng với 9 vùng đồng bằng của tự nhiên như thế nào?

Kỳ Bá: Chân trái ứng với Lập xuân, ngày Mậu dần, Kỷ sửu (do bên trái là dương, Xuân Hạ thuộc dương, dương khí từ dưới lên). Sườn trái ứng với Xuân phân, ngày Ất mão. Tay trái ứng với Lập hạ, ngày Mậu thìn, Kỷ tỵ. Ngực, hầu, họng, đầu mặt ứng với Hạ chí, ngày Bính ngọ. Tay phải ứng với Lập thu (Đông Thu thuộc âm, âm khí từ trên giáng xuống, nên tay phải ứng với Lập thu), ngày Mậu thân, Kỷ mùi. Sườn phải ứng với Thu phân, ngày Tân dậu. Chân phải ứng với Lập xuân, ngày Mậu tuất, Kỷ hợi. Thắt lưng xương vùng khiếu ở dưới ứng với Đông chí, ngày Nhâm tý, 6 phủ, 3 tạng ở dưới cơ hoành (Can, Tỳ, Thận) ứng với trung châu (Trung cung), ngày đại cấm là ngày Thái nhất ở trung cung và các ngày Mậu, Kỷ. Từ 9 vùng trên, có thể đoán nơi ở của 8 chính. Dựa vào các vị trí phải trái trên dưới của 9 cung, nếu thân thể chỗ nào có ung nhọt, sưng, cần chữa rạch tháo mủ thì phải tránh ngày cấm của nó tức ngày ứng với nó.

Giải thích:

 - Phương Đông là mộc, Xuân phân tháng hai âm lịch, tháng Mão, thiên can là Ất mộc, địa chi là Mão mộc, lấy địa chi của tháng làm địa chi của ngày, nên cạnh sườn trái là Xuân phân, ứng ngày Ất mão.

 - Phương Nam là hỏa, Hạ chí vào tháng 5, tháng Ngọ, thiên can là Bính hỏa, địa chi là Ngọ hỏa, đầu mặt cổ là Hạ chí ứng ngày Bính ngọ.

- Phương Tây là kim, Thu phân vào tháng 8, tháng Dậu, thiên can là Tân kim, địa chi là Dậu kim, nên cạnh sườn phải là Thu phân, ứng ngày Tân dậu.

- Phương Bắc là thủy, Đông chí tháng 11, tháng Tý, thiên can là Nhâm thủy, địa chi là Tý thủy, nên thắt lưng xương cũng là Đông chí, ngày Nhâm tý.

 - Bốn góc là giữa hai phương, trung ương, thuộc thổ, nên ngày của 4 góc và trung ương đều là mậu Kỷ và thêm vào địa chi của phương vị của khí hậu.

Ví dụ:

 - Lập xuân tháng 12, tháng Sửu hoặc tháng giêng, tháng Dần, hướng Đông bắc. Sửu Dần, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can sẽ là ngày của Lập xuân Mậu dần, Kỷ sửu.

 - Lập hạ tháng 3, tháng Thìn, tháng 4 tháng Tỵ, hướng Đông nam. Thìn Tỵ, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can là ngày của Lập hạ (Mậu thìn, Kỷ tỵ).

 - Lập thu tháng 6, tháng Mùi hoặc tháng 7 Thân, tháng Dần, hướng Tây nam. Mùi Thân, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can sẽ là ngày của Lập xuân (Mậu thân, Kỷ mùi).

 - Lập đông tháng 9, tháng Tuất hoặc tháng 10 Hợi, hướng Tây nam, hai địa chi Tuất Hợi hợp với hai thiên can Mậu kỷ là ngày của Lập đông (Mậu tuất, Kỷ hợi).

 Người xưa cho rằng bệnh ở các vị trí ứng với các ngày trên, thì không nên chữa vào ngày đó, nhất là rạch tháo mủ. Ngày nay không nhất thiết phải kiêng.

 - Hình lạc chí khổ (thân thể nhàn hạ trong lòng bị dày vò) bệnh thường ở mạch, khi chữa cần dùng cả châm và cứu. Hình khổ chí lạc (thân thể bị dày vò trong lòng thanh thản) bệnh thường ở cân, chữa cần dùng cứu ôn và đạo dẫn. Hình lạc chí lạc (thân thể nhà hạ, trong lòng thanh thản) bệnh thường ở cơ nhục, chữa cần dùng châm biếm thạch. Thân khổ chí khổ (thân thể bị dầy vò, trong lòng cũng bị dầy vò) bệnh thường ở hầu họng, dùng thuốc ngọt để chữa. Nếu nhiều lần bị khủng khiếp (khí huyết vận hành ở) cân mạch sẽ không thông, bệnh sẽ có cảm giác bất nhân (tê bì) cần dùng xoa bóp và rượu thuốc để chữa (làm thông khí huyết). Đó là những bệnh do thân thể an nhàn lao lực quá gây nên.

 - Khí của ngũ tạng (không điều hòa sẽ sinh bệnh), khí Tâm (không sơ thông) sinh ho khạc, khí Can (uất kết, thì tinh thần bất thường và) sinh nói nhiều, khí Tỳ (vận hóa thất thường thì) nuốt chua, khí Thận (không đủ thì mệt mỏi) thì ngáp.

 Bị chú: Người xưa có lúc đưa bệnh của Vị vào bệnh của Tâm, vì chỉ có Vị khí không giáng mới ợ hơi.

 - Khí của 6 phủ (không điều hòa sẽ sinh bệnh), khí của Đởm (uất dễ) sinh cáu gắt, khí của Vị (không giáng sẽ) nghịch thành nấc, khí của Đại tràng, Tiểu tràng (không chuyển hóa thức ăn được) gây ỉa chảy. Khí của Bàng quang (hư) không khống chế được đi đái, sẽ đái dầm, đái ra quần (di niệu). Tam tiêu không thông đường nước sẽ bị tắc, nước ứ thành phù.

 - Ngũ vị: chua vào Can (mộc) trước, cay vào Phế (kim) trước, đắng vào Tâm (hỏa) trước, ngọt vào Tỳ (thổ) trước, mặn vào Thận (thủy) trước, nhạt vào Vị (thổ) trước. Đó là ngũ vị đi vào các tạng phủ.

 Năm tinh (cùng): Tinh khí cùng với Can thì lo (Ưu), cùng với Tâm thì vui, cùng với Phế thì buồn, cùng với Thận thì khủng, cùng với Tỳ thì lo sợ. Đó là bệnh do tinh khí của 5 tạng (thừa hư) hợp cùng các tạng gây nên.

 Chú ý: Sự tác động lẫn nhau này diễn ra theo cái chí của mỗi tạng, như tinh khí thừa Tâm, hư hợp với Tâm làm Tâm khí hữu dư gây vui...Nhưng cũng diễn ra theo tương khắc như sinh khí cùng hợp với Tỳ làm Tỳ khí thực, Tỳ thực khắc Thận, Thận chủ kinh khủng nên ở đây Tỳ thực mà lại biểu hiện kinh khủng là chí của Thận.

 - Năm ố (sợ): Can (chủ cân, phong làm co cân) sợ gió. Tâm (chủ huyết mạch, nhiệt cao có thể làm thương mạch) sợ nhiệt. Phế (chủ khí, hàn làm khí không truyền thông) sợ hàn. Thận (chủ thủy, thích nhuận) sợ táo. Tỳ (thuộc thổ thích táo) sợ thấp. Đó là những cái sợ của 5 tạng.

 - Năm chất dịch: Tâm chủ (việc sinh) mồ hôi, Can chủ (việc sinh) nước mắt, Phế chủ (việc sinh) nước mũi, Tỳ chủ (việc sinh) nước dãi, Thận chủ (việc sinh) nước bọt. Đó là 5 chất dịch do các tạng sinh ra (các tạng Phế, Can, Tỳ sinh ra chất dịch của các khiếu của chúng, nước mũi, nước mắt, nước bọt. Còn Tâm có khiếu là lưỡi chủ huyết, thuộc hỏa, hỏa có thể làm ra mồ hôi, nên Tâm chủ việc sinh ra mồ hôi. Thận có khiếu là tai, nhưng mạch Thận lên đến cuống lưỡi, nước bọt ở dưới lưỡi chảy ra nên Thận chủ việc sinh nước bọt.

 - Năm lao (thái quá): Nhìn quá lâu thương huyết, ngồi quá lâu thương bắp thịt, đứng quá lâu thương xương, đi quá nhiều thương cân, nằm quá lâu thương khí.

 - Năm tẩu (hướng đi): Chua đi vào cân (Can), cay đi vào khí (Phế), đắng đi vào huyết (Tâm), mặn đi vào xương (Thận), ngọt đi vào bắp thịt (Tỳ). Đó là năm hướng đi.

 - Năm tiết chế (kiêng): Bệnh ở cân thì không ăn chua. Bệnh ở khí thì không ăn cay. Bệnh ở xương thì không ăn mặn. Bệnh ở huyết thì không ăn đắng. Bệnh ở cơ thì không ăn ngọt. Khi nghiện, thèm ăn các vị trên thì không được ăn nhiều, phải tự tiết chế. Đó là 5 tiết chế.

 - Năm phát (nơi phát bệnh): Bệnh ở (Thận) âm hay phát ra ở xương. Bệnh ở (Tâm) dương hay phát ra ở huyết (mạch). Bệnh ở (Tỳ) âm hay phát ra ở bắp thịt. Bệnh ở (Can) dương (ở mùa Xuân) bắt đầu phát ra từ mùa Đông (mùa Đông bị hàn, mùa Xuân sẽ có bệnh ôn, mùa Hè bị thử, mùa Thu sẽ có sốt rét "Sinh khí thông thiên" - Tố vấn), bệnh (Phế) âm (ở mùa Thu) bắt đầu phát từ mùa Hè.

 - Năm tà (khí): Khí tà vào phần dương (dương thịnh nhiệt cực) thì sinh cuồng. Khí tà vào phần âm (âm thịnh sẽ hàn, huyết bị ngưng trệ) thì sinh huyết tý. Khí tà vào phần dương thì (khí lên không xuống được) sinh bệnh điên (đau đầu, váng đầu, hoa mắt chóng mặt. Tố vấn "Phương thịnh suy": Khí thượng bất hạ, đầu thống điên tật). Khí tà vào phần âm (là dinh khí thiếu) thì gây khản tiếng. (Khí tà từ) Dương vào Âm (bệnh đang rầm rộ chuyển thành) yên tĩnh. (Khí tà từ) Âm chuyển ra Dương, bệnh có biểu hiện vui giận.

 - Năm tàng: Tâm tàng thần, Phế tàng phách, Can tàng hồn, Tỳ tàng ý, Thận tàng tinh, chí (xem chương 8 Bản thần)

 - Năm chủ: Tâm chủ mạch, Phế chủ da, Can chủ cân, Tỳ chủ cơ, Thận chủ cốt.

 - Dương minh nhiều huyết nhiều khí, Thái dương nhiều huyết ít khí, Thiếu dương nhiều khí ít huyết, Thái âm nhiều huyết ít khí, Quyết âm nhiều huyết ít khí, Thiếu âm nhiều khí ít huyết.

 Vì vậy cho nên châm Dương minh có thể xuất huyết, xuất khí, châm Thái dương xuất huyết giữ khí, châm Thiếu dương xuất khí giữ huyết, châm Thái âm xuất huyết giữ khí, châm Quyết âm xuất huyết giữ khí, châm Thiếu âm xuất khí giữ huyết.

 (Thiên "Ngũ âm ngũ vị" - Linh khu và "Huyết khí hình chí" - Tố vấn cũng nói vấn đề này. Thấy thiên "Huyết khí hình chí" - Tố vấn nói đúng hơn. Đó là Thái âm thiểu huyết đa khí, chứ không phải là đa huyết thiểu khí).

 - Dương minh và Thái âm chân là biểu lý, Thiếu dương và Quyết âm chân là biểu lý, Thái dương và Thiếu âm chân là biểu lý, đó là quan hệ Âm Dương của các kinh chân. Dương minh và Thái âm tay là biểu lý, Thiếu dương và Quyết âm tay là biểu lý, Thái dương và Thiếu âm tay là biểu lý. Đó là quan hệ Âm Dương của các kinh tay.

BẢNG TÓM TẮT PHÂN LOẠI THEO 5 TẠNG



« Sửa lần cuối: Tháng Một 07, 2022, 11:11:05 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #78 vào lúc: Tháng Mười Hai 02, 2017, 10:15:45 PM »

79. Mưa gió trái thường trong năm (Tuế lộ)


Nội dung: Nói về cơ chế bệnh lý, thời gian phát cơn và nguyên nhân phát cơn sớm muộn của sốt rét, với triệu chứng chính của sốt rét là: Sốt và rét tách rời. Cũng nêu lên tác dụng xâm phạm cơ thể của phong tặc, phong tà, nhân tố gây bệnh của hàn thử vào người, rồi nêu lên 3 hư, 3 thực, có tác dụng quyết định đối với ngoại tà có thể gây được bệnh hay không.

 Đồng thời nói về nguồn gốc của tà hư, tặc phong, cách chẩn đoán và cho là mồng 1 tháng giêng mỗi năm nếu có mưa gió, có thể dựa vào hướng và thời gian phát sinh mưa gió để đoán tình hình bệnh tật lưu hành của 4 mùa, số người mắc bệnh nhiều hay ít, bệnh tình nặng hay nhẹ, nhấn mạnh ảnh hưởng đối với thân thể của khí hậu trái thường của 4 mùa.

Ví dụ: Nếu có gió Nam vào mùa Đông, mùa Đông lại có khí hậu mùa Hè thì người dễ sinh bệnh, nếu lúc đó phục tà chưa gây bệnh thì sang Lập xuân sẽ bị hư phong, thì 2 tà khí cũ và mới hợp lại sẽ phát bệnh. Nếu năm mới gió không hòa, nắng không ấm, nắng Xuân không đẹp mà ngược lại là mưa gió như mùa Thu sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát sinh của vạn vật. Loại thời tiết mưa gió trái thường đó gọi là Tuế lộ.

Hoàng đế:Mùa Hè bị thương thử, đến mùa Thu bị bệnh sốt rét. Song cơn sốt rét lại có định kỳ, tại sao?

Kỳ Bá: Khí tà sau khi vào Phong phủ, dọc lưng, cột sống, xuống dưới, khí vệ tuần hoàn một ngày đêm thường đại hội ở Phong phủ, đến ngày thứ hai mỗi ngày xuống một khớp, nên thời gian lên cơn sốt rét mỗi ngày sẽ chậm hơn một chút. Đó là khí tà vào cột sống. Cho nên mỗi khi vệ khí đến Phong phủ thì tấu lý khai, tấu lý khai thì tà khí thừa cơ vào khe khớp, mỗi khi tà khí vào thì lên cơn sốt, đó là nguyên nhân lên cơn sốt muộn hơn hôm trước. Do khi vệ khí đến Phong phủ, mỗi ngày xuống một đốt, sau 21 ngày xuống đến xương cụt, ngày thứ 22 lại vào ống tủy, đổ vào mạch Xung trong ống tủy, theo mạch lên đến ngày thứ 9 thì đi ra ở giữa 2 hố trên đòn (Khuyết bồn), huyệt Thiên đột, vì ngày khí hành lên dần, nên thời gian lên cơn cũng ngày một sớm hơn. Khí tà theo kinh vào ngũ tạng, đi ngang ra mộ và nguyên, khoảng cách hơi xa, khí của nó vào sâu, tuần hoàn chậm, không thể mỗi ngày mỗi cơn, nên cách ngày mới có cơn.

Hoàng đế: Vệ khí mỗi khi đến Phong phủ, làm tấu lý khai, tấu lý khai thì khí tà vào gây bệnh. Vệ khí đi mỗi ngày một đốt sống thì (và gặp tà ở đó để phát bệnh, vậy khi lên cơn) vệ khí không ở Phong phủ nữa, làm thế nào để biết?

Kỳ Bá: Phong tà xâm nhập vào người, nguyên không phải từ một chỗ cố định nào, chỉ cần vệ khí gặp tà khí thì nơi đó tấu lý sẽ khai, đó là nơi tà khí xâm nhập, cũng là nơi phát bệnh [Phong phủ hiểu theo nghĩa: nơi phong tà vào (gáy, lưng, thắt lưng) không nhất định phải đúng là huyệt Phong phủ].

Hoàng đế: Phong và sốt rét có quan hệ với nhau, lại cùng là tà khí, nhưng phong thường tác động không có nghỉ,còn sốt rét lúc lên cơn lúc không, tại sao?

Kỳ Bá: Phong khí gây bệnh thường lưu ở nơi nó vào, còn ngược tà (sốt rét) thì đi theo kinh, có thể sâu dần vào đến tạng, đến khi nó gặp vệ khí thì sẽ phát bệnh.

Hoàng đế: 8 phong của 4 mùa xâm phạm vào người có hàn, thử, nếu là hàn thì da săn lại, tấu lý khép kín, nếu là thử nhiệt thì da mềm dãn, tấu lý khai. Tặc phong tà khí có phải do đó (khí hậu nóng lạnh thay đổi) là có thể vào người hay còn phải bị cả hư tà của 8 tiết trong 4 mùa mới có thể vào người?

Thiếu sư: Không phải. Tặc phong tà khí vào người không tính thời gian, nhưng phải có tấu lý khai mới có thể (thừa hư mà) vào người được, hoặc trực trúng vào nội tạng, nên bệnh rất cấp nặng, nếu tấu lý đóng, thì dù tà có vào cũng chỉ có thể quanh quẩn ở nông, và bệnh cũng từ từ vào muộn.

Hoàng đế: Có người thích ứng với thay đổi nóng lạnh của khí hậu, tuy tấu lý không khai, nhưng vẫn bị bệnh cấp đột ngột, tại sao?

Thiếu sư: Vẫn có tà khí vào người, tuy con người sống yên lành, nhưng sự đóng mở của tấu lý thích ứng mật thiết với sự căng trùng của da và sự thay đổi của khí hậu, vì vậy do cảm phải khí hậu không lành nên sinh bạo bệnh.

Hoàng đế: Xin nói rõ thêm.

Thiếu sư: Người và trời đất có quan hệ mật thiết, người cũng ứng với sự di chuyển của mặt trăng, mặt trời, khi trăng tròn thì nước triều dâng ở Tây (Tây là Âm, là mặt trăng), ở người thì khí huyết tích đầy, cơ nhục đầy, da săn, lông chắc, tấu lý kín, da như mỡ có bồ hóng bếp bám. Trong điều kiện nóng dù gặp tặc phong, nó cũng chỉ có thể vào nông và không sâu. Khi mặt trăng khuyết (không có trăng) không có ánh trăng thì nước triều dâng ở Đông (Đông là Dương, là mặt trời), ở người thì khí huyết suy, vệ khí hao tán, hình thể tuy còn nhưng cơ nhục giảm, da nhẽo, tấu lý khai, lông ít, nếp da mỏng, lớp bồ hóng không còn. Trong điều kiện này, nếu gặp tặc phong thì nó chui ngay vào người, vào sâu và gây bệnh nặng, cấp (bạo bệnh).

Hoàng đế: Có người đột nhiên đột tử, hoặc đột nhiên bị bệnh cấp nặng, tại sao?

Thiếu sư: Nếu bị 3 hư (hư phong, chính khí hư, tuế khí hư) thì đột tử bạo bệnh. Nếu có 3 thực thì tà khí không vào người được.

 3 hư là: Tuế khí bất cập (năm hư), gặp ngày không có mặt trăng và không phòng bệnh tốt (chính khí hư), bị khí hậu khác thường (tà hư) nên bị tặc phong làm tổn thương. Trong khi luận bệnh không biết 3 nhân tố hư này không phải là thầy giỏi.

 3 thực là: Tuế khí thịnh (năm thực), gặp ngày trăng tròn, thời tiết điều hòa, tuy bị tặc phong, tà khí cũng không bị nguy hiểm.

Hoàng đế: Nguyên nhân nào làm cho trong một năm nhiều người cùng một lúc bị bệnh?

Thiếu sư: Đó là do ảnh hưởng của tám phong.

Muốn tìm nguyên nhân bệnh có quan hệ với khí hậu trái thường đó, thường quan sát vào ngày Đông chí, Thái nhất ở cung Diệp trập, ví khí Thái nhất đi đến cung đó thì nhất định là có mưa gió. Nếu mưa gió từ phương Nam đến thì là hư phong và mang các yếu tố làm hại cơ thể. Nếu mưa gió đến lúc nửa đêm, lúc mọi người đều ngủ ngon thì không xâm phạm được con người, nên năm đó dân ít bệnh. Nếu mưa gió đến ban ngày, lúc mọi người được bảo vệ ít (mùa Đông) thì đều có thể bị trúng hư phong, và người bị bệnh rất nhiều. Nếu hư tà vào ở xương mà không ra ngoài, đến ngày Lập xuân, khí dương phát mạnh, tấu lý khai và trong ngày Lập xuân đó, gặp gió Tây thì mọi người đều bị hư phong. Vì hai tà hư (mùa Đông và gió Tây của Lập xuân - Phục tà và tân cảm) kết lại với nhau làm kinh mạch lưu kết.

Nếu khí trong năm điều hòa, ít tặc phong thì người bị bệnh ít, chết ít. Nếu trong một năm có nhiều tặc phong, tà khí nóng lạnh không thuận hòa thì dân bị bệnh nhiều và chết nhiều.

Hoàng đế: Hư tà của phong có thể gây nên bệnh nặng hoặc nhẹ, nhiều người hoặc ít người bị bệnh, làm thế nào để xác định?

Thiếu sư: Mỗi năm vào ngày mồng một tháng Giêng, Thái nhất đến cung Thiên lưu, nếu ngày đó gặp gió Tây bắc, không mưa, sẽ có nhiều người chết bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng, nếu lúc rạng đông mà gió bấc thì mùa Xuân dân sẽ mắc bệnh nặng. Ngày mồng một tháng Giêng lúc rạng đông gió bấc đi qua thì 3/10 dân bị bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng vào giờ Ngọ có gió bấc, khí mùa hè năm đó cũng dễ mắc bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng lúc hoàng hôn có gió bấc, mùa Thu năm ấy dân cũng sẽ mắc bệnh nhiều. Nếu cả ngày mồng một tháng Giêng đều có gió bấc thì có dịch bệnh đến 6/10.

Ngày mồng một tháng Giêng có gió nồm gọi là "Hạn hương" có gió Tây gọi là "Bạch cốt", trong nước sẽ có tai ương, dân sẽ chết nhiều. Ngày mồng một tháng Giêng có "gió Đông nam" thổi rung nhà, cát sỏi bay tứ tung, trong nước tai ương lớn. Ngày mồng một tháng Giêng khí hậu ấm áp (ôn hòa) không có gió, thì được mùa, giá gạo rẻ, dân không có bệnh, nếu lạnh quá và có gió thì mất mùa, giá gạo cao, dân đa nhiều người mắc bệnh.

Đó là cách xem gió đầu năm để đoán tình hình hư tà ảnh hưởng đến con người.

Tháng hai ngày Sửu không có gió, dân bị bệnh Tâm bụng nhiều. Tháng ba ngày Tuất không ấm áp, dân bị bệnh hàn nhiệt nhiều. Tháng bốn ngày Tỵ không có nắng, dân dễ bị bệnh đơn (sốt cao) nhiều. Tháng 10 ngày Thân không rét, dân bị đột tử nhiều.

* Cần chú ý: Các gió của ngày 1 tháng 1, và các ngày khác nói ở trên, đều phải là gió có thể thổi bay nóc nhà, gẫy cành đổ cây, bụi cát bay mù làm cho rụng lông, khai tấu lý.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 11:54:46 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #79 vào lúc: Tháng Mười Hai 03, 2017, 12:34:47 AM »

80. Luận về sự mê hoặc (Đại hoặc luận)


Nội dung: Nói về các trạng thái khi trèo lên cao thì sinh ra thần hồn mắt hoa, đầu váng và các trạng thái hay quên, chóng đói, mất ngủ, nhắm mắt hay nằm, ít nằm. Đầu tiên nói về tính khí của 5 tạng 6 phủ đều đổ lên mặt, hệ mắt (thuộc vào não), nếu đột nhiên thấy vật dị thường là thần hồn đã tán, tinh khí đã loạn sẽ có đầu óc quay cuồng, kéo theo hệ mắt căng thẳng và sinh ra huyễn vựng. Nguyên nhân của hay quên do Trường vị thực, Tâm Phế hư, ở phần trên khí bất túc, ở phần dưới khí hữu dư, hay đói là do Vị nhiệt tiêu hóa thức ăn, không muốn ăn là do khí hành ở vị quản tắc. Vệ khí lưu ở phần Dương không đi vào phần Âm, Dương sẽ đầy Âm (sẽ) hư, và thành mất ngủ. Vệ khí lưu ở phần Âm không ra phần Dương, Âm (sẽ) thịnh và Dương (sẽ) hư, thành ra hay nhắm mắt. Nếu thể tích của dạ dày, ruột khá lớn, da sáp trệ, thì vệ khí lưu ở trong tạng khá lâu, vận hành tương đối chậm, khí của nó không thăng, nên chỉ muốn ngủ. Nếu thể tích dạ dày, ruột khá nhỏ, da hoạt nhuận, vệ khí lưu ở phần biểu tương đối lâu, sẽ ít nằm. Những chứng đó tuy không là bệnh chứng nặng, nhưng lại là thuộc loại hay gặp, một lúc khó chẩn đoán ra.

Hoàng đế: Trèo lên đài cao đến một chừng, nhìn ra bốn phía phải phủ phục và bò đi, vừa bò lên thấy thần hồn kinh hãi, mắt hoa cả lên, trong lòng lấy làm lạ bèn nhắm mắt lại rồi lại mở mắt ra, an tâm định khí để trấn tĩnh lại mãi mà không được. Lên đến đài cao, nhìn bốn phía cũng thấy chóng mặt, tim đập, quỳ cúi đầu xuống đài vẫn không hết, xong đột nhiên lại hết, khí nào làm ra hiện tượng đó?

Kỳ Bá: Tinh khí của 5 tạng 6 phủ đều lên tụ ở mắt để thành tinh (nên mắt nhìn thấy), nơi tinh đó hội tụ là mắt, trong đó tinh của xương đổ vào đồng tử, tinh của cân đổ vào lòng đen, tinh của huyết đổ vào huyết lạc của mắt, tinh của khí đổ vào lòng trắng, tinh của cơ nhục đổ vào tròng mắt. Tinh của gân xương, khí huyết và lạc mạch hợp lại với nhau thành mục hệ. Phần trên của nó thuộc về não, phần sau liên thông với gáy. Cho nên nếu tà khí trúng vào gáy, vừa gặp lúc thân thể hư, tà khí vào sâu, theo hệ mắt để vào não. Tà khí vào não sẽ gây ra đầu óc quay cuồng và kéo theo hệ mắt căng thẳng, hệ mắt căng thẳng sẽ gây chóng mặt hoa mắt, nhìn thấy quay cuồng. Đồng thời tà khí vào tinh (ngũ tạng ở mắt) làm tinh của 5 tạng mất điều hòa với nhau gây nên tinh hao tán. Vì tinh hao tán nên xuất hiện song thi (nhìn 1 thành 2 vật). Tóm lại mắt của người là nơi hội tụ thành tinh của 5 tạng 6 phủ, nơi đi qua của dinh, vệ, hồn, phách, cũng là nơi sinh ra thần khí (để nhìn thấy vật). Nếu thần mệt mỏi sẽ gây hồn phách tán, ý chí loạn. Do tinh của xương đổ vào con ngươi ở mắt thuộc Thận, tinh của Can ở lòng đen mắt thuộc Can, cả hai đều là tạng Âm, nên lấy Âm làm chuẩn, tinh của khí ở lòng trắng thuộc Phế, tinh huyết ở mạch máu của mắt thuộc Tâm, cả hai đều là tạng Dương, nên lấy Dương làm chuẩn.

Khí (4 tinh) Âm Dương trên dưới điều hòa, và chuyển đổ lên trên để thành tinh và nhìn rõ. Đặc biệt mắt là sứ giả của Tâm (bị Tâm sai khiến), Tâm là nơi ở của thần (nguồn gốc của tinh thần ý thức), do đó khi thần tinh bị loạn, thì tinh sẽ không chuyển lên mắt được. Trèo cao nhìn lên bốn phía, đột nhiên thấy cảnh tượng rất khác, thường đó là tinh thần hồn phách bị tán loạn không hợp với nhau (làm cho thần hồn đầu váng mắt hoa). Đó là trạng thái mê hoặc.

Hoàng đế: Sau lần trèo cao ở Đông uyển, rồi mỗi lần đến Đông uyển đều có thần hồn đầu váng mắt hoa, có phải là do chỉ đến Đông uyển thần mới mệt mỏi không, tại sao lại có tình hình đó?

Kỳ Bá: Không phải. Ở lúc nào đó trong lòng tuy thích thú, nhưng thần gặp phải cảnh vật chán ngán (ghét và yêu) đột nhiên đến tranh nhau, làm tinh khí loạn, mắt nhìn sẽ sai đi, nhìn không rõ gây nên thần hồn đầu váng mắt hoa, sau khi rời nơi đó thì lại trở lại bình thường. Trong trường hợp đó nhẹ thì gọi là mê, nặng thì gọi là hoặc.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người hay quên?

Kỳ Bá: Ở trên khí bất túc, ở dưới khí hữu dư, là trường vị thực, và Tâm Phế hư do (ở trên) hư, nên dinh vệ lưu ở dưới trường vị, nếu qua một thời gian dài không đưa đổ lên Phế để đi toàn thân, sẽ làm khí huyết hư và hay quên.

Hoàng đế: Khí nào làm người hay đói nhưng không muốn ăn?

Kỳ Bá: (Ăn uống vào Vị) tinh khí cùng vào Tỳ, khí nhiệt lưu ở Vị, vì nhiệt nên tiêu hóa nhanh, tiêu nhanh nên chóng đói. Khí Vị nghịch lên vị quản sẽ hàn (tắc - khó tiếp thu thức ăn) nên không muốn ăn.

Hoàng đế: Khí nào làm cho có bệnh mà ngủ không ngon?

Kỳ Bá: Vệ khí không vào được phần Âm, thường lưu ở phần Dương. Nếu nó lưu ở phần Dương thì khí Dương phải đầy. Khí Dương mà đầy thì Dương kiểu thịnh, không vào được Âm và khí Âm phải hư (ngoài thừa trong thiếu) nên không ngủ được.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người bệnh không nhìn được?

Kỳ Bá: Vệ khí lưu ở phần Âm không đi ra để hành ở phần Dương. Nó lưu ở phần Âm thì khí Âm thịnh, khí Âm thịnh thì (khí của) Âm kiểu thịnh, nó không ra được phần Dương thì khí dương suy, nên mắt nhắm (không nhìn được).

("Thiên hàn nhiệt" viết :Âm kiểu, Dương kiểu, Âm Dương tương giao, Dương vào Âm, Âm ra Dương, giao nhau ở đầu mắt, khí dương thịnh thì mở mắt, khí âm thịnh thì nhắm mắt).

Hoàng đế: Khí nào làm người ta nằm nhiều?

Kỳ Bá: Người đó có trường vị to, da ẩm thấp, giữa các cơ không hoạt lợi. Trường vị to thì vệ khí lưu lại lâu, da ẩm thấp thì các cơ vận động không linh hoạt, nên vận động chậm chạp. Do vệ khí ban ngày tuần hành ở phần Dương, ban đêm ở phần Âm, nên khi Âm tận (tức Dương bắt đầu) thì thức dậy. Vì vậy nếu thể tích trường vị to thì vệ khí sẽ lưu ở đó lâu, da ẩm thấp thì bắp thịt không hoạt lợi và vận động chậm chạp. Nếu vệ khí lưu ở phần Âm lâu, thì khí của nó không trong (không tuần hoàn tốt) nên chỉ muốn nhắm mắt và nằm nhiều. Nếu thể tích trường vị nhỏ, da hoạt nhuận, mềm, cơ hoạt lợi thì vệ khí lưu ở phần dương lâu, nên không nhắm mắt, không muốn ngủ.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người bình thường đột nhiên ngủ nhiều?

Kỳ Bá: Khí tà lưu ở thượng tiêu thì khí ở thượng tiêu (tắc) không thông, lại thêm ăn no hoặc uống nhiều canh, làm vệ khí lưu lâu ở phần Âm, không hành (ra phần Dương) nên ngủ nhiều.

Hoàng đế: Làm thế nào để chữa các chứng trên?

Kỳ Bá: Trước hết làm cho chức năng 5 tạng 6 phủ cân bằng điều hòa, chữa ngay các tà nhỏ (chứng nhẹ), rồi điều khí, nếu thịnh thì tả nó, nếu hư thì bổ nó. Tất nhiên cần hiểu (hoàn cảnh sinh sống) sự mệt mỏi của tinh thần và thể xác của người bệnh, để định hướng chữa (tâm thần khổ thì thương thần - thể xác khổ thì thương tinh khí).
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 11:57:34 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #80 vào lúc: Tháng Mười Hai 05, 2017, 11:56:18 PM »

81. Ung nhọt (Ung thư)


Nội dung: Nói về nguyên nhân gây ung nhọt, sự khác nhau giữa ung nhọt và quá trình chuyển biến thành ác tính. Nói về nguyên nhân bên ngoài của ung nhọt là ngoại tà làm trở ngại tuần hành của khí huyết trong kinh mạch, làm vệ khí tích tụ tại chỗ dẫn đến khí huyết ngưng trệ gây nên. Khi ung đã hóa mủ, tất phải tháo mủ ra đúng lúc, làm cho bệnh độc có lối thoát ra, mà không công vào cơ thể. Cũng nêu lên một số bệnh: Mãnh ung, yếu thư, não lạc, bĩ ung, mễ thử, mã đao hiệp anh, tỉnh thư, hại bĩ, cổ kinh thư, nhuệ thư, xích thư... và nói rõ các triệu chứng, vị trí bị bệnh và cách điều trị.

Hoàng đế: Trường vị thu nạp các chất thức ăn biến thành các chất tinh vi, ở thượng tiêu chuyển vệ khí ra làm cho ấm da cơ, nuôi dưỡng xương khớp, thông lợi tấu lý, ở trung tiêu khí xuất như sương (tân dịch) đi lên đổ vào khê cốc (khê: nơi hợp nhỏ của cơ. Cốc: nơi hợp lớn của cơ), thấm vào tôn lạc, tân dịch điều hòa rồi qua khí hóa biến thành máu đỏ.

Huyết mà hòa thì tân dịch đầy tràn, rồi đổ vào lạc mạch, đầy rồi thì đổ vào kinh mạch, làm cho bên trong ngoài Âm Dương đều đầy. Khí huyết tuần hoàn toàn thân theo với hơi thở. Mặt trời, mặt trăng tuần hoàn theo quy luật của nó có định số, con người cũng vậy, khí dinh vệ tuần hoàn toàn thân liên tục không ngừng. Để điều hòa một cách thiết thực (tìm cách) làm tà khí hư đi để giải quyết chứng thực, nhưng nếu tả quá mức lại có thể gây nên hư nguyên khí (vì vậy phải nắm đúng lúc khí đến để tả). Tả đúng lúc thì có thể làm khí tà suy đi, nếu chỉ lưu kim (không tả khí tà đúng lúc) thì bệnh vẫn như trước không giảm. (Nếu dùng cách) làm cho chính khí thực để loại trừ trạng thái hư (nếu khí tà còn lưu mà), bổ quá thì làm tà khí hữu dư. Khi khí huyết đã điều hòa thì giữa hình và khí có thể giữ được hoạt động sinh lý bình thường. Khí huyết bình hay không bình thì đã rõ, nhưng lại không biết khí ung nhọt sinh ra như thế nào? Quá trình hình thành và ác hóa, ngày chết, ngày lành, sớm hay muộn ra sao và lấy gì để làm chuẩn?

Kỳ bá: Khí huyết ở trong kinh mạch tuần hành không ngừng, cùng độ với tuần hoàn của trời (thiên thể trong vũ trụ), phù hợp với (quy luật các hiện tượng trên mặt) đất. Nếu độ tuần hoàn ở trên trời thất thường sẽ gây Nhật thực, Nguyệt thực, trên mặt đất mất quy luật (dòng sông đông lạnh hoặc tràn ra làm tuần hành bình thường của) dòng sông rối loạn, nước tràn ra 4 phía, cây cỏ sẽ khô héo, ngũ cốc không mọc được. Nếu đường trên mặt đất không thông, người không thể đi lại được, phải tụ lại ở phố cảng, ở trong nhà, và xa biệt nhau. Tình hình tuần hoàn của khí huyết cũng vậy. Cụ thể, dinh vệ khí huyết trong người tuần hoàn không ngừng, ở trên ứng với thiên thể trên trời, dưới ứng với các dòng sông ở dưới đất. Nếu hàn tà vào kinh lạc sẽ làm khí huyết ngưng trệ, ngưng trệ thì không thông, không thông thì vệ khí kết tụ ở tại chỗ, không thể vận hành đều đặn nên thành ung nhọt. Đến khi hàn hóa nhiệt, nhiệt độc chưng làm cơ nhục thối rữa, và thành mủ. Mủ nếu không bị tống ra sẽ làm mục cân (gân), rồi làm thương xương, xương bị thương sẽ làm tủy bị tiêu, nếu mủ không ở khe xương khớp thì không có lối thoát ra và làm cho huyết khô mạch rỗng, làm cân, cốt, huyết, cơ không được nuôi dưỡng, kinh mạch bại hoại có nhiều lỗ rò, bệnh độc sẽ vào 5 tạng, các tạng bị tổn thương thì chết.

Tóm lại:

1. Quá trình thành ung nhọt: Ngoại tà vào kinh lạc (hàn tà) làm huyết ngưng trệ, ảnh hưởng đến vận hành của dinh vệ, vệ khí kết ứ tại chỗ và hình thành ung nhọt.

2. Quá trình hóa mủ: Khí hàn hóa nhiệt, nhiệt làm thối cơ, cơ thối nát thành mủ.

3. Quá trình ác hóa: Mủ không thoát ra ngoài, xâm phạm cân mạch. Cân thối nát sẽ tổn thương xương, tiêu hủy các kinh mạch bị bại hoại và dò, bệnh độc vào tạng và chết.

(Khái niệm này được đời sau sử dụng để giải thích các hiện tượng 1, 2, 3).

Hoàng đế: Muốn biết các loại ung nhọt, kiêng kỵ và tên chúng?

Kỳ Bá:

- Ung phát ở họng gọi là Mãnh thư (ung ở hầu họng - phát triển mãnh liệt). Nếu chữa không kịp thời thì dễ hóa mủ, nếu không tháo được mủ sẽ làm tắc họng, và sau 1/2 ngày thì chết. Khi đã có mủ, thì phải tháo mủ rồi uống mỡ lợn lạnh sau 3 ngày sẽ khỏi.

- Ung phát ở cổ gọi là Yêu thư (rất nguy hiểm - ít người lành nên gọi là yêu (quái)). Ung này to màu đỏ đen, nếu không chữa gấp thì khí nhiệt xuống Uyên dịch (nách), ở trước nó xâm phạm mạch Nhâm, ở trong nó hun đốt Can Phế. Khi vào đến Can Phế rồi thì 10 ngày sẽ chết.

- Dương khí lưu ở trong (tà nhiệt) phát ra ở gáy làm cho não như bị tiêu lạc (nung đốt) gọi là Não lạo. Thần xác của người bệnh không vui, gáy đau như bị kim đâm. Nếu (nhiệt độc vào trong, sẽ có) trong tâm phiền táo, là chứng chết không chữa được.

(Lạc là tiêu lạc, là lửa to nung chảy kim loại).

- Ung phát ra ở vai và cánh tay, gọi là Từ ung (ung ở vai). Nó có mầu đỏ đen cần phải chữa gấp, và làm ra mồ hôi cho đến bàn chân mới có thể không làm hại ngũ tạng. Nếu đã phát 4, 5 ngày, cần dùng cách cứu ngay.

- Ung phát ở dưới nách, đỏ cứng, gọi là Mễ thư (mễ có ý nhỏ như hạt gạo), dùng biếm thạch để chữa, dùng loại dài nhỏ, chích rải rác và bôi mỡ lợn 6 ngày thì khỏi và không cần băng. Ung nào cứng mà không vỡ là Mã đao hiệp anh, cần chữa gấp.

- Ung phát ra ở ngực gọi là Tỉnh thư (sâu và nguy hiểm). Nó giống hạt đậu to, trong vòng 3, 4 ngày đầu, nếu không chữa sớm thì sẽ lan xuống bụng, không chữa thì 7 ngày sẽ chết.

(Chú: Nó là ung nhọt ở gần vùng Tim, và còn gọi là Xuyên tâm lãnh hậu, Tâm lậu thư, Xuyên tâm độc - rất khó chữa).

- Ung phát ra ở ngực (ưng song) là Cam thư (kinh Dương minh nên thuộc Thổ - ngọt), màu nó xanh, dáng như hình hoàn đan, hạt quá lâu, thường sốt, rét run, cần chữa gấp để trừ hàn nhiệt, nhưng 10 năm sau vẫn chết, và sau khi chết mới vỡ mủ.

- Ung phát ở sườn gọi là Bại tử, là bệnh của nữ, nếu dùng cứu thì sẽ làm mủ nhiều lên. Trong điều trị, cần chú ý ở trong có sinh cơ như hạt đậu đỏ, dùng Liên kiều (thảo và rễ) mỗi thứ 1 thăng, cho vào 1 đấu 6 thăng nước đun kỹ còn 3 thăng, uống lúc nóng, uống xong mặc nhiều quần áo ngồi trên nồi đang nóng để xông cho ra mồ hôi đến bàn chân, sẽ khỏi.

- Ung phát ở đùi, cẳng chân, gọi là Cổ kinh thư. Tuy nhiên không có thay đổi nhiều, nhưng ở trong mủ lại nhiều làm thối xương, nếu không chữa gấp thì 30 ngày sẽ chết.

- Ung phát ở vùng cùng cụt gọi là Nhuệ thư (vì ở chỗ cuối cùng của xương cụt gọi là nhuệ). Dáng của nó đỏ cứng to, cần chữa gấp, nếu không sẽ chết trong vòng 30 ngày.

- Ung phát ở mặt trong đùi gọi là Xích thư (vì nó ở vùng kinh Âm nên) nếu không chữa gấp sẽ chết trong vòng 16 ngày. Nếu cả hai bên đều bị mà không chữa gấp sẽ chết trong vòng 10 ngày.

- Ung phát ở gối, gọi là Từ ung. Dáng ung to, màu không đổi, sốt rét, cứng như đá, mới mắc không được dùng biếm thạch để chích, nếu chích sẽ chết, đợi nó mềm ra mới được chích tháo mủ và sẽ sống.

- Các ung nhọt phát ra ở khớp và đối xứng theo trên dưới, phải trái đều là chứng khó chữa. Ung phát ra ở phần Dương 100 ngày sẽ chết. Ung phát ra ở phần Âm 30 ngày sẽ chết.

- Ung phát ở cẳng chân là "Thỏ gặm", mầu đỏ, vào đến xương cần chữa gấp, nếu không chữa sẽ làm hại người.

- Ung phát ở mắt cá trong gọi là Tẩu tùy (tức ung nhọt ở mắt cá trong). Bên ngoài giống ung, sắc không thay đổi, dùng biếm thạch để chích chỗ sưng (số thạch kỳ du), sẽ làm hết hàn nhiệt của nó và không chết.

- Ung phát ở trên dưới bàn chân gọi là Tứ (2 bàn chân trên và dưới) dâm (tà độc thịnh). Nó giống loại ung to, cần chữa sớm nếu không sẽ chết trong 100 ngày.

- Ung phát ở cạnh bàn chân gọi là Lệ ung. Nó không to, mới đầu như ngón út (do tà khí ở kinh lạc), nếu phát bệnh phải chữa ngay, lấy đi phần đen trong đó. Nếu không lấy được, bệnh sẽ nặng, nếu kéo dài không chữa sẽ chết trong 100 ngày.

- Ung phát ở ngón chân gọi là Thoát ung (thoát thư) nó mầu đỏ đen, chứng chết không chữa được. Nếu chưa có mầu đỏ đen thì chưa chết. Nếu tà khí không suy, phải cắt bỏ ngón chân, nếu không khó tránh khỏi chết.

(Ngoại khoa chính tông viết: "Thoát thư là ngoài thối trong hoại...thường phát ở chân tay...mới đầu như hạt kê, đầu có phỏng nhỏ mầu vàng, da như tái đỏ luộc chín, mầu đen lan dần ra 5 ngón, lên bàn chân, đau như bị bỏng nước, bỏng lửa, xương khô gân róc, mùi hôi rất khó ngửi, tính mệnh dù là phương thuốc tiên cũng khó chữa).

Hoàng đế: Ung và Thư khác nhau ở chỗ nào?

Kỳ Bá: Khí dinh vệ ngưng lại ở trong kinh mạch thì huyết ngưng tụ không hành, làm vệ khí bị trở ngại cũng không thông và phát sốt. Nếu sốt cao không ngừng, nhiệt thống thì thịt sẽ nát mục, nát mục sẽ thành mủ. Nhưng nhiệt độc (chỉ nổi ở biểu) không lõm vào trong, xương tủy sẽ không bị khô héo, ngũ tạng không bị thương, nên gọi là Ung (tức ung).

Hoàng đế: Thư là gì?

Kỳ Bá: Thư là khí nhiệt thịnh lõm xuống (mủ độc đi vào) cơ phu, làm gân teo tủy khô, vào đến ngũ tạng gây khí huyết kiệt, ở phần sâu dưới ung, gân xương thịt lành đều bị thối nát, gọi là Thư. Đặc điểm của Thư mầu da cam (không bóng) cứng (dầy) như da cổ trâu bò. Đặc điểm của Ung, da mỏng, bóng. Đó là chẩn đoán phân biệt của Ung và Thư.
« Sửa lần cuối: Tháng Tư 04, 2019, 11:59:57 AM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
tuhaibajai
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 7840


tuhai@tuhai.com.vn tieuhuynh66
WWW Email
« Trả lời #81 vào lúc: Tháng Mười Hai 10, 2017, 11:41:21 PM »

Mục Lục


Lời nói đầu                                                                                                        5
    
Quyển thứ nhất                                                                                        .

1. Chín loại kim - 12 huyệt nguyên                                                                       7

2. Các huyệt du của mỗi đường kinh - Bản du                                                      10

3. Giải thích về cách châm kim nhỏ (Tiểu châm giải)                                             14

4. Tình hình bệnh tật của tạng phủ khi bị tà khí (Tà khí tạng phủ bệnh tình)            15

Quyển thứ hai

5. Căn kết (Huyệt căn và huyệt kết)                                                                     22

6. Thọ yểu cương nhu                                                                                         24

7. Cách sử dụng của kim (quan châm)                                                                 27

8. Nguồn gốc của thần (Bản thần)                                                                        29

9. Bắt đầu và kết thúc (Chung thủy)                                                                     32

Quyển thứ ba

10. Khí mạch                                                                                                      38

11. Kinh nhánh (Kinh biệt)                                                                                   46

12. Kinh thủy                                                                                                      48

Quyển thứ bốn

13. Kinh cân                                                                                                       51

14. Độ dài của xương (Cốt độ)                                                                              54

15. Năm mươi chu kỳ (Ngũ thập dinh)                                                                   55

16. Dinh khí                                                                                                        57

17. Độ dài của kinh mạch (Mạch độ)                                                                      57

18. Chỗ sinh ra và nơi hội lại của dinh vệ (Dinh vệ sinh hội luận)                             59

19. Khí hậu bốn mùa (Tứ thời khí)                                                                         61

Quyển thứ năm

20. Tà khí của năm tạng (Ngũ tà)                                                                          64

21. Bệnh hàn nhiệt (Hàn nhiệt bệnh)                                                                     64

22. Điên cuồng                                                                                                     66

23. Bệnh nhiệt (Nhiệt bệnh)                                                                                  68

24. Bệnh quyết (Quyết bệnh)                                                                                 71

25. Gốc của bệnh (Bệnh bản)                                                                                 73

26. Tạp bệnh                                                                                                        73

27. Chu tý                                                                                                            75

28. Hỏi miệng (Khẩu vấn)                                                                                      76

Quyển thứ sáu

29. Thầy truyền lại (Sư truyền)                                                                              79

30. Phân loại khí (khí quyết)                                                                                   80

31. Trường vị                                                                                                         81

32. Người khỏe nhịn ăn (Bình nhân tuyệt cốc)                                                           82

33. Luận về biển (Hải luận)                                                                                      83

34. Ngũ loạn (Năm cái loạn)                                                                                     84

35. Luận về chướng (Chướng luận)                                                                            85

36. Năm bế của tân dịch (Ngũ lung tân dịch biệt)                                                        86

37. Biểu hiện của khí và sắc trạch của ngũ tạng (Ngũ duyệt, ngũ sử)                            88

38. Nghịch thuận gầy béo (Nghịch thuận phì sấu)                                                        89

39. Luận về huyết lạc (Huyết lạc luận)                                                                        90

40. Âm dương trong đục (Âm dương thanh trọc)                                                          91

Quyển thứ bảy

41. Hệ âm dương nhật nguyệt (Âm dương hệ nhật nguyệt)                                            93

42. Phương thức truyền bệnh (Bệnh truyền)                                                                 96

43. Dâm tà phát mộng                                                                                                98

44. Khi khí thuận, một ngày chia làm 4 thời (Thuận khí nhất nhật phân tứ thời)               98

45. Từ biểu hiện ở ngoài suy đoán bệnh của nội tạng (Ngoại sủy)                                    100

46. Năm loại bệnh tý (Ngũ biến)                                                                                   101

47. Bản tạng                                                                                                               103

Quyển thứ tám

48. Chữa lung tung và chữa theo phép tắc (Cấm phục)                                                   107

49. Năm màu sắc (Ngũ sắc)                                                                                          108

50. Bàn về dũng cảm (Luận dũng)                                                                                 111

51. Huyệt du ở lưng (Bối du)                                                                                         113

52. Khí bảo vệ (Vệ khí)                                                                                                 113

53. Luận về đau (Luận thống)                                                                                       114

54. Tuổi trời (Thiên niên)                                                                                              115

55. Nghịch thuận                                                                                                         116

56. Ngũ vị                                                                                                                   116

Quyển thứ chín

57.Thủy chứng                                                                                                             119

58. Tặc phong (Gió độc)                                                                                                119

59. Khí bảo vệ mất bình thường (Vệ khí thất thường)                                                       120

60. Bản ngọc (Ngọc bản)                                                                                               122

61. Năm điều cấm (Ngũ cấm)                                                                                        124

62. Các huyệt động (Động du)                                                                                       125

63. Ngũ vị                                                                                                                    127

64. Hai mươi nhăm lọa hình người (Âm Dương nhị thập ngũ nhân)                                    127

Quyển thứ mười

65. Năm âm thanh, năm vị (Ngũ âm, ngũ vị)                                                                  133

66. Nguyên nhân gây bệnh (Bách bệnh sử sinh)                                                              136

67. Cách châm (Hành châm)                                                                                          138

68. Thượng cách                                                                                                           139

69. Âu sầu, phẫn nộ gây mất tiếng (Ưu hủy vô ngôn)                                                       140

70. Nóng lạnh (Hàn nhiệt)                                                                                              140

71. Tà khí lưu lại ở người (Tà khách)                                                                               141

72. Thông thiên                                                                                                             144

Quyển thứ mười một

73. Sử dụng tùy tài năng (Quan năng)                                                                             147

74. Chẩn đoán bệnh qua da phía trụ (Luận tật chẩn xích)                                                  150

75. Thích tiết chân tà                                                                                                     152

76. Tuần hành của khí bảo vệ (Vệ khí hành)                                                                    156

77. Chín cung tám phong (Cửu cung bát phong)                                                              159

Quyển thứ mười hai

78. Bàn về 9 loại kim (Cửu châm luận)                                                                           164

79. Mưa gió trái thường trong năm (Tuế lộ)                                                                     169

80. Luận về sự mê hoặc (Đại hoặc luận)                                                                          172

81. Ung nhọt (Ung thư)                                                                                                 174
« Sửa lần cuối: Tháng Mười Hai 10, 2017, 11:49:33 PM gửi bởi tuhaibajai » Logged

Sơn bất tại cao hữu tiên tắc danh
Thủy bất tại thâm hữu long tắc linh
Trang: 1 ... 4 5 [6]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn