Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 20, 2024, 08:40:10 PM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: THÍCH KẾ QUANG  (Đọc 4907 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« vào lúc: Tháng Năm 26, 2010, 12:08:03 AM »

Thích Kế Quang, đơn giản và hữu dụng trong võ thuật Trung Hoa

Trong lịch sử võ thuật Trung Hoa, có những nhân vật mà ai cũng đều biết đến, như hòa thượng Đạt Ma, đạo sĩ Trương Tam Phong hay đại tướng Nhạc Phi, mà truyền thuyết gán cho nhiều công lao. Ngược lại có những danh tài dù có bằng chứng khoa học xác nhận công trình của họ, nhưng lại ít người nhắc đến. Đó là hai đại tướng Thích Kế Quang và Du Đại Du. Lần lược trong hai bài, chúng tôi xin giới thiệu công lao của hai vị này. Và bài này xin trình bày gia tài do Thích Kế Quang truyền lại.

Thích Kế Quang (1528-1588) người tỉnh Sơn Đông, miền Bắc Trung Quốc, thuộc gia đình truyền thống quan võ, từ nhỏ, được cha cho theo học văn chương và binh thư. Từ 1544, lúc 16 tuổi, ông thừa kế cha chức phó tư lệnh thành Đăng Châu. Tới năm 1549, tại Sơn Đông, ông đổ võ cử nhân, nhưng năm sau rớt khoa võ tiến sĩ tại Bắc Kinh. Lúc đó quân Mông Cổ vượt qua Trường thành đánh vào thành Bắc Kinh nên ông ở lại tham gia bảo vệ kinh thành. Sau ông trở lại Sơn Đông, cho tới năm 1555 được phong chức tham tướng tại Triết Giang, hợp tác với Du Đại Du đánh quân cướp biển người Nhật. Ông huấn luyện 3000 quân qua "Uyên ương trận", cốt ý chống lại quân Nhật đáng sợ với đường tên chính xác và đao có thể cắt đứt võ khí binh lính Trung Quốc. Trận pháp gồm người mang đồ đở để chống lại tên, người cầm cây trúc còn nhánh cây dùng để làm chậm bước tiến của người Nhật dùng đao, trong lúc người mang trường thương thừa cơ hội đâm quân cướp. Nhưng phải chờ tới năm 1567, quân Nụy Khấu mới được dẹp tan.

Vào thời đó ông nhờ Du giới thiệu học với Lý Lương Khâm côn thuật. Và năm 1567, ông được phong chức phó tư lệnh tại Bắc Kinh.

Tại Triết Giang, vào 1560, ông bắt đầu soạn quyển "Kỹ hiệu tân thư", tới 1562 mới có dịp xuất bản. Tác phẩm gồm 18 quyển, trong đó quyển thứ 14 "Quyền kinh tiệp yếu thiên" luận bàn về quyền thuật, chứa đựng 32 thế, tuy đơn giản nhưng hữu dụng. Quyển thứ 10 là "Trường binh đoản dụng thuyết thiên" ghi lại 24 thế thương, quyển thứ 11 có "Đằng bài tổng thuyết thiên" với 8 thế dùng khiêng, và "Lang tiển tổng thuyết thiên" dạy 6 thế lang tiển của Trần Đệ. Quyển thứ 12, "Đoản binh trường dụng thuyết thiên" chép lại chương "Kiếm kinh" của Du Đại Du với 14 hình song đấu côn. Và quyển thứ 13 "Xạ pháp thiên" là của đại tướng Du, ghi lại cách bắn cung.

Lúc ông chiến đấu quân cướp biển Nhật, ông nhận định là đao Nhật đơn giản nhưng lợi hại nên trong lần tái bản đã giảng về môn đao nầy trong hai chương "Yêu đao giải" và "Trường đao giải".

Mở đầu cho phần quyền thuật, ông viết : "Quyền pháp không can dự đến trận chiến, chỉ để hoạt động tay chân, chăm sóc thân thể, dẫn nhập cho binh thuật" (Quyền pháp tự vô dự ư đại chiến chi kỹ, nhiên hoạt động thủ túc, quán cần chi thể, thử vi sơ học nhập nghệ chi môn dã). Như vậy quyền thuật chỉ là kỹ thuật phụ trong quân đội dưới triều đại nhà Minh.

Tuy vậy hiện nay trong hơn nữa số bài quyền của chùa Thiếu Lâm, chúng tôi có thấy ít nhứt một thế của Thích Kế Quang, và có thể nêu ra vài thế như Thất tinh, Đơn tiên, Kim kê độc lập, Đảo tháp thế, Chỉ đang thế, Nhất điều tiên, Khóa hổ, Đương đầu pháo.

Đường Hào (1897-1959), lịch sử gia võ thuật Trung Hoa, có tìm được 29 thế của họ Thích trong 7 lộ của Trần gia Thái Cực Quyền xưa.

Và có hai thế thương của Thích Kế Quang còn lưu lại trong Trần gia Thái Cực Quyền và Thiếu Lâm Phái : Khóa kiếm thế và Triều thiên thế.

Như vậy hai môn phái quan trọng của Trung Quốc đều chịu sự ảnh hưởng của Thích Kế Quang, qua trung gian của Du Đại Du, bạn thân của ông. Vì họ Du có truyền võ thuật cho một nhà sư chùa Thiếu Lâm, chuyện nầy chúng tôi sẽ bàn trong bài sau. Và chúng tôi có chứng minh sự liên hệ giữa Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền của họ Trần.

Phần binh khí có ghi lại tám thế thương căn bản (Bát mẩu thương khởi thủ) nền tảng của thương pháp hiện đại, hiện vẫn còn lưu truyền trong tất cả các môn phái. Trong đó có ba thế quan trọng là "Lan nả trát", lan là quấn đầu thương nghịch chiều kim đồng hồ để gạt một đòn đâm, nả là thế đi theo chiều kim đồng hồ nhằm tấn công vào tay trước của địch để rồi đâm (trát) vào thân hay cổ địch.

Thích Kế Quang có ghi lại bốn nguyên lý chiến đấu.

Nguyên lý "Thường sơn xà trận pháp" chép lại từ Tôn Tử binh pháp (thế kỷ thứ 5 trước Tây Lịch) được ông áp dụng trong quyền thuật : "chánh như Thường sơn xà trận pháp, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, đánh thân thì đầu và đuôi tương ứng" (chánh như Thường sơn xà trận pháp, kích đầu tắc vỹ ứng, kích vỹ tắc đầu ứng, kích kỳ thân nhi đầu vỹ tương ứng). Trong Vịnh Xuân chi thủ, khi địch chụp tay phải ta, tay trái ta liền tấn công ; khi địch chụp cổ tay phải ta, ta liền tiến sát gần đánh tấp chỏ phải. Lúc luyện Thái Cực thôi thủ, nếu chỏ ta bị chụp, ta liền dùng vai hất địch. Trong bài Tinh Võ Hội Hợp chiến quyền, khi ta bị bẻ tay, ta liền xoay người theo chiều bẻ tay, dùng tay kia chụp cổ đối thủ.

Chiến thuật trá bại được đại tướng trình bày trong ba chương về quyền, côn và thương. Đó là ba thế "Đảo kỳ long", "Tẩu mã hồi đầu thức" và "Dương du trá hồi thương pháp". Đây là chiến thuật giả bộ thua chạy dụ địch đuổi theo để xoay người đánh một quyền hay đâm một thương, còn lưu lại trong các bài binh khí như Trung Ương Quốc Thuật Quán Tam tài kiếm, Tinh Võ Hội Ngũ hổ thương, Thất Tinh Đường Lang Yến Thanh đơn đao, Vĩnh Xuân Bạch Hạc Song long xuất thủy song đao, Trần Gia Thái Cực Thập tam can, Trần Gia Thái Cực Xuân Thu đại đao... Quyền thuật tại hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, có thế giả thua xoay lưng chạy rồi ngồi xuống đất để bất thình lình xoay người lại ném cát vào mắt địch hay nhảy lên đá vào hạ bộ đối thủ, thế có tên là "Linh miêu hí thử" (mèo đùa giởn với chuột !).

Nguyên lý "hư thật" và "kỳ chánh" xuất từ Tôn Tử binh pháp được áp dụng trong quyền thuật. Hư thật và kỳ chánh chỉ sự dối trá để lừa địch, đòn đầu là hư và đòn sau là thật. Nhưng hai đòn đầu cũng có thể là hư chỉ đòn thứ ba và thứ tư mới là thật, đây là "Hư hư thật thật" hay "Kỳ kỳ chánh chánh". Địch không biết lúc nào là hư lúc nào là thật !

Khái niệm "tiểu môn" và "đại môn" là nền tảng của võ thuật Trung Quốc. Muốn tấn công địch như muốn vào nhà, muốn vào nhà thì ta phải mỡ cửa, nhà xưa đều có hai cửa : cửa trước và cửa sau. Đại môn là khoảng cách giữa hai tay, là cửa trước, tiểu môn là hông hay lưng địch, là cửa sau. Đường đi vào đại môn ngắn hơn nhưng nguy hiểm hơn vì địch có thể phản công dễ dàng. Ta tấn công vào đại môn khi ta ra đòn trước, khi thế lực ta mạnh hơn. Khi đòn địch không nằm trên trung tâm tuyến thì ta tiến vào cửa chánh vừa đở vừa tấn công.

Thường ta chờ địch tấn công để kéo tay địch qua một bên buộc địch mở tiểu môn để ta xâm nhập, như Thích Kế Quang giải thích trong thế "Phao giá tử". Đây là nguyên lý rất quan trọng trong võ thuật Trung Hoa. Bát Quái Chưởng vừa niêm kéo tay địch qua một bên vừa chạy qua bên kia để đánh vô lưng địch. Vịnh Xuân né mình qua bên và hất tay đối thủ để tấn công vào bên hông. Bắc Phái Đường Lang Quyền tiến vào trung môn kéo tay địch qua bên để tấn công.

Khi ta nghiên cứu qua 32 thế quyền của đại tướng, ta có thể thấy vài chiến lược khác như "Thanh đông kích tây" (Làm tiếng động hướng đông nhưng đánh hướng tây) và "Thượng kinh hạ thủ" (Làm địch sợ hãi ở trên để tấn công ở dưới).

Và nguyên lý quan trọng khác là "tiệt đả", hiện nay là căn bản của võ thuật Trung Quốc : vừa tiếp đón đòn địch lúc chưa phát triển trên đường chính diện, vừa phản công.

Gia tài Thích Kế Quang để lại là nhiều thế võ đơn giản kèm theo vài nguyên lý chiến đấu đã ảnh hưởng rất nhiều môn phái cận đại, trong đó có hai môn phái lớn là Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền. Những nguyên lý ông truyền lại, tuy giảng nghĩa phức tạp nhưng trong thực dụng rất đơn giản và hữu hiệu.

Nguyễn Quí Jacques & Dufresne Thomas

Báo Thể thao thành phố Hồ Chí Minh số 179 (ngày 22/10/2001) và số 184 (ngày 29/10/2001)
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Sáu 14, 2010, 09:07:35 PM »

Tại Vu Sơn tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc có một từ đường Thích Công, thường có du khách tới đây chiêm ngưỡng chân dung vị anh hùng yêu nước Thích Kế Quang, ghi nhớ những công lao chống giặc lùn của ông.

  Thích Kế Quang là tướng lĩnh yêu nước nổi tiếng thời nhà Minh, ông xuất thân trong một gia đình qúi phái, chịu sự giáo dục và ảnh hưởng của cha, từ nhỏ ông ham mê quân sự, nuôi chí sẽ trở thành một quân nhân văn võ song toàn. Lúc đó vùng ven biển Trung Quốc thường bị giặc lùn quấy nhiễu. Thích Kế Qang rất căm ghét tội ác của giặc lùn, năm 16 tuổi ông từng viết một bài thơ rằng “Phong hầu đâu phải nguyện, chỉ mong mặt biển lặng”. Ý nói làm quan không phải là ý muốn của ông, ông chỉ mong sao vùng biến tổ quốc được yêu tĩnh. Năm 17 tuổi, ông thừa kế chứa vụ của người cha, bắt đầu cuộc đời binh nghiệp. Khi mới nhậm chức, vấn đề nan giải đã đặt ra cho ông là mối hiểm họa của giặc lùn.

  Giặc lùn là chỉ những tàn quân bại trận trong nội chiến ở Nhật câu kết với một số gian thương, từ cuối đời nhà Nguyên đến đầu nhà Minh thế kỷ 14, chúng thường dùng thuyền chặn cướp trên biển, cướp phá tại vùng ven biển Trung Quốc, giết người cướp của. Đến giữa thế kỷ 15, giặc lùn càng thêm điên cuông, chúng câu kết với bòn cường hào gian thương vùng ven biển Trung Quốc, thậm chí thọc sâu vào nội địa, tiến đánh cách châu, Huyện, giặc lùn trở thành một mối hiểm họa lớn cho vùng ven biển đông nam Trung Quốc.

  Năm 1555, Thích Kế Quang do có thành tích trong đánh giặc lùn ở Sơn Đông nên được Triều đình cử tới Chiết Giang, làm tham tướng Hải Định, đây là khu vực trọng tâm hoạt động của giặc lùn. Thích Kế Quang đã thành lập một đạo quân gồm nông dân, thợ mỏ. Đạo quân hơn 4 nghìn người này trải qua sự huấn luyện nghiêm ngặt của Thích Kế Quiang trở nên rất thiện chiến, luôn đánh thắng giặc, được nhân dân yêu mến và gọi là “Thích Gia Quân”.

  Năm 1561, mấy nghìn giặc lùn với hơn 100 chiến thuyền tấn công khu vực Đài Châu Chiết Giang. Được tin, Thích Kế Quang đã ra quân và tiêu diệt toàn bộ giặc lùn. Do có công trong đánh giặc lùn, Thích Kế Quang được thăng tiến và cử tới Phúc Kiến.

  Dưới sự chỉ huy của Thích Kế Quang, giặc lùn liên tiếp thua trận, vùng ven biển Chiết Giang và Phúc Kiến trở lai yên ổn, kinh tế phát triển.
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Whisky
Full Member
***
Offline Offline

Giới tính: Nữ
Bài viết: 134


Email
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Sáu 27, 2010, 05:26:03 PM »

Thích Kế Quang
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (anh Gúc nhà iem chỉ cho iem đới)

Thích Kế Quang
Tên
giản thể:    戚继光
phồn thể:    戚繼光
bính âm:    Qī Jìgūang
Wade-Giles:    Ch''i Chi-kuang
Tự:    Nguyên Kính (元敬)
Hiệu:    Nan Đường (南塘)
     Mạnh Chư (孟諸)
Ngày sinh:    12 tháng 11, 1528(1528-11-12)
Ngày mất:    5 tháng 1, 1588 (59 tuổi)

Thích Kế Quang (1528-1588) người tỉnh Sơn Đông, miền Bắc Trung Quốc, thuộc gia đình truyền thống quan võ, từ nhỏ, được cha cho theo học văn chương và binh thư.
Tiểu sử

Từ 1544, lúc 16 tuổi, ông thừa kế cha chức phó tư lệnh thành Đăng Châu. Tới năm 1549, tại Sơn Đông, ông đổ võ cử nhân, nhưng năm sau trượt khoa võ tiến sĩ tại Bắc Kinh. Lúc đó quân Mông Cổ vượt qua Trường thành đánh vào thành Bắc Kinh nên ông ở lại tham gia bảo vệ kinh thành.

Sau ông trở lại Sơn Đông, cho tới năm 1555 được phong chức tham tướng tại Triết Giang, hợp tác với Du Đại Du đánh quân cướp biển người Nhật. Ông huấn luyện 3000 quân qua "Uyên ương trận", cốt ý chống lại quân Nhật đáng sợ với đường tên chính xác và đao có thể cắt đứt võ khí binh lính Trung Quốc.

Trận pháp gồm người mang đồ đở để chống lại tên, người cầm cây trúc còn nhánh cây dùng để làm chậm bước tiến của người Nhật dùng đao, trong lúc người mang trường thương thừa cơ hội đâm quân cướp. Nhưng phải chờ tới năm 1567, quân Nụy Khấu mới được dẹp tan.

Vào thời đó ông nhờ Du giới thiệu học với Lý Lương Khâm côn thuật. Và năm 1567, ông được phong chức phó tư lệnh tại Bắc Kinh.

Tại Triết Giang, vào 1560, ông bắt đầu soạn quyển "Kĩ hiệu tân thư", tới 1562 mới có dịp xuất bản. Tác phẩm gồm 18 quyển, trong đó quyển thứ 14 "Quyền kinh tiệp yếu thiên" luận bàn về quyền thuật, chứa đựng 32 thế, tuy đơn giản nhưng hữu dụng. Quyển thứ 10 là "Trường binh đoản dụng thuyết thiên" ghi lại 24 thế thương, quyển thứ 11 có "Đằng bài tổng thuyết thiên" với 8 thế dùng khiêng, và "Lang tiển tổng thuyết thiên" dạy 6 thế lang tiển của Trần Đệ. Quyển thứ 12, "Đoản binh trường dụng thuyết thiên" chép lại chương "Kiếm kinh" của Du Đại Du với 14 hình song đấu côn. Và quyển thứ 13 "Xạ pháp thiên" là của đại tướng Du, ghi lại cách bắn cung.

Lúc ông chiến đấu quân cướp biển Nhật, ông nhận định là đao Nhật đơn giản nhưng lợi hại nên trong lần tái bản đã giảng về môn đao nầy trong hai chương "Yêu đao giải" và "Trường đao giải".

Mở đầu cho phần quyền thuật, ông viết: "Quyền pháp không can dự đến trận chiến, chỉ để hoạt động tay chân, chăm sóc thân thể, dẫn nhập cho binh thuật" (Quyền pháp tự vô dự ư đại chiến chi kĩ, nhiên hoạt động thủ túc, quán cần chi thể, thử vi sơ học nhập nghệ chi môn dã). Như vậy quyền thuật chỉ là kĩ thuật phụ trong quân đội dưới triều đại nhà Minh. Tuy vậy hiện nay trong hơn nữa số bài quyền của chùa Thiếu Lâm, chúng tôi có thấy ít nhứt một thế của Thích Kế Quang, chúng tôi có thể nêu ra vài thế như Thất tinh, Đơn tiên, Kim kê đc lập, Đảo tháp thế, Chỉ đang thế, Nhất điều tiên, Khóa hổ, Đương đầu pháo.

Đường Hào (1897-1959), lịch sử gia võ thuật Trung Hoa, có tìm được 29 thế của họ Thích trong 7 lộ của Trần gia Thái Cực Quyền xưa.

Và có hai thế thương của Thích Kế Quang còn lưu lại trong Trần gia Thái Cực Quyền và Thiếu Lâm Phái: Khóa kiếm thế và Triều thiên thế.

Như vậy hai môn phái quan trọng của Trung Quốc đều chịu sự ảnh hưởng của Thích Kế Quang, qua trung gian của Du Đại Du, bạn thân của ông. Vì họ Du có truyền võ thuật cho một nhà sư chùa Thiếu Lâm, chuyện nầy chúng tôi sẽ bàn trong bài sau. Và chúng tôi có chứng minh sự quan hệ giữa Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền của họ Trần.

Phần binh khí có ghi lại tám thế thương căn bản (Bát mẩu thương khởi thủ), nền tảng của thương pháp hiện đại, hiện vẫn còn lưu truyền trong tất cả các môn phái. Trong đó có ba thế quan trọng là "Lan nả trát", lan là quấn đầu thương nghịch chiều kim đồng hồ để gạt một đòn đâm, nả là thế đi theo chiều kim đồng hồ nhằm tấn công vào tay trước của địch để rồi đâm (trát) vào thân hay cổ địch.

Thích Kế Quang có ghi lại bốn nguyên lí chiến đấu. Nguyên lí "Thường sơn xà trận pháp" chép lại từ Tôn Tử binh pháp (thế kỉ thứ 5 trước Tây Lịch) được ông áp dụng trong quyền thuật : "chánh như Thường sơn xà trận pháp, đánh đầu thì đuôi tiếp ứng, đánh đuôi thì đầu tiếp ứng, đánh thân thì đầu và đuôi tương ứng" (chánh như Thường sơn xà trận pháp, kích đầu tắc vỹ ứng, kích vĩ tắc đầu ứng, kích kỳ thân nhi đầu vĩ tương ứng). Trong Vịnh Xuân chi thủ, khi địch chụp tay phải ta, tay trái ta liền tấn công ; khi địch chụp cổ tay phải ta, ta liền tiến sát gần đánh tấp chỏ phải. Lúc luyện Thái Cực thôi thủ, nếu chỏ ta bị chụp, ta liền dùng vai hất địch. Trong bài Tinh Võ Hội Hợp chiến quyền, khi ta bị bẻ tay, ta liền xoay người theo chiều bẻ tay, dùng tay kia chụp cổ đối thủ.

Chiến thuật trá bại được đại tướng trình bày trong ba chương về quyền, côn và thương. Đó là ba thế "Đảo kì long", "Tẩu mã hồi đầu thức" và "Dương du trá hồi thương pháp". Đây là chiến thuật giả bộ thua chạy dụ địch đuổi theo để xoay người đánh một quyền hay đâm một thương, còn lưu lại trong các bài binh khí như Trung Ương Quốc Thuật Quán Tam tài kiếm, Tinh Võ Hội Ngũ hổ thương, Thất Tinh Đường Lang Yến Thanh đơn đao, Vĩnh Xuân Bạch Hạc Song long xuất thủy song đao, Trần Gia Thái Cực Thập tam can, Trần Gia Thái Cực Xuân Thu đại đao... Quyền thuật tại hai tỉnh Quảng Đông và Phước Kiến, có thế giả thua xoay lưng chạy rồi ngồi xuống đất để bất thình lình xoay người lại ném cát vào mắt địch hay nhảy lên đá vào hạ bộ đối thủ, thế có tên là "Linh miêu hí thử".

Nguyên lí "hư thật" và "kì chính" xuất từ Tôn Tử binh pháp được áp dụng trong quyền thuật. Hư thật và kì chính chỉ sự dối trá để lừa địch, đòn đầu là hư và đòn sau là thật. Nhưng hai đòn đầu cũng có thể là hư chỉ đòn thứ ba và thứ tư mới là thật, đây là "Hư hư thật thật" hay "Kì kì chính chính". Địch không biết lúc nào là hư lúc nào là thật!

Khái niệm "tiểu môn" và "đại môn" là nền tảng của võ thuật Trung Quốc. Muốn tấn công địch như muốn vào nhà, muốn vào nhà thì ta phải mỡ cửa, nhà xưa đều có hai cửa : cửa trước và cửa sau. Đại môn là khoảng cách giữa hai tay, là cửa trước, tiểu môn là hông hay lưng địch, là cửa sau. Đường đi vào đại môn ngắn hơn nhưng nguy hiểm hơn vì địch có thể phản công dễ dàng. Ta tấn công vào đại môn khi ta ra đòn trước, khi thế lực ta mạnh hơn. Khi đòn địch không nằm trên trung tâm tuyến thì ta tiến vào cửa chánh vừa đở vừa tấn công.

Thường ta chờ địch tấn công để kéo tay địch qua một bên buộc địch mở tiểu môn để ta xâm nhập, như Thích Kế Quang giải thích trong thế "Phao giá tử". Đây là nguyên lí rất quan trọng trong võ thuật Trung Hoa. Bát Quái Chưởng vừa niêm kéo tay địch qua một bên vừa chạy qua bên kia để đánh vô lưng địch. Vịnh Xuân né mình qua bên và hất tay đối thủ để tấn công vào bên hông. Bắc Phái Đường Lang Quyền tiến vào trung môn kéo tay địch qua bên để tấn công.

Khi ta nghiên cứu qua 32 thế quyền của đại tướng, ta có thể thấy vài chiến lược khác như "Thanh đông kích tây" (Làm tiếng động hướng đông nhưng đánh hướng tây) và "Thượng kinh hạ thủ" (Làm địch sợ hải ở trên để tấn công ở dưới).

Và nguyên lí quan trọng khác là "tiệt đả", hiện nay là căn bản của võ thuật Trung Quốc: vừa tiếp đón đòn địch lúc chưa phát triển trên đường chính diện, vừa phản công.

Gia tài Thích Kế Quang để lại là nhiều thế võ đơn giản kèm theo vài nguyên lí chiến đấu đã ảnh hưởng rất nhiều môn phái cận đại, trong đó có hai môn phái lớn là Thiếu Lâm Quyền và Thái Cực Quyền. Những nguyên lí ông truyền lại, tuy giảng nghĩa phức tạp nhưng trong thực dụng rất đơn giản và hữu hiệu.
Logged

Rượu cứ ngon là rượu!
Whisky Mỹ hay Vodka Nga, giờ có mặc cảm gì,
Trang: [1]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn