Tứ Hải giai huynh đệ
Tháng Tư 19, 2024, 11:46:18 AM *
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký.
Hay bạn đã đăng ký nhưng quên mất email kích hoạt tài khoản?

Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát
Tin tức:
 
 Trang chủ Tứ Hải  Trang chủ diễn đàn   Trợ giúp Tìm kiếm Lịch Thành viên Đăng nhập Đăng ký  
Trang: [1]   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Vũ khí của người Việt cổ đại  (Đọc 4740 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« vào lúc: Tháng Một 21, 2012, 11:09:51 PM »

Khảo sát folklore, dân tộc học, truyền thuyết dân gian. Thương, giáo, lao, có hình dạng tương tự và cùng với tên nỏ, cung, rìu, v.v. ... là những vũ khí đã được xử dụng thường xuyên của người Việt thời thượng cổ. Để được đầy đủ hơn cho công việc tìm hiểu nguồn gốc bản địa của những vũ khí truyền thống này, chúng ta không thể bỏ qua lĩnh vực khảo cổ và những tài liệu ở các lĩnh vực thuộc khoa học xã hội và nhân văn khác.

Khảo cổ học thời thượng cổ Việt Nam đã được phân ra những giai đoạn có khung niên đại (dựa theo sách Lịch Sử Việt Nam tập I) như sau :

-Thời đại đồ đá cũ : khoảng 300 ngàn năm về trước (di tích ở núi Đọ và văn hóa Sơn Vi hậu kỳ thời đá cũ ).

-Thời đại đồ đá giữa : 10 ngàn năm trước nay (văn hóa Hòa Bình, nghề nông đã xuất hiện).

-Thời đại đồ đá mới : 5 ngàn năm trước nay : văn hóa Bắc Sơn, văn hóa Bầu Chó, văn hóa Hạ Long.

-Thời đại đồ đồng thau :4 ngàn năm trước nay (văn hóa Phùng Nguyên).3 ngàn năm – 2.5 ngàn năm : Văn Hóa Đông Sơn, trống đồng Ngọc Lũ. (1)

Ngay từ thời đại đồ đá cũ, người Việt cổ đã biết dùng đá làm những công cụ chặt, nạo, rìu tay, ghè đẽo thô sơ tìm thấy núi Đọ (Thanh Hóa) cách nay ba trăm ngàn năm hay những công cụ bằng đá cuội ở vùng đồi núi Vĩnh Phúc Yên, Phú-thọ, (văn hóa Sơn Vi), cách nay trên dưới ba chục ngàn năm, hậu kỳ đồ đá cũ.

Truyền thống kỹ thuật và văn hóa đá cuội Việt Nam được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa-bình (thuộc thời đại đá giữa) và văn hóa Bắc-sơn (thuộc buổi đầu thời đại đá mới).

Bên cạnh kỹ thuật ghè đẽo, người Việt cổ đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc-sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng thời đại đồ đá mới. một số lưỡi dáo hay thương hoặc lao và mũi tên đá. Văn hóa Bắc-sơn là một trong những văn hoá có rìu mài sớm ởtrên thế giới. Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim, giáo sư Nhân Chủng Học trường đại học Hawaii, nhận xét :”Tôi cho rằng những công cụ bằng đá dẽo có cạnh sắc tìm thấy ởphía bắc Úc châu và được định tuổi bằng Carbon 14 là hai chục ngàn năm trước Tây lịch đều thuộc nguồn gốc Hòa Bình “. (2).

Trình độ phát triển vũ khí ở thời đại đồ đá tại Việt Nam nhìn chung, ngoại trừ rìu đá, vẫn còn ít ỏi về kiểu loại, và sự thô sơ của kỹ thuật cùng tính năng của nó. Những vũ khí này dù kỹ thuật chế tác có đạt tới bước phát triển cuối cùng của kỹ nghệ đồ đá, thì cũng vẫn bị chất liệu đá hạn chế khá nhiều độ sắc nhọn, hướng cải tiến và diện sử dụng.

Tuy nhiên, cần ghi nhận ở đây điểm quan trọng là : một sở trường, một thiên hướng, một thị hiếu nữa, trong việc chọn lựa, sáng tạo và sử dụng vũ khí của tiền nhân người Việt đã được khẳng định ở thời đại đồ đá để rồi sau sẽ được nhân bội lên trong việc trực tiếp kế thừa và phát triển mạnh mẽ ở những thời đại đồ đồng, đồ sắt sau này, góp phần tạo nên những vũ khí truyền thống. Đó là sở trường, thiên hướng, thị hiếu dùng cung nỏ tên, rìu búa và giáo lao (thương) làm vũ khí chủ đạo.

Và chính vì thế mà chúng ta có thể thấy thêm một đặc điểm thứ hai của tình trạng vũ khí ở bước này là : chưa có sự phân hóa, chuyển hóa rạch ròi và phổ biến giữa vũ khí và công cụ. Cây rìu, cung tên, ngọn giáo, ở thời kỳ này, lúc là công cụ để chặt bổ, săn bắn, lúc là vũ khí để đâm phóng, đánh bổ, hoặc vừa là công cụ vừa là vũ khí. Trong tình trạng này cũng chung cho cả những khí vật bằng chất liệu mà lòng đất không thể gìn giữ tới nay cho chúng ta hình dáng của nó, nhưng theo qui luật chung, hiển nhiên cũng tồn tại ở bước này. Đó là những gậy, búa, mũi nhọn, lao ... bằng tre, bằng gỗ, v.v...

Tài liệu khảo cổ học thời đại đồ đồng thau thuộc văn hoá Đông-sơn (Thanh Hóa, Bắc Việt) cho thấy rằng trong khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây lịch, vũ khí của tổ tiên người Việt đã phát triển lên một mức và có một vai trò quan trọng đáng kể. Sự tăng tiến về số lượng và sự phong phú về kiểu dạng khai quật được phản ảnh rõ ràng sự phát triển của vũ khí ở bước này. Bên cạnh những vũ khí chủ đạo, kế thừa và phát triển trực tiếp từ những vũ khí thời đồ đá, là cung nỏ tên, lao giáo và rìu búa, (những vũ khí này chẳng những còn để lại những bằng cứ là vật chất, mà còn để lại đầy đủ bằng hình ảnh qua những nét chạm khắc trên các trống đồng, thạp đồng) còn nở rộ một loạt dáng kiểu vũ khí khác nhau khá phong phú. Có thể nói những thành phần vũ khí cơ bản của bộ binh trước khi có hỏa khí, đều đã thấy xuất hiện ở giai đoạn này. Đó là các loại vũ khí tấn công tầm xa như cung nỏ và lao, đánh tầm gần như thương, dáo, mác, rìu búa, dao găm, đoản kiếm, qua, và vũ khí phòng ngự như hộ tâm phiến, khiên, mộc, v.v....

Nguyên liệu mới của những vũ khí này là một điều kiện rất cơ bản làm nẩy sinh một loại thuộc tính ưu việt của vũ khí. Đồng thau cùng với trình độ hiểu biết cao về kỹ thuật đúc cho phép sản xuất hàng loạt (Trường hợp điển hình là kho đầu mũi tên đồng ở thành Cổ-Loa, kinh đô của nhà nước Âu Lạc, khoảng mười ngàn mũi tên), tăng cường độ sắc nhọn của vũ khí và nhất là tạo điều kiện cho cho sự gia công cải tiến vũ khí, phát huy nhiều tính năng và tác dụng của vũ khí (đầu mũi tên đồng có hơn một chục loại, lao, giáo, dao găm, rìu chiến cũng có nhiều dáng vẻ khác nhau, có thể vừa đâm vừa chém và mũi tên bắn ra không lấy lại được, ...).

Kết quả của những bài tính toán học và thực nghiệm cho thấy rằng với sức nặng của đầu mũi tên đồng Cổ Loa, thì phải có một chuôi tên dài từ 80 phân đến một mét mới có thể bắn tên đi ở tình trạng tốt nhất (độ dài này tính theo tỷ trọng của tre). Một chiếc tên như thế cho phép giả thiết rằng, ngoài cây cung là phương tiện phóng tên chắc chắn, còn có thể có cả hình thức nỏ máy để phóng tên nữa (3). (Một số hình ảnh chạm khắc trên trống đồng, những tài liệu dân tộc học và truyền thuyết vùng Cổ Loa cũng phù hợp với điều giả thiết này.) Sách Việt Kiệu Thư chép Man động xưa ở nước Nam Việt thời Tần rất mạnh, về phép dùng nỏ thì lại càng giỏi lắm, mỗi phát tên bằng đồng xuyên qua hơn chục người (4).

Những tài liệu ở một ngôi mộ Việt Khê thời đồ đồng cũng cung cấp những số liệu chính xác về những cây dáo, cây lao, thương : cán có độ dài lên tới hai mét ba mươi bẩy phân, đường kính cán tương đối nhỏ, khoảng một phân rưỡi, nhưng bù lại, được lựa chọn từ loại cây có thớ dọc, dẻo dai, có độ bền cao và được cạp thêm một khoảng gần sát luỡi bằng mây sợi chẻ mỏng. Cán giáo còn được sơn bóng đẹp với nước sơn ta từng khoanh màu vàng và màu đen xen kẽ.

Như vậy, ba vũ khí chủ đạo của người Việt cổ là : mũi tên, giáo lao hay thương và lưỡi rìu, và có nguồn gốc bản địa, sản xuất ngay tại chỗ. Giáo sư Wilhelm G. Solheim đã viết :

“Quan niệm cổ điển về thời tiền sử cho rằng kỹ thuật vùng Đông Nam Á là kết quả của những làn sóng di dân từ phương Bắc mang tới. Ngược lại, tôi cho rằng vào thời đại đầu đồ đá mới , nền văn hóa Bắc Trung Hoa gọi là Ngưỡng Thiều là một phần của nền văn hoá Hòa Bình đã tỏa lên Bắc Trung Hoa vào khoảng sáu hay bẩy ngàn năm trước Tây lịch”.

“Tôi cho rằng nền văn hóa mà sau này được gọi là văn hóa Long Sơn vẫn thường được coi là phát triển từ Ngưỡng Thiều • Bắc Trung Hoa rồi lan ra miền Đông và Đông Nam, thì trái lại thực ra đã khai sinh • Nam Trung Hoa và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này đều bắt nguồn từ gốc văn hóa Hòa Bình”.

Mặt khác, tên gọi Nam Á (Austroasiatic) là thuật ngữ nhân chủng học và ngôn ngữ học bao gồm khu vực Đông Nam Á và Châu Á Hải Đảo kể cả phía Nam Trung Hoa mà một phần chủng tộc này được cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt (Điền Việt, Dương Việt, U Việt, Mân Việt, Đông Việt, Lạc Việt,...) sinh sống từ khu vực phía Nam sông Dương Tử đổ xuống phía nam, họp thành những khối cư dân lớn có những tiếng nói thuộc ngữ hệ Mon-Khmer, Việt-Mường và Malayo-Polynesian, những dân tộc thời tiền sử chủ yếu sống nông nghiệp, săn bắn đánh cá, dùng thuyền bè di chuyển trên sông rạch, biển cả, ăn mắm (chưa biết ăn xì dầu), ở nhà sàn, nhà mái cong, xâm vẽ mình, mặc: áo chui đầu (poncho), sà-rông, váy , v.v...khác với nhóm dân tộc thời tiền sử chủ yếu sống du mục, chăn nuôi với đồng cỏ mông mênh phía Bắc và Tây Bắc, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.

Khi xưa tiếng Hán đang còn đóng khung ở vùng phía bắc sông Hoàng Hà, sông Vị Hà thì nó chưa thể có nhiều những từ nêu lên tên gọi của những sản vật mà chỉ phương nam mới có, do đó có sự vay mượn, ảnh hưởng qua lại các thuật ngữ vùng Nam Á. Những danh từ chỉ thực vật như cảm lãm (trám), phù lưu (trầu), ba la mật (mít) v.v... chắc chắn là những danh từ vay mượn các ngôn ngữ vùng nhiệt đới. Để chỉ sông, phía bắc, người Hán gọi là Hà, nhưng từ sông Dương Tử trở về nam lại gọi là Giang. Theo các nhà địa danh học : Giang ( 江) là một từ người Hán vay mượn, rất dễ dàng gợi cho ta nghĩ đến Kion (Miến), Kon (Katu), Karan (Mơ-nông), Krong (Chàm), Không ( Mường), Hông (Khả), Krông (Bà Na), Khung (Thái), Sôngal (Mã Lai), cũng như nghĩ đến Sông trong tiếng Việt (Việt Miên Lào có chung con sông là Mê-kông).

Có khi chiều ảnh hưởng chỉ đi theo một dường thẳng đơn giản, từ bên này sang bên kia, nhưng cũng nhiều khi mũi tên có thể đi đường vòng từ A sang B, rồi lại từ B quay trở lại A. Đó là trường hợp của nỏ, thứ vũ khí phương Namta gọi là Ná. (So sánh với Na của người Mường, người Chức, Nả của người La-Ha (Mưng La) , Hna của người Bà Na, Na của người Ê Đê, dọc Trường Sơn, Mnaá của người Sơ Đăng, Sa Na của người Kơ-ho, Snao của người Raglai, Na của người Mạ Nam Tây-nguyên, Hnaá của người Gia Rai, S-Na của người Miên, Sơ-Na của người Srê, hay Sna của người Chàm Phan Rang, Phan Rí , Ná của người Thái Trắng, Pna của người Mã Lai , v.v. ...), có nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ tên gọi loại vũ khí này mà được nhập vào vốn từ vựng của người Trung Hoa, sản sinh ra tiếng Hán có cách đọc Hán Việt cổ là Nổhay Hán Việt hiện nay là Nõ, (chữ Nõ [弩] tổng hợp của thanh phù Nô [ 奴] (như Nô Bộc) đứng trên chữ Cung tượng hình [弓] rồi lại quay trở về Việt Nam được đọc theo Nôm là Nỏ. Nỏ là một phát minh của người phương nam (6).


Sách Lĩnh Nam Chích Quái chép truyện Triệu Đà sai con là Trọng Thủy đánh cắp nỏ thần phương nam của An Dương Vuơng Thục Phán.

Cái Rìu của tổ tiên chúng ta cũng có một sự tích lý thú, được đặt thành tên dân tộc: Về ý nghĩa của tộc danh Việt, lâu nay một số người dựa trên dạng chữ Hán hiện đại [越] có chứa bộ tẩu [走] của chữ này để giải thích rằng Việt nghĩa là chạy, vượt. Thực ra chữ Việt trong Hán tự đã trải qua nhiều cách viết rất khác nhau, đây là tên gọi có từ lâu đời (họ Việt[粤] –thường, chủng Bách Việt được nhắc đến trong sử Bắc từ rất sớm).

Theo Bình Nguyên Lộc (7), việt [钺] vốn là tên gọi một loại công cụ kiêm vũ khí rất đặc thù của người Việt cổ : cái rìu. Như chúng ta đã biết, khảo cổ học đã tìm được ở khắp nơi trong địa bàn cư trú của người Việt cổ rất nhiều loại rìu với các nguyên liệu khác nhau (đá, đồng, sắt) như rìu đá có tay cầm, rìu đồng hình tứ giác, rìu đồng lưỡi xéo. Trong ngôn ngữ Nam-Á cổ đại, rìu hay dìu có lẽ đã được phát âm là “uỵt” hoặc một âm gì đó tương tự (các truyền thuyết Mường gọi vua Việt là Bua Dịt hay Dịt Dàng). Khi tiếp xúc với người phương Nam, tổ tiên người Hán, với tính cách du mục vốn có, đã rất chú ý đến loại công cụ có thể được dùng như vũ khí này, coi nó là đặc trưng quan trọng của ngưòi phương Nam nên đã gọi họ là bọn Rìu : “Uỵt” được phiên âm qua tiếng Hán cổ (tiếng Quảng Đông-vùng Bách Việt), rồi từ tiếng Hán lại phiên âm trở lại theo cách đọc Hán-Việt thành Việt. Chính cái vật chất là cái rìu lưõi xéo có cán đã là nguyên mẫu để tổ tiên người Trung Hoa, khi tiếp xúc với phương Nam, đã mô phỏng theo đó mà tạo nên chữ Việt nguyên thủy. Còn trong tiếng Việt, chữ”Uỵt” nguyên thủy ở bản địa đã trải qua nhiều biến đổi ngữ âm để có được bộ mặt của chữ rìu hiện nay cùng với cả một họ các từ gần nghĩa : rìu , rèn, rào, dao , rựa , ... Bên cạnh đó, cho đến gần đây vẫn có một chữ Việt với tư cách danh từ chung có nghĩa là rìu ; nó xuất hiện trong kết hợp phủ việt (phủ = búa, việt = rìu), tương tự giống trường hợp chữ Ná người Hán mượn rồi trở về ta là chữ Nỏ.


Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Tiêu-diêu
Administrator
Hero Member
*****
Offline Offline

Giới tính: Nam
Bài viết: 1079


« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Một 21, 2012, 11:11:13 PM »

Cung nỏ Bách Việt - Võ công Hoa Sơn Qua Khảo Cổ và Cổ tích

Ở phía Nam tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, dọc theo hai dòng sông Minh Giang và Tả Giang là những vách đá của dẫy Hoa Sơn dài hàng trăm cây số còn lưu lại nhiều bích họa được thực hiện từ thời xa xưa ghi lại sinh hoạt , kể cả chiến tranh và võ thuật thời thượng cổ của một dân tộc thiểu số miền Nam Trung Quốc, dân tộc Choang. Hiện người ta còn đếm được khoảng trên 50 bức bích họa lớn nhỏ khác nhau trên nền tranh vách đá thẳng đứng bên các dòng sông uốn khúc tại đây ; có bức dài tới 130 mét, cao 40 mét ghi vẽ chạm khắc trên mặt đá khoảng 3000 người và vật với những tư thế luyện võ và chiến đấu tay không hay sử dụng binh khí của tổ tiên người Choang ở Hoa Nam. Nổi tiếng nhất là tấm bích họa ở gần thành Ninh Minh, Hoa Sơn.

Sách Ninh Minh Châu Chí ghi : Núi Hoa Sơn cách thành 50 dặm, trong vách đá đứng dựng có những hình người màu đỏ, tất cả đều trần truồng, hoặc to hoặc nhỏ, hoặc cầm giáo gậy hoặc cưỡi ngựa; trước khi có loạn, sắc màu sáng sủa, loạn qua rồi màu sắc ảm đạm. Men theo bờ sông, một con đường giữa hai bờ sông, trên vách đã hình vẽ như thế có nhiều.

Nói về những hình võ trên vách đá Hoa Sơn, sách Võ Thuật Thần Kỳ của Trịnh Cần và Điền Vân Thanh viết : Tranh vách đá Hoa Sơn vẽ người đường nét đơn giản, chắc khỏe, động tác chiêu thức rõ ràng, phát lực tràn trề. Thần thái thì oai võ, phần lớn đứng mã bộ và thế tấn nửa mã bộ, linh hoạt ẩn hiện, sinh động như thật.

Vật phẩm trong tranh vách đá ở Hoa Sơn cũng tạo hình sống động, kết cấu nghiêm ngặt, có trống đồng, đao có vòng ở đầu (hoàn thủ đao), trường thương, phiêu ném (thủ phiêu) mã tấu, kiếm, nỏ núi (sơn nỗ), tên tre v.v... đủ nói lên tình hình phát triển võ thuật của dân tộc Choang Quảng Tây thời ấy đã hừng hực, khí giới dùng trong võ thuật cũng phức tạp, đa dạng.

Ngoài những thứ kể trên ra, trong nhóm tượng ở Ninh Minh Hoa Sơn có một con vật bốn chân tướng mạo như chó sói một tay cầm phi đà (quả cân ném, một kiểu lưu tinh chùy), lưng đeo bảo kiếm, hai chân gập gối dạng ra khuỵu xuống, ưỡn ngực, đè hông thành tấn mã bộ vững vàng trầm chắc. Xem ra có lẽ đó là vật tổ của dân Choang có võ công thật phi phàm.

Võ công trên vách đá Hoa Sơn của dân tộc Choang đã là nguồn cảm hứng dồi dào cho tác giả Kim Dung tạo dựng những tình tiết độc đáo trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng sau này.

Choang là một sắc tộc thiểu số ở Trung Quốc có số nhân khẩu lớn nhất, 23 triệu người theo thống kê năm 1982, trong đó khoảng 22 triệu người sinh sống tập trung tại Quảng Tây, số còn lại sống rải rác tại các miền Vân Nam, Quý Châu, Hồ Nam, Quảng Đông, v.v. . . thuộc miền nam Trung Quốc.



Các tiếp giáp với Việt Nam là các tỉnh Quảng Đông,Quảng Tây, Vân Nam.


Cũng như dân tộc Việt Nam, dân tộc Choang là một chi phái của Bách Việt xa xưa mà cổ thư thường đề cập về dân tộc này với những tên khác nhau, ở Trung Quốc cũng như tại Việt Nam, như Bộc, Ấu, Việt, Mai, Liêu, Choang, Đặng, Ô-hử, Tổn Tử, , Sản Lý, Bách Bộc, Cửu Khốn, v.v. . .. Đến thời nhà Minh, người Trung Quốc gọi tên dân tộc Choang là người Lang. Tên gọi Choang hay Trang là từ có âm Zhuang thời nhà Tống. Người Choang cũng sinh sống nhiều tại các tỉnh Cao Bằng , Lạng Sơn của Việt Nam, và theo Hoàng Xuân Hãn, được ta phân biệt các sắc dân ấy bằng tên họ như họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng, họ Chu, họ Giáp, v.v. . .

Ở Vân Nam(TQ), người Choang còn được gọi là người Băng Long (ngày xưa người Hán gọi họ là Bộc nhân). Người Choang Vân Nam xưa nay tính dũng cảm, thích võ. Họ gọi võ thuật do tổ tiên truyền lại là tả quyền vì khi tỉ thí võ công, trái đấm tay trái là trái đấm mãnh liệt cuối cùng quyết định thắng bại (tả quyền định thắng bại), họ dùng bài võ cổ truyền linh hoạt và đa biến để nghênh chiến đối phương, nhè lúc đối thủ không phòng bị cuối cùng dùng tay trái ra tuyệt chiêu mà đắc thắng chắc chắn.

Theo sách Kinh Thư, một cổ sử do Khổng Tử san định, tổ tiên người Choang (Vi, Bộc) được xem là một trong những nhóm Bách Việt đã hợp tác với Chu Võ Vương tạo một liên minh quân sự để tiêu diệt vua Trụ thành lập nhà Tây Chu (1134-770 trước tây lịch). Trong sách Thượng Thư do Nhượng Tống dịch và chú giải có đoạn ghi : Vua (Chu Vũ Vương) nói : Hỡi các chúa các nước bạn ta! Hỡi các quan coi việc ! Nào Tư Đồ, Tư Mã, Tư Không, Á Lữ, Sư Thị, Thiên Phu Trưởng ! Cùng người các xứ Dung, Thục Khương, Mao, Vi, Lô, Bành, Bộc ! Giơ mác lên ! Dựng đứng ngọn giáo ! Ta thề đây !.

Ngày nay, những người Choang ở Quảng Tây tự xưng tên dân tộc mình với khoảng 20 tên gọi khác nhau, thông dụng nhất là Bố Choang, Bố Thổ, Bố Ỷ, Bố Bản, Bố Việt, v.v. . . với ý nghĩa là dân bản địa ở đây. Từ BỐ hay PO, BẾ, . . . làm chúng ta liên tưởng trực tiếp đến ngôn ngữ có nguồn gốc Nam Á . Ví dụ các dân tộc ở Việt Nam, Chăm có tên gọi như Bố Cái Đại Vương (Việt), Po Romé, Po Nagar(Chăm), hay Poropudua (Indonesia), . . . hoặc tên họ như Bố Thuận, Bế Khắc Thiệu, Bố Xuân Hội . . .

Dân tộc Choang Quảng Tây có tiếng nói riêng, thuộc ngữ tộc Choang-Đồng, ngữ chi Tày-Nùng, và dĩ nhiên, trong sự giao lưu đồng hóa của người Hán, ngôn ngữ Choang cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của ngữ hệ Hán-Tạng. Giống như phương cách cấu tạo chữ Nôm của Việt Nam, dân tộc Choang đã sử dụng chữ Hán, cách nay cả ngàn năm, để tạo thành chữ riêng của họ, gọi là Thổ Tục Tự để ký âm tiếng nói địa phương của họ, cho đến ngày nay ca khúc dân gian và sách bùa chú vẫn còn sử dụng thứ chữ nầy để ghi chép. Có điều là dân tộc này có quá nhiều phương ngữ nên cách viết và ghi chép không thống nhất nhau cho nên chỉ được dùng trong một phạm vi rất hạn hẹp. Ngày nay họ bắt đầu dùng mẫu tự Latin để ký âm tiếng nói của họ.

Theo di tích khai quật được, dân tộc nầy còn có một lịch sử cổ xa xưa hơn nữa. Thí dụ: Thời Đồ đá cũ có thi hài của giống người "Liễu giang" mang đầy đủ nét đặc trưng của dân tộc Choang ngày nay. Thời Đồ đá mới tại di chỉ Ngoạ Bì Nham ở thành phố Quế Lâm, có đào thấy xương cốt của một giống người tương tự như tướng mạo người Choang hiện tại. Chứng cớ này cho thấy 50 ngàn năm trước đây dân tộc Choang đã có mặt và sinh sống trong vùng này.
Do sự áp bức và cai trị đồng hóa của người Hán, người Choang đã nhiều lần nổi dậy chống đối suốt quá trình lịch sử cho đến cuối thế kỷ 19.

Hậu Hán Thư ghi : Đời Linh-đế, năm thứ ba hiệu Kiến-ninh (năm 170 sau Công nguyên), viên thái thú Uất-lâm là Cốc Vĩnh đã xâm chiếm đất đai Ô-hử (Quảng Tây), đặt thành 7 huyện, cư dân gồm hơn 10 vạn người. Thế là dân Ô-hử bắt đầu bị chính quyền Đông Hán áp bức, bóc lột . . . Năm 178, (Quang Hòa thứ nhất) tháng giêng, nhân dân Hợp-phố Giao-chỉ, Ô-hử, đã nổi dậy, lôi kéo theo cả hàng vạn nhân dân hai quận Cửu Châu, Nhật Nam, khắp nơi nổi dậy đánh chiếm các quận huyện (Hậu Hán Thư q.8, 6a - q.116, 8b).

Sách Lịch Sử Chế Độ Phong Kiến Việt Nam ghi thêm : Tình hình ở Nam Trung quốc còn là gần như không khi nào dược yên luôn trong ba ngày huống chi tình hình ở Giao châu vì vậy mâu thuẫn giữa nhân dân và bọn thống trị phong kiến thực dân lại càng thêm sâu sắc. Khởi nghĩa của nhân dân mỗi khi có cơ hội thuận tiện liền nổ ra ngay.

Tân Đường Thư (q.80, 11a) cho biết năm 819 người Man Hoàng động (thuộc tộc Choang -TG) lại nổi loạn . . .

Sử cũ ghi những cuộc khởi nghĩa mà người Hán gọi là giặc như giặc Hoàng Cân thời Đông Hán, giặc Hoàng Sào thời nhà Đường, giặc Nùng Chí Cao thời Tống, giặc Hồng Tú Toàn thời Mãn Thanh, . . đều là những cuộc quật khởi của người Choang chống người Hán cai trị . Hoàng Cân cũng nhừ Hồng Tú Toàn đã lập đạo Thái Bình. Theo sử gia Phan Khoang , Thái Bình Thiên Quốc của Hồng Tú Toàn, thời Thanh đã thu phục được 16 tỉnh ở Hoa Nam lập thành nhà nước độc lập kéo dài 15 năm (1850-1864) đóng đô ở Nam Kinh (Thiên Kinh).

Ở Việt Nam thời Lê Sơ tại tỉnh Cao Bằng có một sự kiện lịch sử liên quan tới cung nỏ của người Choang được ghi trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí : Đời Lê Thuận Thiên, đầu mục thiên thần là Bế Khắc Thiệu nghe tin thổ tù Nông Đắc Thái được thần cho cung tên bằng đồng, hễ bắn phát nào là tin, không phát nào là không trúng, bèn cho người mời Đắc Thái đến, cho làm Võ Kính Tướng quân, rồi đánh thuốc độc giết đi, chiếm lấy cung tên. Khắc Thiệu tự cho là được quỉ thần giúp sức, bèn có ý hùng cứ. Lê Thái Tổ tự làm tướng đi đánh, Khắc Thiệu giương cung bắn, không thấy ứng nghiệm, nên bị Lê Thái tổ bắt được.

Chúng ta chưa đủ điều kiện để thăm dò, khảo sát những vách đá dọc theo bờ các sông Mãng, sông Hiến, sông Cổn , sông Huề chảy qua tỉnh Cao Bằng, nơi sinh tụ đông đảo người Choang ở Việt Nam, để kiếm tìm, phát hiện di tích của tổ tiên người Choang và biết đâu ta củng có thể tìm được di sản võ công của họ như đã thấy tại Hoa Sơn miền nam Trung quốc.

Người Choang, ngoài mặt nhân chủng học, về phong tục học, có nhiều điểm khác người Hán nhưng lại giống người Việt phương nam, ví dụ tục nhuộm răng đen, xâm mình, . . . , hoặc những chuyện kể dân gian. Dưới đây chỉ nêu ra một vài chuyện liên quan tới cung nỏ, như Thần Tiễn Thủ Hậu Nghệ, Thần Cung Bảo Kiếm.

Thần Tiễn Thủ Hậu Nghệ

(Lược trích từ Lịch Sử Trung Quốc Năm Ngàn Năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dư Chương, do Trần Ngọc Thuận dịch)

Hậu Nghệ, thủ lãnh người Man Di (ngôn từ miệt thị của người Hán gọi người Bách Việt phương nam), là tay thiện xạ thường bắn trăm phát trúng cả trăm. Thần thoại kể rằng, thời cổ trên không có tới mười mặt trời, mặt đất nóng như thiêu, làm cháy hết hoa mầu. Mọi người xin Hậu Nghệ nghĩ cách giải quyết. Hậu Nghệ giương cung bắn liền mấy phát, làm chín mặt trời rụng xuống, chỉ để lại một mặt trời như ngày nay. Vì vậy, khí hậu trái đất trở nên ôn hòa, không còn khô hạn nữa. Lại nói thời cổ trên các dòng sông có nhiều thủy quái, thường gây nên sóng gió, tạo thành thủy tai, làm ngập hết hoa mầu, nhấn chìm người và gia súc. Hậu Nghệ lại dùng cung tên, bắn giết hết quái vật, mang lại cho dân tộc cuộc sống yên bình.

Những thần thoại đó chứng tỏ tài bắn cung của Hậu Nghệ rất cao cường, được mọi người công nhận.

Hết

Phan Quỳnh
Logged

Ẩm giả lưu kỳ danh
Bí thư đảng đoàn Tứ Hải
Trang: [1]   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Phát triển bởi tuhai.com.vn