Tư tưởng Đạo gia
Tiêu-diêu:
V.- KẾT LUẬN:-
Lão Tử, đã tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, một cách tiếp cận tiêu cực và siêu hình tới Đức với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức thì trái lại Lão giáo khuyên không can thiệp và không phấn đấu (vô vi). Trong khi có thể trên thực tế không có người thực sự tên là Lão Tử, người thứ hai lập lên Đạo giáo chính là Trang Tử, chắc chắn có tồn tại. Ông cũng dạy một triết lý gần giống hoàn toàn. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời; vì vậy sách của họ thường là không thể hiểu nổi.
Tín đồ Đạo giáo vẫn giữ niềm tin vào đức tin vào sự đồng điệu và sự an ủi của thiên nhiên. Họ tin vào một số mệnh bên ngoài sự thay đổi liên tục của cuộc sống vật chất, và họ vẫn giữ niềm tin vào đức tin ở sự mộc mạc cảm xúc. Ví dụ, một người Đạo giáo mộ đạo sẽ vẫn giải thích việc anh ta không khóc cho người vợ vừa chết bằng cách nói rằng nếu anh ta khóc than như vậy thì sẽ chứng tỏ rằng anh ta còn kém hiểu biết về số mệnh. Đạo giáo vẫn giữ những sự bày tỏ trái ngược như vậy, và nó vẫn giữ các quan niệm chống Khổng giáo như con trai và con gái của một người thì không thuộc sở hữu của người đó.
Đạo giáo mở ra nhiều ý tưởng mới, gồm cả việc tìm cách sống lâu hay trường sinh bằng cách chấp nhận một thái độ đúng đắn và những kỹ thuật thể chất. Một số người theo đạo giáo tìm cách tìm kiếm sự cứu rỗi trong tự nhiên bằng cách tập trung vào niềm vui sướng trong quan hệ tình dục, và một số người sùng đạo tìm cách có được cuộc sống vĩnh cửu bằng các kiểu tập thần thành hay các chế độ ăn kiêng - một sự trải nghiệm theo kiểu sẽ hỏng nếu có một người chết. Nhưng thay vì chấp nhận rằng cuộc sống vĩnh cửu là không thể có được bằng cách thực hiện một số chương trình đặc biệt, những người theo đạo giải thích sự sai lệch như là một kết quả của hoàn cảnh chứ không phải là do cái chết của con người.
Đạo giáo thu nhập những hoạt động ma thuật đã từng tồn tại ở một số cộng đồng nông nghiệp Trung Quốc. Một số đạo sỹ chấp nhận các vị thần vốn bị quý tộc nhỏ và người theo Nho giáo chế nhạo. Trái với niềm tin ban đầu của Đạo giáo ở sự vô vi, một số đạo sỹ hăng hái tìm cách cải đạo, và một số đạo sỹ trở thành những nhà hoạt động nhằm thay đổi xã hội và khởi xướng các chương trình chính trị. Đạo giáo không có định nghĩa rõ ràng về tính chính thống hay sự tổ chức chặt chẽ các nhà hành đạo, nhưng ở nơi này và nơi khác, các tổ chức do các nhà hành đạo chỉ huy vẫn phát triển. Các nhà hành đạo đạo sỹ tập hợp quanh mình những kẻ sùng tín, những người tin rằng họ đã gia nhập vào một nhóm đặc biệt, lúc nào cũng lo lắng cho sự tồn tại đúng đắn của mình. Cái này làm chính quyền Trung Quốc khó chịu – các nhà Nho và giới quan lại tiểu quý tộc - vốn sợ rằng sự thờ cúng các đạo giáo không được cho phép có thể phát triển thành một điểm đối lập với chính quyền của họ.
Tiêu-diêu:
Nhận thấy đa số huynh đệ Tứ Hải ít có dịp để tìm hiểu phần lịch sử của Đạo Giáo (Lão Giáo) nên chúng tôi xin tổng hợp thông tin và sắp xếp, tóm tắt lại để giúp huynh đệ có được những hiểu biết cơ bản về Đạo Giáo.
Vì là "thông tin tổng hợp" nên khó xác định cái nào là "nguồn", xin thành thật cáo lỗi cùng quí vị chủ nhân thông tin "hoan hỉ" thứ lỗi cho, trên tinh thần "kiến hòa đồng giải" để cả nhà cùng vui, chúng tôi hết sức biết ơn.
Thân ái!
Tiêu-diêu:
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN
THUYẾT THƯỜNG THANH TỊNH KINH
太 上 老 君 說 常 清 靜 經
大道無形,生育天地;大道無情,運行日月;大道無名,長養萬物;吾不知其名強名曰道。夫道者 : 有清有濁,有動有靜;天清地濁,天動地靜;男清女濁,男動女靜;降本流末,而生萬物。清者濁之源,動者靜之基;人能常清靜,天地悉皆歸。
Đại đạo vô hình, sanh dục thiên địa; đại đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt; đại đạo vô danh, trường dưỡng vạn vật; ta chẳng biết gọi là gì, chỉ tạm gọi là đạo. Phàm Đạo ấy : có thanh có trọc, có động có tĩnh; thiên thanh địa trọc, thiên động địa tĩnh; nam thanh nữ trọc, nam động nữ tĩnh; giáng gốc giữ ngọn, mà sanh vạn vật. Thanh là nguồn của trọc, động là cơ của tĩnh; người thường hay thanh tĩnh, thì Đạo trời đất đều gồm đủ nơi thân.
夫人神好清,而心擾之;人心好靜,而欲牽之。常能遣其欲,而心自靜;澄其心,而神自清;自然六慾不生,三毒消滅。所以不能者,為心未澄,欲未遣也,能遣之者 : 內觀其心,心無其心;外觀其形,形無其形;遠觀其物,物無其物;三者既無,唯見於空。觀空亦空,空無所空;所空既無,無無亦無;無無既無,湛然常寂。寂無所寂,欲豈能生;欲既不生,即是真靜。真常應物,真常得性;常應常靜,常清靜矣。如此清靜,漸入真道;既入真道,名為得道;雖名得道,實無所得;為化眾生,名為得道;能悟之者,可傳聖道。
Phàm thần của người ưa thanh, mà tâm thường bị quấy rối; tâm của người ưa tĩnh, mà bị dục kéo lôi. Thường chế ngự được dục, thì tâm tự tĩnh; lắng được tâm, thì thần tự thanh; tự nhiên lục dục chẳng sanh, tam độc tiêu diệt. Chưa được như thế, vì tâm chưa lắng, dục chưa chế ngự vậy. Phải thường chế ngự : trong xem xét tâm, tâm không thật có gì để gọi là tâm; ngoài xem xét thân, thân không thật có gì để gọi là thân; ngoài xem xét vật, vật không thật có gì để gọi là vật; Cả 3 đều không, mà còn cái thấy cả 3 đều không. Cái thấy là không cũng không, không không chỗ không; chỗ không đã không, không không cũng không; không không đã không, trạm nhiên thường tịch. Tịch không chỗ tịch, chẳng sinh khởi dục; dục đã chẳng sanh, tức là chân tĩnh. Chân thường ứng vật, chân thường được tính; thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh vậy. Thanh tĩnh như thế, dần dần nhập chân đạo; đã nhập chân đạo, gọi là đắc đạo; tuy gọi đắc đạo, thật không chỗ được; vì dạy chúng sanh, tạm gọi đắc đạo; ngộ được như vậy thì có thể truyền thánh đạo .
上士無爭,下士好爭。上德不德,下德執德,執著之者,不明道德。眾生所以不得真道者,為有妄心,既有妄心,即驚其神,既驚其神,即著萬物,既著萬物,即生貪求,既生貪求,即是煩惱,煩惱妄想,憂苦身心,便遭濁辱,流浪生死,常沉苦海,永失真道。真常之道,悟者自得;得悟道者,常清靜矣!
Thượng sĩ chẳng tranh, hạ sĩ hay tranh. Bậc thượng đức không để ý đến kẻ khác coi mình là có đức hay chê mình là không có đức, còn bậc hạ đức chấp đức, do vì bám chấp, nên đạo đức chẳng trong sáng. Chúng sanh sở dĩ chẳng được chân đạo bởi vì có vọng tâm, đã có vọng tâm, thì kinh động đến thần, đã kinh động đến thần, tức là bám chấp vạn vật, đã chấp vạn vật, thì sanh tham cầu, đã sanh tham cầu, chính là phiền não, phiền não vọng tưởng làm ưu khổ thân tâm, tạo ra vinh nhục đổi dời, nổi trôi sanh tử, đắm chìm bể khổ, mất hết chân đạo. Đạo chân thường này, ngộ mà tự được; ngộ được đạo thì thường thanh tĩnh vậy.
仙人葛翁曰 : 吾得真道,曾誦此經萬遍。此經是天人所習,不傳下士。吾昔受之於東華帝君,東華帝君受之於金闕帝君,金闕帝君受之於西王母。西王一線乃口口相傳,不記文字。吾今於世,書而錄之。上士悟之,升為天仙;中士修之,南宮列官;下士得之,在世長年。遊行三界,升入金門。
Tiên nhân Cát ông nói : Ta được chân đạo, thường tụng kinh này vạn lần. Kinh này là chỗ thiên nhân góp lại chẳng truyền cho kẻ hạ sĩ. Ta nhận được từ Đông Hoa Đế quân, Đông Hoa Đế Quân nhận từ Kim Khuyết Đế Quân, Kim Khuyết Đế Quân nhận từ Tây Vương Mẫu. Tây Vương chỉ theo một cách là khẩu khẩu tương truyền, chẳng ghi văn tự, ta nay ghi lại thành sách cho đời. Kẻ Thượng sĩ gặp được sẽ biết đường để thăng lên thiên tiên; trung sĩ tu được có thể đến bậc liệt quan ở nam cung; hạ sĩ học được cũng được sống lâu trên đời. Du hành ba cõi, lên đến kim môn.
左玄真人曰 : 學道之士,持誦此經者,即得十天善神,擁護其身。然後玉符保神,金液煉形。形神俱妙,與道合真。
Tả Huyền chân nhân nói : Người học đạo trì tụng kinh này thì được thiện thần ở 10 cõi trời ủng hộ thân mình, mà về sau được ngọc phù bảo thần, kim dịch luyện hình. Hình thần đều diệu, cùng đạo hợp chân .
正一真人曰 : 人家有此經,悟解之者,災障不干,眾聖護門。神升上界,朝拜高真。功滿德就,相感帝君。誦持不退,身騰紫雲。
Chánh Nhất chân nhân nói : nhà nào có kinh này, ngộ giải được thì tai chướng chẳng ngại, chúng thánh bảo vệ ngoài cửa. Thần thăng thượng giới, chào hỏi cao chân. Công mãn đức tựu, tương cảm đế quân. Đọc giữ chẳng ngừng, mây tím sẽ rước thân này bay lên.
-------------
Phần phiên âm Hán - Việt bài kinh để đọc tụng cho dễ:-
THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN THUYẾT THƯỜNG THANH TỊNH KINH
Lão Quân viết :-
“ Đại Đạo vô hình . sanh dục thiên địa . Đại Đạo vô tình . vận hành nhật nguyệt . Đại Đạo vô danh . trưởng dưỡng vạn vật . Ngô bất tri kỳ danh . cưỡng danh viết ĐẠO .
Phù đạo giả , hữu thanh hữu trọc . hữu động hữu tịnh . Thiên thanh địa trọc . Thiên động địa tịnh . Nam thanh nữ trọc . Nam động nữ tịnh . Giáng bản lưu mạt . Nhi sanh vạn vật . Thanh giả trọc chi nguyên . Động giả tịnh chi cơ . Nhân năng thường thanh tịnh . Thiên địa tất giai qui . Phù nhân thần hiếu thanh . Nhi tâm nhiễu chi . Nhân tâm hiếu tịnh . Nhi dục khiên chi . Thường năng khiển kỳ dục . Nhi tâm tự tịnh . Trừng kỳ tâm . Nhi thần tự thanh tự nhiên . Lục dục bất sanh . Tam độc tiêu diệt . Sở dĩ bất năng giả vi tâm vị trừng . Dục vị khiển dã . Năng khiển chi giả . Nội quán ư tâm . Tâm vô kỳ tâm . Ngoại quán ư hình . Hình vô kỳ hình . Viễn quán ư vật . Vật vô kỳ vật . Tam giả kí ngộ . Duy kiến ư không . Quán không dĩ không . Không vô sở không . Sở không ký vô . Vô vô diệc vô . Vô vô ký vô . Trạm nhiên thường tịch . Tịch vô sở tịch . Dục khởi năng sanh . Dục ký bất sanh . Tức thị chân tịnh . Chân tịnh ứng vật . Chân thường đắc tính . Thường ứng thường tịnh . Thường thanh tịnh hĩ . Như thử thanh tịnh tiệm nhập chân đạo . Kí nhập chân đạo . Danh vi đắc đạo . Tuy danh đắc đạo . Thực vô sở đắc . Vị hoá chúng sanh . Danh vi đắc đạo . Năng ngộ chi giả . Khả truyền thánh đạo .
Lão Quân viết :-
“ Thượng sĩ vô tranh . Hạ sĩ hiếu tranh . Thượng đức bất đức . Hạ đức chấp đức . Chấp trước chi giả . Bất danh đạo đức . Chúng sanh sở dĩ bất đắc chân đạo giả . Vị hữu vọng tâm . Kí hữu vọng tâm . Tức kinh kỳ thần . Kí kinh kỳ thần . Tức trước vạn vật . Kí trước vạn vật . Tức sanh tham cầu . Kí sanh tham cầu . Tức thị phiền não . Phiền não vọng tưởng ưu khổ thân tâm . Tiện tao trọc nhục lưu lãng sanh tử . Thường trầm khổ hải vĩnh thất chân đạo . Chân thường chi đạo ngộ giả tự đắc . Đắc ngộ đạo giả . Thường thanh tịnh hĩ .”
Tiên Nhân Cát Ông viết : -
“Ngô đắc chân đạo , tằng tụng thử kinh vạn biến . Thử kinh thị thiên nhân sở tập , bất truyền hạ sĩ . Ngô tích thụ chi ư Đông Hoa Đế Quân , Đông Hoa Đế Quân thụ chi ư Kim Khuyết Đế Quân , Kim Khuyết Đế Quân thụ chi ư Tây Vương Mẫu . Tây vương nhất tuyến nãi khẩu khẩu tương truyền , bất kí văn tự . Ngô kim ư thế , thư nhi lục chi . Thượng sĩ ngộ chi , thăng vi thiên tiên ;trung sĩ tu chi , nam cung liệt quan ;hạ sĩ đắc chi , tại thế trường niên . Du hành tam giới , thăng nhập kim môn .
Tả Huyền Chân Nhân viết :-
“ Học đạo chi sĩ , trì tụng thử kinh giả , tức đắc thập thiên thiện thần , ủng hộ kỳ thân . Nhiên hậu ngọc phù bảo thần , kim dịch luyện hình . Hình thần câu diệu , dữ đạo hợp chân .”
Chánh Nhất Chân Nhân viết :-
“ Nhân gia hữu thử kinh , ngộ giải chi giả , tai chướng bất can , chúng thánh hộ môn . Thần thăng thượng giới , triều bái cao chân . Công mãn đức tựu , tương cảm đế quân . Tụng trì bất thối , thân đằng tử vân .”
Phương Thế Ngọc:
HUỲNH ĐÌNH KINH
1. Huỳnh Đình Kinh hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp
Theo Vương Thị Pháp Thiếp Thư Uyển Ngôn 王 氏 法 帖 書 苑 言 thì Đạo gia có nhiều bộ Huỳnh Đình:
– Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh 黃 庭 內 景 經
– Huỳnh Đình Ngoại Cảnh Kinh 黃 庭 外 景 經
– Huỳnh Đình Độn Giáp Duyên Thân Kinh 黃 庭 遁 甲 緣 身 經
– Huỳnh Đình Ngọc Trục Kinh 黃 庭 玉 軸 經
Dân gian gọi tất cả các bộ kinh này là Huỳnh Đình, thế là hiểu theo nghĩa rộng. Còn hiểu theo nghĩa hẹp và thông thường hơn, chỉ có hai bộ: Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh 黃 庭 內 景 經 và Huỳnh Đình Ngoại Cảnh Kinh 黃 庭 外 景 經.
2. Tác giả Huỳnh Đình Kinh
Theo truyền thuyết, Huỳnh Đình Nội Cảnh được đức Đại Đạo Ngọc Thần Quân 大 道 玉 神 君 (tức là Linh Bảo Thiên Tôn 靈 寶 天 尊) viết ra ở Nhụy cung 蕊 宮 trên bầu trời Thượng Thanh); Huỳnh Đình Ngoại Cảnh được đức Lão Tử chép ra. Thật ra Huỳnh Đình Ngoại Cảnh Kinh chỉ là phần san định và toát lược Huỳnh Đình Nội Cảnh Kinh mà thôi.
Trong Huỳnh Đình Ngoại Cảnh Kinh, Tử Hà Hàm Hư Tử chú, nơi chương một có ghi: “Đức Lão Tử lúc thư nhàn, đem Nội Cảnh Kinh ra giản hoá lại, cũng viết theo thể thất ngôn, vẫn gọi là Huỳnh Đình, chỉ ghi thêm là Ngoại Cảnh.» [1]
Trong tiểu sử của Mạo Cô, nơi cuối bộ Huỳnh Đình của Tử Hà chú, cũng thấy ghi: «Thái Thượng viết Huỳnh Đình, trước hết truyền cho Chuyên Húc (2295 tr. CN), tổng cộng 50 quyển, theo như số Hà Đồ. Sau truyền cho Mạo Cô, rút gọn 50 quyển thành một quyển, gọi là Nội Cảnh. Kế đó truyền cho Đông Hoa; lại nhân nghĩa Huỳnh Đình, rút gọn hơn thành một quyển mà truyền bá gọi là Ngoại Cảnh. Đông Hoa truyền cho Ngụy phu nhân. Phu nhân quảng truyền cho hậu thế...» ......đối chiếu hai quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh và Ngoại Cảnh với nhau, thì thấy: Huỳnh Đình Nội Cảnh có 36 chương; Huỳnh Đình Ngoại Cảnh có 24 chương (ngắn hơn Huỳnh Đình Nội Cảnh).
Mỗi câu kinh của Ngoại Cảnh có thể tìm thấy một câu tương tự trong Nội Cảnh. Thông lệ là như vậy. Dĩ nhiên có một trong hai bộ cũng đã đủ, mà có cả hai bộ thì càng quý. Nội Cảnh có 36 chương đó là dương số (9x4=36), Ngoại Cảnh có 24 chương đó là âm số (6x4=24). Ý nói hai bộ kinh bổ túc lẫn cho nhau.
3. Huỳnh Đình Kinh được phổ biến vào thời kỳ nào?
Có nhiều thuyết:
a. Huỳnh Đình kinh được phổ biến vào khoảng năm 364 Công nguyên.
Theo thuyết này, thì quyển Huỳnh Đình Nội Cảnh, và Ngoại Cảnh được các tiên nhân truyền cho Ngụy phu nhân 魏 夫 人.
Năm Hưng Ninh 興 寧 thứ 2 đời Tấn Ai Đế 晉 哀 帝 (năm 364; Tư Mã Phi 司 馬 丕), đệ tử của phu nhân là Tư đồ Công phủ trưởng sử 司 徒 公 府 長 史 Dương Quân 楊 君 cho chép kinh lại theo lối chữ lệ, sau đó dần dà mới được quảng bá đi, theo ngả Chiết Giang 浙 江 ...
Thiết tưởng cũng nên đề cập quan đến tiểu sử Ngụy phu Nhân 魏 夫 人, người có công truyền bá Huỳnh Đình kinh.
Ngụy phu nhân là người ở Nhâm Thành 任 城 nước Tấn, tên gọi là Hoa Tồn 華 存, tự là Hiền An 賢 安, con Tấn tư đồ Kịch Dương 晉 司 徒 劇 陽 Văn Khang công 文 康 公.
Hoa Tồn ngay từ khi còn bé, đã yêu chuộng đạo thần tiên, lại bác lãm quần thư. Năm 24 tuổi mẹ cha ép lấy Thái bảo Duyện Nam Dương Lưu Văn 太 保 掾 南 陽 劉 文, tự Ấu Ngạn 幼 彥.
Bà sinh được hai con, con lớn tên là Phác 璞, con nhỏ tên là Hà 瑕. Khi hai con bắt đầu hơi lớn, bà liền biệt cư, tu trai. Sau đó ít tháng thần tiên hiện ra, tặng phẩm vật và truyền cho hai bộ Huỳnh Đình. Khi Ấu Ngạn qua đời, bà đem hai con qua sông Hoàng Hà lập cư. Phác và Hà sau đều làm quan... Bà mất năm Hàm Hòa 咸 和 thứ 9 đời Tấn Thành Đế 晉 成 帝 (334) thọ 83 tuổi.
Tuy nhiên có nhiều người thường cho rằng, Ngụy phu nhân chỉ truyền bá bộ Huỳnh Đình Nội Cảnh. Còn quyển Ngoại Cảnh là do Vương Hữu Quân 王 右 軍 (tức thư pháp gia kiêm đạo gia Vương Hi Chi 王 羲 之) quảng bá. Vương Hữu Quân mất năm Thăng Bình 昇 平 thứ 5 đời Tấn Mục Đế 晉 穆 帝 (361).
Như vậy cả Ngụy phu nhân lẫn Vương Hữu Quân đều mất trước khi các bản kinh Huỳnh Đình được truyền bá vào năm Hưng Ninh 興 寧 thứ 2 đời Tấn Ai Đế 晉 哀 帝 (364).
b. Huỳnh Đình kinh có từ thời trước vua Đế Cốc 帝 嚳 (2217)
Để tăng phần huyền bí cho kinh, đạo Lão đã có chủ trương rằng Huỳnh Đình là sách để tu đạo đắc tiên, có vào khoảng thời Thiên Hoàng thị đến Đế Cốc (2217 trước Công nguyên).
c. Huỳnh đình kinh có từ thời Chuyên Húc 顓 頊 (2295)
Có người lại cho rằng, Quảng Thành tử 廣 成 子 truyền Nội Cảnh cho vua Chuyên Húc, sau lại truyền cho Mạo Cô, sách mới đầu gồm 50 quyển. Sau rút lại còn một quyển, gọi là Nội Cảnh. Đông Hoa đế quân 東 華 帝 君 sau đó được truyền sách. Kinh lại được rút gọn hơn lại thành Ngoại Cảnh. Đông Hoa truyền tất cả cho Ngụy Phu Nhân. Ngụy phu nhân truyền cho hậu thế.
Như vậy, cả hai quyển Nội Cảnh và Ngoại Cảnh đã ẩn tích trong một khoảng thời gian dài. Mãi đến đời nhà Hán (202-220) Ngoại Cảnh mới xuất hiện, và mãi đến đời nhà Tấn vào khoảng năm 364, Nội Cảnh mới được truyền bá.
Dẫu chủ trương Ngoại Cảnh được truyền bá trước Nội Cảnh, nhưng không ai nghĩ rằng Ngoại Cảnh đã được chép ra trước Nội Cảnh.
4. Huỳnh Đình kinh dưới mắt Nho gia
Nho gia cho rằng Huỳnh Đình kinh được căn cứ theo các bản chép từ thời nhà Tần, nhưng đó chỉ là bản giản lược. Âu Dương công 歐 陽 公 (Âu Dương Tu 歐 陽 修,1007-1072) đời Tống nói: «Huỳnh Đình là một quyển sách dạy về dưỡng sinh của các đạo sĩ, khoảng giữa đời Ngụy Tấn (Ngụy 魏: 220-265; Tấn 晉: 265-420). Sách chuyên dạy về Dưỡng nội (Tu dưỡng bên trong). Có nhiều điều kỳ quái. Lại vì sách truyền ra từ lâu, nên có nhiều điều sai suyễn. Đâu đâu cũng có những bản Huỳnh Đình khác nhau, rất khó hiểu đâu là chính bản. Tôi có một bản Huỳnh Đình kinh in thạch bản do một người đời Tấn viết năm Vĩnh Hòa 永 和 thứ 30 (khoảng năm 374). Lời văn giản dị, đem so với các bản kinh lưu hành hiện nay, thấy rất có lý. Cho nên, nếu muốn hiệu đính những dị biệt thấy ở các bản kinh hiện hành, thì nên lấy bản kinh này làm tiêu chuẩn.»
Tô Đông Pha 穌 東 坡 (1036-1101) cũng đã chép quyển kinh này và tặng cho đạo sư Bảo Quang 葆 光. Về sau Long Miên cư sĩ 龍 眠 居 士 đem đặt kinh ra phía trước và vẽ tượng Tô Đông Pha và Bảo Quang cư sĩ phía sau.
5. Nhận định về tác giả Huỳnh Đình
Nếu ta chấp nhận rằng Huỳnh Đình Nội Cảnh 36 chương, Ngoại Cảnh có 24 chương như sự sắp xếp nơi kinh, thì tên tác giả đều đã được ghi rõ nơi đầu chương một của Nội và Ngoại Cảnh, và như vậy:
Nội Cảnh do đức Thái Thượng Đại Đạo Ngọc Thần Quân chép: «Thái Thượng Đại Đạo Ngọc Thần Quân, nhàn cư Nhụy cung tác thất ngôn.» 太 上 大 道 玉 神 君 閑 居 蕊 宮 作 七 言 (Nội Cảnh, ch.1)
Ngoại Cảnh là do đức Lão tử chép: «Lão tử nhàn cư tác thất ngôn.» 老 子 閑 居 作 七 言 (Ngoại Cảnh,ch 1)
Nhưng tiếc thay, sự việc không đơn giản như vậy.
Khi bình chương 1 của Nội Cảnh, Tử Hà Hàm Hư tử nhận định rằng hai câu: «Thái Thượng đại đạo Ngọc Thần Quân, nhàn cư Nhụy cung tác thất ngôn.» là do Vương Thiếu Dương tổ sư, người kế vị đức Đông Hoa Đế Quân viết thêm vào.
Bình chương một của Ngoại Cảnh, ông cũng cho rằng chương này là của Vương Thiếu Dương viết thêm vào.
Trong truyện nói về Mạo cô, Ma cô, nơi cuối bộ kinh Huỳnh Đình Nội và Ngoại Cảnh của Tử Hà, có ghi: «Chương đầu của Nội Cảnh và Ngoại Cảnh là do đức Đông Hoa Đế Quân viết để tán dương bộ kinh Huỳnh Đình. Một thời gian lâu sau, chúng được coi là chương 1 của kinh. Ít người biết được rằng chính văn kinh Huỳnh Đình bắt đầu từ chương 2...»
Viên Đốn tử 圓 頓 子 trong bài Biền ngôn 弁 言 của ông nơi đầu sách Huỳnh Đình kinh giảng nghĩa 黃 庭 經 講 義 viết rằng: «Huỳnh Đình kinh, không ghi rõ tác giả và thời đại.»
Về vấn đề tác giả, không biết rõ ai đã viết ra bộ kinh Huỳnh Đình. Nói là của đức Thái Thượng Đại Đạo Ngọc Thần Quân (Linh Bảo Thiên Tôn) viết, hay soạn ra lại càng không phải. Vì Thái Thượng Đại Đạo Ngọc Thần Quân là một trong ba ngôi Trời, không không thể nào có lối hành văn đầy sắc tướng như vậy được.
Trong truyện Mạo Cô, Ma cô, nơi cuối kinh Huỳnh đình của Tử Hà ta thấy ghi: «Quyển kinh này (Huỳnh Đình) với Đạo Đức kinh trợ giúp lẫn nhau. Đạo Đức kinh nói nhiều về Diệu (Vô hình tướng). Huỳnh Đình kinh nói nhiều về Khiếu (Hữu hình tướng).» Trong kinh đề cập những phương pháp dưỡng sinh, thổ nạp, kim tân ngọc dịch, đúng theo như trào lưu các đạo sĩ thời Ngụy Tấn. Cho nên chúng ta có thể kết luận rằng Huỳnh Đình kinh đã được chép vào khoảng năm 300-360.
Whisky:
Con người từ khi sinh ra đến lúc chết phải trải qua bốn sự chuyển hoá lớn: ấu thơ, trưởng thành, tuổi già, chết. Người ta khi ấu thơ, tâm chí chuyên nhất, khí huyết thông sướng, đạt tới sự hài hoà cao nhất, nên ngoại vật không làm hại được, đức không phải thêm. Người ta khi trưởng thành, khí huyết rất mạnh, ham muốn và tư lự nhiều, nên bị ngoại vật tác động, đức vì thế mà suy. Người ta khi già, ham muốn và tư lự bớt đi, thân thể suy nhược, ngoại vật không tranh hơn, tuy chưa thuần chân hoàn toàn như hồi ấu thơ nhưng cũng ngang với giai đoạn ấu thơ và trưởng thành. Người ta khi chết, tức là nghỉ ngơi, trở về nơi cuối cùng.
Navigation
[0] Message Index
[#] Next page
[*] Previous page