Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Ba 28, 2024, 08:13:36 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thái Cực Việt Nam-Công Phu Thái Cực Của Người Việt Nam-Giáo Trình Được Public  (Đọc 14171 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
zoangcc
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 26


Email
« vào lúc: Tháng Hai 16, 2017, 10:29:10 AM »

Lý Thuyết - Thái cực Việt Nam bao gồm 3 phần:
1. Bài viết Thái cực Việt Nam.
2. Bài viết về 2 loại nội kình.
3. Bài viết về 3 mạch: Phước, Phúc, Đức.

THÁI CỰC VIỆT NAM
1. THÁI CỰC VIỆT NAM - Công phu Thái cực của người Việt Nam - Giáo trình được public, miễn phí cho tất cả mọi người.
2. Nền tảng, căn bản tập luyện của Thái cực Việt Nam dựa trên cơ cở kỹ thuật thở 2 thì đúng cách.
3. Chuyên cần tập luyện hơi thở 2 thì đúng cách thì cái gì cũng có.
4. Tập luyện hơi thở 2 thì đúng cách cũng như việc được giáo dục là quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với bản thân và xã hội.
CON ĐƯỜNG CÔNG PHU
Bản chất của công phu là thiền định. Con đường công phu là các bước thiền định sau :
1. Sơ cấp : thiền định với Đan điền Tinh. Đây nên là mục đích của Võ thuật.
2. Trung cấp : thiền định với Đan điền Khí. Đây chính là Thái cực quyền chân truyền.
3. Cao cấp: thiền định với Đan điền Thần. Đây chính là Con đường Thiền Tông.
ĐƯỜNG VÀO THÁI CỰC
Sự khác biệt căn bản giữa Thái cực quyền và các môn võ khác :
- Các môn võ khác sử dụng Bằng kình. Kình lực từ dưới hướng lên trên, từ trong ra ngoài. Kình lực có thu, có phát, đứt quãng. Động tác giật cục.
- Thái cực quyền sử dụng kình từ trên xuống dưới. Kình lực liên miên bất đoạn, không thu không phát. Động tác như lưu thủy hành vân.
Căn bản, nền tảng của các môn nội gia là vận động, khai mở Vĩ lư, dụng được loại lực không thu, không phát.
Sự khác biệt giữa Thái cực quyền và Thái cực.
- Thái cực quyền còn vướng chữ quyền tức vướng hình.
- Thái cực không còn chữ quyền nên lìa hình, không còn vướng vào hình nữa.
Thái cực quyền có nhiều nhà luyện, nhưng tựu chung chỉ có 2 loại.
1. Không được chân truyền hoặc được chân truyền từ một vị thầy chưa được chân truyền: dựa trên nền tảng luyện hạ đan điền - Công phu Đan điền nội chuyển - Đan điền tinh.
2. Thái cực quyền chân truyền: dựa trên nền tảng Thân Khí - Đan điền Khí.
Thái cực quyền chân truyền có 3 tầng công phu:
a. Công phu chân truyền nhập môn: còn hình, còn chiêu thức. Đây là Thể của Thái cực.
b. Công phu Thái cực quyền tinh tế: còn hình, không chiêu thức. Đây là dụng của Thái cực.
Hai công phu trên tuy thâm hậu nhưng vẫn vướng vào hình.
c. Công phu Thái cực: công phu không còn vướng vào hình nữa. Ngộ ra mình là bào thai còn vũ trụ là bà mẹ. Đây là quả của Thái cực.
THÁI CỰC VIỆT NAM
Thái cực thì không phân đông tây nam bắc hay tàu với ta. Thái cực Việt Nam chỉ con đường tập luyện công phu Thái Cực mang sắc thái, dấu ấn của người Việt Nam.
Nền tảng của việc tập luyện Thái cực Việt Nam dựa trên cơ cở kỹ thuật thở 2 thì đúng. Chỉ có thở 2 thì mới sản sinh ra Tuệ giác còn hơi thở 3, 4 thì chỉ sản sinh ra sức mạnh, không sản sinh ra Tuệ giác. Vì vậy Thái cực Việt Nam chỉ vận dụng hơi thở 2 thì khi tập luyện, không dụng hơi thở 3 thì, 4 thì khi tập luyện.
Sự khác biệt căn bản giữa Thái cực Việt Nam và các môn võ khác thể hiện qua sự vận dụng hơi thở.
- Trong khi tập luyện các môn võ khác sử dụng hơi thở 3 thì, 4 thì.
- Trong khi tập luyện Thái cực Việt Nam chỉ sử dụng hơi thở 2 thì.
Logged
zoangcc
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 26


Email
« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Hai 20, 2017, 07:59:30 AM »

HƠI THỞ 2 THÌ ĐÚNG CÁCH
1. Hơi thở 2 thì, 2 nhịp luyện Tinh.
2. Hơi thở 2 thì, 4 nhịp luyện Khí.
3. Hơi thở 2 thì, 6 nhịp luyện Thần.
NỘI DUNG
1. Hơi thở 2 thì, 2 nhịp luyện Tinh
- Hơi thở 2 thì, 2 nhịp : 2 bài
Yêu cầu: Hít vào phình bụng, thở ra thóp bụng, Ý thủ đan điền khi thở. Hơi thở sâu, dài, êm dịu, quan trọng nhất là không phát ra âm thanh khi thở.
Kiểu thở này áp dụng cho cả trạng thái tĩnh và động.
- Hơi thở 2 thì, 2 nhịp, 6 quãng: 2 bài
Yêu cầu: Hít vào phình bụng, thở ra thóp bụng. Hít vào chia làm 3 nhịp, thở ra chia làm 3 nhịp. Ý thủ hạ đan điền khi thở.
Kiểu thở này áp dụng cho cả trạng thái tĩnh và động.
2. Hơi thở 2 thì, 4 nhịp luyện Khí
Yêu cầu: Hít vào 2 nhịp: hít vào thóp bụng, hít vào phình bụng . Thở ra 2 nhịp: thở ra thóp bụng, thở ra phình bụng. Hơi thở này bắt đầu khi bụng phình. Ý thủ đan điền Khí khi thở.
Kiểu thở này áp dụng cho cả trạng thái tĩnh và động.
3. Hơi thở 2 thì, 6 nhịp luyện Thần.
Yêu cầu: Hít vào 3 nhịp: hít vào phình bụng, hít vào thóp bụng, hít vào phình bụng. Thở ra 3 nhịp: thở ra thóp bụng, thở ra phình bụng, thở ra thóp bụng. Ý thủ chót mũi khi thở.
Kiểu thở này chỉ áp dụng cho trạng thái tĩnh.
Logged
zoangcc
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 26


Email
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Hai 25, 2017, 08:52:17 AM »

Hai loại nội kình
Có hai loại nội kình: nội kình vận động từ trên xuống dưới, nội kình vận động từ dưới lên trên.
Để cảm nhận được nội kình từ trên xuống dưới phải luyện kỹ Vĩ lư(xương cùng)
Để cảm nhận được nội kình từ dưới lên trên phải luyện kỹ Đáy chậu(Hội âm)
Có rất nhiều thứ liên quan đến hai loại nội kình này:
Dục vọng và tình dục có xu thế vận động từ dưới lên trên.
Tình yêu, tình thương như dòng chảy từ trên xuống.
Trong cuộc sống con người ta Dục vọng nhiều, tình thương ít lên vận động từ dưới lên trên, luôn có khí thế ăn người.
Người cao thượng thì tình thương nhiều, dục vộng ít nên hài hòa dễ gần.
Để luyện Vĩ lư thì dùng các kỹ thuật thở hai thì.
Để luyện Đáy chậu thì dùng các kỹ thuật thở 3 thì, 4 thì.
Thái cực Việt nam chủ luyện nội kình từ trên xuống dưới và hơi thở 2 thì.
Nội kình từ dưới lên trên và hơi thở 3,4 thì chỉ mang tính chất phụ trợ, tham khảo.
Hai loại nội kình trên được biểu hiện rõ ràng trong quá trình tập luyện.


Logged
zoangcc
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 26


Email
« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Sáu 24, 2017, 04:16:47 AM »

Thái cực quyền Tinh Hoa là để giành cho những người đã được chuẩn bị tốt về cả thể chất lẫn tinh thần. Nó đòi hỏi người tập phải có tinh thần trách nhiệm. Người mới tập nên tập luyện kỹ căn bản để tạo dựng căn cơ. Đó là lý do Nội gia quyền căn bản ra đời - Là nơi cung cấp các bài viết, clip cho các bạn yêu thích công phu có được kiến thức và nền tảng tập luyện vững chắc.
https://www.facebook.com/noigiaquyencanban

Thái cực quyền Tinh Hoa.
Nói đến Thái cực quyền tinh hoa phải nói đến Thái cực quyền Dương gia do Dương Lộ Thiền khởi xướng.
Tương truyền là Dương Lộ Thiền học Thái cực quyền ở Trần Gia Câu do Trần Trường Hưng dạy, nhưng xét về mặt so sánh trình độ giữa Dương thức Thái cực quyền và Trần thức Thái cực quyền thì điều tương truyền này quả thật phi lý (1).
Có truyền thuyết cho rằng Dương Lộ Thiền được ẩn sĩ cao nhân chỉ dạy. Điều này có lý vì Thái cực quyền dương gia mang phong cách tiêu diêu của tu Tiên(2).
Theo nguồn tin ngoài lề thì truyền thuyết (1) do nhà nước Tung của dựng nên cho có tính truyền thừa dài lâu. Truyền thuyết (2) có vẻ đúng đắn hơn về mặt nội dung.
Xét về truyền thừa Dương gia thì:
1. Dương Lộ Thiền : 1799 - 1872 là đời thứ nhất.
2. Dương Ban Hầu (1837 – 1892) là đời thứ hai - con trai Dương Lộ Thiền.
2. Dương Kiện Hầu : 1839 - 1917 là đời thứ hai - con trai Dương Lộ Thiền.
3. Dương Trừng Phủ : 1883 - 1936 là đời thứ ba - con trai Dương Kiện Hầu.
4. Dương Thủ Trung : 1910 - 1985 là đời thứ tư - con trai Dương Trừng Phủ.
Clip của Dương Thủ Trung  https://youtu.be/6VWci5_xsP8
5. Mã Hoán Vĩ : 1937 - Hiện tại là đời thứ năm - truyền nhân của Dương Thủ Trung.
Clip của Mã Hoán Vĩ https://youtu.be/ljcntNKGKz8
4 -1. Uông Vĩnh Tuyền : 1904 - 1987 là học trò của Dương Trừng Phủ, chưởng môn đời thứ nhất Dương gia Uông Mạch.
Clip của Uông Vĩnh Tuyền https://youtu.be/ozcAFrAjWqc
5 -1. Chu Khôi Nguyên : 1911 - 1999 là học trò của Uông Vĩnh Tuyền, chưởng môn đời thứ hai Dương gia Uông Mạch.
Clip của Chu Khôi Nguyên https://youtu.be/UvQsZump9yA
6 -1. Thạch Minh : 1939 - 2000 là học trò của Chu Khôi Nguyên, chưởng môn đời thứ ba Dương gia Uông Mạch.
Clip của Thạch Minh https://youtu.be/JYuURUxCZ3I
7 -1. Tiêu Duy Giai : 1944 - là học trò của Thạch Minh, chưởng môn đời thứ tư Dương gia Uông Mạch.
Clip của Tiêu Duy Giai https://youtu.be/wKANy1aUXyQ
Các đời trước chưa có clip hay hình ảnh để lại nên khó đánh giá thực hư. Từ  Dương Trừng Phủ và Uông Vĩnh Tuyền trở về sau đã có clip và hình ảnh nên nếu có chuyên môn, có thể qua đó đánh giá trình độ quyền thuật của các vị Đại sư.
Có thể nhận thấy rằng Dương Trừng Phủ, Dương Thủ Trung, Mã Hoán Vĩ vẫn là còn luyện thân kình, vẫn còn là phạm trù võ, thần thái chữa thấm đẫm đạo vị.
Uông Vĩnh Tuyền, Thạch Minh, Tiêu Duy Giai luyện Ý Kình, đã thuộc về phạm trù tu luyện, dùng Thái cực ngộ Đạo. Trong đó Uông Vĩnh Tuyền đã đạt trình độ Nhất đại tông sư. Quyền thuật của ông đã đạt tới cảnh giới lưu thủy hành vân, đăng phong tạo cực. Thạch Minh thì trình độ kém hơn một chút. Tiêu Duy Giai lại kém hơn chút nữa nhưng thần thái vẫn thấm đẫm đạo vị, mang âm hưởng tiêu diêu, tiên phong đạo cốt.
Các hình ảnh, clip của các Đại sư để lại là tư liệu quí giá để các thế hệ sau chiêm ngưỡi và hướng tới, lấy đó làm mục tiêu trong quá trình luyện tập.
Logged
zoangcc
Newbie
*
Offline Offline

Bài viết: 26


Email
« Trả lời #4 vào lúc: Tháng Bảy 07, 2017, 10:28:45 AM »

Bằng kình qua bài : Trả lời phỏng vấn của Maike Sigmen
đăng 37 phút trước bởi Thái Cực Việt Nam   09:59, 7 thg 7, 2017
Nguồn : Tổng hợp

Trả lời phỏng vấn của Maike Sigmen
Đọc kỹ bài phỏng vấn này các bạn sẽ hiểu rõ hơn về Bằng kình, cái căn bản mà các môn Nội gia quyền như Thái cực quyền, Hình Ý, Bát quái luyện tập.
Không thực sự [có bất kỳ nghĩa gì]. Ban đầu tôi tập Judo và Karate rất nhiều và gặp đủ các loại người, và sau đó gặp một người Nhật tập Aikido. Khi ông ta chỉ cho tôi một số thứ tôi nhận ra ông ta đang dùng một loại lực kỳ lạ: định nghĩa của tôi luôn dựa vào hướng về những người có thể kiểm soát được loại lực này.

Trọng tâm tập luyện võ thuật của ông là “nội công”, nhưng cụm từ này có thể có bất kỳ nghĩa gì; ông có thể trong một vài từ giải thích “nội công” nghĩa
là gì?

Không thực sự [có bất kỳ nghĩa gì]. Ban đầu tôi tập Judo và Karate rất nhiều và gặp đủ các loại người, và sau đó gặp một người Nhật tập Aikido. Khi
ông ta chỉ cho tôi một số thứ tôi nhận ra ông ta đang dùng một loại lực kỳ lạ: định nghĩa của tôi luôn dựa vào/ hướng về những người có thể kiểm soát
được loại lực này.

Điều này càng được khẳng định bởi việc có một số người – không phải tất cả mọi người – nhưng một số người, tương đối thông minh và có chút ít kỹ
năng nào đó về thể chất, đều nói “ồ, cái này lạ thật”, nghĩa là họ cũng cảm thấy [sự khác biệt]. Khi gặp một người không có một dấu hiệu nào của [khả
năng dùng lực] này, tôi không cần biết họ biết bao nhiêu bài quyền hay kỹ thuật, nếu họ không biết kiểm soát loại lực này, nghĩa là họ không biết dùng
Nội Công. Càng khẳng định thêm điều này, trong nhiều năm [tôi đã gặp] một số người Trung Quốc được công nhận là rất giỏi, và họ cũng nhận ra điều
này giống như tôi. Họ chỉ cần ngồi xem một ai đó cũng như tôi - đến một mức độ nhất định, bạn không cần phải chạm vào người đó, chỉ cần xem họ di
chuyển – và câu hỏi luôn là :”liệu người này có khả năng dùng lực như vậy không”.

Vậy thì “Nội Gia Quyền”, định nghĩa của ông là gì?

Căn bản là loại lực được sử dụng. Theo cách nói truyền thống thì nội gia quyền dùng “Khí” hoặc “Kình” thay vì “Lực” (sức mạnh cơ bắp). Một bước
tiến lớn với tôi là khi nhận ra rằng Khí ở đây không phải là khái niệm Khí vũ trụ thần bí. Tôi nhớ đến một cuốn sách mà tôi đọc khi 18-20 tuổi và đang
tập Okinawa Karate: cuốn sách có nhiều phần nói về các loại Khí khác nhau: trong phần “Võ thuật và Khí” tôi nhớ cuốn sách nói ngay từ đầu
rằng “trong Nội gia Quyền, Khí được hiểu tốt nhất như là sức mạnh từ đất lên”.

Có các loại lực phụ trợ khác, nhưng đó là luôn là loại lực chính. Và nó được dùng trong mọi cử động, chứ không chỉ trong một cú đánh toàn lực: nhiều
môn võ ngoại gia cũng có thể thực hiện một cú đánh toàn lực gần giống hệt như vậy. Khác nhau là ở chỗ người dùng nội gia quyền thuần tuý sẽ dùng
loại lực này trong mọi cử động.

Vậy ý nghĩa của Khí ở đây không phải là ý nghĩa truyền thống?

Ngày nay rất nhiều người đã đồng ý rằng trừ phi bạn hiểu về nội dung võ thuật bằng tiếng Trung Quốc, bạn sẽ không thể dịch văn bản/ sách võ thuật.
Khi phần lớn các bản dịch mà chúng ta ngày nay đang sử dụng được dịch, không ai hiểu được điều đó, nên khi từ “Khí” xuất hiện, người ta giả định
rằng đây là nói về khái niệm Khí theo nghĩa vụ trụ/ triết học. Từ đó đến nay, rất nhiều người đã ủng hộ khái niệm này và tin tưởng vào nó, tuy nhiên
chính hai người thầy [người Trung Quốc] mà tôi học lâu nhất đều nói [về Khí] theo nghĩa hết sức cơ học và thực tế, và phương pháp tập của họ họ rõ
ràng là đang tiếp nối theo truyền thống mà họ được học. Một trong hai người là thành viên của Hội Trần gia Bắc Kinh, và người kia là một bậc thầy
được công nhận rộng rãi ở Trung Quốc, nên tôi nghĩ cái gọi là “truyền thống” thực ra phải hiểu là “theo quan điểm của phương Tây”: rất nhiều thứ đã bị
làm cho hào nhoáng và bí hiểm, trong khi người Trung Quốc đặc biệt là ở phương Bắc lại có quan điểm thực tế hơn. Thực ra một trong các thầy của tôi
sử dụng những thuật ngữ mà tôi không thích vì chúng quá cụ thể/ cơ học: khi tôi nói về Bằng kình thì ông lại bảo “à, phải rồi, dùng lực từ chân ở đây”,
và tôi khựng lại vì “lực từ chân”: ông còn đơn giản hơn cả tôi!

Wang Xiang Zhai (Vương Hương Trai???), người sáng lập Ý Quyền, cũng nổi tiếng về cách mô tả bằng véc tơ lực và những khái niệm kiểu đó, ông cho
rằng nhiều người bị phân tán bởi những chuyện về Khí, cửu này, ngũ nọ, còn ông thì nói thẳng vào vấn đề. Nên không phải là tôi đang tạo ra một tiền
lệ, tôi đang đi theo một tiền lệ: đây là một tiền lệ tương đối không bình thường nhưng kết quả của nó thì khá rõ ràng đối với những ai tin theo nó.
Không phải vì tôi là người nói hay, phần lớn những người đến các khoá học [của tôi] vẫn giữ lối tập của họ, nhưng họ thu nhận những thông tin này bởi
vì chúng có tác dụng, họ sử dụng chúng theo cách họ muốn, và [thực ra] logic của vấn đề này thì khó có thể phủ nhận được.

Rất nhiều người tập Thái Cực Quyền được công nhận, trong đó có ông, đều có kiến thức từ trước về những môn võ cương mãnh và rõ ràng hơn. Theo ý
ông đó có phải là con đường tốt để đạt được Nội Công?

[có], theo nghĩa là một người bắt đầu học võ sẽ có rất nhiều câu hỏi và vấn đề nghi vấn, nên họ dành rất nhiều thời gian mày mò, hoặc [mất thời gian]
nghi vấn và đi theo con đường sai. [vì vậy] một người đã có kinh nghiêm [với một môn võ khác] có thể gạt sang một bên phần lớn những vấn đề gây
xao lãng [khi tập Thái Cực Quyền??] và tiến thẳng tới cái đích họ muốn, và tôi nghĩ đó là điểm mấu chốt. Một người đã biết chiến đấu sẽ không có
những lo lắng và nghi ngờ về bản thân, bởi họ đã trải qua cái đó từ trước, họ không bị xao lãng, và họ theo đuổi đúng cái họ cần.

Anh cũng biết là TCQ thường được mô tả như là một kiểu múa mềm mại, theo kịch bản có sẵn, và chính vì vậy nó không hấp dẫn được nhiều người
tập võ thực sự. Nó hấp dẫn những người thích tình huống kiểu một người 50kg đánh ngã kẻ hung hãn 100kg. Nhưng bởi vì những người này không có
những kinh nghiệm như đã nói ở trên, họ phí phạm vô số thời gian theo đuổi những vấn đề ngoài lề, và trình độ Thái Cực Quyền thấp nói chung phản
ánh thực trạng này.

Ông đã nhiều lần nói rằng những gì ông dạy trong các khoá học không phải là mức độ cao, mà chỉ ở mức cơ bản. Nếu vậy, sao tất cả mọi người đều
không làm được những cái đó rồi?

Đây là các nội dung cơ bản, nhưng nó bao gồm thay đổi cách cơ thể di chuyển. [vì vậy] bài quyền TCQ được tập chậm để hạn chế di chuyển của cơ
thể. Trong khoá học người ta nhận ra, ở mức độ kiểm soát chức năng cơ thể, cách làm như vậy – và họ về nhà và nhận ra rằng để làm được như vậy họ
phải thay đổi mọi thứ họ đang làm, và họ không thực hiện được điều đó, hoặc cùng lắm là chỉ thực hiện được một phần. Rất khó có thể thay đổi một
cách cực đoan như vậy. Tuy nhiên, luôn có một vài người thấu hiểu được vấn đề, bỏ ra thời gian, kiên trì tập luyện, và họ trở thành thế hệ xuất sắc tiếp
theo.

Ông mong đợi người học thu được những gì?

Di chuyển ở mức độ cơ bản bằng cách dùng Kình, hay lực từ đất, để kéo, đẩy, nâng, hoặc [hợp?] lực hơi hướng xuống dưới. Và hiểu được rằng mọi cử
động đều là phối hợp của 4 loại lực cơ bản này. Khi đó họ đã bắt đầu đặt một chân vào ngưỡng cửa.

Vì sao ông không có các khoá học nâng cao hơn?

Bước đầu tiên là hiểu được loại vận động này. Sau khi vận động đã chính xác, mới có thể nghĩ đến kỹ thuật, ứng dụng và thêm các loại lực khác. Làm
những việc này trước chỉ phí thời gian.

Như vậy không phải là truyền bá TCQ Trần thức dưới một cái tên khác? Những thứ ông dạy là đặc thù [của TCQ] đến mức độ nào?

Không hề như vậy. Tôi đã dạy người tập TCQ của Cheng Man-Ch’ing, Dương gia, Vũ gia, Karate, Arnis, Akido, Vĩnh Xuân, và không hề truyền bá [cho
TCQ]. Họ đều tiếp tục tập luyện môn võ của mình – không hề có chuyện truyền bá môn phái. Tôi cho rằng những người đến các khoá học của tôi – và
đã có rất nhiều người đến – không hề bị ảnh hưởng bởi lời nói xuông: họ đạt kết quả, và kết quả đúng như sách vở từ trước đến nay vẫn nói đến.
Nhiều người tham gia một khoá học, quay về tự tập một cách điên cuồng và thậm chí không nghĩ gì đến tôi nữa. Cho nên đây không phải là chuyện
truyền đạo, không có đấng cứu thế nào cả. [khoá học cuả tôi] giống như nói chuyện ở cửa hàng hơn: tôi giới thiệu công dụng, họ thấy rằng [phương
pháp này] có kết quả, và họ tự thực hiện.

Tất cả học viên có tiếp nhận được ở mức độ như nhau không?

Theo kinh nghiệm của tôi, những người học tốt nhất thường là người Trung Quốc hoặc gôc Trung Quốc, đã có căn bản về võ và kiến thức về lịch sử,
không bị lẫn lộn bởi những vấn đề ngoài lề. Họ hiểu bản chất vấn đề và tiếp cận nó một cách logic, nên họ thường là khá nhất. Tiếp theo là những
người có khả năng điều khiển cơ thể tốt, nhưng chưa tập võ thuật. Những người khác đều ít nhiều gặp vấn đề xoá bỏ những thói quen đã tập lâu ngày,
đó là một phần lý do người ta nói “TCQ dễ tập nhưng khó sửa”.

Nói chung, trong một khoá học tôi chỉ ra phương pháp tập luyện/ vận động. Người học đều có thể thực hành nó: không thể chối cãi là phương pháp này
có hiệu quả. Về lý mà nói, như vậy hoặc đây là phương pháp chân chính, hoặc tôi đã nghĩ ra một phương pháp thứ ba hoàn toàn mới, nhưng tôi không
phải thiên tài. Tóm lại, tôi trình bày nhưng không nói chuyện riêng nhiều với ai. Một số người hiểu được: họ nhận ra là mình đã lãng phí thời gian từ
trước đến nay. Chính tôi đã lãng phí nhiều thời gian: có lúc tôi chợt nhận ra là dù mình múa quyền đẹp đến mấy, học thôi thủ và những thứ như vậy,
thực ra tôi chưa hề thực sự tập TCQ. Tôi đã phải dừng lại và quay lại từ đầu. Vì vậy mà tôi không dạy một lớp TCQ nào ở ngay địa phương: tôi nhận ra
rằng mình không hiểu đủ về TCQ để dạy, và quyết định bỏ thời gian ra để học lại. Nhưng nói chung phần lớn những người đã tập TCQ một thời gian
dài sẽ không chịu thay đổi.

Quá nhiều công sức bỏ ra cho những gì họ đã có?

Chính xác. Nhiều khi còn có nhiều thứ khác phụ thuộc: địa vị, tự ái, và nhiều khi cả lý do kinh tế: đây có thể là một nửa thu nhập của họ chẳng hạn. Vì
vậy tôi không nhận xét nhiều: tôi chỉ ra mọi thứ, và họ dùng nó theo cách họ muốn.

Vì sao những thứ này không được biết đến nhiều hơn ở phương Tây?

Vấn đề là lượng kiến thức có được ở phương Tây là khá ít, và rất nhiều người [Trung Quốc] ở phương Tây thực ra cũng không được học hành tử tế.
Nhiều khi vì họ là người Trung Quốc, người ta nghĩ là họ hiểu biết, nhưng nhiều khi không đúng như vậy. Chính việc này làm mọi việc mù mờ và
khiến cho TCQ cũng như các môn nội gia quyền khác kém phát triển hơn là mọi người lầm tưởng. Ta thường nghe ai đó nói là đã dạy được 20 năm,
nhưng nếu họ không biết gì thì 20 năm cũng không nói lên điều gì. Điều này đúng với cả người Trung Quốc và người phương Tây: chỉ vì ai đó là người
Trung Quốc, hoặc đã học từ một ông thầy nhất định, không có nghĩa là họ hiểu. Những kiến thức này được giữ tương đối kín.

Ông luôn nhấn mạnh đến kết quả, nhưng làm sao phân biết giữa kết quả đúng và kết quả sai?

Cũng như mọi thứ khác, bạn cần một người thầy tốt, mà không chắc người thầy hiện tại của bạn đã tốt. Nếu tôi phải kiểm tra lại những gì mình nghĩ là
mục tiêu và kết quả đúng, tôi sẽ - và đã thực sự làm như vậy – tìm đến một người Trung Quốc được công nhận là bậc thầy ở đại lục Trung Quốc.

Làm cách nào để đánh giá khả năng của một ông thầy?

Có một cách khá đơn giản để xem một người đã tập nội gia quyền hay chưa: bảo họ để nắm đấm hay bàn tay lên ngực bạn, và đánh mà không cần xoay
hông hay vai. Cách này không bảo đảm 100%, nhưng là một dấu hiệu khá tốt: nếu người đó có khả năng, họ sẽ làm được một cách dễ dàng. Nếu không
làm được, họ không nên đi dậy: đây là một “bài thử thầy giáo” đơn giản.

Ngoài ra, không nên chỉ đánh giá qua khả năng của những người khá to lớn.Như một vài người thầy khác, tôi khá to lớn, nhưng như vậy không chứng tỏ
được điều gì. Một người thầy phải được đánh giá qua học trò bé nhỏ nhất của họ. Tôi đã hướng dẫn một người chỉ nặng có 135 pound (60 kg) nhưng có
thể đánh mạnh đến mức tôi không bao giờ muốn bị đánh nữa, bởi vì tôi không muốn bị chấn thương. Và với một người nặng 60 kg, khả năng đó phần
lớn là do tập luyện.

Một số người có thể nói “nếu không ứng dụng chiến đấu được thì không phải TCQ thực sự”. Một số người khác lại coi các vấn đề đường dẫn lực, Kình, và
nói “đó là dành cho chiến đấu, và không cần thiết nếu chỉ dùng cho dưỡng sinh”.

Có nhiều phát biểu của Ma Yueh Liang, Feng ZhiQiang, Chen Fa Ke, Yang Zhen Duo và những người khác, nhìn chung tất cả đều nói rằng 99% của
TCQ là Bằng kình. Nếu bạn không hiểu Bằng kình, và không biết cách thực hiện nó trong tất cả các cử động của mình, bạn không tập nội gia quyền: đó
không phải là TCQ, bất kể là có chiến đấu được hay không. Nên trừ phi bạn hiểu và sử dụng được Kình cơ bản, dù là cho dưỡng sinh - bản thân tôi
cũng không quan tâm nhiều đến chiến đấu – hay là võ thuật, bạn không có TCQ. Vì vậy sử dụng Kình không phải là để đánh giá vấn đề võ thuật, mà là
để đánh giá đây có phải là nội gia quyền hay không. Nếu bạn không biết dùng Kình, hoặc không dùng Kình trong mọi trường hợp, thì dù có đi quyền
đẹp, bạn cũng không hiểu nội gia quyền.
Bằng kình và kết nối: các yếu tố thể chất tạo ra “nội công”

“Nhận lực từ đất” là cách Cheng Man-Ching mô tả các loại lực dựa trên bằng kình (lực hướng từ đất) thông qua kết nối toàn bộ cơ thể.

Tập luyện cách dẫn bằng kình đến tất cả các phần của cơ thể giúp tăng cường sức lực và khí. Ví dụ một người khuân vác bê đồ trên đầu mình cũng
đang dùng bằng kình từ chân lên đầu. Trong nội gia quyền, chúng ta phải tập để truyền được lực này đến mọi điểm trên cơ thể, mọi điểm tiếp xúc và
chân tay. Bằng cách giữ cho cơ thể kết nối toàn bộ, như một con vi khuẩn, chúng ta có thể tác động đến mọi cử động của cơ thể bằng lực từ đất truyền
lên.

Thông qua bằng kình và vận động toàn thân, lực được truyền từ, định hướng ở hông, và thường thể hiện ra ở cánh tay và bàn tay. Điều lạ là càng dùng
loại lực này nhiều thì các thể hiện khí cảm càng tăng.

Để bắt đầu tập bằng kình, nhờ ai đó đẩy vào cánh tay (xem hình vẽ), giữ vai hơi vươn ra và lưng dưới thả lỏng. Phải cảm nhận và tạo ra được một
đường lực hơi cong, nối từ điểm tiếp xúc ở tay, qua lưng, đến chân sau. Để cho lực đẩy làm bạn co lại, đừng cố vươn ra, cố thả lỏng dọc theo đường
lực này càng nhiều càng tốt. Phải làm sao để đầu gối và hông có thể lắc lư dễ dàng trong khi người đẩy vẫn cảm nhận được đường lực hướng xuống
đến đất.




Cố gắng chìm xuống nhưng vẫn duy trì đường lực (bằng). Không được căng cứng vai hay tay, vươn/ đổ người về phía bạn tập, vừa thư giãn vừa đẩy
thẳng vào hướng lực của họ.

Chú ý là hơi vươn vai không chỉ giúp tạo đường lực mà còn giúp kết nối tay với lưng.

Nếu tập đúng, bạn có thể dùng ý chí điều khiển cho đường dẫn lực xuất hiện và biến mất. Ban đầu, sẽ phải chỉnh sửa tư thế của cơ thể, một khi đã
cảm nhận được thì tiến bộ sẽ rất lớn.




Vị trí cơ thể và các góc độ [góc độ mở ở các điểm kết nối] là hết sức quan trọng để tạo ra bằng kình, trong khi chỉ dùng cực kỳ ít sức mạnh cơ bắp. Vì
vậy người ta nói ở khía cạnh thể chất thì nội gia quyền là nghiên cứu về các góc độ của cơ thể.

Kết nối: khía cạnh khác của Bằng kình

Cũng như một đồng xu không thể chỉ có một mặt, bằng kình, hay là ẩn lực của toàn thân, không thể tồn tại nếu không có mặt đối diện, kết nối. Bằng là
lực mở/ vươn ra. Kết nối là xu hướng đóng lại. Chính sự kết nối/ kéo nhau của những phần cơ thể vươn ra sẽ giúp hông điều khiển tay.

Vận động đặc thù của nội gia quyền, mà qua đó chúng ta đang xem xét đến sự thể hiện ra ngoài của Khí, yêu cầu xem xét đến hai khía cạnh cơ bản:
bằng (xem bài trên) và kết nối.

Trong nghiên cứu cơ học ứng dụng trong sinh học, người ta nhận thấy là một loại cơ có thể được dùng với các bó cơ khác nhau để tạo thành các cấu
trúc vận động khác nhau. Để thực sự sắp xếp lại [mối liên kết] giữa các bó cơ để đạt được kết cấu tối ưu và tận dụng tối đa sức mạnh của phần hông
eo, ta phải thả lỏng những phần căng cứng cục bộ theo thói quen, và một cách nhẹ nhàng (để không làm nhiễu đầu óc) sắp xếp lại cử động của mình.

Một khi đã hiểu và tập bằng kình theo quan điểm này, sẽ không mất lâu để “dùng ý” tạo ra đường dẫn từ đất đến bất kỳ điểm nào trên cơ thể để ra đòn
hoặc đỡ đòn. Tuy nhiên kết nối [giữa mọi điểm bất kỳ trên cơ thể] một cách dễ dàng sẽ mất lâu hơn, vì nó không thể dựa trên cấu trúc xương như khi
tập bằng kình.

Mọi vận động của nội gia quyền đều dùng hai yếu tố bằng kình và kết nối này, ngoài ra các hiện tượng khí cảm có thể đạt được thông qua sử dụng hai
yếu tố này kết hợp với thả lỏng, dùng ý và tư thế đúng của cơ thể.

Các bước kết nối, và lực chìm

Đẩy bằng kình từ dưới lên, từ chân qua hông, lưng, đến tay … là cách dùng lực từ đất để khởi tạo chuyển động và sức mạnh. Đường chuyển động là
đường ngắn nhất có thể.

Tương tự, khi dùng lực theo hướng đi xuống thì lực từ điểm đặt lực (tay, …) qua đan điền xuống đất. Tạo ra kết nối giữa điểm đặt lực và đan điền, mà
không sa vào căng cứng cục bộ, là một trong những phần khó khi tập nội gia.

Cơ bản có hai cách áp dụng lực ép xuống này, tuỳ theo vị trí của điểm đặt lực so với đan điền. Nếu điểm đặt lực ở gần, có thể dùng bằng kình cục bộ từ
tay đến vai. Ở xa hơn thì phải dùng kết nối thực sự từ điểm đặt lực đến đan điền.

Khi dùng lực kết nối này, kình lực bất ngờ sinh ra từ trung tâm cơ thể, tích lực chủ yếu ở lưng, được tăng cường nhờ các khối cơ bụng. Tập lực này
đúng cách sẽ làm tăng cơ bắp ở bụng và ngực vì lực được phát ra từ đây.

Ví dụ khi kéo vai một người bạn tập, trước tiên phải kết nối bằng cách hơi căng phần giữa tay đến thân người. Thả lỏng để chìm xuống và để cho một
phần sức nặng cơ thể đè lên vai bạn tập. Khuỷu tay sẽ tự chìm xuống.

Hít vào rồi thở ra, hơi chìm người và để cho sự chìm này đè xuống vai bạn tập thông qua kết nối từ thân sang tay. Khi thở ra bằng mũi, vùng bụng sẽ
kéo dãn, các cơ sườn đồng thời co lại nhưng không quá cương cứng.

Lúc đầu, làm như vậy sẽ không tạo ra được lực đè lớn lên vai bạn tập. Phải lập lại nhiều lần, và quan trọng hơn, phải nhẹ nhàng và tập trung để dùng
cơ bắp ở ngực và bụng chứ không phải tay. Tập kéo từ giữa cơ thể xuống.

Tập chuyển trọng tâm từ chân sau ra chân trước để tăng thêm động lực. Lúc này động tác sẽ rất giống “pi”??? quyền trong Hình ý quyền.

Trong các môn nội gia, cử động này, cùng với một số khác nữa, được tạo ra bằng cách dụng ý [để truyền lực] ra tay. Tập thật chậm, thở ra qua bàn tay
và ngón tay, trong khi cử động xuất phát từ mặt đất, được điều khiển bởi phần hông eo, và phát rat ay. Cơ thể vận động như một thể thống nhất.

Gần như không có lực khi bắt đầu tập … dùng ý để dẫn bằng kình, vươn duỗi, trọng lượng đè lên bàn tay, và phát khí qua bàn tay. Tập có lực là sai lầm
và đẫn đến dụng ngoại lực.

Các phần còn lại của cơ thể cũng phải kết nối. Ví dụ, hơi đỉnh đầu lên sẽ tạo ra một lực căng nhỏ, có thể dùng để dẫn dụ lực [đè lên vai].

Vận động bằng Bằng kình xuyên suốt trung tâm cơ thể, và bên ngoài được kết nối bởi “sự bao bọc của toàn bộ cơ bắp nối với nhau” là căn bản của mọi
môn nội gia. Điều kỳ lạ là một số vận động theo cách này sẽ tạo ra cảm giác gần như có thể nhìn thấy được của “ngoại Khí”.

Phần 3: Lực đẩy bằng Bằng kình

Cách duy nhất để quen thuộc với bằng kình là phải thưòng xuyên chơi đùa với nó, tìm ra các ứng dụng và hạn chế của nó. Càng tiến bộ, bạn sẽ càng
thấy có ít hạn chế hơn là minh tưởng, và gần như mọi cử động đều có thể dùng bằng kình và kết nối toàn thân.

Đầu tiên, để sử dụng ít cơ bắp nhất, có một số ý nên nhớ: đứng tấn tương đối rộng, trọng tâm trên chân sau, chìm người làm sao để khớp vai ít bị căng
nhất, chùng lưng dưới (lưng bắt đầu cong ra phía ngoài), để cho thế bằng cảm thấy hơi bị ép vào một cách thoải mái, chứ không vươn ra một cách
căng thẳng.

Một khi đã có đường lực chắc chắn giữa tay và chân đối diện, sẽ không khó để vươn ra dọc theo đường lực này để tạo ra một cú đẩy mạnh. Không

được đứng thẳng dậy, hay để hông ép vào phía trong (vặn xoắn), mà vươn dọc theo đường bằng kình.




Cũng như cái chốt giữa hai chân thang có thể dễ dàng duỗi ra khi nó đã gần như mở, nhưng khó duỗi ra khi đang gập, các “chốt” trong cơ thể cũng như
vậy. Chỉ cần đẩy nhẹ là có thể tạo ra lực dọc theo đường lực nếu như các chốt đều đã gần như mở. Các chốt ở đây bao gồm đầu gối, hông, xương
lưng, vai và khuỷu tay. Mỗi chốt này khi đi từ trạng thái gần mở sang mở sẽ giúp thúc đẩy và tăng cường lực dọc theo đường bằng kình.



Bạn có thể dùng cách tập này để mở cửa hàng ngày. Hoặc tập ở các tư thế khác nhau. Khi vai quá gập, tập bù lại bằng cách hướng thẳng lực từ hông
đến khuỷu. Không được đẩy bằng cơ vai. Những người quan tâm đến thực chiến có thể dùng cách này để đánh mà dùng rất ít lực.

Ngoài cách nhìn nhận theo kiểu “chốt” đơn giản như trên, còn có các yếu tố phức tạp hơn cần được giải thích.

Những thay đổi liên tục trong một chuyển động kiểu nội gia có liên quan đến khai và hợp. Khi cơ thể hợp lại, nó co cuộn thành một thể hợp nhất; khi
khai, cũng vươn ra theo hướng của bằng kình theo một thể hợp nhất.

Cựm từ “thái cực” trong Thái Cực Quyền nói tới quá trình khai hợp liên tục trong mọi động tác, có khai thì phải có hợp … Âm dương chính là biểu hiện
của các thái cực, và TCQ có thể coi là môn võ của thái cực, không phải bởi vì nó có khả năng chiến đấu [hơn các môn khác], mà bởi vì cũng như âm
dương, nó liên tục di chuyển từ đóng sang mở.

Trong khai hợp, điểm trụ là đan điền, là trung tâm (theo nhiều nghĩa khác nhau) của cơ thể.

Mặc dù chúng ta chỉ đang nói về đẩy, nhưng mọi cử động có khai hợp đều liên quan đến đẩy. Một minh hoạ đơn giản sẽ chỉ rõ ý này.

Khi hợp thân, chốt chính ở lưng bắt đầu co lại và tích lực trong khi thân chìm xuống, tạo ra co và tích lực ở hông và gối (xem ảnh). Quan trọng là lưng

cong phải đi liền với gối. Hông không cố tình cong, mà cong vì lưng và gối cong. Kết nối từ tay đến chân vẫn phải được duy trì liên tục.

Tích lực theo cách này đòi hỏi cơ thể co lại theo hướng vòng và đi xuống.




Khi khai, duy trì kết nối trong khi lực từ chân đẩy qua lưng và đi đường ngắn nhất đến mục tiêu. Lúc nào ta phải tìm con đường ngắn và hiệu quả nhất
[để phát lực] từ đường cong đang tích lực (xem hình). Khi cơ thể duỗi ra, phần hông xoay một cách tự nhiên ra khỏi vị trí đóng, làm tăng lực đẩy dọc
theo xương sống. Hơi thở ra giúp cơ bụng dưới hơi căng, giúp tăng năng lượng cho hông xoay.

Cùng lúc với hơi thở, bụng dưới co lại, giúp hông xoay, đẩy vào xương sống làm nó thẳng ra, ….. theo đó khí chạy xuống chân và lên lưng.

Chú ý là như trong hình vẽ, từ hông có hai lực phát ra, một trong hai lực đó hướng xuống chân. Khai của thân bắt nguồn từ hông eo, tay chỉ là phụ để
dẫn lực.



 Để tư thế đúng, mặc dù lực được điều khiển từ hông, khởi nguồn vẫn phải từ chân.

Tất cả đòn đẩy (và phát lực), qua bất kỳ phần nào, theo hưóng nào, đều dùng ý tưởng biến đường cong (tích lực) thành đường thẳng (hướng lực).
Đường dẫn lực là đường ngắn nhất từ đất, và dọc theo các điểm nối dễ duy trì nhất.

Các nguyên lý trong ví dụ ở trên như bằng kình, khai hợp, hợp thân, … đều áp dụng cho mọi cử động trong nội gia quyền. Tập luyện để theo đúng các
nguyên lý này trong mọi cử động sẽ giúp tiến bộ nhanh chóng.

Nói chung, có thể đạt được tiến bộ về thể chất thông qua tập bằng kình, thả lỏng và hợp thân. Tiếp theo, tập tạo lực cho mọi cử động bằng bằng kình,
hợp thân, và khai hợp. Tuy nhiên để đạt được lực và thả lỏng, không chỉ có tập luyện bình thường và hiểu biết lý thuyết là được.

Ngoài cách tập thông thường, còn có một phương pháp hình dung về hợp thân có thể giúp tăng bằng kình một cách đáng kể. Nếu hình dùng cơ thể
như một thể đơn bào, ví dụ như trùng amip, thì bằng kình là đường lực ngắn nhất [giữa hai điểm] trên cơ thể.

Theo hình dung truyền thống về động tác “đẩy”, cơ thể co từ phần trung tâm ra đến ngón tay và ngón chân khi hợp, và khi khai thì vươn từ phần trung
tâm ra. Điểm trung tâm là hội âm, nhưng các cơ bắp ở lưng, bụng trên và dưới đều tham gia.

Cách hình dung cơ thể như một tấm vải dẫn đến một cách nói truyền thống “tập lớp bọc bên ngoài”, tuy nhiên phải hiểu lớp bọc ở đây bao gồm cả da
thịt, gân cơ, … tất cả đều đóng góp vào hiệu ứng hợp lại.

Khía cạnh đối diện của hợp là khai, nói đến sự vươn duỗi của cơ thể. Khi vươn, bằng kình là lực đẩy, nhưng được tăng thêm bởi sự co duỗi, đặc biệt
là ở bụng, đi kèm với ép thở ra.

Phải chú trọng tập vươn duỗi nhiều như tập hợp lại. Có một câu thành ngữ Trung Quốc là vưon duỗi một sợi cơ ra một tấc còn mạnh hơn to ra 3 tấc.

Tri giác và tập luyện cơ thể đơn bào là phụ trợ cho khả năng dùng “nội lực” như bằng kình và kết nối toàn thân. Chỉ tập cái này khi đã có kỹ thuật cơ
bản. Tuy nhiên ở mọi trình độ, có một cái nhìn tổng quát [về các tầng bậc kung fu] cũng là có ích.

Không được dùng sức khi tập. Thư giãn, hình dung trong đầu quá trình đang diễn ra, để đầu óc tự chỉnh sửa lại cơ thể. Lặp đi lặp lại và thả lỏng là yếu
tố quan trọng trong nội gia quyền.

Đồng thời, khi cơ thể hợp lại như trong ví dụ bên trên, vẫn phải cảm giác được bằng kình xuyên qua cơ thể, như một chiếc khung sắt. Cảm giác toàn
bộ chiếc khung uốn cong và dồn vào chân sau.

Một số câu hỏi từ độc giả sau 3 bài về tập bằng kình.

Trong hình vẽ, có vẻ như thế bằng yêu cầu nghiêng về phía trước để tạo ra khoảng cách dài hơn giữa tay trước và chân sau để truyền lực dễ dàng hơn.
Tư thế này giống với TCQ Vũ thức, nhưng khác với các dòng khác, vốn có lưng thẳng hơn

Với người bắt đầu tập dùng lực từ đất một cách thả lỏng, nghiêng về phía trước giúp kết nối với chân sau tốt hơn (chìm và co về chân sau, không
vươn theo hướng đẩy). Khi đã quen sử dụng lực từ đất, bạn sẽ đứng thẳng dần lên.

Khi đứng thẳng, cũng chỉ nên dùng những cơ bắp có liên quan đến đường dẫn lực. Tư thế vươn ra phía trước của Vũ thức nói chung là hiệu quả hơn
cho mục đích này.

khi án với bằng kình và kết nối cơ thể, với một chân trước, một chân sau, làm sao để không bị mất thăng bằng và đổ nhào? Chỉ cần không bị mất trọng
tâm ra ngoài chân trước? Có cần phải thả lỏng về vị trí ban đầu ngay sau khi án?

Nói rất chính xác. Đổ ra phía sau [ngay sau khi án] là cách thông dụng trong nội gia.

Khi án [dài] và phát kình (fajing) [ngắn], cấu trúc cớ thể có giống nhau?

Về tổng thể là giống nhau, nhưng có một vài điểm thêm vào. Đây cũng là sự khác nhau giữa trường kình và đoản kình.

Khả năng dùng đoản kình dọc theo đường dẫn lực đòi hỏi nhiều công phu hơn, nhìn chung cần có (1) dùng sức của lưng và chân nhiều hơn; (2) đồng
thời dùng các bó cơ ở lưng và ngực, và thở ra; (3) dùng đàn kình từ chân (trước hoặc sau).

Khi nói về bằng kình và kết nối toàn cơ thể, ông luôn nói lực phát từ đất bằng cách duỗi thẳng chân hoặc gối. Liệu có thể tạo ra lực bằng cách duôi
thẳng lưng ra tay, đồng thời đạp xuống chân, sau đó lực lại được đẩy ngươc từ chân lên lưng, tay, và thêm vào lực đẩy ban đầu? Nói cách khác, đâu là
điểm khởi phát lực, chân hay lưng?

Lực thả lỏng truyền từ đất qua thân và ra tay. Bởi vì "sợi" lực này xuyên suốt cơ thể, cách điều khiển nó tốt nhất là từ hông phối hợp với chân. Bạn có
thể hình dung sợi này bắt đầu từ chân và truyền lên trên, như đã nói ở đây.

Tuy nhiên, theo hình ảnh truyền thống thì sợi này bắt nguồn từ hông, một đầu nối đến chân, một đầu nối đến tay. Theo cách này thì dụng lực hoàn
toàn từ hông. Về mặt kết cấu, 2 cách hình dung này là hoàn toàn giống nhau.

Để phát đoản kình, bạn nói đúng, có hiện tượng tích lực/ dồn lực xuống đất rồi dội ngược lên. Lực này tăng cường cho cú đẩy, và tùy sức mạnh của
hông, có thể rất mạnh. Ngoài ra, trọng tâm đồng thời dồn xuống chân. Có thể tập làm như vậy từ cả chân trước lẫn chân sau.

Trường kình thì luôn khởi phát từ chân sau, không có độ bung nổ.

Khi đi quyền, chuyển trọng tâm từ chân này sang chân kia, có nên (1) duổi thẳng chân sau để chuyển trọng tâm, hay (2) dùng ý "đẩy" trọng tâm, và để
chân sau tự thẳng ra một cách tự nhiên?

Đây là một câu hỏi quan trọng, vì đây là một trong những điểm nhiều người tập sai. Khi bắt đầu đi quyền trong bất kì môn nào, TCQ, Hình ý, Bát Quái,
Aikido, Lục Hợp Bát Pháp, .... bạn phải kết nối cơ thể bằng "bằng kình" và sự "kết nối toàn thân" rất mong manh. Mọi cử động đều phải được hướng
dẫn bởi bằng kình và kết nối, nói cách khác sợi kết nối không bao giờ bị đứt (trừ khi phát kình).

Theo tôi chỉ cần duy trì bằng kình hay lực từ đất, dùng nó điều khiển vận động thực hay tưởng tượng, khi đó vận động của bạn sẽ đúng. [Khi chuyển
trọng tâm], hình dung một chân là điểm truyền lực, chuyển dần sang chân kia một cách tự nhiên cho đến khi chân kia đảm nhận toàn bộ việc truyền
lực. Chính chân này là chân "thực" trong các yếu lĩnh nói đến.

Chỉ cần duy trì sự kết nối liên tục và sự "đầy lực" trong chuyển động, và cử động nói chung sẽ tự chỉnh.

Khi đứng thấp, chân song song bằng vai, và muốn vươn lên cao, có nên (1) quán tưởng về duỗi thẳng chân, hay (2) đẩy trọng tâm lên, qua đó chân tự
đứng thẳng? Có vẻ như theo cách (1) thì cảm giác lực từ đất sẽ mạnh hơn.

Quan trọng là phải kết nối với đất thông qua toàn thân, không bị gãy. Trong trường hợp này, hình dung như đang đẩy rất nhek một vật trên đỉnh đầu
của mình, duy trì lực bằng một cách thả lỏng từ chân lên đầu, và duỗi dần ra đến "tay" [hay điểm cuối của kết nối, tức là đầu].

Điểm quan trọng trong tất cả các động tác, bài tập trên, là học cách dụng lực từ đất một cách thật thoải mái, đến khi nó là một phần tự động trong
mọi cử động.

Dĩ nhiên sau khi đã tập luyện, cơ bắp sẽ được làm quen và vận động dễ dàng hơn. Ví dụ, khi vươn lên, các cơ ở gối, hông và lưng dưới sẽ quen với vận
động này và tăng cường khả năng duy trì bằng kình, và cử động sẽ vừa đúng vừa mạnh.

Tôi đọc được một bài tập như sau: đứng thẳng và vươn tay ra trước, hình dung (không làm thật) phía dưới cổ (đốt sống cổ dưới cùng) đẩy ra sau, đồng
thời với tay đẩy ra trước. Sau khi đọc bài viết ở đây, tôi tự hỏi có nên chuyển bài tập thành hình dung phần lưng dưới của mình đẩy ra sau thay vì cổ.
Tôi nghĩ như vậy sẽ tạo ra bằng kình tốt hơn.

Nếu tập trung duy trị sợi dây kết nối, đường dẫn lực, ... của lực từ đất, qua chân, giữa lưng, đến tay, sẽ có tác dụng. Cơ thể không những phải duy trì
được kết nối này, mà phải dùng được nó để khởi phát ra mọi chuyển động, trong tất cả các môn nội gia.

Trong trường hợp cụ thể này, tạo ra/ hình dung kết nối toàn bộ cơ thể sau đó hơi chìm xuống (uốn gối). Không được vươn lên nhiều, duỗi thẳng chân,
đẩy lực lên lưng (hông sẽ tự cong vào, không được ép). Để cho lực đi qua lưng, ra tay và bàn tay. Bạn sẽ cảm thấy dưới cổ, lưng, .... đều phản ứng với
lực đẩy này.

Nói cách khác, cách tập của bạn như ban đầu cũng tốt, nhưng hiểu được kết nối cơ thể dọc theo toàn bộ đường truyền lực sẽ tốt hơn.

Các yếu tố trong thả lỏng

Các môn nội gia chú trọng thả lỏng nhằm đạt được “nội lực”, chính là đặc thù của nội gia. Có nhiều lý do để hướng tới dự thả lỏng – tùng – này.

1. Về mặt thể chất, hiệu quả của bằng kình và kết nối phụ thuộc vào góc kết nối tối ưu của các khớp để truyền lực với tối thiểu cơ bắp. Tập luyện với
sức cơ bắp tối thiểu sẽ bắt buộc ta phải có góc kết nối tối ưu (nếu bạn biết cách đánh giá và nhận ra kết quả).

2. Khi xây dựng lại cách phối hợp vận động (cấu trúc lại cách dung cơ bắp) của cơ thể trong một thể thống nhất, viêc dùng những nhóm cơ riêng biệt
(không thả lỏng cục bộ) là phản tác dụng.

3. Sẽ là rất khiếm khuyết nếu tập nội gia mà không hiểu và tập được cách động ở mức nhẹ cho đến trung bình bằng cách dùng ý dẫn kình và điều
khiển kết nối khi cơ thể đang thả lỏng. Mọi sự căng cứng đều là cản trở cho yếu tố khác biệt cơ bản của “nội lực”.

Thả lỏng, hay “tùng” không có nghĩa là yếu ớt, hay không có lực. Ngược lại, chỉ cần đứng vài thế thông thường nhiều người mới tập đã gào lên vì đau.
Người tập lâu hơn đã quen đứng [trạm trang], có thể đứng một cách thả lỏng và cho rằng mình đang thả lỏng, nhưng thực ra là do chân họ đã khỏe
hơn. Những người tập lâu hơn nữa, ngoài sức của chân còn biết cách sắp xếp góc độ kết nối, và khiến cho các khớp trở thành điểm chịu lực, ít cần
dùng đến cơ bắp hơn. Đây là các bước phát triển khả năng thả lỏng.

Chân khỏe là yêu cầu bắt buộc. Chân càng có khả năng chịu lực, càng ít cần cố sức ở chân và càng có nhiều sức cho thân trên và tay.

Bước đầu tiên là phải hiểu được bằng kình, kết nối, và góc kết nối phù hợp. Nếu dùng sức cứng nhắc rồi mong them vào tập thả lỏng, sẽ không được
nhiều kết quả. Cơ thể phải thực sự thả lỏng [ngay từ đầu].

Các yếu tố cơ bản của tập trạm trang

Trạm trang là cách dùng bằng kình, kết nối và ý để tăng sức lực dựa theo các tiêu chí về thể lực đặc thù của nội gia quyền. Thả lỏng hoàn toàn đồng
thời duy trì bằng kình và kết nối toàn thân. Nhìn từ bên ngoài có vẻ như không làm gì, nhưng bên trong thì có nhiều nội dung hơn. Ví dụ:

1. Cơ thể thả lỏng và truyền lực từ đất (bằng kình) qua thân lên tay, cảm giác như có lực nối vào tay. Lực được truyền nhờ cơ thể thả lỏng và chìm
xuống đất.



2. Tập kết nối bằng tư thế tương tự, ở đây duy trì bằng kình nhưng phải dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể vào tay thông qua quá trình kết nối


3. Ở ví dụ 3, bằng kình cũng được phát ra, nhưng do tay ở thấp, về mặt cơ học sẽ hiệu quả hơn nếu nối thẳng véc tơ lực từ đất qua hông, từ hông
trực tiếp [dùng ý để ép] vào tay. Cách này dựa vào sức của các tổ hợp cơ ở lưng và vai, người mới tập dễ bị sa vào dùng lực vai thay vì bằng kình. Điều
này thường xuyên xảy ra, do đó trước tiên nên tập 2 tư thế đầu.


"Lực ngược chiều"

Ngoài kỹ năng kết nối và cấu trúc tối ưu, còn có các kỹ năng sử dụng tác động vặn xoắn của cơ – xương, sẽ được giới thiệu trong phần tiếp theo.

Dùng lực giằng trong bằng kình và kết nối

Bằng kình, hay lực nối đất, và kết nối toàn thân, hay khai hợp, là những kỹ năng đặc thù của nội gia quyền. Người ta thường nói “không làm được thì
không hiểu được”, ý nói là chỉ mới biết được về mặt nguyên lý học thuật thì vẫn chưa phải là hiểu thực sự. Chính vì không hiểu mà nhiều người nhầm
tưởng rằng bằng kình cũng dùng cấu trúc và cách kết nối cơ thể giống như các môn ngoại gia. Tuy nhiên có những điểm khác biệt, vì bằng kình và kết
nối mới là bước đầu, dẫn đến nhiều kỹ năng khác. Bước tiếp theo là dùng bằng kình và kết nối để thúc đẩy mọi chuyển động.

Thúc đẩy toàn bộ cấu trúc cơ thể từ chân sẽ tạo ra sự vặn xoắn tự nhiên. Lực kết nối rất nhẹ giữ cho cơ thể thành một khối, giúp lực vặn xoắn (triền
ty kình) có thể phát ra đến tận đầu ngón tay, nếu không bị căng cứng ở điểm nào.

Khi đứng trạm trang, có thể tăng cường hỗ trợ cho cấu trúc cơ thể bằng cách xoắn nhẹ và tự nhiên các khớp chân tay. Có một số môn ngoại gia cũng
sử dụng phương pháp này, nhưng ở đây sự vặn xoắn phải khởi nguồn từ chân và hông, và lực xoắn vẫn phải dựa trên bằng kình.

Nguyên lý của lực giằng dựa trên quan hệ đối nghịch giữa các nhóm cơ. Ví dụ, tích lực ở lưng nghĩa là mối tương tác ngược chiều giữa các nhóm cơ ở
lưng, cũng giống như tích lực ở ngón tay khi chuẩn bị búng ngón tay. “khí dính theo lưng và lấp đầy sống lưng” là cách miêu tả tích lực trong các sách
TCQ. “tích lực” có thể hiểu như ngăn cản lực khai bằng lực hợp, rồi mới thả ra.

Các lực giằng khác trong trạm trang có thể là: lực rất nhỏ giữa ngón trỏ và ngón cái (mở hổ khẩu), giữa ngón cái và ngón út, và sự căng thẳng từ cổ đến
bàn tay.

Bước theo vòng tròn trong Bát Quái Chưởng cũng là một dạng trạm trang, nhưng dùng bước bộ đặc biệt. Nhưng cảm giác về bằng kình và kết nối cũng
tương tự. Lực giằng trong Bát Quái Chưởng có thể thấy trong thế Ngựa Trời … Bay Trên Trời Huh?

Trong Hình Ý quyền, cử động “xé vải” trong luyện ngũ hình cũng là một ví dụ. Đại Thành Quyền cũng dùng lực giằng ở tay để tăng sức mạnh của bằng
kinh và kết nối.

Tuy nhiên nếu việc vặn xoắn không nối với đất thông qua bằng kình thì sẽ chỉ là vặn xoắn cục bộ, chỉ là kết quả của sức mạnh cơ bắp. Nếu không bỏ
thời gian tập bằng kình và kết nối toàn bộ cơ thể thì sẽ rất khó tập lực vặn xoắn.

Dùng sức ở chân để tạo khung

Để đạt được trường kình cần phải luyện cho cơ thể, từ đầu đến chân, trở thành một khối. Ví dụ kể cả khi vặn một cái nắm cửa cũng phải nối lực từ
tay qua hông về chân, một phần đáng kể của lực xoay là từ bụng và lưng, được hỗ trợ bởi kết nối từ chân đến tay.

Đầu gối, chân và lưng dưới đều quan trọng trong trường kình. Đặc biệt lực của chân là không thể bỏ qua. Có một câu chuyện không tế nhị lắm nhưng
rất ý nghĩa về cha của Trần Tiểu Vượng đang tiểu tiện trên bờ dốc thì bị các bạn đùa nghịch đẩy từ đằng sau. Nhưng vì chân và hông của ông khỏe quá,
nên có thể truyền xuống đất tất cả các cú đẩy thẳng, và hóa giải mọi hướng đẩy khác … mà không trượt một giọt nào.

Trạm trang là phương pháp luyện trường kình truyền thống. Bằng cách tưởng tượng các hướng lực tấn công khác nhau, có thể tự điều chỉnh rất nhỏ
tư thế đứng, và với thời gian luyện được một “khung cơ thể” tạo ra trường kình. Nói cách khác, quán tưởng để dồn bằng kình vào một phần nhất định
của cơ thể (thường là tay) và duy trì nó sẽ tạo ra lực rất lớn.

Cũng có thể tập dồn bằng kinh đi khắp người bằng cách tập chậm và hình dung cách dùng bằng kình khi áp dụng thực tế, hoặc khi phải dùng bằng kình
trong mọi động tác để chống lại lực tác động rất mạnh từ bên ngoài. Các bài quyền trong TCQ, các bài tập triền ty kình, bài tập chậm trong Ý Quyền, …
đều là ví dụ của việc định hướng cho bằng kình. Aikido cũng có những bài tập tương tự, như fune koge undo.

Một trong những khu vực rắc rối nhất khi dồn lực từ chân lên tay là vùng vai và bụng trên. Nếu chân và lưng khỏe, có thể chịu lực nhiều hơn thì sẽ
giảm được áp lực lên vai và ngực, tuy nhiên toàn bộ đương truyền lực từ chân qua vai, đến tay vẫn phải được tập luyện, và khu vực vai vẫn là khu vực
dễ bị căng thẳng cục bộ nhất. Rất khó có thể thay đổi thói quen từ lâu ngày.

Một dụng cụ tập luyện có ích

Có thể tạo ra dụng cụ tập bằng túi vải và một túi cát tròn, cỡ bằng quả bóng đá, có thể dùng băng dính cuốn để giữ hình dạng tròn. Để túi cát vào bên
trong túi vải và treo ngang tầm bụng/ sườn.

Đẩy túi về phía trước đến mức cao ngang đầu và tay duỗi dài, đây là tư thế rất tốt để luyện trường kình, đặc biệt cho vùng bụng trên. Thay vì căng vai,
cố đặt toàn bộ cơ thể vào vị trí giữa túi và chân sau, giảm thiểu căng thẳng ở vai. Nhưng cũng không được để vai lệch ra khỏi đường đặt lực.


Dùng đầu gối và hông để xoay bóng, làm như vậy trong nhiều ngày. Thay đổi chân sau và hướng đẩy bóng. Mỗi lần chỉ cần làm vài phút là đủ. Tăng
cường kết nối dọc theo đường đặt lực theo cách này sẽ loại bỏ được căng thẳng ở vai và tập được khả năng phát lực từ đất đến tay.

Dùng hông eo

Do nội gia quyền dùng cấu trúc cơ thể để truyền lực từ đất lên tay, phần giữa cơ thể là phần hướng lực và điều khiển tốt nhất. Dù gọi là hông nhưng
thực ra là cả khối xương và cơ cột sống và bụng dưới.
Khi tập “di chuyển từ giữa thân”, thực ra chúng ta đang tập lại các cử động đẩy, kéo và xoay làm sao để phần hông hoạt động là chủ yếu, còn lực ở tay
và vai là phụ.

Dĩ nhiên là không chỉ có hông hoạt động, hông xoay là do một chân đẩy và chuyển trọng tâm sang chân kia. Khi đẩy lên, chân duỗi thẳng đẩy hông (vai
chưa nhấc), làm hông hơi cong (tích lực) rồi đẩy cả khối lên tay.

Khi kéo hông đi xuống, thông qua lực liên kết của cơ để kép tay theo, ngoài ra cơ ở bụng co lại và lưng dưới đi xuống cũng làm tăng lực kéo. Nếu cần
lực kéo mạnh hơn, các cơ ở phần ngực cũng có thể được dùng. Khi thở ra thì cơ ở ngực cũng tự co và đóng góp một phần vào lực kéo. Dùng cơ ở tay
là phụ.

Lực xoay, đi lên hay đi xuống, truyền dọc theo đường liên kết ở lưng và vai đến tay, cũng giống như khi ta vặn một mảnh vải – lực xoay truyền từ đầu
này sang đầy kia.

Lúc đầu sẽ khó cảm thấy cử động xoắn (triền ty) truyền qua toàn bộ cơ thể, nhưng với tập luyện và luyện cơ bắp, cử động xoắn này sẽ biến thành
thật. Có thể cảm giác được cử động xoắn từ chân qua hông, lưng, vai, tay đến tận đầu ngón tay. Tuy nhiên hông vẫn là mắt xích mạnh nhất. Khi theo
dõi cử động này, có thể hiểu được ý “tay theo hông”. Thực ra có thể nói “tay theo khủy tay, khuỷu tay theo hông, hông theo đầu gối” bởi vì lực xoắn
khởi đầu từ đất lên.

Do phần lớn các nhóm cơ dùng để điều khiển cử động nằm ở vùng bụng, tập nội gia quyền sẽ tăng cường rõ rệt sức mạnh và độ khéo léo của cơ bắp
ở vùng này.

Cong hông?

Ý tưởng “thẳng lưng” và “cong hông” (hay “dấu mông”) thường được nhắc đến. Tuy nhiên sẽ có vấn đề nếu dùng quá nhiều sức để giữ hông cong.

Khi nhấn mạnh thả lỏng trong nội gia quyền, không có nghĩa là thả lỏng hoàn toàn, nhưng lại trừ ra phần hông và lưng – hông cong là hệ quả của việc
mềm lưng và đầu gối. Có nhiều người tập lâu năm bị đau lưng do được dạy là phải ép hông và mông cong.

Bằng cách thả lỏng hông, và để hông dễ dàng tự xoay (lỏng đầu gối), ta đạt được nhiều thứ. Trước tiên lưng dưới sẽ hỗ trợ than và tích lực tốt hơn, vì
đốt xương sống có thể tách khỏi khung xương chậu và duỗi thẳng. Thứ hai, hông lỏng sẽ giúp các khớp dễ rơi vào vị trí thuận lợi để dẫn lực từ đất lên.

Tương tự, hông cứng sẽ dẫn đến những bất lợi ngược lại. Vì vậy khớp ở hông phải luôn được thả lỏng, và khả năng truyền lực từ đất phải được ưu
tiên.
Logged
Trang: [1]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn