Tứ Hải giai huynh đệ

Đông Y - Traditional Medicine => Tài liệu Đông Y - TM Documents => Tác giả chủ đề:: tuhaibajai trong Tháng Chín 11, 2018, 06:09:23 PM



Tiêu đề: Chu Văn An và Y Học Yếu Giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 11, 2018, 06:09:23 PM
Đặc điểm nội dung

(https://i.imgur.com/3H8Hy6B.jpg)

 Tập “Y học yếu giải” gồm những thiên:

 1. Bàn về những điểm thiết yếu trong y học.

 2. Bàn về cơ chế bệnh.

 3. Điều bí quyết của phép chữa bệnh.

 4. Bàn về thân người.

 5. Âm dương – Biểu lý.

 6. Hỏi và trả lời về thân người.

 7. Tóm tắt những điều cốt yếu về mạch học.

 8. Tóm tắt kinh nghiệm chữa bệnh.

 9. Y án về bệnh ngoại cảm (thương hàn).

 10. Bàn về chứng mạch và phép chữa bệnh người hỏa hư.

 12. Phụ: Mạch lý Tần Hồ (nguyên văn).

 Bảy thiên trên tổng hợp một số điểm thiết yếu về y học cơ sở trích ở kinh điển Đông y, trình bày một cách sơ lược cô đọng và có nhiều chỗ sai sót. Bốn thiên 8, 8, 10, 11 là những y án của tác giả đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn trị bệnh chủ yếu với phương thang sáng chế. Ở đây phần lý luận cơ bản không được trình bày theo trình tự thông thường. Những cổ phương Trung y được vận dụng trong các bệnh án cũng chỉ nói qua tên phương mà không ghi thành phần các vị thuốc. Nhìn qua nội dung thì thấy hình như trước tác chưa hoàn bị, hoặc chưa hoàn chỉnh, nhưng phân tích các phương thuốc và các bệnh án, y án, thì tác phẩm này đã tích lũy một số kinh nghiệm chữa bệnh độc đáo đáng được thừa kế.

 Vì vậy, kèm sau chúng tôi biên dịch toàn văn tập sách “Y học yếu giải” để phục vụ việc tham khảo nghiên cứu, trừ phần mạch học của Lý Tần Hồ đã có trong sách Trung y do người chép thêm vào sau. Về trình tự, chúng tôi có chuyển thiên thứ 8 về bệnh án vào sau cuối với phần trên. Trong việc biên dịch, chúng tôi đã đính chính những chữ viết nhầm đối chiếu với kinh điển, còn những lời chú thích của người trước trong sách chữ Hán thì vẫn dịch ra để trong  vòng đơn (…). Chúng tôi có giải thích những chỗ tối nghĩa để riêng trong hai gạch xiên /…/, hoặc kèm phân tích các phương thuốc vào dưới trang hay dưới mỗi bệnh án, nhằm giúp bạn đọc đỡ tra cứu. Còn các phương Trung y được nói tới hay vận dụng trong sách thì chúng tôi phân tích ở bản sách kèm sau.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 18, 2018, 11:38:41 AM
NHỮNG PHƯƠNG THUỐC KINH NGHIỆM
CỦA HỌ CHU

 Trong các y án, bệnh án, họ Chu đã sáng chế một số phương ứng trị như sau:

 a) Về điều bổ thủy hỏa, có phương Tư khảm đơn bổ thận thủy và Dưỡng ly đơn bổ tâm hỏa, với phương pháp gia giảm theo chứng, để tiếp bổ các trường hợp tinh huyết sút kém, hay khí lực suy nhược.

 b) Về trị bệnh ngoại cảm (thương hàn – ôn dịch), tác giả sáng lập hai phương trung tâm, để thông trị các thể bệnh:

 - Đãng khấu thang (có nghĩa là đuổi giặc) dùng chữa các chứng nhiệt, thuộc các kinh dương với tác dụng thanh nhiệt giải biểu và dưỡng âm hòa lý.

 - Cố nguyên thang (củng cố nguyên khí) dùng thuốc ôn bổ chữa các bệnh về khí và các chứng cảm hàn, trúng hàn, hư hàn, thuộc các kinh âm.

 c) Trị bệnh ôn nhiệt, thực chứng, tác giả có các phương:

 - Thần tiên cứu khổ đan (bệnh án số 16), dùng chữa bệnh sốt nóng, rung giật, hôn mê.

 - Đạt khiếu thang (bệnh án số 16) chữa trẻ em sốt cao, rung giật, sau bị câm, không nói.

 - Nhiệt ban tán (thiên VIII – Y án về thương hàn) trị ôn nhiệt, phát ban, nổi mẩn đỏ.

 -Thoái độc đan (bệnh án số 15), trị bệnh đơn nhiệt, suốt mình đỏ, nổi mẩn, mê sảng.

 - Dẫn thần thang (bệnh án số 15) trị sốt phát ban, sau biến chứng ngớ ngẩn.

 - Tuấn lưu ẩm (bệnh án số 12) trị nóng âm, sốt cơn kéo dài, khát nước, nói nhảm, ỉa tháo.

 - Bạch long tán (bệnh án số 12) chữa nhiệt tả (ỉa tháo ra nước).

 - Tân tăng thừa khí thang (bệnh án số 14) trị bệnh sốt nóng, bí ỉa, hỏa uất hôn mê, co cứng, nhắm mắt, nhiệt quyết.

 - Thanh hồn thang (bệnh án số 11), trị bệnh ôn nhiệt, đau bụng đi ngoài ra máu.

 - Khai quan tán (bệnh án số 11), trị bệnh ôn nhiệt, họng tắc nuốt không xuống.

 d) Chữa các hư chứng, tác giả có các phương tiếp bổ như:

 - Tam vị tiếp âm (bệnh án số 13), chữa sốt âm li bì, tinh thần mê man, da khô gầy róc, lưỡi môi nứt nẻ.

 - Cứu âm phản bản (bệnh án số 10), chữa sốt cao kinh giật, khó thở.

 - Bổ thổ nạp hỏa thang (bệnh án số 2,) chữa chứng trên nóng, dưới ỉa chảy, đau bụng từng cơn.

 - Độc thánh thang (bệnh án số 4), chữa hư chứng ỉa chảy vào tảng sáng.

 - Giản kim thang (bệnh án số 9), chữa sốt âm phiền khát, khó ngủ, ít ăn.

 - Bổ nguyên ích thổ (bệnh án số 1), chữa trường hợp trên nóng dưới lạnh, đi ngoài phân lỏng.

 - Cứu dương lý khí (bệnh án số 3), chữa trường hợp sau bệnh ngoại cảm, biến chứng phù thũng.

 - lập châu thang (bệnh án số 7), chữa bệnh phù thũng hôn mê, ỉa chảy, bí đái.

 - Hàn bệnh tán (Y án về thương hàn), chữa trường hợp hư hàn hoặc nhân cảm gió lạnh ẩm ướt, mà ban bị hãm đen không mọc được.

 Qua phân tích các phương thuốc, chúng ta sẽ thấy được họ Chu có một đường lối chữa bệnh linh hoạt, với cách gia giảm vào một số phương hạch tâm điều trị bệnh ngoại cảm các thể, dương chứng và âm chứng, cũng như bệnh ở trong về Thủy, Hỏa thiên lệch, với phép điều bổ thích hợp để tăng cường nguyên khí. Đối với các bệnh ôn nhiệt, một số phương trong các y án và bệnh án của họ Chu cũng cho thấy một hướng độc đáo bằng cách thanh nhiệt tả hỏa, lương huyết tư âm. Về việc điều trị các hư chứng, tác giả phối hợp các phương thang điều bổ và tiếp bổ âm dương khí huyết, mà giải quyết bệnh chứng một cách căn bản.

 Một số phương này tuy ít, nhưng có nhiều tác dụng thực tiễn. Nếu được quy nạp thành hệ thống và vận dụng linh hoạt theo biện chứng, những kinh nghiệm của họ Chu có thể góp phần không nhỏ vào kho tàng quý báu của y học dân tộc. Trong việc thừa kế, chúng ta sẽ thận trọng lưu ý về các vị thuốc có độc như Phụ tử, phải theo quy chế hiện hành và dè dặt đối với bệnh chứng ngày nay phần nhiều thuộc loại âm hư, tạng nhiệt, thường khí hậu khô nóng, bệnh hư hàn ít gặp.

 Mong các bạn tiếp tục nghiên cứu thêm để phát huy tác dụng di sản của dòng họ Chu, phục vụ y tế xã hội chủ nghĩa. Việc nghiên cứu bước đầu của chúng tôi cả về nội dung tập sách, cùng các phương chữa bệnh nói trên, hẳn còn nhiều thiếu sót, trước tình tiết phức tạp của tư liệu và khả năng hạn chế của chúng tôi. Vậy chúng tôi thiết tha mong đợi, với lòng biết ơn chân thành, những ý kiến nhuận chinh của các bạn xa gần.

Lê Trần Đức


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 27, 2018, 09:20:46 AM
1 - BÀN CHUNG VỀ NHỮNG ĐIỀU THIẾT YẾU CỦA Y HỌC

 Chữ "nhân" (nhân đức) là mấu chốt của người thầy thuốc, rồi đến chữ "minh" (sáng suốt) và chữ "trí" (khôn khéo). Tuy đạo y là một đạo nhỏ, nhưng người thầy thuốc cần phải có đủ ba đức tính đó. Vì rằng thầy thuốc có đủ ba đức tính đó, thì mới thấu suốt được chân lý của kinh dịch (1), hiểu rõ tình hình biến đổi về bệnh lý cũng như vật lý. Cho nên trông mà biết gọi là thần, nghe mà biết gọi là thánh, hỏi mà biết bệnh gọi là tài, xem mà biết bệnh gọi là khéo. Phàm thầy thuốc đã giầu lòng chữa bệnh cứu người mà có cả bốn điều ấy, há chẳng phải là đủ ba đức tính nhân, minh, trí, đó ư! Người nào làm được một điều mà cũng đã gọi là thầy thuốc, nếu làm được đủ cả bốn điều, nắm được đầu mối bệnh tật thì càng đáng đủ gọi là thầy thuốc lắm rồi, vì không bỏ sót mặt nào, đó là việc nhân, chỉ có bậc thần thánh mới làm được.

 Nhưng nghề y vốn là "nhân thuật", người thầy thuốc phải nghĩ đến việc cứu sống người, lấy dịch lý làm đầu, lấy mạch làm căn cứ.

 Điều thứ nhất là xem khí sắc của người bệnh: Sắc xanh trắng phần nhiều thuộc hàn, nhưng không phải hết thảy là hàn cả (2), sắc vàng đỏ đen phần nhiều thuộc nhiệt, nhưng không phải đều là nhiệt hết (3). Người béo bệu là dương hư, dương hư thì nhiều đờm. Người gầy róc là âm hư, âm hư thì nhiều hỏa. Nhưng béo mà đen chưa hẳn là khí hư (4), gầy mà xanh chưa chắc là huyết kém (5).

 Với lại xem mạch có thần hay không có thần mà phán đoán được sống hay chết, có khí hay không có khí (5) mà phân biệt được thọ hay yểu. Trong khi quan sát chỉ trông qua mà thấy rõ.

 Điều thứ hai là nghe thanh âm, bệnh thực thì hơi thở to, bệnh hư thì tiếng nói nhỏ. Người khỏe thì tiếng to mà giòn vang, người yếu thì tiếng nhỏ ma dồn gấp. Tiếng trước dài mà sau ngắn là khí hư ở dưới, trước ngắn mà sau dài là khí hư ở trên. Cả đến huyết hư thì tiếng rít, dương hư thì tiếng thấp bé, âm hư thì tiếng khô khan, tâm phế thực thì nói nhiều mà mạnh mẽ, tâm phế hư thì biếng nói mà yếu ớt. Với lại tâm hỏa nung nấu thì nói càn, tôn khí (Đản trung) hư yếu thì ít nói, tiếng kim thì trong, tiếng thổ thì đục, tiếng thủy thì lõa, tiếng mộc thì dài, lấy từng loại mà suy ra thì biết chung được có bệnh hay không có bệnh.

 Điều thứ ba là hỏi người bệnh, trước đã ăn uống những thức gì mà xét tình khí trước với gần đây. Ví rằng: thích ăn nguội uống mát là tạng nhiệt có dư, ưa ăn nóng uống ấm là tạng hàn nhất định, tuy vậy, sở thích của tỳ vị cũng có: vị thì ưa mát mà tỳ thì ưa ấm cũng nên nghĩ tới.

 Về một bệnh đau bụng nên chia ra chứng nội nhân (7) với ngoại nhân (VIII), bệnh lâu hay bệnh nặng khác nhau (9), nên dùng thuốc nóng hay thuốc lạnh tùy từng trường hợp.

 Về một bệnh nhức đầu, nên xem ở kinh Thái dương (10) với Thiếu dương (11) khí hư hay huyết kém khác nhau, mà liệu nên dùng thuốc thanh hay thuốc bổ (12) khéo ở đúng bệnh thì kết quả. Chớ cho rằng Nhân sâm, Nhục quế, là quý, Trần bì, Chỉ xác là thường; hàn ôn lương là cần, thăng giáng tán là quý.

 Đại khái, thực thì tả, hư thì bổ, phong thì tán, hàn thì ôn, tùy từng bệnh từng mùa, đầu cuối hỏi han cặn kẽ: cả đến hàng ngày sinh hoạt, hay sợ hay ghét những gì? Các mặt thực hay hư, nên dùng phép vọng (trông), văn (nghe) tham khảo suy lường thì cũng đã hiểu được quá nửa, mà thấu suốt được bệnh tình.

 Điều thứ tư là: lòng còn chút nghi ngờ chưa rõ hết gốc bệnh nên yên tĩnh tinh thần, điều hòa hơi thở xem các bộ mạch, để nhận định cái còn ngờ cho phù hợp với cái sở kiến.

 Mạch thì nói chung có Phù, Trầm, Trì, Sác (13) khác nhau: Huyền, Hồng, Mao, Thạch khác nhau (14). Đại lược xem ở sách Mạch quyết, Kỳ kinh bát mạch và mạch học của họ Lý (15) là đủ.

 Đã hiểu rõ cả bốn điều trên, thì thuốc nào mà chẳng hay, bệnh nào mà chẳng khỏi. Vậy, tuy không khéo vận dụng bằng người xưa mà cứu được những bệnh khó khăn, nhưng đối với bệnh thông thường cũng có thể coi là thầy thuốc khá được. Há không gọi là điều mấu chốt mà cũng cho là người hiểu biết tinh thông, sáng suốt đó ư!

1. Kinh dịch là triết học cổ đại của Á đông, lấy âm dương làm cơ sở, vạch ra quy luật biến đổi của âm dương vũ trụ, cũng như trong mọi sự vật. Y học Á đông (Đông y) được xây dựng trên cơ sở của nền triết học này, ví người như một phần tử của vũ trụ và cùng chung một quy luật biến đổi về sinh lý cũng như bệnh lý.

2. Bệnh lao phổi người mất máu, sắc mặt xanh, trắng nhưng thuộc hư nhiệt.

3. Người bệnh sốt rét cơn, có báng lách, bệnh thấp thũng, da vàng xám, đều do tỳ thấp, bệnh thuộc hư hàn.

4. Người béo bệu là khí trệ, nhưng béo đen là khí huyết sung thực, người khỏe.

5. Bệnh hen suyễn, ho lao, kết hạch, người gầy xanh, nhưng thuộc bệnh lý khí hư đờm trệ.

6. Mạch ở mức trung bình mà chạy hòa hoãn và có lực thì gọi là mạch có vị khí.

7. Đau bụng về nội nhân do ăn uống gồm ngộ độc, tích trệ, giun sán, hay khí huyết ngưng tụ thành hòn báng.

8. Đau bụng về ngoại cảm thường là đau bụng lạnh dạ kèm nôn mửa, ỉa tháo, hay thổ tả, co quắp, quyết lạnh.

9. Bệnh đau bụng đã lâu là đau dạ dầy, đau bụng giun, đau ruột hay báng hòn (khí huyết tích tụ). Bệnh nặng thường là  đau bệnh do ngộ độc, giun quấy, tắc ruột, đau ruột thừa (manh tràng) đau gan lách.

10. Nhức đầu về kinh Thái dương là đau ê ẩm, nặng ở đỉnh đầu và cứng gáy, đau mỏi dọc sống lưng, do ngoại cảm hàn thấp, hoặc có phát sốt sợ gió lạnh.

11. Nhức đầu về kinh Thiếu dương là nhói ở hai bên góc đầu phía trước, ở hai bên thái dương, có khi đau khi không hoặc kèm ù tai, nóng rét qua lại.

12. Đau đầu phía sau gáy là do hàn thấp, thì phải hành khí phát tán phong thấp, nhức đầu về phía trước trán do cảm nắng thì thanh nhiệt, đau nhói ở thái dương là hỏa bốc (Thiếu dương tướng hỏa) thì dùng thuốc bổ thủy bình can tư âm giáng hỏa. Váng đầu chóng mặt là do huyết hư, thiếu máu, khí hãm ở dưới, thì phải dùng thuốc bổ khí huyết, đưa khí trong lên, dẫn khí đục xuống.

13. Phù là mạch chạy nổi, biểu hiện bệnh ở biểu (ngoài).

Trầm là mạch chạy chìm, biểu hiện bệnh ở lý (trong).

Trì là mạch chạy chậm, biểu hiện bệnh thuộc hàn (lạnh).

Sác là mạch chạy nhanh, biểu hiện bệnh thuộc nhiệt (nóng).

14. Huyền là mạch chạy căng, thuộc can mộc, ứng về mùa xuân.

Hồng là mạch chạy to khỏe, thuộc tâm hỏa, ứng về mùa hạ.

Mao là mạch chạy nhẹ như lông, thuộc phế kim, ứng về mùa thu.

Thạch là mạch chạy nặng trĩu như đá, thuộc thận thủy, ứng về mùa đông.

15. Sách mạch của Lý Thời Trân (danh y Trung Quốc thế kỷ XVI) bổ sung về 8 mạch ngoài kinh là mạch Đốc, mạch Nhâm, mạch Xung, mạch Đới, Dương kiều, Âm kiều, Dương duy, Âm duy (câu này có lẽ do người chép sách đời sau thêm vào, kèm phụ lục mạch học toàn văn ngụ ý giới thiệu một tài liệu tham khảo, vì nội dung thiên "Mạch yếu" quá sơ lược không nói tới các yếu tố cơ bản hay các mạch tượng chủ yếu về việc xem mạch đoán bệnh.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 27, 2018, 11:12:05 AM
2 - BÀN VỀ CƠ CHẾ BỆNH

 Trong khoảng trời đất người ta sinh ra không biết bao nhiêu mà kể. Mỗi người bẩm thụ không đều, ưa thích cũng khác. Khí vận có đổi thay, khí huyết cũng khác biệt. Gọi chung thì có 404 bệnh mà kỳ thực chỉ có 8 mà thôi. Tám là gì? - Là âm, dương, thủy, hỏa, hư, thực, hàn, nhiệt. Thật tuy có tám, mà cơ chế bệnh thì chỉ có một mà thôi. Một là gì? - Một là chỉ có một chữ "dục" (ham muốn).

 Phàm người ta chết là vì cuộc sống, ốm là vì dục vọng. Các bậc thánh hiền đời thượng cổ ít dục vọng, cho nên ít bệnh. Đến như ăn uống có tiết độ, sinh hoạt có chừng mực, không làm lụng nhọc mệt quá sức, tinh thần giữ vững ở trong, cho nên bệnh từ ngoài không phát sinh được. Con người đời sau thường kiêu ngoa giả dối, ăn uống không tiết độ, sinh hoạt không giờ giấc, hoặc làm mệt nhọc hình thể, hao tán tinh khí, hoặc làm tổn thương khí lực, suy nhược tinh thần. Lòng "dục" làm lụy đã nhiều, huống hồ thất tình (mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, kinh) công phạt ở trong, lục dâm (gió, lạnh, mưa, khô, nóng) xâm phạm ở ngoài, do đó, bệnh mới có cơ sở hình thành được.

 Cho nên mừng quá thì hỏa dấy lên ở tâm, giận quá thì hỏa phát ra ở can, lo nghĩ quá thì hỏa động ở tỳ, buồn sầu quá thì hỏa uất ở phế, sợ hãi quá thì hỏa  bốc ở thận. Một tâm hỏa động thì hỏa các tạng khác đều theo. Một thận thủy thiếu thì thì tân dịch của năm tạng đều cạn. Chân dương hư thì mọi phần âm lấn át, cho nên dương tà ở ngoài vào được thì tất bệnh về âm, bốn tạng hư suy thì cuối cùng đến thận.

 Các chứng phần nhiều do ăn uống, các bệnh đều khởi từ thương hàn. Các chứng phong choáng váng co giật đều thuộc can mộc, các chứng hàn co quắp đều thuộc thận thủy, các chứng khí đưa lên đều thuộc phế kim, các chứng đau sưng lở ngứa đều thuộc tâm hỏa, các chứng thũng trệ thấp đầy đều thuộc tỳ thổ, các chứng quyết lạnh, bế tắc hay tiết ra đều thuộc hạ tiêu. Các chứng yếu liệt, suyễn thở, nôn mửa đều thuộc thượng tiêu. Các chứng nhiệt hôn mê cuồng loạn đều thuộc về hỏa. Các chứng lạnh nôn tháo, tràn nước đều thuộc về thủy. Dương khí suy ở dưới thì thành chứng hàn quyết, âm khí suy ở dưới thì thành chứng nhiệt quyết. Chứng nhiệt quyết thì móng tay đỏ mà mình ấm; chứng hàn quyết thì móng tay xanh thân mình mát lạnh.

 Người ta vì cảm lạnh, thì (sợ gió lạnh) muốn khép kín cửa lại; vì cảm nắng thì đổ mồ hôi, khát nước, lúc yên tĩnh thì lại nói luôn; vì cảm thấp thì gân mềm mà tê liệt; vì khí hư thì thành bệnh thũng; vì cảm phong thì sinh bệnh lị và thành chứng trĩ.

 Năm chứng bệnh (thuộc ngũ tạng) là: Bệnh ở tâm thì hay ợ, bệnh ở phế thì ho; bệnh ở can thì hay nói nhiều; bệnh ở tỳ thì hay nuốt chua; bệnh ở thận thì hay ngáp, hắt hơi. Bệnh ở dạ dầy thì hay ọe, bệnh ở đại tràng, tiểu tràng thì hay ỉa chảy. Hạ tiêu nước tràn thì thành thủy thũng. Bàng quang bế tắc thì đái không thông, không tự chế ước được thì vãi đái.

 Năm nguồn phát bệnh là: Âm bệnh thường phát ra ở xương, và ở thịt; dương bệnh thường phát ra ở huyết. Dương bệnh thì hay phát về mùa đông; âm bệnh thì hay phát về mùa hạ.

 Năm chứng rối loạn là: Tà vào phần dương (khí) thì phát cuồng, tà vào phần âm (huyết) thì sinh tê thấp. Tà kích bác ở phần dương thì sinh điên; tà kích bác ở phần âm thì câm, không nói. Tà vào phần âm (huyết) thì im lặng; tà vào phần dương (khí) thì cáu giận.

 Năm chứng tổn thương là: Nhìn lâu thì tổn hại huyết, nằm lâu thì tổn hại khí, ngồi lâu thì tổn hại thịt, đứng lâu thì tổn hại xương, đi lâu thì tổn hại gân. Lo buồn sợ hãi thì tổn thương đến tâm; thân thể bị lạnh, uống nước lạnh thì tổn thương đến phế; rơi ngã, tức giận thì tổn thương đến can; ăn uống không điều độ thì tổn thương đến tỳ; phòng dục quá độ thì tổn thương đến thận.

 Mặt nóng là dạ dầy bị bệnh, hoặc kèm co rút mà đau, cách mạc và họng không thông. Bụng dưới sôi là đại tràng bị bệnh, hoặc kèm đau chỗ ngang rốn mà không đứng được lâu. Tiểu tràng bị bệnh thì đau bụng dưới giằng xuống hòn dái, trước tai và trên vai đều nóng. Tam tiêu (1) bị bệnh thì tiểu tiện bức tức - nước tràn thành đầy trướng. Bàng quang bị bệnh thì bụng dưới rắn, muốn đi tiểu không được. Đởm bị bệnh thì miệng đắng muốn nhổ vặt và thích thở dài. Như vậy, năm tạng không điều hòa thì bảy khiếu không thông, sáu phủ không điều hòa thì lưu kết thành ung nhọt. Cho nên khí âm thịnh quá thì sinh chứng quan (bí cả đại tiểu tiện, khiếu dưới không thông) khí dương thịnh quá thì sinh chứng cách (nôn ói, ăn uống không vào được).

1. Cơ năng khí hóa và đường thông thủy dịch khắp thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 28, 2018, 10:02:39 AM
 Bệnh cảm lạnh thường nhiều đờm mà sợ lạnh; cảm gió thường nhiều mồ hôi mà sợ gió; cảm nắng thường khát nước mà sợ nắng; cảm táo khí thì hay ọe khan và ghét khô ráo; cảm thấp khí thì rũ mỏi mà ghét ẩm ướt; cảm nóng thì phiền loạn mà ghét lửa. Ăn nhiều mà khí yếu là chứng huyết thoát; ăn ít mà khí đầy là bệnh tà ở phế. Chứng thực hay phát nóng, chứng hư hay phát rét.

 Hỏa với khí là dương, thủy với huyết là âm. Cho nên bệnh nặng về ban ngày là do hỏa, bệnh nặng về ban đêm là do thủy. Bệnh ở phủ còn nông, bệnh ở tạng đã sâu, đó là do bệnh thuộc dương hay thuộc âm khác nhau. Bệnh về ban ngày nhẹ, bệnh về ban đêm nặng là do ở phần khí hay ở phần huyết khác nhau.

 Nói về bệnh ở ngũ tạng: Bệnh ở can thì đau sườn, hay giận, chứng hư thì tai điếc mắt mờ. Bệnh ở tâm thì đau cánh tay và hay nói, chứng hư thì hay quên và sợ hãi. Bệnh ở tỳ thì thịt nhẽo, đau chân tay; chứng hư thì ỉa sống phân, sôi bụng. Bệnh ở phế thì khí đưa ngược lên và đau đùi vế, chứng hư thì họng khô, ngắn hơi. Bệnh ở thận thì đau eo lưng, thân mình nặng nề, ho vướng cổ, bụng trướng to, chứng hư thì chân lạnh, ngực đau mà ý không vui.

 Nói về bệnh ở tràng vị: Vị nhiệt thì ăn mau tiêu chóng đói, nóng ở vùng da trên rốn; vị hàn thì đầy trướng nôn mửa. Đại tràng nhiệt thì phân vàng sột sệt như cháo nát; vùng da dưới rốn lạnh và bụng lạnh thì tiểu tràng đau. Vị khí thịnh Dương minh thực thì chân tay múa may không ngừng; tỳ khí hư yếu thì chân tay không cử động.

 Mồ hôi cũng như mưa móc của trời, mồ hôi ra nhiều quá tuy nói là vong dương, mà kỳ thực là vong âm, vì rằng do âm hóa sinh mà có mồ hôi tiết ra. Tân dịch là tinh hoa của thủy cốc, dịch sinh ra tuy là ở tỳ, mà thực chất là bẩm khí ở vị, cho nên dạ dầy khỏe thì dịch mới sản sinh ra. Và nhờ có dịch sinh ra thì tay chân mới có thể vận động được. Nhờ có phát ra mồ hôi được, thì bệnh tà ngoại cảm mới được giải tán. Nếu bệnh thương hàn đã ba ngày mà không ra được mồ hôi thì nguy. Bệnh cảm nhiệt quá kỳ mà không cứu lấy tân dịch thì chết.

 Nói về hàn nhiệt truyền biến giữa các tạng phủ: Thận di hàn sang tỳ thì sinh ra ung thũng thở yếu. Tỳ di hàn sang can thì sinh ung thũng gân rút. Can di hàn sang tâm thì sinh điên cuồng mà cách mạc bế tắc. Tâm di hàn sang phế thì thành chứng phế tiêu, uống vào một phần đái ra hai phần thì chết. Phế di hàn sang thận, thì đại tràng trào nước. Tỳ di nhiệt sang can thì kinh sợ và đổ máu mũi. Can di nhiệt sang tâm thì chết. Tâm di nhiệt sang phế thì cách mạc tiêu khô. Phế di nhiệt sang thận thì sinh chứng nhu sí (1). Thận di nhiệt sang tỳ thì sinh chứng lị mà chết. Tâm bào di nhiệt sang bàng quang thì bí đái, đái ra máu. Bàng quang di nhiệt sang tiểu tràng thì táo bón và lở miệng. Tiểu tràng di nhiệt sang đại tràng thì nối cục và đau xiên xuống dưới (hà sán). Đại tràng di nhiệt sang vị thì chóng tiêu, ăn được mà gầy róc. Các chứng đau ruột có thể chữa được. Còn chứng đau tim thật mà tay chân xanh đến khớp khuỷu thì không thể chữa được.

 Với lại, vinh khí hư thì sinh tê dại, vệ khí hư thì không vận động được. Người thở ra có tiếng là do phế lạc, phế mạch khí nghịch đưa lên. Người mắt không nhắm được (khó ngủ) là do âm hư ở trong. Đầu là nơi tụ hội của các kinh dương, bụng là nơi chứa đựng các tạng âm. Các chứng hỏa biểu hiện ra ở đầu chót ngón tay trước, các chứng phù thũng đều biểu lộ ra dưới mi mắt trước; lấy đó mà phân biệt chứng nhiệt và chứng thũng. Các chứng phong cảm vào từ lỗ mũi trước; các chứng thấp cảm vào từ gan bàn chân trước; lấy đó mà phân biệt chứng liệt (nuy) và chứng tê (tý) khác nhau.

 Lại còn tâm khí không giao xuống dưới thì kinh nguyệt không thông; vị khí không điều hòa thì không nằm ngửa ngay thẳng được (ngủ không yên). Tủy lấy não làm chủ, khí lạnh phạm vào não thì đầu và răng đều đau, không riêng là do vị nhiệt. Tóc là phần dư của huyết, hỏa nhiều thì lông tóc đỏ úa, không những là do huyết hư. Khi có bệnh, miệng ngọt là tỳ nhiệt, miệng đắng là đởm nhiệt. Phàm chính khí tràn đầy ở ngoài thì bệnh phần nhiều thuộc thực (hữu dư). Phàm tà khí xâm vào được, là đều do ở trong hư yếu (bất túc).

 Người ta ngáp là do khí âm và khí dương cùng dẫn theo nhau, ọe là do tà khí và chính khí chống nhau. Người ta ợ là do lạnh từ tâm mà tản sang vị, hắt hơi là do khí đầy ở tâm mà dồn ra mũi.

1. Nhu sí: Bệnh lưng gáy cứng đờ có hôi do ngoại cảm phong thấp.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 28, 2018, 04:50:39 PM
 Mắt là nơi tôn mạch (1) tụ hội, trong lòng thương xót động đến mạch thì nước mắt nước mũi chảy ra. Cảm phong thì phần nhiều là chứng thực, hỏa động thủy. Tai là nơi tôn mạch tụ hội, vị (dạ dầy) trống mạch hư thì sinh chứng tai như ve kêu. Thủy kém hỏa động thì tai ù không nghe rõ, gặp tiếng pháo, tiếng sấm thì chợt cảm thấy đã sợ. Cho nên thầy Mạnh Tử cọi trọng con ngươi và kinh Lăng Nghiêm nhà Phật coi trọng nhĩ căn là thế.

 Đến như Tâm Tỳ bị nhiệt thì miệng lưỡi lở loét, Thận hỏa bốc lên thì chân răng chảy máu. Khí Thiếu dương (Đởm) thịnh quá thì má hàm sưng, khí Dương minh (vị) thịnh quá thì lợi môi lở. Ỉa sống phân, vãi đái, hoạt tinh đều thuộc về hàn; các thủy dịch tiết ra vẩn đục đều thuộc về nhiệt. Hay đói mà không ăn được là thượng tiêu nóng, trung tiêu lạnh; hay quên nhãng việc là trên hư dưới thực. Đó là tám điều hư.

 Tâm Phế có tà thì khí tụ ở hai khuỷu tay; Can có tà thì khí tụ ở hai nách; Tỳ có tà thì khí tụ ở hai bẹn (phía trước trong đùi); Thận có tà thì khí tụ ở hai khoeo chân. Các chỗ ấy có tà thì hay sinh ra co và rút. Về năm bộ: 1 là chỗ Phục thỏ (chỗ thịt giô cao lên ở phía trên đùi, cách đầu gối 6 thốn); 2 là chỗ bắp chân (bụng chân); 3 là lưng; 4 là tạng du (các huyệt du thuộc ngũ tạng); 5 là gáy. Năm chỗ này phát ung thư (mụn chìm) là chết. Trẻ con có bệnh mà tóc đứng dựng lên là chết. Người bệnh mà tính tình thay đổi trái thường là chết. Với lại bệnh mà không nói được, thịt hao mòn hết đều khó chữa; âm dương ly thoát là chết. Bệnh điên (đại phong), ho lao (lao), cổ trướng (cổ), phong hủi (lại) là bốn chứng khó chữa; thủy thũng, phù trướng, băng huyết, lâm lậu là bốn bệnh có thể chữa được.

 Về một bệnh trướng, có năm loại khác nhau: Thủy trướng thì hố mắt hơi sưng, bụng to, ấn tay vào thì lõm xuống, nhấc tay ra lại đầy lên ngay. Phu trướng thì mình thũng, sắc da bụng như thường, ấn vào thì lõm xuống, nhấc tay lên không đầy ngay. Cổ trướng thì bụng nổi gân sắc vàng. Tràng đàm thì lạnh tụ ở ngoài ruột, lúc mới phát to bằng trứng gà, sau tựa như có thai, kinh nguyệt thấy đều. Thạch hà thì khí lạnh tụ lại ở trong tử cung, lúc đầu như mới kết thai, sau thành như chửa, mà kinh nguyệt không đều.

 Bệnh sốt rét cũng chia thành nhiều chứng: Chứng sốt rét thuộc Túc thái dương thì trước rét sau nóng, đau lưng, nặng đầu, hết cơn nóng thì ra mồ hôi. Chứng sốt rét thuộc Túc thiếu dương thì rét ít nóng nhiều, người mỏi mệt không muốn tiếp xúc, cơn nóng lên thì mồ hôi ra nhiều. Chứng sốt rét thuộc Dương minh thì ưa ánh sáng mặt trời. Chứng sốt rét thuộc Thái âm thì thở dài mà hay nôn. Chứng sốt rét thuộc Thiếu âm thì thích đóng cửa kín (sợ gió lạnh), về thể bệnh khó chữa. Chứng sốt rét thuộc Quyết âm thì tựa như bí đái mà không phải bí đái, bụng đầy mà hay sợ. Chứng sốt rét thuộc Phế thì kinh sợ và rét dữ. Chứng sốt rét thuộc Tâm tì bứt dứt, ưa lạnh mà không nóng lắm. Chứng sốt rét thuộc Can thì sắc da xanh, thở dài, dáng người như sắp chết. Chứng sốt rét thuộc Tỳ thì đau bụng, sôi bụng. Chứng sốt rét thuộc Thận thì đau lưng, táo bón. Lại còn chứng sốt rét lâu ngày, sốt rét do thực tích khác nhau; chứng sốt rét thuần nóng, và chứng cơn nóng lạnh tựa như sốt rét khác nhau. Đại khái dương dồn vào âm thì rét nhiều, âm dồn vào dương thì nóng nhiều, âm dương tranh thắng lẫn nhau thì khát hay không khát có khác nhau. Chính khí và tà khí giao tranh lẫn nhau, thì cơn sốt rét lâu hay chóng có khác nhau. Tóm lại, lúc mới cảm nhiễm phần nhiều từ tứ chi, rồi dần vào ba kinh âm mà thôi.

1. Tôn mạch: Mạch chính


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 28, 2018, 06:16:50 PM
 Về một bệnh ho: Chứng ho do Phế thì suyễn thở, nhổ ra máu, ho do Tâm thì họng sưng đau vướng tắc; ho do Can thì dưới sườn đau tức, hông đầy; ho do Tỳ thì đau âm ỉ giằng lên vai lưng, sợ cử động; ho do Thận thì đau eo lưng, thổ huyết. Chứng bệnh truyền ra phủ là: Tỳ truyền sang Vị thì giun nhói lên, và nôn ra thức ăn; Can truyền sang Đởm thì khi ho toát ra mồ hôi xanh, đọng, Phế truyền qua Đại tràng thì ho vãi phân; Tâm truyền qua Tiểu trường thì ho vãi rắm; Thận truyền sang Bàng quang thì ho vãi đái; lâu ngày truyền ra Tam tiêu thì bụng đầy mà ăn ít. Còn như ho mà chảy nhiều nước mũi, mặt phù, là do khí nghịch lên. Hen suyễn nhiều đờm là do khí hư, chủ yếu là đờm tụ ở Vị mà dồn về Phế. Bệnh ngoại cảm (thương hàn) mà ho là nhẹ, không ho là nặng. Vả lại ho lâu mà khản tiếng, mất tiếng, ho ra máu, ho ra rãi, đều là chứng nặng cả.

 Nói về chứng đau: Khí không thông thì sinh đau, gồm 15 điều: Bỗng dưng đau rồi lại đỡ là do khí lạnh lưu trú ở ngoài mạch, hễ gặp nóng thì khỏi đau ngay; hoặc đau lắm không thôi là do trúng hàn tà quá nặng; hoặc đau mà không ưa day ấn là do khí lạnh lưu trú ở trong kinh mạch; hàn nhiệt chống nhau thì mạch to, khí loạn; hoặc đau mà ưa day ấn là hàn khí lưu trú ở chỗ màng (mạc nguyên), đường huyết lạc co lại, hễ ấn vào thì khỏi đau; hoặc đau ấn vào mà cũng không thấy đỡ là do khí lạnh lưu trú ở kinh mạch sát dọc sống lưng quá sâu, nên ấn nắn vào không tới; hoặc thở thấy động ở tay là do khí lạnh lưu trú ở mạch Xung, khí ở mạch không thông nên thấy động; hoặc đau vùng Tim xiên ra lưng là do khí lạnh lưu trú ở các huyệt sau lưng, mạch với huyết hư mà đau; hoặc đau gian sườn giằng xuống bụng dưới là do khí lạnh lưu trú ở kinh Quyết âm, can cường cân mạch co rút mà đau; hoặc đau bụng giằng xuống đùi háng là do khí lạnh đưa lên bụng dưới, hoặc đau mà thành tích tụ vì khí lạnh lưu trú ở Tiểu tràng mà khí huyết không lưu thông được; hoặc bỗng dưng đau mà không tỉnh là do khí lạnh lưu trú ở ngũ tạng mà âm kiệt quyết nghịch; hoặc đau mà nôn mửa là do khí lạnh lưu trú ở tràng vị; hoặc sau khi ỉa chảy mà đau bụng là do khí lạnh lưu trú ở Tiểu trường; hoặc đau mà bí đại tiện là do khí nóng lưu trú ở Tiểu trường, tân dịch khô, thuần nóng mà sinh ra.

 Nói về khí sắc: sắc vàng mạch nhanh (khẩn) là nhiệt, sắc trắng mạch hoãn là hàn, sắc xanh đen mạch kết (chậm mà dừng đều) là đau nhiều. Phàm các bệnh phát sinh đều do khí cả: giận thì khí đưa lên, mừng thì khí hoãn, thương nhớ thì khí tiêu hao, sợ hãi thì khí chạy xuống, lạnh thì khí thu lại, nóng thì khí tiết ra, kinh hãi thì khí rối loạn, nhọc mệt thì khí hao tán, lo nghĩ thì khí ngưng kết, ấy là chín loại khí diễn biến khác nhau. Hợp lại mà xem thì khí là nguồn của trăm bệnh, phong là hàng đầu trăm bệnh, đờm là một loại giặc tác hại trong thân người ta.

 Chứng nuy (bại liệt) chủ yếu do ở kinh Dương minh. Chứng tý (tê thấp) là do ba khí phong hàn thấp xâm vào. Trong các bệnh - bệnh thấp thường tới 8 - 9/10, mà người phương Nam hay mắc nhiều hơn. Bệnh hàn thường tới 6 - 7/10, mà người phương Bắc hay mắc nhiều hơn. Phương Nam hỏa (nóng), phương Bắc thủy (lạnh), phương Đông phong (gió), phương Tây táo (khô hanh), là do khí trời tạo nên như vậy. Phần trong là âm, phần ngoài là dương, bên tả thuộc huyết, bên hữu thuộc khí, về thân người đã được phân định như vậy. Rét qua nóng lại, âm mòn dương lớn, là do một khí chu lưu, trời đất như vậy, thời tiết do đó mà thành trái thường thì sinh ra gió mưa sấm chớp. Cái này thịnh cái kia suy, chính thắng tà khí lùi, cũng do một khí hóa nên, thân người như vậy, tinh  huyết nhờ đó thường đủ, trái lại thì sinh ra ung nhọt sưng đau. Bởi thế cho nên trời đất trái thường, không gió thì mưa: người sống trái thường, không bệnh thì chết.

 Đại khái người ta dương thường có thừa mà âm thường không đủ (1). Bẩm khí của mặt trời thường đầy nóng nhiều cho nên âm bị bệnh thường nhiều mà dương bị bệnh thường ít, bệnh dương cấp mà bệnh âm chầy. Dương hư có thể phục hồi nhanh chóng, âm hư thì phải bồi dưỡng thường ngày(2). Tuổi trẻ nhiều bệnh là điều sống lâu, vì cớ nhờ cơ vi ẩn náu ở trong. Tuổi lớn phát phì, là triệu khí hư, mầm mống gây nên suy tổn từ đó (3). Người ta bẩm sinh là do thủy (nước) mà lúc chết cũng do thủy, cho nên người ốm lâu phần nhiều chết về bệnh thũng, mà hay giả khát. Người ta sống được là nhờ thổ (đất) mà khi chết cũng về đất, cho nên người sắp chết phần nhiều khí tuyệt ở vị (thổ), mà thường giả đói đòi ăn. Như thế mới biết thủy là gốc của tiên thiên (bẩm sinh), thổ là tổ của hậu thiên (di dưỡng). Bệnh lý trước sau đều lấy tỳ thận làm quan hệ, hư thực làm cốt yếu, người thầy thuốc phải nên xét kỹ.

1. Theo Chu Đan Khê: Dương thường có thừa mà âm thường không đủ, trong người thủy dịch thiếu nên hay phát bệnh nhiệt.

2. Theo phân tích biện chứng của Nội kinh (Thiên Chí yếu chân đại luận) thì loại bệnh thuộc hỏa và nhiệt chiếm hơn 2/3. Nước ta lại ở gần xích đạo nóng nhiều, nên tỷ lệ bệnh ôn nhiệt cũng nhiều hơn, và thể trạng người Việt Nam ta thường gầy khô tạng nhiệt máu nóng. Những người âm hư thủy thiếu thường hay mắc bệnh nhiệt, bệnh nhiệt thường diễn ra cấp tính và khó chữa hơn. Người hư hàn có ít và thường mắc bệnh mạn tính nhiều hơn. Bệnh hàn mạn tính ít nguy hiểm và bệnh hàn cấp tính cũng dễ chữa hơn. Cho nên đối với những người âm hư tạng nhiệt thì phải bồi dưỡng lâu ngày bằng các chất tư nhuận mới hồi phục được, khác với người dương hư được thuốc ôn bổ thì mau chóng hồi phục.

3. Lúc nhỏ nhiều bệnh mà vượt qua là nhờ bẩm khí của tiên thiên đầy đủ, từ cơ sở đó, sức khỏe được giữ vững và sống lâu. Người trung niên đã phát phì là do khí trệ, dương hư thiếu sức chống đỡ với hàn thấp nên dễ bị bệnh.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 31, 2018, 10:16:51 AM
3 - ĐIỀU BÍ QUYẾT CỦA PHÉP CHỮA BỆNH

 Nội kinh nói: "Chữa bệnh tất phải tìm gốc". Gốc là gì? Gốc là ở âm dương, hư thực. Lại nói "Trước hết phải theo vận khí, và chớ hại tới khí thiên hòa" (1). Như vậy thì biết việc chữa bệnh phải lấy ngũ tạng làm căn bản, và lấy lục dâm làm chuẩn đích.

 Cho nên, phong tà ở trong, thì chữa bằng thuốc cay mát, thêm thuốc đắng ngọt làm tá, dùng vị ngọt làm cho hòa hoãn, vị cay để phát tán ra. Nhiệt tà ở trong thì chữa bằng thuốc mặn lạnh, thêm thuốc ngọt đắng làm tá, dùng vị chua để thu liễm, vị đắng để phát tiết ra. Thấp tà ở trong thì chữa bằng thuốc đắng ấm, thêm thuốc chua nhạt làm tá, dùng vị đắng để làm cho khô ráo, vị nhạt để thấm tiết ra. Hỏa tà ở trong thì chữa bằng thuốc mặn lạnh, thêm thuốc đắng cay làm tá, dùng vị chua để thu liễm, vị đắng để làm phát tiết ra. Táo tà ở trong thì chữa bằng thuốc đắng ấm, thêm thuốc ngọt the làm tá, dùng vị đắng để hạ lợi, vị chua mặn để tư nhuận. Hàn tà ở trong thì chữa bằng thuốc ngọt nóng, thêm thuốc cay nóng làm tá, dùng vị cay để nhuận, vị đắng để làm rắn lại.

 Vả lại chữa bệnh  hàn thì dùng thuốc nhiệt, chữa bệnh nhiệt thì dùng thuốc hàn, bệnh ôn thì dùng thuốc mát, chứng mát thì dùng thuốc ấm. Khí tán thì phải thu liễm, khí uất thì phải sơ tán, khô ráo thì phải tư nhuận, co rút thì làm cho hòa hoãn, rắn kết thì làm cho mềm nhuyễn, bấy nát thì làm cho cứng chắc. Hư thì phải bổ, thực thì phải tả. Bệnh nhẹ thì dùng phép nghịch trị (2), bệnh nặng dùng phép tòng trị (3). Ngoại tà thì phải trừ đi, mệt nhọc thì phải bồi dưỡng. Kết tụ thì phải tiêu tan, tích lại thì phải công hạ, ngưng trệ thì phải vận hành, kinh hãi thì phải trấn tĩnh. Hoặc dùng cách đẩy lên, đưa xuống, xoa bóp, nặn vuốt, tẩy rửa, tống ra... Cả đến cách nghịch trị hay là "chính trị" phép tòng trị hay "phản trị", bệnh thực nhiệt giả hàn dùng thuốc hàn (4) bệnh chân hàn giả nhiệt dùng thuốc nhiệt (5), bệnh bí đầy mà dùng thuốc bết tắc (6) bệnh đi ngoài mà dùng thuốc thông lợi (7)... chủ yếu phải chữa theo căn bệnh và phải tìm ra nguyên nhân trước tiên. Cho nên cách chữa có thể trước giống nhau mà sau khác nhau, trước dùng thuốc mát sau dùng thuốc ấm.

1. "Tất tiên tuế khí" là theo vận khí của mỗi năm, như năm ấy nhiều mưa thì nhiều bệnh thấp, phải dùng thuốc táo thấp kèm thuốc khu phong như Thương truật, Bạch truật... "Vật phạt thiên hòa" là không dùng thuốc trái với thời tiết, như mùa xuân hạ thì phải dưỡng âm, thu đông thì dưỡng dương, tức xuân hạ thì không dùng Ma hoàng, Quế chi, thu đông thì không dùng Thạch cao, Hoàng liên... Tuy nhiên không nên câu nệ và cần phải theo chứng bệnh cụ thể (Lãn Ông - Vận khí bí điển).

2. Nghịch trị là dùng thuốc trái với tính chất bệnh lý mà chữa ,như bệnh hàn dùng thuốc nóng, bệnh nhiệt dùng thuốc lạnh, chứng thực dùng thuốc công, chứng hư dùng thuốc bổ. Cho nên nghịch trị cũng gọi là "Chính trị" (chữa theo lối chính).

3. Tòng trị là dùng thuốc theo chứng hiện ra, như dùng thuốc lạnh chữa chứng ngoài rét trong thật nóng, hay dùng thuốc hạ lợi chữa bệnh đi ngoài... Cho nên tòng trị cũng gọi là "Phản trị" (chữa ngược lại lối thường).

4. Nhiệt nhân hàn dụng (đời sau đổi là Hàn nhân hàn dụng) là dùng thuốc hàn lương chữa bệnh trong chân nhiệt ngoài giả hàn, có thêm vị thuốc nóng để dẫn cho khỏi phản ứng.

5. Hàn nhân nhiệt dụng (đời sau đổi Nhiệt nhân nhiệt dụng) là dùng thuốc nóng chữa bệnh chữa bệnh trong chân hàn ngoài giả nhiệt, có thêm vị thuốc lạnh để dẫn cho khỏi phản ứng.

6. Tắc nhân tắc dụng là dùng thuốc ôn bổ để chữa bệnh bị đầy do tỳ hư, mà không dùng thuốc đạo trệ theo lối thường (tức phản trị).

7. Thông nhân thông dụng là dùng thuốc hạ lợi để chữa bệnh đi ỉa luôn do tích trệ, mà không dùng thuốc thu sáp theo lối thường (tức phản trị).


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 31, 2018, 04:16:11 PM
 Bệnh ở trong thì chữa ở trong, bệnh ở ngoài thì chữa ở ngoài. Tà khí nhẹ thì dùng thuốc điều hòa; tà khí mạnh thì dùng thuốc phát hãn hay công hạ. Lại có những phép chữa ở trên, ở giữa, ở dưới, hoặc chữa theo hoàn cảnh người nghèo, người giầu khác nhau; có cách chữa lâu dài, chữa gấp rút, chữa bệnh nhẹ, chữa bệnh nặng khác nhau. Tùy chứng hư ở trên hay ở dưới mà bổ, tà nghịch ở trên hay ở dưới mà chữa. Có khi bệnh ở gốc thì phải tìm gốc mà chữa; có khi bệnh ở ngọn thì phải tìm ngọn mà chữa. Có khi bệnh ở ngọn mà phải chữa từ gốc, có khi bệnh ở gốc mà phải chữa từ ngọn. Có cách chữa bổ âm tiếp dương, hay bổ dương tiếp âm khác nhau. Có cách chữa chỗ này mà phải chiếu cố đến chỗ kia, có cách chữa lúc đầu mà phải chiếu cố về sau nữa.

 Với lại, thuốc có độc hay không độc, bệnh cần chữa ở nông hay ở sâu. Cho nên dùng loại thuốc rất độc chữa bệnh đến khi 10 phần đã khỏi được 6 phần thì thôi, dùng thuốc ít độc chữa bệnh đến khi 10 phần đã khỏi 8 phần thì thôi, dùng thuốc không độc chữa bệnh đến khi 10 phần khỏi được 9 phần thì thôi; không làm cho thực quá, không làm cho hư quá. Âm hư thì bổ âm, dương hư thì bổ dương, cả đến tạng phủ vinh vệ khí huyết đều như vậy. Can mộc uất thì phải điều đạt, Tâm hỏa uất thì phải thanh giải, Tỳ thổ uất thì phải tháo ra, Phế kim uất thì phải tiết ra (1). Thái quá thì phải nén xuống, bất cập thì phải nâng lên. Đúng với bệnh thì dùng thuốc có độc cũng không hại gì, nhưng nếu dùng quá mức thì sinh thiên lệch.

 Tà ở trên cao thì tùy thế mà cho mửa vọt ra (2), tà ở dưới thì phải hạ lợi cho kiệt đi (3). Bệnh hàn dùng thuốc nhiệt mà không thấy nóng là tại không có hỏa, thì nên bổ hỏa từ gốc để tiêu âm hàn che lấp. Bệnh nhiệt dùng thuốc lạnh mà không thấy mát là tại không có thủy, thì nên bổ thủy làm chủ để chế hư hỏa bốc lên. Như vậy thì thuốc ấm hay thuốc mát phải theo với loại của nó mà dùng, cho được đúng mức thì thôi. Đó là cách lấy hàn chữa hàn, lấy nhiệt trị nhiệt. Lại có cách chữa gián tiếp, cách một tạng hay cách ba tạng (ví dụ bổ thổ để sinh kim, bổ hỏa để sinh thổ, đều là cách chữa bệnh ở Phế). Có cách chữa theo mùa theo bệnh cho thích hợp, có khi chữa theo mạch mà không theo chứng, vì bệnh không gấp, có khi chữa theo chứng mà không theo mạch, vì mạch hòa hoãn. Đại khái bệnh gấp thì chữa theo chứng ngọn (tiêu), bệnh hoãn thì chữa theo gốc (bản), tùy bệnh chứng mà ứng biến cho linh hoạt; phương xưa mà bệnh nay, thuốc Bắc mà người Nam, cần phải tùy nghi chế biến mà ứng dụng.

 Bổ âm thì kiêng các thứ có thể thương tổn đến phần âm, mà không ảnh hưởng đến Tỳ. Bổ khí thì phòng các thứ làm hao tổn phần khí mà không tổn thương đến Thận.

 Cả đến việc dùng thuốc có quân thần tá sứ khác nhau, chớ để cho vị quân yếu, vị thần mạnh; vị thuốc cũng có ngọt đắng khác nhau nên phân biệt, khí trong đi lên, khí đục đi xuống. Cho nên vị chua vào Can trước, nhưng dùng chua quá thì Tỳ khí sẽ hết mà da thịt nhăn nheo; vị đắng vào Tâm trước, nhưng dùng đắng quá thì Phế không tư nhuận, mà lông tóc dựng đứng; vị ngọt vào Tỳ trước, nhưng dùng ngọt quá thì Thận khí mất thăng bằng mà xương cốt đau nhức; vị cay vào Phế trước, nhưng dùng vị cay quá thì tinh thần rối loạn mà gân mạch co rút; vị mặn vào Thận trước, nhưng dùng mặn quá thì tâm khí bị ức chế mà nhan sắc biến đổi. Như vậy thì biết vị cay vào phần khí, vị mặn vào phần huyết, vị đắng vào xương, vị ngọt vào thịt, vị chua vào gân. Chữa bệnh, dùng vị thuốc cũng như thức ăn, đừng nên quá mức.

 Lại còn, khí lực có nhiều (khỏe), có ít (yếu), bệnh tình có thịnh (thực), có suy (hư). Do đó cách chữa có hoãn, có cấp, phương thuốc có to, có nhỏ khác nhau. Tà khí ở cao hay ở thấp, bệnh căn có ở gần hay ở xa, chứng trạng ở trong hay ở ngoài khác nhau, nên phương thuốc trị liệu có nặng nhẹ khác nhau. Đại để, phương quân 1 vị, thần 2 vị là phép chế phương lẻ; quân 2 vị, thần 3 vị cũng là phương lẻ; quân 2 vị, thần 4 vị là phép chế phương chẵn; quân 2 vị, thần 6 vị cũng là phương chẵn. Bệnh ở gần thì dùng phương lẻ, bệnh ở xa thì dùng phương chẵn. Thuốc phát hãn thì không dùng phương lẻ, thuốc hạ lợi thì không dùng phương chẵn. Bổ ở trên trị bệnh ở trên thì chế phương hoãn (khí vị nhẹ), bổ ở dưới trị bệnh ở dưới thì chế phương cấp (khí vị đậm).

 Cho nên chữa bệnh ở gần (Tâm, Phế) thì dùng phương nhỏ, chữa bệnh ở xa (Can, Thận) thì dùng phương to, thuốc nóng lạnh ấm mát thì tùy theo bệnh. Như vậy dùng thuốc cũng như dùng binh có chính (đánh thẳng), có kỳ (đánh úp), cũng như thuốc có phương lẻ (đơn phương), có phương chẵn (hợp phương). Người khéo dùng thuốc thì mọi vị không có vị độc. Người dùng binh giỏi thì mười trận đều thắng, người chữa bệnh giỏi thì trăm bệnh đều lành, cơ yếu chữa bệnh không ngoài lẽ đó.

1. Nghi sót câu: Thận thủy uất thì phải khơi tháo xuống.

2. Như đờm tắc, xương vướng ở cổ, hay ngộ độc, bội thực ở dạ dầy thì gây nôn cho mửa ra.

3. Tích trệ táo kết ở tràng vị thì cho xổ ra.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 01, 2019, 10:10:50 AM
4 - BÀN VỀ THÂN NGƯỜI

 Trong thân thể người ta gồm có Tam tiêu (thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu), có chín khiếu (2 tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi, 1 lưỡi, 1 họng, 1 miệng), có 6 phủ (Bàng quang, Đại tràng, Tiểu tràng, Đởm, vị, Tam tiêu), có năm tạng (Tâm, Can, Tỳ, Phế, Thận), có tám vạn chín nghìn lỗ chân lông, có ba trăm sáu mươi đốt xương, có 12 đường kinh và 12 đường lạc (thuộc ngũ tạng lục phủ), ngoài ra còn có 3 đường lạc (đường lạc Âm kiều, Dương kiểu và đường lạc lớn của Tỳ). Mạch có 6 bộ (3 bộ Thốn, Quan, Xích ở tay trái và 3 bộ Thốn, Quan, Xích ở tay phải) (1) ba bộ có chín hậu (mỗi bộ có 3 mức theo tay ấn nông, vừa, và sâu). Lại có tám mạch thuộc kỳ kinh (mạch Xung, mạch Nhâm, mạch Đốc, mạch Đới, Dương kiều, Âm kiều, Dương duy, Âm duy). Huyệt du của ngũ tạng đều hệ thuộc ở lưng (xem hình vẽ ở sách Nạn kinh, quyển thượng) (2).

(https://i.imgur.com/QxAIpuE.jpg)

 Tinh hoa của ngũ tạng đều dồn ra mắt (mi mắt trên mi mắt dưới thuộc Tỳ, khóe mắt trong khóe mắt ngoài thuộc Tâm, tròng trắng thuộc Phế, tròng đen thuộc Can, con ngươi thuộc Thận). Thân thể có vinh chủ huyết ở trong, vệ chủ khí ở ngoài. Hơi thở ra hít vào có độ số tuần hoàn (279 hơi thở, mạch đi 36 trượng 2 thước là một vòng 50 độ, toàn thân tính gồm 13.500 hơi thở, mạch đi 810 trượng tức 8.100 thước, bắt đầu từ giờ Dần (3)). Khí huyết chu lưu trong thân người, không phút nào ngừng (khí âm đi từ dưới lên đến đầu mà trở xuống, khí dương đi từ trên xuống dưới đến chân thì thôi). Nói theo chiều dọc thì có thượng bộ, trung bộ, hạ bộ khác nhau, nói theo chiều ngang thì có phần biểu, phần lý, và giữa biểu giữa lý khác nhau. Trên tương ứng với trời, dưới tương ứng với đất, phần trên thuộc dương, phần dưới thuộc âm.

 Tâm chủ về thần minh, trong chủ huyết mà khai khiếu ở lưỡi, ngoài chủ mọi việc. Phế chủ trị tiết, trong chủ khí mà khai khiếu ở mũi, ngoài chủ về da lông. Can chủ về lo toan, trong chủ gân mà khai khiếu ở mắt. Đởm chủ về quyết đoán, trong chủ năm loại dịch thể mà ngoài biểu hiện ra ở móng tay móng chân. Đản trung (4) là thần sứ của Tâm, chủ về vui mừng. Tỳ, Vị là kho tàng, nhờ được hỏa (tướng hỏa của Mệnh môn) mà tiêu hóa ngũ vị (thức ăn). Đại tràng giữ chức năng truyền đạo (tống ra). Tiểu tràng giữ việc chứa đựng. Hai Thận chủ về sức bền bỉ mạnh mẽ. Tam tiêu chủ việc khơi tháo dẫn nước. Bàng quang là chỗ chứa đựng thủy dịch. Tỳ chủ về cơ thịt, mà Thận chủ về xương. Cả đến ngoài tương ứng với ngũ hành, ngũ phương, ngũ âm, ngũ thường, ngũ sắc, ngũ khí, ngũ vị, ngũ thanh, thất tinh, bát quái (5) đều là theo từng loại sở thuộc với nhau hay cùng chung tình cảm với nhau.

 Tóm lại trời đất là cha mẹ, ôm ấp khí âm dương, chỉ có một khí vận hóa, một khối bao la trong vũ trụ. Người ta là một phần tử nhỏ của vũ trụ, cho nên đầu tròn dáng trời, chân bằng dáng đất. Trời có mặt trời mặt trăng, người có hai con mắt. Đất có chín châu, người có chín khiếu. Đất có bốn bể, người có bốn chỗ chứa (tứ hải (6)). Trời có gió mây sấm chớp, người có mừng giận thanh âm. Tay có 10 ngón thì giờ có 10 can (7). Người ta có bốn chân tay thì năm có bốn mùa. Toàn thân có 360 đốt xương, năm có 360 ngày (theo âm lịch). Cả đến ngày đêm, ngôi sao, gió mưa, sương móc, là vẻ trời sáng láng ở trên; cồn đống, núi non, lạch sông, cây cỏ, là vẻ đất rõ ràng ở dưới; người thì tai mắt miệng mũi, vai khoeo lông tóc, tương ứng với khoảng giữa. Cho nên biết rằng người ta sở dĩ được sinh thành là nhờ bẩm khí của trời đất, cùng chung một nguồn gốc, cùng theo một nguyên lý, không có một cái gì là không phù hợp với trời đất. Chỉ có khác ở chỗ người bẩm thụ được khí thanh (trong) là bậc Thánh nhân; người bẩm thụ phải khí trọc (đục) là kẻ ngu dốt; người bẩm thụ khí không thanh không trọc là bậc hiền nhân. Bởi vậy, người ta thân hình tuy không khác nhau, mà tính trời phú cho lại khác nhau, vì khác nhau nên lòng người cũng khác nhau. Bẩm thụ tính tình khác nhau, thì bệnh nội thương giống nhau sao được? Việc chữa bệnh nên tìm rộng ra ngoài để phục hồi sự sống. Phục hồi hồi sự sống tức là giữ vẹn thân người; giữ vẹn thân người tức là trọn vẹn lẽ tạo hóa. Như vậy, người thầy thuốc tầm thường có thể suy biết được xiết đâu.

(https://i.imgur.com/Pfg2VXK.jpg)

1. Xem biểu chú thích về bộ vị mạch ở tay.

2. Nạn kinh là kinh điển thứ hai của Đông y do Biển Thước soạn ở thế kỷ V trước công nguyên.

3. Giờ Dần khoảng từ 3 đến 5 giờ sáng.

4. Đản trung là chỗ Tâm bào, với huyệt Đản trung giữa ngực, ngang vú.

5. Xem biểu chú thích về sự vật tương ứng với ngũ hành.

6.  Tứ hải gồm: não là Tủy hải, Đản trung chủ về khí là Khí hải, mạch Xung chủ huyết là Huyết hải, dạ dầy chứa thức ăn là Thủy cốc hải.

7. Mười can là: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quý.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 01, 2019, 11:10:53 AM
5 - ÂM DƯƠNG BIỂU LÝ

- Hai kinh Thủ thiếu âm: Tâm và Thủ thái dương Tiểu trường là biểu lý với nhau (Tâm là Đinh hỏa, Tiểu trường là Bính hỏa).

- Hai kinh Thủ quyết âm: Tâm bào và Thủ thiếu dương Tam tiêu là biểu lý với nhau.

- Hai kinh Thủ thái âm: Phế và Thủ dương minh Đại trường là biểu lý với nhau (Phế là Tân kim, Đại trường là Canh kim).

- Hai kinh Túc thái âm: Tỳ và Túc dương minh vị là biểu lý với nhau (Tỳ là Kỷ thổ, Vị là Mậu thổ).

- Hai kinh Túc quyết âm: Can và Túc thiếu dương đởm là biểu lý với nhau (Can là Ất mộc, Đởm là Giáp mộc).

- Hai kinh Túc thiếu âm: Thận và Túc thái dương Bàng quang là biểu lý với nhau (Thận là Quý thủy, Bàng quang là Nhâm thủy).

* Môi trên môi dưới gọi là Phi môn (Tỳ, Vị làm chủ).

* Dưới lưỡi gọi là Liêm tuyền (Thận làm chủ).

* Hàm răng trên, hàm răng dưới gọi là Hộ môn (Vị và Thận làm chủ)

* Trong họng có lưỡi nhỏ gọi là Huyền ung (chủ về phát, sinh).

* Dưới lưỡi nhỏ gọi là Hội yểm (chủ về thanh âm).

- Phế: như cái lọng (6 lá, 24 lỗ, chủ về khí, chứa phách).

- Tâm: như hoa sen (trên có 7 khiếu, 3 mao, chủ huyết chứa thần).

- Ngoài Tâm gọi là Tâm bào (ngoài có màng bọc).

- Chỗ Đản trung gọi là Khí hải.

- Can: hình như bẹ cây (có 7 lá chứa hồn).

- Đởm: Đởm gọi là Thanh tràng (có miệng trên, không có miệng dưới).

 - Tỳ: Tỳ như móng chân ngựa (chủ mài sát thức ăn, chứa ý).

- Vị: hình như cái túi (chủ chứa thức ăn uống, còn gọi là Hoàng tràng).

- Thận: tượng trưng cho hình Thái cực (bên phải thuộc dương, bên trái thuộc âm, giữa là Mệnh môn, chứa tinh và chí).

- Miệng trên Vị gọi là Bí môn (chủ chứa nạp).

- Miệng dưới Vị gọi là U môn (đưa thức ăn xuống Tiểu tràng).

- Tiểu tràng: ruột non cũng gọi là Xích tràng (chủ chuyển đưa).

- Miệng dưới Tiểu tràng gọi là Lan môn (chủ gạn lọc chất trong, đục).

- Đại tràng: ruột già cũng gọi là Quảng tràng (chủ truyền đưa cặn bã ra ngoài, có 16 khúc, nên còn gọi là Khúc tràng).

- Bàng quang: Bong bóng cũng gọi là Huyền hồ (có màng dính với Tiểu tràng, có miệng dưới, không có miệng trên, chứa nước tiểu).

- Trực tràng gọi là Giang môn (dài 7 tấc). Cửa Giang môn (hậu môn) cũng gọi là Phách môn (người chết Phách thoát ra ở chỗ ấy).

- Tâm, vị trí ở phương Nam, ưa thích lúa nếp. Nước dịch của Tâm hóa ra mồ hôi, tinh  hoa biểu hiện ra ở tóc. Tâm thực thì nằm mơ thấy sợ hãi, hư thì nằm mơ thấy khói lửa.

- Can, vị trí ở phương Đông, ưa thích vừng, lúa mạch. Nước dịch của Can hóa ra nước mắt, tinh hoa biểu hiện ở móng chân móng tay. Can thực thì nằm mơ thấy núi rừng, hư thì nằm mơ thấy loại cỏ nhỏ.

- Tỳ, vị trí ở giữa, ưa thích lúa kê. Nước dịch của Tỳ hóa ra nước dãi, tinh hoa biểu hiện ở môi. Tỳ thực thì nằm mơ thấy ca nhạc, hư thì nằm mơ thấy tranh ăn.

- Phế, vị trí ở phương Tây, ưa thích gạo nếp. Nước dịch của Phế hóa ra nước mũi, tinh hoa hiện ra ở lông. Phế thực thì nằm mơ thấy vũ khí, hư thì nằm mơ thấy ruộng nước.

- Thận, vị trí ở phương Bắc, ưa thích các loại đậu. Nước dịch của Thận hóa ra nước bọt, tinh  hoa biểu hiện ra ở xương. Thận thực thì nằm mơ thấy vật nặng, hư thì nằm mơ thấy lội nước.

- Mệnh môn, sách Triệu Thi Y quán (1) nói: Mệnh môn ở trong thân người, bám vào xương sống, từ trên tính xuống vào khoảng xương sống thứ 14, từ dưới dưới tính lên vào khoảng đốt thứ 7. Nội kinh nói: ở mé đốt xương sống thứ 7, giữa có một điểm như quả tim nhỏ (Tiểu tâm) tức là Mệnh môn ở đó. Từ chỗ này ngang ra mỗi bên 1 tấc 5 phân, ấy là hai quả thận. Quả thận bên tả thuộc âm thủy, quả thận bên hữu thuộc dương thủy. Âm thuỷ sinh Can mộc, dương thủy sinh Thiếu hỏa, Thiếu hỏa sinh Tỳ thổ, Thiếu hỏa tức là Tướng hỏa. Thiếu hỏa tuy có Quân hỏa (ở Tâm) sinh ra nhưng kỳ thực bắt nguồn từ Mệnh môn đó. Như vậy thì Mệnh môn cũng như khí Thái cực, tĩnh thì sinh ra âm, động thì sinh ra dương. Ngũ tạng do đó mà sinh thành, vậy thì Mệnh môn là căn bản sự sống của con người.

- Tâm là dương chủ huyết. Tâm, vị trí ở cao sâu nghiêm thẳm, có khí tượng ông vua, chủ mọi việc: trông, nghe, nói, làm, thể hiện ra ở ngoài.

- Phế là âm chủ khí. Phế, vị trí ở trên, bao trùm các tạng, có chức năng giúp đỡ vận hóa. Phế khí chủ vận hành, công dụng thiên về bên phải.

- Cách hoang, Nội kinh nói: "Trên chỗ Cách hoang, trong đó có nguồn sinh dưỡng như cha mẹ", vì Phế chủ về khí của toàn thân, Tâm chủ về huyết của toàn thân, chu lưu khắp vinh vệ, tưới khắp các mạch máu. Người ta sống lâu hay bệnh hoạn, già cỗi, đều có quan hệ ở đó, nên cho nó là nguồn sinh dưỡng của hậu thiên. Vì thế, cho nên khí huyết điều hòa thì kinh mạch được lưu thông, âm dương được giữ gìn, gân cốt được cứng chắc, các khớp được nhẹ nhàng. Khí điều hòa thì cơ nhục được hoạt lợi, da dẻ được nhu nhuận, thớ thịt được kín đáo.

 Sách Linh khu (2) nói: nguồn gốc bẩm sinh ra gọi là Tinh, hai Tinh (3) hợp lại với nhau gọi là Thần, theo thần đi lại gọi là Hồn, cùng tinh ra vào gọi là Phách. Cho nên Tâm sử dụng được mọi sự vật, Tâm ghi nhớ được gọi là ý, để ý vào sự gì đó gọi là chí, nhân chí biến thêm gọi là nghĩ, nhân nghĩ mà tính xa ra nữa gọi là lo toan, nhân lo toan mà đối xử mọi việc gọi là trí khôn (thiên Bản thần). Lại nói: các tạng có nghĩa là nơi chứa, chứa tinh khí mà không tả ra cho nên đầy mà không thực. Các phủ có nghĩa là chỗ truyền hóa vật chất mà không chứa lại, cho nên thực mà không đầy được. Lại nói: muôn việc đều chủ ở tâm, 11 tạng đều do Đởm quyết đoán.

 Lại nói: người ta có tủy hải, huyết hải, khí hải và thủy cốc chi hải. Bốn nơi này tương ứng với bốn bể ở đất. Vì dạ dày là nơi chữa thức ăn uống, mạch xung là nơi tụ hội huyết của 12 kinh. Đản trung là nơi trung tâm của tôn khí, não là nơi chứa tủy. Lại chú thích rằng: mạch thấy ở nơi khí khẩu (thốn khẩu ở cổ tay), sắc hiện ở nơi minh đường (chỗ giữa hai lông mi trên trán). Minh đường cao rộng chủ sống lâu. Sách Tố vấn nói: khí trời thông vào Phế, khí đất (thủy cốc) thông vào họng, phong khí (gió) thông vào Can, lôi khí (sấm chớp) thông vào Tâm, cốc khí (khí hang núi) thông vào Tỳ, khí nước mưa thông vào Thận. Sáu kinh là sông, tràng vị là bể (thiên Âm dương ứng tượng đại luận).

 Sách Tố vấn nói: Khi người nằm ngủ thì huyết về Can. Cho nên mắt nhờ có huyết mà trông thấy, chân nhờ có huyết mà đi được, tay nhờ có huyết mà cầm được (Ngũ tạng sinh thành luận).

 Sách Linh khu nói: Ngũ tạng tiếp thu khí trời thì trong, lục phủ tiếp thu khí ngũ cốc thì đục. Khí trong thì lên Phế, khí đục thì xuống Vị. Thanh khí của Vị thì lên miệng, trọc khí của Phế thì dồn xuống đường kinh (Âm dương thanh trọc luận).

 Nội kinh nói: Phế khí thông lên mũi, mũi điều hòa thì biết các mùi thơm, mùi hôi. Can khí thông ra mắt, mắt điều hòa thì biết rõ các màu đen, màu trắng. Tỳ khí thông ra miệng, miệng điều hòa thì biết vị của các thức ăn. Tâm khí thông ra lưỡi, lưỡi điều hào thì phân biệt được ngũ vị. Thận khí thông ra tai, tai điều hòa thì phân biệt được ngũ âm. Khí của Tam tiêu thông ra họng, họng điều hòa thì tiếng nói rõ (2 câu dưới là của Trương Khiết Cổ thêm vào, các y gia đều lấy tiền âm và hậu âm phối hợp với 7 khiếu. Dưới có 5 tạng, trên ứng với 9 khiếu. Trên là trên của thân người, thì lời Trương Khiết Cổ nói là hợp lý). Năm tạng không điều hòa thì chín khiếu không thông. Sáu phủ không điều hòa thì ngưng kết thành ung nhọt.

1. Trước tác của Triệu Hiến Khả, đời Minh, chuyên bàn về Mệnh môn hỏa.

Chúng tôi nghĩ rằng luận điểm này đã được người chép lại sách thêm vào cùng với 2 thiên IX, X.

2. Nội kinh gồm hai tập: Tố vấn và Linh khu.

3. Tinh của tiên thiên khi bẩm sinh và tinh của hậu thiên khí huyết.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 02, 2019, 10:59:14 AM
VI - HỎI VÀ TRẢ LỜI VỀ THÂN NGƯỜI

- Hỏi: Tạng có 5 mà phủ lại có 6 là tại sao?

- Đáp: Phủ có 6 là thêm Tam tiêu. Nó khác về chỗ chủ trị mọi khí, có tên mà không có hình. Đường kinh của Tam tiêu thuộc Thủ thiếu dương, là một phủ ở ngoài cho nên có 6 phủ.

- Hỏi: Nội kinh nói phủ có 5 mà tạng có 6 là tại sao?

- Đáp: Phủ không nói đến Tam tiêu, mà tạng thì nói đến cả hai Thận (Thận thủy và Thận hỏa).

- Hỏi: Sách nói: Tâm chủ về mùi, Thận chủ về dịch, Phế chủ về tiếng, mà tai là khiếu ở ngoài của Thận lại nghe tiếng, mũi là khiếu của Phế mà lại biết mùi là tại sao?

- Đáp: Phế thuộc phương tây hành kim, nhưng sinh ở Tị, Tị thuộc hỏa, hỏa là Tâm, Tâm chủ về mùi cho nên mũi biết mùi. Thận thuộc phương bắc hành thủy, nhưng sinh ở Thân, Thân thuộc kim, kim là Phế, Phế chủ về tiếng nên tai nghe tiếng.

- Hỏi: Bẩy xung môn ở đâu?

- Đáp: Môi là phi môn, răng là hộ môn, chỗ Hội yếm là hầu môn, vị là bí môn, miệng dưới dạ dày là u môn, chỗ đại tràng và tiểu trang giáp nhau là lan môn, chỗ ruột cùng là phách môn. Như vậy là 7 xung môn.

- Hỏi: Sách nói tám nơi hội là những nơi nào?

- Đáp: Nơi phủ hội là ở dạ dày (trên rốn 4 thốn). Nơi tạng hội là ở sườn cụt (huyệt Chương môn dưới sườn). Nơi cân hội là Dương lăng tuyền (chỗ lõm mé ngoài dưới gối 1 thốn). Nơi tủy hội là huyệt Tuyệt cốt (chỗ trên mắt cá ngoài 3 thốn). Nơi huyết hội là ở huyệt Cách du (ở dưới đốt xương sống thứ 7 ngang ra mỗi bên 1,5 thốn). Nơi xương hội là huyệt Đại trữ (ở đốt xương sống thứ nhất sau cổ ngang ra 1,5 thốn). Nơi mạch hội là ở huyệt Thái uyên (chỗ lõm sau nhăn ngang dưới bàn tay, gần chỗ Thốn khẩu). Nơi khí hội là Tam tiêu ở chính giữa phía trong hai vú (tức chỗ Đản trung). Bệnh nóng ở trong lấy khí huyệt ở chỗ khí hội (huyệt Cách du chỗ dưới đốt sống thứ 7, ngang ra 2 bên 1,5 thốn) (*).

- Hỏi: Mặt người ta quen chịu được khí lạnh là tại sao?

- Đáp: Đầu là nơi các kinh dương tụ hội, các kinh âm đi từ dưới chân lên đều đến cổ mà thôi, chỉ có các kinh dương đi lên đầu, vì vậy mặt quen chịu được lạnh (chỉ có kinh mạch Quyết âm đi đến đỉnh đầu, đây là nói đại lược đó thôi).

- Hỏi: Người ta có 3 hư 3 thực là như thế nào?

- Đáp: Mạch có hư có thực, là mạch Nhu (hư) và mạch Lao (thực).

 Bệnh có hư thực: Bệnh hoãn (mạn tính) là hư, bệnh cấp tính thường là thực.

 Xem bệnh chẩn đoán có hư thực: Ngứa là hư, đau là thực.

- Hỏi: Bệnh có người muốn được ấm, có người muốn được mát, có người không muốn tiếp xúc, có người lại thích tiếp xúc là tại sao?

- Đáp: Người bệnh muốn được mát và muốn tiếp xúc với người ta là bệnh ở phủ, muốn được ấm và không muốn tiếp xúc với ai là bệnh ở tạng.

- Hỏi: Tạng phủ có bệnh đều lấy huyệt Nguyên để chữa là tại sao?

- Đáp: Huyệt Nguyên là tôn huyệt của Tam tiêu, vì khí dừng lại ở đó nên gọi là huyệt Nguyên, cho nên khi tạng phủ nào có bệnh thì lấy huyệt Nguyên của tạng phủ ấy mà chữa. Lại nói: 6 phủ có Tam tiêu cũng như 6 kinh có đường kinh. Nếu không nói đến Tam tiêu thì là 5 phủ, không nói đến huyệt Nguyên thì là 5 kinh (6 phủ: Bàng quang, Đại tràng, Tiểu tràng, Đởm, Vị, Tam tiêu - 6 kinh: Tỉnh, Huỳnh, Du, Nguyên, Kinh, Hợp).

- Hỏi: Tạng với phủ đều có các huyệt Tỉnh, Huỳnh, Du, Kinh, Hợp, để chủ trị các bệnh nghĩa là thế nào?

- Đáp: Nội kinh nói: Nơi kinh khí bắt đầu đi ra là Tỉnh, nơi kinh khí chảy nhẹ là Huỳnh, nơi kinh khí dồn vào nhiều hơn là Du, nơi kinh khí đi qua là Kinh, nơi kinh khí hội họp cuối cùng là Hợp. Huyệt Tỉnh chủ trị bệnh dưới Tâm đầy, huyệt Huỳnh chủ trị thân nhiệt, huyệt Du chủ trị thân thể nặng nề, đau khớp; huyệt Kinh chủ trị ho, huyệt Hợp chủ trị khí nghịch, ỉa chảy. Đó là 5 huyệt chủ trị các bệnh.

* Câu này có lẽ thế này mới đúng: Bệnh nóng ở trong lấy huyết huyệt ở chỗ huyết hội (huyệt Cách du chỗ dưới đốt sống thứ 7, ngang ra 2 bên 1,5 thốn).


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 03, 2019, 10:01:57 AM
7 - TÓM TẮT NHỮNG ĐIỀU CỐT YẾU VỀ MẠCH HỌC

 Người bình thường mỗi lần thở ra mạch động 2 lần, mỗi lần thở vào mạch động 2 lần, vừa thở ra hít vào có khi mạch động 5 lần, vì hơi thở dài hơn. Như vậy là người không có bệnh (một lần thở ra mạch đi 3 tấc, một ngày một đêm gồm 13.500 hơi thở, ứng với mức mạch đi khắp toàn thân): một lần thở ra mạch động 1 lần, một lần hít vào mạch động 1 lần là thiếu khí (Mạch quyết cho mạch bại, Nạn kinh cho là mạch ly kinh, biểu hiện chứng khí suy). Một lần thở ra mạch động 3 lần, một lần hít vào mạch động 3 lần mà mau (Mạch quyết cho là mạch sác), gọi là bệnh ôn, mạch trơn là bệnh phong, mạch rít là bệnh lý (tê thấp). Một lần thở ra mà mạch động trên 4 lần là chết (Mạch quyết cho là mạch thoát, Nạn kinh cho là đoạt tinh). Mạch ngừng không chạy thì chết, mạch bỗng thưa, bỗng mau thì chết..

 Người bình thường bẩm khí ở Vị, người không có Vị khí (1) là mạch tượng trái thường, trái thường thì chết. Mùa xuân mạch có Vị khí thì hơi Huyền là bình thường, Huyền nhiều mà Vị khí ít thì tạng Can có bệnh, chỉ Huyền mà không có Vị khí là chết. Có Vị khí mà kiêm mạch Mao là mùa xuân thấy mạch mùa thu, dự đoán đến mùa thu sẽ phát bệnh, nếu mạch Mao nhiều quá thì sẽ phát bệnh ngay.

 Mùa hạ mạch có Vị khí là mạch hơi Câu (Hồng) là bình thường, Câu nhiều mà Vị khí ít là tạng Tâm có bệnh, chỉ Câu mà không có Vị khí thì chết. Có Vị khí mà kiêm mạch Thạch (trầm) là mùa hạ thấy mạch mùa đông, dự đoán sang mùa đông sẽ phát bệnh, nếu mạch Thạch nhiều quá thì phát bệnh ngay.

 Tiết Trưởng hạ (tháng 6 âm lịch), mạch có Vị khí mà hơi mềm yếu là mạch bình thường, mềm yếu nhiều mà Vị khí ít là tạng Tỳ có bệnh. Nhưng thấy mạch Đại (mạch đang nẩy lại ngừng đều) là không có Vị khí thì chết. Mạch có Vị khí mà kiêm thấy mạch trầm Thạch, dự đoán là sang mùa đông sẽ sinh bệnh, nếu mạch mềm yếu quá thì sẽ phát bệnh ngay.

 Mùa thu mạch có Vị khí mà hơi mao (nhẹ) là mạch bình thường, Mao nhiều mà Vị khí ít là tạng Phế có bệnh, chỉ Mao mà không có Vị khí thì chết. Mạch có Vị khí mà kiêm có mạch Huyền thì dự đoán là sang mùa xuân sẽ phát bệnh, nếu mạch Huyền nhiều quá thì sẽ phát bệnh ngay.

 Mùa đông mạch có Vị khí mà hơi Thạch (trầm) là bình thường. Thạch nhiều mà Vị khí ít là tạng Thận có bệnh, chỉ Thạch mà không có Vị khí là chết. Mạch có Vị khí mà kiêm mạch Câu thì dự đoán là sáng mùa hạ sẽ sinh bệnh, nếu mạch Câu nhiều quá thì sẽ phát bệnh ngay.

(https://i.imgur.com/u7hjRjS.jpg)

BÀN VỀ MẠCH SỐNG CHẾT (LUẬN TƯƠNG PHẢN)

 Bệnh Can mà thấy mạch Phế: Bệnh nhân nhắm mắt không muốn tiếp xúc với người thì nên thấy mạch Can: mạch cứng cấp mà dài. Trái lại, nếu thấy mạch Phế: nổi ngắn mà sít thì chết (nếu lại được mạch Tâm - tạng con giúp, thì bệnh không chữa cũng tự khỏi, nếu ghé được mạch Thận - có tạng mẹ ức chế, thì giằng dai lâu khỏi. Các tạng khác cũng theo đó mà đoán).

 Bệnh Tâm được mạch Thận: Bệnh nhân mở mắt mà khát, dưới Tâm hơi rắn thì mạch khẩn thực mà sác (chạy gấp mà chắc) là hợp. Nếu trái lại mạch trầm yếu và nhỏ là chết.

 Bệnh Phế mà thấy mạch to: Bệnh nhân nếu thổ huyết, ra máu cam, thì mạch phải trầm tế (nhỏ). Trái lại nếu mạch to mà rắn là chết (hỏa thắng tất kim suy, cho nên biết là chết).

 Bệnh Thận mà thấy mạch nhỏ: Bệnh nhân nói mê nói sảng, mình nóng thì mạch phải hồng đại (to), trái lại chân tay quyết lạnh mà mạch trầm tế (nhỏ bé) là chết, vì bệnh dương mà thấy mạch âm.

 Bệnh Tỳ hư mà thấy mạch thực: Bệnh nhân bụng to mà ỉa chảy thì mạch phải vi tế mà sắc (bé nhỏ và sít), trái lại mạch khẩn đại mà hoạt (mạch to trơn chạy gấp) thì chết.

* Tôi xét: Đại khái mạch hợp với bệnh là sống, mạch trái với bệnh là chết, ngũ hành tương sinh là tốt, tương khắc là xấu, mạch giằng co nhau là bệnh kéo dài (xem biểu chú thích về ngũ hành tương sinh tương khắc).

* Sách nói: Bộ âm mà thấy mạch dương (2) là vì dương lại tràn lấn âm, tuy mạch trầm sắc mà ngắn cũng là trong dương có phục âm. Bộ dương mà lại thấy mạch âm (3) là vì âm lại tràn lấn dương, tuy mạch phù hoạt mà dài cũng là trong âm có phục dương. Trùng dương thì cuồng, trùng âm thì điên.

 Dương thoát thì thấy ma quỷ, âm thoát thì mắt mờ. Lại nói: người ta hình thể yếu mà không thấy mạch bệnh thì sống; hình thể khỏe mà thấy có mạch bệnh thì chết, vì thân người phải lấy mạch làm chủ.

(https://i.imgur.com/cKJa0vx.jpg)

1. Mạch có Vị khí là mạch ấn vào mức trung bình mà chạy hòa hoãn mềm mại, có lực có thần (xem biểu chú thích các bộ mạch ở hai tay).

2. Bộ Xích mà thấy mạch Hồng, Hoạt, Thực, Huyền, Phù, Khẩn, Khâu.

3. Bộ Thốn mà thấy mạch Trầm, Vi, Trì, Phục, Sắc, Nhu, Nhược.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 04, 2019, 10:03:15 AM
8 - BIỆN LUẬN VỀ Y ÁN CHỮA BỆNH THƯƠNG HÀN (0)
(ngoại cảm)

 Bệnh ôn dịch với bệnh thương hàn thực giống nhau, nhưng cũng hơi khác. Nguyên là khí vận không điều hòa, do cái thắng truyền sang cái bất thắng. Tà khí từ ngoài bì mao sau vào thớ thịt, truyền biến khắp sáu kinh. Chia ra mà nói thì có âm, dương, biểu, lý, khác nhau, hợp lại mà trị thì chỉ có mấy phép thổ, hãn, hạ, ôn, giải, mà thôi.

 Đại khái người lao động vất vả, dầm sương dãi nắng, phần nhiều hay mắc bệnh, mà người âm dương thiên thắng ở trong cũng hay mắc bệnh. Nguyên nhân mắc bệnh có bốn loại, mà cái thiếu sót gây nên bệnh thì có nhiều loại khác nhau. Tại sao vậy?

 Người phong lưu thì sai sót vì ham muốn, người nghèo khổ thì thiếu sót về điều dưỡng, người khỏe mạnh mà mắc bệnh thì do sự thiên thắng (quá mức), người gầy yếu mắc bệnh vì thiên hư (suy nhược). Còn những kẻ bất trung bất hiếu, ăn ở thất đức mà sinh tai hại là lẽ tất nhiên, những bậc hiền nhân quân tử do thời khí lưu hành mà bỗng mắc bệnh gián hoặc cũng có. Bọn dung y không hiểu, thực cũng đáng thương !

 Cho nên người thầy thuốc phải lấy điều nhân làm đầu, lấy mạch làm căn cứ, mới hiểu rõ chân lý của âm dương hư thực, tình hình nóng lạnh thật giả. Như vậy thì dầu chết về số mệnh là vì tại trời, mà bệnh chết vì thời khí lưu truyền không phải tại ta. Nếu làm người thầy thuốc có trách nhiệm giữ tính mạng người mà học không tinh tường, biết không đến nơi đến chốn, nhà bệnh lâm sự chỉ nhờ ở dung y, cả thầy thuốc và nhà bệnh đều mơ màng, tức không bằng lời Ban công (1) đã nói "thà không dùng thuốc còn hơn).

 Tôi có chút học vấn không ngại quê hèn, đau lòng về đồng bào không có tội gì, theo cái sở kiến hẹp hòi của mình, phàm được những cái tâm truyền của đời trước, kết hợp với những cái lãnh hội được gần đây mà đã từng kinh nghiệm trong việc chữa bệnh cho nhà mình, cho làng xóm, cho nhân dân, được hơn 700 người khỏi. Tôi không dám giấu nghề để làm của riêng mình, xin đưa ra công bố với các bạn đồng nghiệp, ghi rõ lại sau đây, dám mong các bậc cao minh bổ chính cho.

* Hãy lấy dương chứng mà nói: tà lúc đầu xâm vào kinh Thái dương, lỗ chân lông bị lấp lại mà khí ở trong không tiết ra được thì thành phát sốt. Chứng này phát nóng sợ lạnh, nhức đầu đau mình, cứng xương sống mạch phù, có mồ hôi là chứng cảm gió. Lúc này tà còn ở biểu, nếu vội cho thuốc hạ lợi, phần lý bị hại trước mà tà khí vẫn không bị đụng chạm tới. Nếu vội cho thuốc bổ, thì tựa như đóng cửa giữ giặc lại, mà chính khí lại bị hại, phải nên cẩn thận.

 Tà qua kinh Thái dương mà vào kinh Thiếu dương, bệnh có chứng nóng rét qua lại, tai điếc lưỡi rêu, hoặc đại tiện hơi bí, hoặc tiểu tiện hơi đỏ, hoặc nôn ọe không ăn, hoặc khát nước đái đỏ, hoặc đại tiện phân vàng đỏ hơi đen, hoặc trên mình nổi mẩn phát ban, hoặc trong tâm nóng quá, hoặc nói nhiều như say rượu, hoặc tỉnh ngủ như ban ngày. Bệnh hiện ra hàng trăm chứng, xem lưỡi thì có 36 loại khác nhau. Đại để kinh này không có khiếu ra vào, chỉ nên hòa giải mà kiêm thanh nhiệt lương huyết, nên chú ý kiên tâm điều trị. Nếu khát lắm thì cho uống Dương sâm (để sống) cho đỡ khát. Nếu phát hãn cho ra mồ hôi nhiều thì hao tán chân âm, nếu hạ mạnh quá thì tràng vị suy bại, lại càng nên thận trọng.

 Tà qua kinh Thiếu dương rồi vào kinh Dương minh, lúc này không sợ rét mà lại sợ nóng, mê cuồng nói nhảm, cởi áo trèo cao, tinh thần hoảng hốt, thân thể rung giật, gân co lưỡi rụt, hoặc lưỡi hơi xanh xám, hoặc khô nhám như gai, hoặc răng môi khô nẻ, nhắm mắt trợn tròng, hoặc mặt đỏ chân lạnh, hoặc nhiệt quyết vong dương. Tóm lại, kinh này có nhiều bệnh chứng, biểu lý đều thành nhiệt cả. lúc này thì bổ thủy cũng không kịp, mà phát hãn thì tà đã vào sâu, hòa giải thì nối giáo cho giặc, ôn bổ thì như đẩy người xuống giếng. Vội vàng cấp cứu thì không gì bằng bảo tồn tân dịch. Muốn còn người thì phải trước tiên giữ vẹn tân dịch mới được.

(0) Trong bản sách chữ Hán ở Thư viện khoa học, thiên bàn về thương hàn cùng các thiên bàn về thủy hỏa (tiếp sau) đều chép vào sau thiên Kinh trị yếu lược về bệnh án. Nhưng trong bản dịch này, chúng tôi chuyển bệnh án vào sau, để các bài biện luận có tính cơ bản được liên tiếp nhau thành hệ thống (ND).

(1). Tức Ban Cố đời Hán nói: "Vô dược đắc Trung y" (không dùng thuốc cũng đáng được người thày thuốc trung bình) tự khỏi còn hơn.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 04, 2019, 11:37:53 AM
 Những dương chứng trên đây, nếu nên cho nôn mà dùng thuốc bổ là nhầm, nếu nên cho ra mồ hôi mà ôn tán lại càng nhầm (1), nếu nên hạ lợi mà không cho xổ ra thì lại càng nhầm to hơn nữa. Than ôi! Dung y không biết tà ở nông hay ở sâu; tà ở nông thì phát tán ra là chủ yếu, nhưng không biết đã âm hư mà lại thăng dương phát tán thì âm càng hư thêm, âm dịch tiêu hao thì mồ hôi lại càng không ra được. Là vì mồ hôi ra được là nhờ ở phần âm (tân dịch), cũng như nắng lâu gặp được mưa rào, cây cỏ đều nhờ mưa móc mà tươi lại. Cho nên rồng ra ở bể lớn mà vụt vậy mưa to. Tà ở trong thì lấy công hay bổ làm chủ yếu, nhưng không biết bệnh đã thực mà lại còn ôn bổ thì không khác gì giúp sức cho kẻ ác làm càn. Vả lại nếu không bổ thì công mà dùng thuốc xổ quá mạnh, khác gì không biết rằng của cải trong nhà, kẻ gian đã lấy mất, mà lại bỏ đi để kẻ gian thoát ra cổng sau, rồi lại đi đánh lẫn người nhà mình, mà kẻ gian không hề sao cả. Lại như trộm đã vào sâu, mà không biết mở cửa sau để đuổi ra, như thế đều là không biết chữa bệnh lục dâm (ngoại cảm), huống hồ còn nói đến chữa chứng dịch to lớn được ư?

 Lại xin nói về chứng bệnh của kinh âm (2). Đại khái chứng âm mà tựa chứng dương thì mạch trầm mà hơi hoãn, kèm thêm đại tiện tự lợi là chứng không có hỏa thì dùng cổ phương Bát vị hoàn, có sợ gì Quế, Phụ tử là cay nóng. Chứng hư tựa như chứng thực mà hình thể suy yếu, tinh thần hôn mê, mạch phù hồng thì tất là trước dùng lầm thuốc hàn lương để đến nỗi nguyên dương hư thoát. Biết rõ là hàn tà trực trúng thì tất phải dùng các thang Lý trung, Tứ nghịch, bản tạng hư hàn thì sao lại không dùng Lục vị hồi dương để thêm sức nóng. Cho đến các thang Lý âm, Ngũ tích, Lục vị, Toàn chân, thì đối với các chứng thủy thiếu âm hư là thuốc thích hợp; Đại bổ, Thập toàn, Hồi dương, Nhất khí thì đối với chứng khi hư huyết tổn là thích ứng để chọn dùng.

 Các âm chứng nói trên, nếu chậm trễ bỏ lỡ thời cơ, hoặc dùng thuốc hàn lương thì thật là giết người không gươm giáo, lại càng nên cẩn thận.

 Vậy có các phương thuốc trình bày sau đây:

 Tôi lập Đãng khấu thang thông trị các chứng nhiệt:

Sinh địa: 3 đồng cân

Mộc thông: 1 đồng cân

Chi tử: 1 đồng cân

Huyền sâm: 2 đồng cân

Sài hồ: 1 đồng cân

Cam thảo: 1 đồng cân

Hoàng cầm 1,5 đồng cân, Gừng sống, Hành trắng làm thang.

 Gia giảm:

- Nếu nhức đầu nhiều thì gia Thạch cao (nấc cụt cũng vậy).

- Nói nhiều mắt đỏ, mạch hồng thì gia Hoàng liên.

- Đau khắp mình mẩy, thì gia Độc hoạt.

- Tiểu tiện bí, đại tiện khó đi, thì gia Đại hoàng sao.

- Thân thể phát ban tựa sởi, thì gia Liên kiều.

- Khát nhiều thì gia Cát căn.

- Ăn ít đói, nôn mửa, gia Huyền minh phấn.

- Lưỡi có rêu trắng, gia Lá tre làm thang.

- Môi khô, lưỡi ráo, gia Mạch môn.

- Nhiệt quyết, nói sảng, gia Hoàng liên.

- Đau bụng kết ở TTTg ngực, gia Đại hoàng, Chỉ thực.

* Cố nguyên thang thông trị các bệnh về khí:

Sâm: 4 đồng cân

Chích thảo: 1 đồng cân

Can khương: 1 đồng cân

Quế: 4 phân

Đương quy: 2 đồng cân

Trần bì: 1 đồng cân

Phụ tử chế: 1 đồng cân

Táo nướng làm thang.

 Gia giảm:

- Nếu ăn ít, ỉa chảy, thì bỏ Đương quy, gia Trạch tả 1 đồng cân.

- Nôn mửa ra thức ăn, gia Gừng sống, Hoắc hương.

- Nhức đầu gia Ngưu tất.

- Đau mình gia Đỗ trọng

- Khát thì gia Ngũ vị tử.

- Lưỡi đen mà trơn thì bội Quế.

- Nấc cụt thì mài thêm Đinh hương, Đậu khấu.

- Môi khô lưỡi ráo, bỏ Trần bì, gia Ngũ vị tử, Thục địa nướng.

- Đau bụng ưa nóng, thích ấn nắn, gia Mộc hương, Trầm hương, Kỳ nam.

- Không có mồ hôi, gia Thục địa.

- Nhiều mồ hôi, gia Quế chi.

 Đại để, không kể là chứng hàn hay chứng nhiệt. Nội kinh nói: "Thương hàn 3 ngày không ra được mồ hôi thì chết" nếu bệnh nhân nhiệt thì dùng huyết dược, lương dược để phát tán ra. Bệnh hàn thì dùng ôn dược để phát tán ra, nên dùng dần dần thì tốt. Lại có một cách chữa bệnh sốt, dùng lá Tía tô nấu cháo nóng trộn vào cho ăn một bát, rồi đắp chăn dầy, để mồ hôi ra suốt người là khỏi.

(1) Bệnh ôn nhiệt không có mồ hôi mà sợ nóng thì phải dùng thuốc mát để cho ra mồ hôi nhẹ (lương tán) và thanh nhiệt.

(2) Ở đây tác giả không nói đến 3 kinh âm: Thái âm, Thiếu âm, Quyết âm như Thương hàn luận.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 06, 2019, 10:31:31 AM
* Nhiệt ban tán (gọi là dương đan):

 Bột Cam thảo, bột Thạch cao, Hoạt thạch, Miết giáp.

 Mỗi vị 2 đồng cân, tán nhỏ dùng nước giếng uống lạnh.

 * Hàn ban tán:

 Đinh hương, Hồi hương, Quế chi, Bách thảo sương, các vị bằng nhau. Bột Cam thảo gấp bội, tán nhỏ uống với nước cháo.

 Đại khái đối với người khỏe mà bị tà khí xâm phạm vào được thì thế của tà ắt phải mạnh. Giặc mạnh thì mình không thể dùng quân yếu mà đánh được, phải nên dùng quân hùng tướng mạnh, bốn mặt giáp công, đánh trên bộ thì không cho chúng nối liền doanh trại, đánh dưới thủy thì không cho chúng xếp thành hàng ngũ, chỉ cần đánh chóng mà thôi. Trước dẹp giặc rồi sau yên dân, đó là chước hay nhất. Còn vào làng xóm yếu nhỏ, thì giặc bất tất đã phải huy động lực lượng lớn. Cho nên nếu đối với giặc mạnh thì ắt phải quân giỏi mới đánh úp được, phải dùng bậc thượng tướng nhân minh, bao vây quyết chiến, đánh úp một trận rồi mới có thể dụ được địch, bồi dưỡng sức dân để tiếp quân, cốt yếu phải trọn vẹn các mặt: Trước bảo vệ dân rồi sau dẹp giặc, đó là tướng giỏi nhất. Biết vậy, trước quét sạch giặc thì giặc mạnh cũng phải ra hàng, chiến địa lo gì nguy hiểm. Trước bảo vệ dân thì dân lành cũng có mưu kế bắt giặc, dù làng bé cũng không sợ gì xâm lược. Thế thì kẻ a dua với giặc, cùng với giặc đồng tội, người vô cớ động binh cũng làm cho dân oán như kẻ hại dân. Không những trị ngoại cảm phải như thế, mà chữa gốc bệnh chính cũng thế thôi, thì có sợ gì không thành công.

 Tôi xét bài biện luận về thương hàn trên đây thích hợp với chứng bệnh ở cuối mùa xuân (tháng 3 âm lịch) về sau, đối với người hiểu biết và nhà bệnh rất là tiện lợi.

 * Phú chép bài thơ về chữa bệnh thương hàn

 Tổ thương hàn có Trương Công (Trương Cơ).
 Ba trăm chín (mươi) bảy phép thông rõ ràng.
 Một trăm lẻ mười ba phương.
 Chữa thương hàn đã chép tường ở trong.
 Bài ca mạch bệnh thương hàn.
 Cảm nóng, cảm lạnh cũng xem âm dương một mạch.
 Ở biểu, ở lý, rõ phân nhẹ, nặng, hai bề.
 Phù, khẩn, sắc, hồng, dương chứng là đúng.
 Trầm, vi, tế, phục, âm chứng mà suy.
 Chứng dương, mạch dương, người khỏe, bệnh tiêu được mau chóng.
 Chứng âm, mạch âm, người yếu, bệnh bớt cũng chậm chầy.
 Chứng dương mà thấy mạch âm, đừng bàn thuốc chữa.
 Chứng âm mà thấy mạch dương, thì chẳng sợ gì!

Lời chú thích của người dịch:

 Theo Nội kinh, bệnh cảm lạnh mùa đông phát ngay thì gọi là Thương hàn, nếu sang mùa xuân mới phát gọi là bệnh ôn, đến mùa hè mới phát thì là bệnh nhiệt. Nên bệnh ôn, nhiệt đều nằm trong phạm trù bệnh Thương hàn (theo Đông y) cả. Vì vậy án này tuy bàn về bệnh ôn dịch, nhưng tác giả vẫn gọi chung là bệnh Thương hàn (bao gồm các loại bệnh ngoại cảm nhiệt tính theo nghĩa rộng).

Do đó tác giả đã trình bày:

1. Dương chứng (bệnh nhiệt) có 3 thể:

- Sơ cảm phát sốt gai rét, mạch phù, tà ở biểu.

- Nóng rét qua lại, đại tiểu tiện hơi bế, tà ở giữa biểu lý.

- Trong ngoài đều nóng, sợ nóng, không rét, sốt cao, táo bón, mê sảng, tà ở lý.

Thông trị 3 thể bệnh trên, dùng Đãng khấu thang gia giảm.

2. Âm chứng gồm các thể bệnh hư hàn, lý hàn, khí trệ, rét run, nguyên khí hư nhược, dùng Cố nguyên thang gia giảm, thông trị các chứng bệnh về khí.

 Ngoài ra bệnh ôn dịch truyền nhiễm còn gồm các chứng nổi mẩn phát ban, nên có hai phương ứng trị nhiệt ban và hàn ban (gặp gió lạnh ban bị hãm đen).

 Tuy y án này chủ yếu đáp ứng bệnh ôn nhiệt phát từ tháng 3 âm lịch trở đi, nhưng vẫn có thể dùng chữa các bệnh ngoại cảm ở nước ta một cách đơn giản và linh hoạt.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 06, 2019, 10:54:14 AM
9 - BÀN VỀ CHỨNG MẠCH VÀ PHÉP CHỮA NGƯỜI THỦY KÉM

 Đại phàm chân thủy của người ta bẩm sinh ngay từ lúc đầu, bẩm khí theo Kinh Dịch mà Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi (1). Một điểm "Tiên thiên" gửi ở tạng Thận. Tính của Thận ưa ẩm mà ghét khô ráo: thể của nó chứa khí nóng (hỏa) mà giữ vững chân âm. Âm tinh "Thiên quý" (2) sinh ra hay suy kiệt và khí huyết trong thân người đầy đủ hay suy kém đều nhờ ở đó cả. Ví dụ ta hay xem loài kết quả hay loài trứng sinh, lúc đầu chỉ một giọt nước mà sau thành hình vật nọ hay vật kia. Mọi vật đều như vậy, huống chi là loài người.

 Thế cho nên, trời đất nhờ thủy để phát sinh muôn vật, người ta cũng nhờ thủy mà sinh trưởng được. Thủy cân bằng thì yên tĩnh, nước ứ đầy thì tràn ra, nước tích lại thì dồn lên, tạng thủy thiếu thì sinh táo khát. Mạch thì ứng ở bộ Xích bên tả, sắc thì biểu hiện ở huyệt Thừa tương (3). Mạch có lực hay không có lực, có thần hay không có thần, xem thì có thể biết rõ được bệnh tình. Bởi vậy, Thận lạnh thì hay nhổ bọt, dùng thuốc thì phải nhờ vị ngọt ấm; thủy khô thì hay bứt dứt, chữa cần phải dùng thuốc tư nhuận. Cả đến xương yếu, lưng đau, tai điếc, mắt mờ, phép chữa cần khéo vận dụng đại khái bình thường thì tư bổ, tiếp bổ, khí bệnh thì làm mạnh thủy hay lợi thủy (4), nhưng trước sau không làm tổn hại đến Tỳ mới khéo, chớ giúp cho tà là hơn (5), để cho chân thủy hóa sinh tinh dịch dinh dưỡng bốn tạng. Như thế mới là tay khéo chữa bệnh về thủy.

 Phương thuốc như sau:

- Cổ phương Lục vị địa hoàng ẩm, phương chủ yếu làm mạnh thủy.

- Cổ phương Tả quy ẩm, Tả quy hoàn những phương thuốc chủ yếu về tiếp thủy kiêm bổ Thận âm.

* Tôi lập: Tư khảm đơn

- Đại sinh địa (nấu 9 lần, phơi 9 lần): 6 đồng cân.

- Cao gạc hươu (sao châu): 2 đồng cân.

- Hoài sơn (sao): 4 đồng cân.

- Mạch môn (trộn gạo sao): 2 đồng cân.

- Phục linh (bỏ vỏ): 2 đồng cân.
 
 Sắc kỹ, uống lúc còn ấm. Nếu làm viên thì đổi đồng cân thành lạng. Nếu nấu cao thì sắc kỹ lọc sạch bã, cô lại thành cao.

* Gia giảm:

- Hỏa động không ngủ được gia Táo nướng làm thang.

- Tỳ yếu kém ăn, đi ỉa lỏng, thì Thục địa sao lên cho thơm.

- Ho và nóng nhiều thì gia Bách hợp.

- Đau lưng gia Đỗ trọng.

- Khát nước, gia Ngũ vị tử.

- Thủy tràn lên sinh nhiều đờm, gia Xuyên bối mẫu.

 Ở những người chân thủy kém sút, bệnh chứng có nhiều. Duy chỉ làm cho thủy thăng bằng thì sinh ra âm, nếu là thủy ứ trệ thì bế âm. Cho nên chữa thủy không dùng thuốc lạnh trệ để khỏi tổn thương đến chân hỏa là trọng yếu, mà trước sau phải chiếu cố đến Tỳ thì nguồn sinh hóa không cùng tận.

(1). Nguyên lý sinh thành của ngũ hành theo triết cổ đại Á đông.

(2). Nữ 14 tuổi, nam 16 tuổi thì Thiên quý đến, lúc ấy nữ bắt đầu hành kinh, nam thì tinh khí đầy đủ, có thể sinh dục. Nữ đến 49 tuổi, nam 64 tuổi thì Thiên quý hết, tức hết thời sinh dục.

(3). Thừa tương ở chính giữa dưới môi dưới và cằm.

(4). Thận thủy kém sút thì dùng thuốc bổ thủy (Lục vị hoàn hay Tư khảm đơn), tà thủy thực, ứ nước, đái ít thì phải dùng thuốc lợi tiểu, và bổ Thận  hỏa (như dùng Bát vị hoàn gia Xa tiền, Ngưu tất hay cứu dương lý khí).

(5). Bổ thủy mà không phối hợp với thuốc thẩm thấp lợi thủy thì Tỳ trệ kém tiêu, và thấp bế sinh ứ nước, biến thành tà thủy. Bổ hỏa mà dùng thuốc tán nhiệt gây động hỏa bốc nóng cũng là giúp cho tà hỏa phát sinh, cho nên cần phối hợp với thuốc ngọt ấm để liễm nạp hư hỏa.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 06, 2019, 11:37:09 AM
10 - BÀN VỀ CHỨNG MẠCH VÀ PHÉP CHỮA NGƯỜI HỎA HƯ

 Phàm chân hỏa của người ta bẩm sinh ngay từ lúc đầu, bẩm khí theo Kinh Dịch là Địa nhị sinh hỏa thiên thất thành chi. Một điểm "Tiên thiên" gửi ở Mệnh môn. Tính của Mệnh môn thích ấm áp mà ghét mát lạnh, thể của nó như ánh sáng của sấm sét, gặp ẩm thì bốc cháy, gặp mưa càng cháy mạnh; Tam tiêu trong thân người vận dụng toàn nhờ ở hỏa đó. Ví dụ xem nửa đêm ngày Đông chí (1) chỉ có một tiếng sấm ra mà rồi sau muôn vật được hóa sinh. Muôn vật còn như vậy, huống là loài người.

 Thế cho nên trời đất có dương khí (hỏa) để phát sinh muôn vật, mà người ta cũng nhờ hỏa đó để sinh trưởng. Bản chất hỏa dẹp xuống thì yên tĩnh, hỏa động lên thì bốc nóng. Hỏa đầy đủ thì không có bệnh mà sống lâu, hỏa hư suy thì nhiều bệnh mà chết non. Mạch thì ứng với bộ Xích bên hữu, sắc thì hiện ra ở tinh thần. Mạch có lực hay không có lực, có thần hay không có thần, xem thì có thể biết được hết các chứng bệnh. Cho nên, Thận gặp lạnh thì hỏa vọt lên, gặp nóng thì càng di nhiệt sang Tam tiêu. Bệnh thì trăm hình chứng, chữa thì toàn nhờ phép ôn liễm. Cả đến suy nhược mỏi mệt, tiều tụy ủ rũ, phải tùy nghi điều nhiếp. Đại khái bình thường thì ôn bổ, tuấn bổ, khi có bệnh thì nạp hỏa, ích hỏa. Nhưng trước sau chớ gây động hỏa là chủ yếu, chớ dùng thuốc khắc phạt là hơn hết, khiến cho chân hỏa hóa thành sức nóng bổ ích toàn thân, như thế mới là tay khéo chữa bệnh về hỏa.

Phương thuốc như sau:

- Cổ phương Bát vị địa hoàng ẩm, phương thuốc hay để bổ hỏa.

- Cổ phương Hữu quy ẩm, Hữu quy hoàn, kiêm bổ dương làm chủ.

 Tôi lập Dưỡng ly đơn

- Thục địa: 4 đồng cân.

- Sơn thù: 2 đồng cân (tẩm rượu sao).

- Phục linh: 2 đồng cân.

- Hoài sơn: 2 đồng cân (sao).

- Phụ tử chế: 4 phân.

- Nhục quế tốt: 4 phân đến 1 đồng cân.

- Ngũ vị: 10 hột (tẩm mật sao).

 Cách sắc như bài trên, thêm Trầm hương chút ít làm thang.

* Gia giảm:

- Hỏa động, phần dưới lạnh ỉa chảy, thì thêm lượng Hoài sơn.

- Hỏa cực hư, nên dùng Ích nguyên hoàn uống xen kẽ.

- Mạch yếu quá thì hợp với Sinh mạch tán.

- Tạng yếu quá, gân xương mềm yếu thì gia Lộc nhung.

- Đau lưng, tinh thần khí lực yếu ớt, cùng các chứng kỳ lạ, gia Cao ban long, Hổ phách.

 Những người hỏa hư thì thích yên lặng, những người hỏa động thì không ưa ánh sáng, các chứng không thể nói hết được. Chỉ do thiếu hỏa chân hỏa thì sinh ra khí, mà tráng hỏa tà hỏa thì làm hao khí, nên chữa chứng hỏa chớ dùng những vị thuốc cay ráo, để đến nỗi hao tổn chân âm là tốt, và trước sau rất kiêng dùng thuốc hàn lương để khỏi khắc phạt đến nguyên dương (chân hỏa).

 Trên đây là hai phương thuốc chữa thủy và hỏa, tuy không hơn gì Lục vị và Bát vị, nhưng tôi ở trong phương bổ thủy, có gia chút Mạch môn để nuôi dịch tân kim (Phế), và ở trong phương bổ hỏa, không rút Sơn thù để dưỡng khí ất mộc (Can). Như thế là không bỏ mất ý nghĩa "hư thì bổ mẹ", lại là dùng vị thuốc hữu hình mà chữa cho thủy hỏa vô hình, tìm cái thực ở trong cái hư, tìm cái có ở trong cái không, thật là huyền diệu!

 Hai phương Lục vị, Bát vị thật là thuốc tiên muôn đời. Hai phương Tư khảm và Dưỡng ly thật là đại bổ cho bệnh hư nhược lâu ngày vậy (2) (ND).

(1). Theo Kinh Dịch: đến tiết Đông chí giữa mùa đông vào ngày 22-23 tháng 12 dương lịch, thì khí dương bắt đầu sinh (Đông chí nhất dương sinh).

(2). Hai bài này bàn về thủy hỏa, trên đây nghi là của người chép lại sách đời sau thêm vào (ND).


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 07, 2019, 09:40:26 AM
11 - TÓM TẮT KINH NGHIỆM CHỮA BỆNH
(Bệnh án)

Bệnh án số 1

 Tháng 7 năm Thiệu Phong thứ 12 (1352), tôi chữa một em bé 12 tuổi, bệnh lúc đầu phần trên người nóng mà phần dưới ỉa chảy. Tôi đã dùng một thang Thất vị bạch truật, bệnh đã hơi bớt, nhưng nhà bệnh mỗi người một ý, cho là tầm thường, rồi lại xin đơn các thày khác. Chỉ trong một ngày, bệnh lại nặng thêm. Nhà bệnh lại mời tôi đến xem một lần nữa. Tôi thấy bệnh nhi cơ thể rất gầy, da khô, xương giô, hình dung tiều tụy, giống như củi khô. Tôi nghĩ thầm: bệnh chứng nóng lâu thương âm, tân dịch hao tán, lại thêm ít ăn, ỉa phân lỏng, thật là một trường hợp khó khăn quá thể. Lúc này nếu dùng thuốc mát để tư âm thì lại trở ngại cho tiêu hóa, Tỳ Vị đã hư thì vận hóa sao được. Chữa Tỳ thì hại đến Thận, thật khó tiến thoái, bèn lập một phương để chữa kèm cả Tỳ Thận, cho uống hai thang thì bệnh bớt, dùng đến hơn 2 tháng khoảng 100 thang, sau dùng thêm Ngũ âm để điều bổ thì bệnh khỏi hẳn. Phương thuốc ấy gọi là "Bổ nguyên ích thổ".

Thang Bổ nguyên ích thổ

Nam sâm: 4 đồng cân.

Thục địa: 3 đồng cân (nướng thơm).

Cam thảo: 5 đồng cân.

Kỷ tử: 2 đồng cân (tẩm rượu sao).

Hoài sơn: 3 đồng cân.

Sơn thù: 1 đồng cân (sao).

Ngũ vị: 10 hột.

Can khương: 1 đồng cân ( bọc cơm lại nướng).

Phụ tử chế: 4 phân (1).

Nước 2 bát, sắc lấy 7 phần, uống khi thuốc còn ấm.

* (Ngũ âm xem Cảnh Nhạc bổ trận) (2).

(1) Trong sách chép Phụ tử chế 4 đồng cân, nhưng chúng tôi thấy không hợp lý nên đã chữa là 4 phân, vì đối với trẻ em 12 tuổi nóng âm, gầy khô, liều dùng 4 đồng cân là thái quá. Hơn nữa vị Phụ tử được ghi cuối đơn thuốc liền sau Ngũ vị 10 hột cũng đủ nói lên tác dụng làm sứ, để cổ vũ phần âm.

(2) Phương Ngũ âm nghi là người chép lại sách thêm vào, có lẽ vì thấy dùng thang thuốc có Phụ tử như trên quá lâu, e sợ làm cho hỏa thiên thắng, cho nên đã có sự bổ sung này chăng.

Phân tích phương thuốc "Bổ nguyên ích thổ"

- Cam thảo bổ Tỳ ích khí, dùng sống có tác dụng thanh nhiệt giải độc, dùng liều cao có khả năng trợ dương cứu thoát, Nam sâm, Hoài sơn bổ Tỳ âm sinh tân dịch, Gừng khô (lùi chín) bổ Tỳ giúp tiêu hóa, ngừng ỉa chảy.

- Thục địa nướng thơm, bổ Thận mạnh Tỳ âm, Sơn thù bổ Can Thận. Kỷ tử bổ âm sinh tân dịch. Ngũ vị tử thu liễm hư hỏa, Phụ tử trợ dương, làm mạnh tim, chống hư thoát.

Phương thuốc này có tác dụng tiếp bổ, cứu âm trợ dương, thêm tân dịch mạnh tỳ vị, chặn biến chứng thủy kiệt vong âm hư thoát.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 07, 2019, 10:07:25 AM
Bệnh án số 2

 Tháng 8, mùa thu năm ấy, chữa một cháu gái 14 tuổi, bệnh cũng giống như cháu trước mà kèm thêm đau bụng, lúc đau lúc không. Mỗi cơn đau thì mồ hôi ra như mưa, bệnh đã hơn 2 tháng, các thầy thuốc chữa không khỏi.

 Tôi nói: bệnh trên nóng dưới ỉa lỏng là Tỳ Thận đều hư, bởi vì Tỳ Vị yếu không liễm nạp được dương khí (thổ bất tàng dương) cho nên phát nóng, hỏa không sinh thổ cho nên ỉa chảy. Cái đau vô hình biến sinh nhiều chứng, huống chi bệnh đã lâu là thuộc thể hư, người gầy mạch chạy nhanh (sác), chứng và mạch đã rõ ràng, mà các thầy hầu hết đều chữa về giun. Cơ thể không chịu nổi thuốc tiêu đạo, cho nên càng nóng thì chân âm lại càng thêm suy tổn, do đó đau và nóng càng tăng thêm. Âm hỏa bốc lên, nguyên dương không giữ vững, cho nên ngày càng ỉa lỏng. Không gì bằng phải bổ Tỳ để nạp dương và tư âm mà ích hỏa mới được. Cho nên cũng dùng bài thuốc trước (Bổ nguyên ích thổ) 2 - 3 thang, bệnh mới bớt. Rồi lập một phương gọi là "Bổ thổ nạp hỏa" và theo đó gia giảm, dùng khoảng 4 - 5 thang thì bệnh mới bình phục.

Thang Bổ thổ nạp hỏa

- Minh đảng sâm: 5 đồng cân.

- Hoài sơn: 3  đồng cân.

- Phục linh: 1  đồng cân.

- Thục địa: 3  đồng cân.

- Kỷ tử: 2  đồng cân.

- Ngũ vị: 10 hột.

 Cho uống 2 - 3 thang thì nóng và ỉa chảy đều bớt dần, còn đau bụng thì chưa bớt, nên sau thêm Kỷ tử tới 5 đồng cân làm viên uống luôn mấy tễ thì khỏi hẳn.

Phân tích phương thuốc "Bổ thổ nạp hỏa"

- Đảng sâm, Hoài sơn, Phục linh bổ Tỳ.

- Thục địa, Kỷ tử, Ngũ vị bổ Thận tư âm, sinh tân dịch.

 Phương này đã trọng dụng Kỷ tử (tăng lên 5 đồng cân) để thêm tân dịch và lợi tràng thì bớt được đau bụng do uất nhiệt, đồng thời dùng Thục địa (không nướng) để bổ Thận thủy chế lại hư hỏa cho khỏi nóng âm ở trong. Hoài sơn có tác dụng bổ cả Tỳ Thận tránh khô táo và Phục linh bổ Tâm Tỳ, lợi tiểu, nên chứng ỉa lỏng ở bệnh ôn nhiệt được giải quyết thích đáng.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 07, 2019, 10:52:37 AM
Bệnh án số 3

 Sau ngày Đông chí, có một sản phụ ngoài 30 tuổi, đã sinh 3 - 4 bận, lúc bấy giờ mới đẻ được 5 tháng, mắc bệnh ỉa chảy, mỗi ngày đi 3 - 4 lần, bệnh ngày càng nặng thêm. Các thầy thuốc đều dùng thuốc bổ dương chữa Tỳ, chẳng thiếu gì nữa. Lâu ngày lại thêm chứng nôn mửa, chân tay quyết lạnh. Tôi xem mạch thấy 6 bộ đều không động, thần sắc biến đổi rất nhiều. Bốn, năm người ngồi chung quanh quạt vào đầu mặt bệnh nhân, bệnh nhân khát nhiều đòi uống nước luôn luôn. Tôi nói: Chỉ độc khí dương bốc lên trên nên nóng như vậy, thể bệnh đã đến lúc nguy cấp. Than ôi! âm ở dưới đã sắp lìa, dương thoát lên trên, mà các thầy lúc ấy còn cho uống độc vị Sâm cao ly đến 1 lạng! Sâm tính mạnh tuy có thể cứu được chứng hỏa thoát trong lúc nguy cấp, nhưng bệnh tình lúc này dương đã không dựa vào âm được nữa mà chạy vọt lên trên, nên tạm ngừng uống Sâm mới được. Và nên dùng cách bế sáp để cứu âm, giữ sao cho âm khỏi lìa rời thì dương mới khỏi thoát mất. Tôi cho uống Tứ duy tán và dùng một lạng Xa tiền tử sắc ngoài làm thang, cho uống luôn một thôi. Sau một lúc thì bớt ỉa mà tránh khỏi vong dương. Tiếp sau tôi cho uống luôn Bồi thổ (Bổ thổ) (1) 5 - 6 ngày thì bệnh bớt. Sau đó tôi đi chấm thi, người nhà nhờ các thày khác chữa, bệnh trở lại mà càng ngày càng thêm phù thũng dần, chân đùi to như cột nhà, lưng mặt bằng như mâm, thế không tính sao được, lại đến mời tôi.

 Tôi hỏi, tất cả người nhà kể lại: từ sau khi đẻ đến nay, bệnh trở đi trở lại 9 lần. Tôi bèn lập một phương với kế chữa lâu dài, mà uống xen với Ích nguyên hoàn; mỗi ngày đêm uống 3 lần, một tháng thì bệnh bớt, 4 tháng thì khỏi hẳn. Về sau bệnh không trở lại nữa, và sinh thêm được một con trai. Phương ấy gọi là "Cứu phương lý khí".

Thang Cứu dương lý khí

- Minh đảng sâm: 1 lạng

- Phụ tử chế: 3 đồng cân.

- Xa tiền: 4 đồng cân.

- Phục linh: 3 đồng cân.

(Xem Bồi thổ cố trung ở sách Hải Thượng Lãn Ông: Thục địa, Bạch truật, Can khương, Cam thảo) (1).

(Ích nguyên hoàn: Thục địa, Bạch truật, Can khương, Cam thảo xem ở sách Hải Thượng Lãn Ông) (2).

(1) Chúng tôi nghi là "Bổ thổ" tức phương Bổ thổ nạp hỏa ở bệnh trước đã được ứng dụng trong trường hợp này (cũng như phương Bổ nguyên ích thổ được dùng lại ở bệnh (án số 2) thì mới phù hợp với hướng điều trị của tác giả). Có lẽ người chép lại sách liên tưởng đến phương thuốc Bồi thổ cố trung phương của Lãn Ông mà đã chú thích và viết là Bồi thổ như trên.

(2) Lời chú thích về Ích nguyên hoàn cũng sai: Lãn Ông không có phương thuốc này, và thành phần của nó cũng khác phương thuốc Bồi thổ cố trung (Xem phụ lục).

Phân tích phương thuốc "Cứu dương lý khí".

 Minh đảng sâm bổ Tỳ, Phụ tử chế bổ Thận hỏa, Phục linh bổ khí lợi tiểu thẩm thấp, Xa tiền lợi tiểu tiêu phù thũng. Phương này ôn bổ Tỳ Thận tiêu nước ứ, khỏi ỉa chảy và phù nề.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 08, 2019, 09:43:04 AM
Bệnh án số 4

 Một sản phụ cứ tảng sáng là đi ỉa xối một lần, đã hai tháng rồi, dùng mọi thứ thuốc đều không khỏi: Bát vị hoàn gia Phá cố chỉ, không cầm được. Tứ quân tử gia Phụ tử chế cũng không làm ấm lên được. Phàm các phép chữa đi tả tảng sáng của người xưa, đều đã dùng cả mà vô hiệu. Nhà bệnh có biết chút y lý, cũng lấy làm lạ. Lúc bấy giờ vào khoảng tháng ba, tôi xem mạch thấy bộ Xích bên phải trầm phục (chìm sâu) mà hai bộ quan thì khâu (rỗng) và phù đại (nổi to). Tôi nói mạch khâu là chứng mất máu nhiều, mạch trầm phục là nguyên khí thật hư nhược. Sao nay mạch với bệnh không liên quan đến nhau? Chắc là lúc đẻ máu ra nhiều quá, đến nỗi (âm suy kiệt) dương một mình không lớn mạnh được. Nội kinh nói: "Dương không được âm thu liễm, thì không có thể giữ lại lâu được". Nay bệnh hạ bộ bị hư đã lâu, lại nhân mất máu nữa, cho nên bệnh không phát ra ở trên mà lại hiện ra ở dưới. Vì người này hậu thiên còn khỏe, nên bệnh không diễn ra đầy bụng ỉa chảy, mà lại phát ra chứng ỉa lỏng vào tảng sáng, không phát ra nóng rét mà lại phát ra lạnh về sáng sớm. Biết rõ căn bệnh như vậy, nên tôi lập một phương để cứu vãn phần khí đã suy tổn làm cơ sở để sinh ra huyết, dùng phép sinh hóa từ vô hình ra hữu hình. Chỉ có phép dùng một vị Sâm mà phân lượng tùy nghi đối với từng người, với hơn một tễ thuốc mà khỏi bệnh.

Thang Độc sâm (cũng gọi là Độc thánh thang):

 Chính Bắc đảng sâm 2 lạng, tẩm gừng mật sao vàng. Ngũ vị 25 hột. Đây lấy Ngũ vị làm tá, uống một nước thuốc thì bệnh khỏi như không. Theo phương ấy uống luôn đến 2 cân, về sau người này, tuy thường có nhiều chứng, mà uống các thuốc khác không khỏi, thì độc dùng Bắc đảng sâm cũng khỏi. Thế mới biết người ưa thứ thuốc nào mà thuốc ấy hợp với bệnh thì công hiệu như vậy.

* Phân tích phương thuốc "Độc sâm thang":

Đảng sâm bổ khí mạnh tỳ, Ngũ vị thu liễm âm hỏa.

(Phương này có tác dụng ôn trung bổ Tỳ, liễm nạp dương khí, tăng cường tiêu hóa và điều hòa bài tiết)
.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 08, 2019, 09:54:32 AM
Bệnh án số 5

Mùa thu năm Mão, tôi chữa một người con trai siêng năng nhanh nhẹn, làm lính giữ đồn đã lâu năm, cả toán quân đều yêu mến. Một hôm ăn cá với rau, bị hóc xương đã 3 ngày không nuốt xuống được, cả đồn tỏa đi tìm thầy thuốc, mọi thứ đều vô hiệu. Bệnh đến lúc nguy, người đội trưởng đến mời tôi, tôi hỏi những phép mà người khác đã chữa, người ấy kể cho tôi nghe một loạt từ đầu, thì các phép xưa đã dùng hết. Tôi tìm các mẹo làm cho xương xuống cũng chẳng được. Đến chiều, nhiều người cố nài tôi đến cứu. Tôi nghĩ được một kế là dùng phép thổ cho mửa ra có được chăng? Bèn bảo họ một mặt dùng móng chân con rái cá mà cào ngược ra, cào ở phía ngoài cổ họng, trong thì lấy nước dãi con chó, nhỏ dần vào từng giọt, hễ mửa ra được thì hay. Theo phép ấy, làm một hồi thì mửa trào ra được một cái xương nhọn gẫy làm hai, hai đầu đều có máu tụ.

Biết rằng chó thường nhai xương cá thật khỏe, nước rãi chó lại rất tanh rễ gây nôn mửa; con rái cá thường bắt cá thật tài, vì móng chân nó rất nhọn. Cả hai thứ đều là thứ kỵ nhau với xương cá, nên hợp lại mà dùng thì có hiệu quả. Sau cho uống thang Cam cát để điều hòa.

Thang Cam cát (phương xưa):

Cát cánh: 2đ, Cam thảo: 1đ, Mạch môn: 1đ, Ngũ vị: 10 hột.

* Phân tích phương thuốc "Cam cát":

Cam thảo bổ Phế, giảm ho. Cát cánh thanh đờm nhiệt, giải độc, khỏi ho tức ngực, đau họng. Mạch môn nhuận Phế hóa đờm, giảm ho, sinh tân dịch, khỏi phiền khát. Ngũ vị sinh tân dịch ,ngừng ho suyễn.

Phương này có tác dụng chữa đau họng, ho đờm, tức ngực, khản cổ.

Còn phương thuốc nước rãi chó thì đời xưa đã dùng chữa hóc xương.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 08, 2019, 10:43:13 AM
Bệnh án số 6

Một người con trai 36 tuổi, sống bằng nghề làm quạt bị đau bụng, nay đã 30 năm. Một hôm chân tay co cứng quyết lạnh, miệng khát đòi uống, mà không nói được, chỉ lấy tay ra hiệu trỏ vào bình nước. Uống nước vào một lát lại mửa ra hết, người nhà chả biết nguyên nhân vì sao, đến mời tôi và nói với tôi như thế. Tôi đến thì thấy bệnh nhân thần sắc như thường, mạch không thấy nhảy mà lại hiện ra chứng ác liệt như vậy! Tôi hỏi đầu đuôi thì người em nói: "Anh tôi thường vẫn đau bụng, hễ ăn đồ ngọt vào thì đỡ". Tôi nghĩ là có giun. Quả là bệnh giun thì sống, nếu là một bệnh lạ khác thì chưa biết có thể chữa được không. Tôi bảo họ tìm cách thăm dò có phải bệnh giun không? Cho lấy một hòn đất lòng bếp hòa vào nước, nhân lúc khát cho uống hết một bát, thì thấy nằm yên một lúc. Rồi tôi lấy thuốc xổ và Lạp trung hoàn nhét vào trong quả chuối tiêu cho uống với nước. Sau một hồi lâu cũng không thấy chuyển, vẫn đau như cũ. Tôi lại suy nghĩ, hỏi kỹ người em bệnh nhân: Trước đây một hai ngày, chỗ vùng dạ dày có cứng không? Trả lời: trước đây 3 - 4 ngày bụng chướng đau chung quanh rốn. Một hai ngày qua thì uống nhầm Thập hương tán, sau đó thấy ở chỗ trên dạ dày cứng mà ở dưới rốn thì hơi bớt. Tôi nghĩ rằng giun trước ở hạ tiêu cho nên cứng ở rốn. Vài hôm nay không ăn uống gì nên giun nhói lên trên dạ dày để tìm thức ăn, lại gặp phải thuốc thơm mãnh liệt, thì giun càng quằn quại dữ mà sinh bệnh như vậy. Phải dùng phép thông nhân thông dụng mà chữa, tôi bèn lấy thuốc giun hợp với thuốc gây nôn cùng bao vào trong quả chuối, cho nuốt 30 viên, thì sau một hồi nôn ào ra được một búi giun. Sau tiếp đó, cứ mỗi lần mửa ra 8 - 9 con giun, liền trong 3 ngày được khoảng 2 - 300 con giun. Thế rồi dần dần ăn uống được. Kế liền cho uống "Trục long hoàn", 4 ngày thì tẩy giun ra hết. Đó là bệnh 30 năm chỉ chữa trong một ngày. Không lạ gì chất ngọt thì bổ tỳ mà lại hay nuôi giun như vậy. Về sau này đau bụng thì phải lấy đó làm răn.

* Thuốc thổ (gây nôn): Cuống dưa đá (Qua đế): 1đ, Đậu đỏ: 70 hột.

* Lạp trùng hoàn: Sơn khô, Đất sét, Hột cau, Hạt mơ khô, đều bằng nhau, sắc uống khi thuốc còn ấm.

(Bình thời chữa bệnh giun của trẻ nhỏ, phương này thêm quả Giun,bao vào trong quả chuối cho uống. Phục long can hoàn: Sơn khô, Đất bờ sông, 2 vị bằng nhau, trộn đều cho vào chuối mà nuốt. Phục long can hoàn: Sơn khô! Đất bờ sông, 2 vị bằng nhau, trộn đều cho vào chuối mà nuốt).

* Phân tích phương thuốc gây nôn:

1. Cuống dưa đá rất đắng có tác dụng gây nôn. Đậu đỏ trợ Tỳ. Phương thuốc này là của Trọng Cảnh trong Thương hàn luận.

2. Phương Lạp trùng hoàn dùng: Sơn khô có tác dụng trục giun và làm tan máu ứ tụ, Hạt cau và hạt mơ đều là thuốc trục giun sán, còn Đất sét là tá dược, để hòa hợp với Tỳ vị (Tỳ thuộc thổ) cho đỡ mệt.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 08, 2019, 11:05:31 AM
Bệnh án số 7

 Một sản phụ sau khi đẻ bị chứng phù thũng đã 3 - 4 tháng, một bên người phù nặng, một bên nhẹ, chỉ nằm được một bên. Đã 8 - 9 ngày, mỗi lần trở mình thì như sắp hết hơi, hôn mê đã 3 - 4 lần như sắp chết. Đã mời 8 - 9 thầy thuốc, các thầy đều cho uống Kim quỹ bát vị hay Nhất khí, đều không kết quả. Tôi xem mạch thì cả hai tay, 6 bộ đều trầm vi (chìm nhỏ) vô lực (yếu), tinh thần mỏi mệt, mỗi ngày chỉ ăn uống được vài ba thìa cháo mà thôi, lại kiêm chứng ỉa chảy, tiểu tiện bế. Tôi nói ruột lạnh như nước nguyên dương sắp tuyệt, hết chỗ cứu chữa.

 Người chồng bệnh nhân cố kêu van nhờ chữa cho, nếu chết cũng cam tâm. Tôi động lòng, hãy thử chữa xem sao, bèn lập một phương gọi là "Lập châu thang" dùng uống xen với Ích nguyên hoàn, ngày uống hai lần. Ngoài lấy thuốc thông biểu thật mạnh, sắc lên xát vào chỗ sưng phù, sau 2 - 3 ngày thì bớt thũng, và ỉa phân rắn, tinh thần ngày một thanh sảng hơn, dùng đến 2 tháng thì bệnh mới khỏi, 4 - 5 tháng thì nguyên khí bình phục hẳn.

Lập châu thang

Phụ tử dùng sống: 1 đến 2 đồng cân.

Nam mộc hương: 2 đồng cân.

Hoàng Kỳ: 2 đồng cân (tẩm mật nướng).

Xa tiền tử: 2 đồng cân.

Phá cố chỉ: 1 đồng cân.

Thảo quả: 1 đồng cân.

Sắc uống.

Ngoài dùng: Cỏ bấc, Cỏ sả, Kim phí thảo, 3 vị sắc lên xát. Sau dùng Thập toàn để bổ, thì thu được kết quả hoàn toàn.

* Phân tích phương thuốc "Lập châu thang":

(1) Phụ tử bổ hỏa, trừ hàn thấp, tiêu phù thũng. Phá cố chỉ bổ Thận hỏa. Thảo quả bổ Tỳ trừ thấp trệ. Hoàng kỳ bổ khí hành khí. Nam mộc hương hạ khí mạnh Tỳ, tiêu trướng đầy. Xa tiền tử lợi tiểu tiện, tiêu thũng.

Phương này có tác dụng bổ hỏa hành khí, tán hàn thấp, tiêu nước ứ, chữa thũng trướng ỉa chảy.

(2) Các vị thuốc sắc để xát ngoài, làm hơi nước thoát ra qua chân lông thớ thịt, đều có tác dụng làm thoát nước bốc hơi, hay lợi tiểu. Các vị này cũng vừa là thuốc uống trong để chữa phù thũng được.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 08:45:58 AM
Bệnh án số 8

Một người con trai từ trước đến nay vốn ít bệnh, không có một chứng gì. Nay chỉ có chứng trong đầu óc có tiếng như sấm động, như ve kêu, như chó sủa, như ong bay, ngày đêm lấy làm khổ não. Các thày đều cho uống thuốc chữa về não, như mụt óc, thì bệnh càng tăng. Mời tôi đến xem mạch thì đương mùa xuân mà thấy cả hai bộ Xích đều không động, các bộ Thốn, Quan thì thấy mạch thạch ứng với mạch mùa đông. Tôi biết đây không phải là mạch xúc (hay dừng) thì không phải là thư độc (ung thư). Mùa xuân mà ứng mạch mùa đông tức là hư tà. Nội kinh nói: "Hư thì bổ mẹ", nay thủy thiếu, tinh hao hỏa động, nếu không có Quế tốt, Thục tốt thì không thể chữa được. Nên kíp dùng thuốc làm mạnh thủy, để thu liễm hư hỏa và tư nhuận Can mộc, bèn dùng vài thang Bát vị thì bệnh khỏi. Thế mới biết Bát vị thật là một phương thuốc linh nghiệm muôn đời, dùng được thích đáng là do ở thầy thuốc.

Bát vị thang (xuất ở Triệu thị y quán).

 Phân tích phương thuốc "Bát vị thang":

 Thục địa bổ Thận thủy thêm tinh huyết, Hoài sơn bổ Tỳ Thận giúp tiêu hóa, thêm dinh dưỡng. Phục linh bổ Tỳ Phế dưỡng Tâm an thần, tiêu đờm nước ứ đọng, Sơn thù bổ Can Thận, mạnh dương liễm tinh. Mẫu đơn bì bình Can hỏa, hoạt huyết tiêu viêm, chống bốc nóng. Trạch tả tư Thận lợi tiểu, làm săn phân, sáng mắt điều hòa bài tiết. Phụ tử chế bổ Thận hỏa, làm mạnh tim, thêm sức nóng, và dẫn hỏa về nguyên chỗ để cho khỏi bốc nóng lên trên mà lạnh ở phần dưới, Quế tốt bổ hỏa, thêm sức nóng làm mạnh tim, tăng khí lực.

 Phương này ứng trị bệnh người hỏa hư, trên nóng dưới lạnh, rút hỏa xuống.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 10:00:51 AM
Bệnh án số 9

 Một người cháu họ của tôi, bệnh đầu tiên bị phát sốt từng cơn, sau biến thành chứng sốt âm, nặng về ban đêm. Chỉ thích trải lá chuối ra mà nằm, hay đưa võng cho mát mới chịu được, khát đòi uống luôn, người nóng như nước sôi, 8 - 9 ngày không ngủ, 2 - 3 tháng nay ăn rất ít. Đã dùng thuốc tư âm mạnh thủy đủ các mặt, cùng các thuốc ích Tỳ thoái hỏa, đều là vô hiệu cả.

 Lúc bấy giờ (Lược)... tôi mới lập một phương để uống lâu, song song với cổ phương; dùng qua nửa năm bệnh mới khỏi. Sau dùng thêm Thập bổ thang làm hoàn để điều lý. Phương dùng uống lâu gọi là "Giản kim thang".

Giản kim thang

Cao ban long : 2 lạng

Thục địa: 4 đồng cân.

Mạch môn: 2 đồng cân (sao).

Táo nhân: 1 đồng cân (sao đen).

Ngũ vị tử: 10 hột.

Phụ tử chế: 1,5 đồng cân..

Chích thảo: 7 phân.

Sắc đặc cô thành cao uống dần.

* Phân tích phương thuốc "Giản kim thang":

 Cao ban long bổ tinh huyết. Thục địa bổ Thận tư âm, thêm tinh huyết. Mạch môn bổ Phế sinh tân dịch, khỏi phiền khát khô táo. Táo nhân sao dưỡng Tâm an thần, dễ ngủ. Ngũ vị sinh tân dịch khỏi khát, thu liễm hư hỏa. Phụ tử chế bổ hỏa mạnh tim, dẫn hỏa về nguyên chỗ. Cam thảo nướng bổ Tỳ Phế.

 Phương này có tác dụng điều bổ âm dương thủy hỏa khí huyết, làm tăng tân dịch tinh huyết, mạnh tim trợ sức và thu liễm hư hỏa bốc nóng, chặn vong âm hỏa thoát.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 10:33:27 AM
Bệnh án số 10

 Một sản phụ đẻ một cháu gái mới được 5 tháng, bỗng dưng nửa đêm, cháu bé chân tay không cử động, có lúc như ngạt thở, một chốc lại thở dài, chân tay co quắp tựa như kinh giản, đến canh năm gần sáng thì bệnh càng nặng. Tôi cho sắc sẵn các thuốc Sưu phong trấn kinh nhưng còn do dự không dám cho uống, rồi lại cho sắc riêng một thang Toàn chân (1) để sẵn, nhưng cũng không cho uống. Tôi lại quan sát thật kỹ tình thế của bệnh và suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân, thì thấy cháu này hình thể bạc nhược, tiên thiên bất túc. Nếu vội cho dùng thuốc phong thì sợ một khi đã uống vào sẽ không cứu vãn được nữa, bèn thử lấy Bạc hà, Câu đằng sắc riêng cùng cho uống một ít mà các chứng cũng không chuyển. Mới rõ cháu này không phải bệnh chỉ riêng do ngoại tà gây nên: tuy ngoại tà có vào chăng nữa thì cũng do chính khí đã hư mà thành bệnh, nên lấy Toàn chân để cứu âm, cho uống một thìa thì bệnh bớt trông thấy, đến tảng sáng thì bệnh lùi.

 Than ôi! thuốc dùng không cần nhiều, chỉ cần đúng chứng mới hay. Hễ gặp bệnh nặng mà trong bụng không có chủ trương nhất định, hấp tấp lấy hư làm thực, lấy nhiệt làm hàn, thì sai lầm hại người không ít.

Thang cứu âm phản bản (1)

Minh đảng sâm: 3 đồng cân.

Thục địa: 2 đồng cân.

Hoài sơn: 2 đồng cân.

Mạch môn: 2 đồng cân.

Đỗ trọng: 2 đồng cân.

Ngũ vị: 10 hột.

Phụ tử chế: 3 phân.

 (Phương Toàn chân xuất ở Phùng Thị cẩm nang: Sâm, Truật, Thục, Phụ, Mạch môn, Ngũ vị, Ngưu tất. Nếu quả không phải trên giả nhiệt, dưới thật lạnh, người âm hư, thì nhất thiết không thể dùng được) (1).

(1) Đây chính là phương Cứu âm phản bản, người chép lại sách thấy phương này, thuốc này hơi giống với Toàn chân nhất khí, nên có nhẽ đã sửa lại Toàn chân và chú thích thêm. Phương thuốc Cứu âm phản bản (phân tích ở nội dung bệnh án) chỉ khác phương Toàn chân 2 vị: Phương này dùng Hoài sơn, Đỗ trọng, mà phương Toàn chân thì dùng Bạch truật, Ngưu tất, tác dụng gần gống nhau nhưng đỡ táo sáp hơn.

* Phân tích phương "Cứu âm phản bản":

 Đảng sâm bổ Tỳ Phế, Hoài sơn bổ Tỳ Thận. Thục địa bổ Thận tư âm. Mạch môn nhuận Tâm Phế sinh tân dịch, hóa đờm nhiệt. Đỗ trọng bổ Can Thận, chữa co quắp. Phụ tử chế trợ dương, mạnh tim, trừ quyết nghịch. Ngũ vị ôn bổ thủy tạng, nhuận Phế liễm khí, điều hòa hơi thở.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 11:12:10 AM
Bệnh án số 11

 Một phụ nữ bị bệnh chỉ độc nóng (vào hồi tháng 6) nhưng nóng ngày nhẹ, đêm nặng, đã hơn 2 tháng. Nhiều thầy chữa không khỏi, sau nhà bệnh cho uống độc vị Sâm cao ly đến quá 2 - 3 lạng, vẫn hoàn toàn vô hiệu. Dần dần đễn nỗi bệnh nhân không ăn uống gì được đã hơn 10 ngày, mà lại đau bụng dữ dội, ỉa tháo ra toàn máu tươi. Nhà bệnh không biết tính làm sao, lấy làm thất vọng và lo chuẩn bị làm ma.

 Vừa gặp lúc tôi ngồi chơi ở nhà một người hàng xóm, nghe rõ đầu đuôi bệnh tình thuốc thang như vậy, tôi phàn nàn: "Bệnh chưa đến nỗi chết, chỉ vì nhầm thuốc đó thôi". Người hàng xóm sang nói lại với nhà bệnh, rồi người chủ nhà bệnh đến mời tôi xem cho. Tôi xem mạch thấy cả hai tay mạch đều tế sác vô lực (nhỏ nhanh yếu), 2 bộ thốn đều khẩn (gấp) mà bộ xích bên phải thì ứng mạch khâu (rỗng). Sau đó xem cả 6 bộ mạch kỹ càng, tôi nhận định quả thật uống nhầm thuốc. Tôi bèn ngầm lấy một tý "Khai quan tán" đun nước nóng lên hòa tan thuốc, chấm vào họng 2 - 3 lần, thì họng mở ra được. Cho uống được một chén con thuốc thì nói ra tiếng như cũ. Tiếp theo tôi bốc một thang "Thanh hồn" uống xen vào, uống được một nước, thì bớt đau bụng, 2 nước thì hết đi ngoài ra máu; uống hết nước thứ 3 thì tinh thần tỉnh táo, đến tang tảng sáng thì ăn được 2 bát cháo; 2 - 3 ngày sau thì mình mát, cho uống luôn đến 5 - 6 ngày thì ăn uống được như thường.

 Đến 14, 15 ngày sau, thấy chỗ lõm trước tai, trên đường lạc của Thái dương, nổi sưng lên một nhọt độc như hột mận, 3 - 4 ngày càng lớn dần. Nhà bệnh muốn chích, nhưng tôi khuyên không nên chích, vì không phải là một loại nhọt bướu thường, mà đó là do âm kiệt hỏa động, phần nhiều người dịch khô máu nóng hay có chứng này (gọi là Thất vinh), chỉ có thể dùng thuốc Tư âm giáng hỏa, không thể châm cứu liều được. Tôi dùng thuốc tư âm cho uống luôn luôn, ngoài dùng thuốc Di độc tán bôi vào. Sau 3 - 4 ngày thì nhọt độc chạy dời ra trước tai quá nửa. Nếu cứ dùng thuốc như thế thì tại sao không khỏi? Nhưng một hôm, nhà bệnh nghe lời của một thầy thuốc ngoại khoa, cho chích ra, lại dùng Băng phiến, Ngưu hoàng, Xạ hương điểm vào miệng nhọt, rồi máu tia ra như bắn, một lúc bệnh nhân khát nước dữ dội, phát cuồng, mắt đờ dại không biết người, độ hơn một trống canh thì chết.

 Bệnh không chữa được là do mệnh trời, lại cũng tại họ mang đến cái chết. Khá chẳng nên răn đó hay sao!

Khai quan tán

Hoàng liên, Liên tử tâm, Thạch liên nhục, Sơn đậu căn, Xạ can đều bằng nhau. Tạo giác một ít.

Thanh hồn thang

Sinh đại: 3 đồng cân.

Bạch thược: 2 đồng cân.

Mạch môn: 2 đồng cân.

Hoàng cầm: 1 đồng cân.

Huyền minh phấn: 2 đồng cân.

Đậu xanh: 1 đồng cân.

Cam thảo: 1 đồng cân.

* Phân tích phương thuốc

1. Khai quan tán (đã phân tích ở phần trên) có tác dụng thanh nhiệt lợi đờm, tiêu sưng, khai khiếu, có thể chữa họng tắc mất tiếng, ăn uống không vào, trằn trọc khó ngủ.

2. Thanh hồn thang

- Sinh địa lương huyết thanh nhiệt, chữa sưng viêm nóng âm, chảy máu.

- Bạch thược bình Can thanh nhiệt, làm dịu nóng, chữa đau bụng nhiệt.

- Mạch môn (củ Tóc tiên) nhuận Phế sinh tân dịch, chữa phiền khát.

- Huyền minh phấn thanh nhiệt hạ lợi, chữa uất nhiệt, táo kết.

- Hoàng cầm tả hỏa hạ nhiệt, cầm chảy máu ở trong. Cam thảo, Đậu xanh thanh nhiệt giải độc là mát máu dịu nóng, giảm đau, khỏi đau bụng đi ngoài ra máu, hay kiết lị, táo bón, hoặc sốt âm khô khát mê sảng.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 11:18:15 AM
Bệnh án số 12

 Một bà già đã sinh đẻ 10 lần, khí huyết suy nhược, lúc đầu phát chứng sốt, khi ấy vào khoảng cuối mùa thu (tháng 9) sau dần dần thành sốt cơn kéo dài, các thày đã dùng nào là Lục vị, Toàn chân, nào Tứ vật, Tiểu sài, mà sốt ngày càng tăng dần. Lại thêm ỉa tháo, ngày đêm đi luôn không chừng, khát nước, nói nhảm. Thầy thuốc và nhà bệnh đều hoang mang chả biết tại đâu.

 Mời tôi đến, vào khoảng giờ thân (16 giờ), tôi xem thấy mạch 6 bộ đều hồng đại (to) nhảy lộn xộn rất nhanh. Môi và móng tay đều đỏ hồng, mà Nhân trung (lõm giữa mũi và môi trên) không đầy (môi xanh và Nhân trung đầy phẳng thì khó chữa). Tôi nhận định mùa thu mà ứng mạch mùa hạ thì bệnh nhiệt kéo dài. Sau khi quan sát và hỏi bệnh kỹ càng, tôi biết rằng bệnh có thể sống được, nên lập một phương gọi là  "Tuấn lưu ẩm" để trị nhiệt trước. Uống một thang thì bớt nóng. Ngày sau lấy "Bạch long tán" hòa vào nước ấm cho uống một chén, thì ngừng đi tả ngay, bệnh khỏi hoàn toàn.

Tuấn lưu ẩm

Sinh địa: 3 đồng cân.

Huyền minh phấn: 2 đồng cân.

Thục địa: 3 đồng cân.

Mộc thông (bắc): 1 đồng cân.

Thạch hộc: 1 đồng cân.

Chi tử: 1 đồng cân (sao đen).

Cam thảo: 1 đồng cân.

Gia Lá tre, Cỏ bấc sắc uống.

Bạch long tán

 Thạch cao sống tán bột, uống 3 đồng cân với nước ấm.

 Bệnh này, nếu vào tay một thầy thuốc tầm thường thì dùng Bát tiên cũng có kết quả. Nhưng nhiệt đã vào sâu, rất sợ Sơn thù vị chua thu liễm thì tà càng vào sâu. Bệnh nóng lâu, phần âm bị tổn thương, tân dịch đã hao cạn, thì cần cứu ngay chân thủy để bảo tồn nguồn sinh hóa. Rồi về sau, nếu cần thì tùy nghi mà dùng Bát vị để điều bổ. Ấy là phép chữa trước công sau bổ (triêu bá mộ vương) vô cùng khéo léo. Người xưa nói làm thuốc cần linh hoạt thật là đúng lắm.

 Xem đây thì biết: Thạch cao có công năng cứu thủy rất mạnh, mà Sâm Cao ly lại có cái hại làm vong dương (như trường hợp bệnh độc nhiệt trên đây). Nên chỉ dùng thuốc cốt được thích nghi đúng bệnh, há phải câu nệ về thuốc quý hay không quý! Đại khái dùng thuốc thật lạnh để chữa bệnh thật nóng, trúng bệnh cũng thôi ngay. Bệnh cấp thì chữa ngọn, bệnh hoãn thì phải chữa gốc, thật là những lời nói thật là xác đáng.

* Phân tích phương thuốc "Tuấn lưu ẩm":

- Sinh địa lương huyết thanh nhiệt. Thục địa bổ huyết tư âm. Thạch cao giải ôn nhiệt, dưỡng âm. Cam thảo thanh nhiệt giải độc. Huyền minh phấn thanh nhiệt hạ lợi bài độc. Mộc thông lợi tiểu, thanh nhiệt tiêu viêm. Chi tử, Lá tre, Cỏ bấc thanh tâm nhiệt, khỏi phiền khát.

 Phương này có tác dụng thông lợi đại tiểu tiện để giải uất nhiệt, vừa cứu âm tăng tân dịch, làm mát huyết hạ nhiệt, trị bệnh ôn ở phần âm huyết.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 04:25:44 PM
Bệnh án số 13

 Một người con trai, lúc đầu phát nóng, ít ăn, sau một thời gian hơn 2 tháng, biến thành nóng âm. Không rõ trước chữa thế nào mà đến nay bệnh đã quá nặng, mời tôi đến chữa. Tôi thấy bệnh nhân hình thể gầy khô, xương bọc lấy da, mình nóng như rang, lưỡi môi khô nẻ, tinh thần mê man như say rượu. Hỏi bệnh thì nói đã hơn 4 tháng, xem mạch thì mạch không động tới hai bộ quan. Nhà bệnh đã rước sư tụng kinh, các thầy thuốc đã đều bó tay mà chịu. Tôi nói: bệnh đã đến như vậy thì sợ chữa không kịp. Nhưng nhà bệnh cố van nài nhờ chữa, may mà có cơ cứu sống được chăng. Tuy mắt thấy khó thật, nhưng lương tâm không nỡ bỏ qua, bất đắc dĩ tôi cũng thử kê cho một phương để xem bệnh chuyển ra sao. Tôi nghĩ bệnh sốt lâu vong âm, tân dịch đã khô kiệt, nếu dùng thuốc tầm thường thì sợ không đủ sức, nên cho một thang "Tiếp âm" thật lớn, cho vào một cái ấm đất to, sắc đặc như cao cho uống một nước để nghe xem sao, rồi tiếp tục dần dần cho uống luôn, thì bệnh lùi dần, tinh thần tỉnh dần, bắt đầu ngủ được, rồi muốn ăn. Tuy nói tiếng còn nhỏ, nhưng mạch đã hơi hữu lực (có sức). Uống năm ngày thì hết ấm thuốc cao này, rồi sau cho uống tiếp Bát vị (dùng cổ phương xen với Đại bổ nguyên), khoảng 5 tháng thì bình phục hoàn toàn.

Phương Tam vị tiếp âm

Hà thủ ô: 4 lạng (ngâm nước Đậu đen, đồ và phơi 9 lần).

Sinh địa củ to: 4 lạng (tẩm rượu, đồ và phơi 9 lần).

Kỷ tử: 2 lạng (tẩm rượu sao qua).

Lấy sữa người mới vắt ra uống với thuốc cao trên.

* Phân tích phương thuốc "Tam vị tiếp âm":

 Hà thủ ô bổ Thận, bổ huyết. Thục địa bổ Thận âm và tinh huyết, Kỷ tử tư âm nhuận táo sinh tân dịch. Sữa người bổ âm, thêm dinh dưỡng.

 Phương này đại bổ chân âm, thêm tân dịch tinh huyết, có tác dụng tăng thủy dịch, làm dịu  nóng, chống khô khát, thích dụng để tiếp bổ sau bệnh ôn nhiệt, hay nhọc mệt hư lao, âm hư gầy gò, mất nước thiếu máu.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 05:02:14 PM
Bệnh án số 14

 Vào cuối mùa xuân, một người phụ nữ bị bệnh thật lạ, mời tôi đến chữa. Khi đến, tôi chưa kịp ngồi thì một người hàng xóm ra nói: "Mạch không còn nữa, bệnh chết đến nơi rồi, hà tất phải bàn bạc gì nữa". Thế rồi cả nhà khóc òa lên. Duy chỉ có người cha bệnh nhân cứ đến xin tôi xem cho một chút, để xem như thế nào.

 Tôi xem thấy bệnh nhân mình cứng đờ, chân tay đều lạnh, mắt nhắm, miệng chảy dãi, nằm im không chuyển động, không nói năng gì cả, thân thể còn ấm nhưng mạch Phục hết (chìm thật sâu). Lúc bấy giờ, khó mà dùng phép vọng (trông), văn (nghe) được nữa, hỏi người nhà bệnh thì họ nói là tình trạng như thế đã 3 ngày nay rồi, mà nhắm mắt đã 10 hôm nay, đại tiểu tiện 3 hôm nay không thấy đi, 2 hôm nay không ăn uống gì, và 3 hôm nay miệng thường chảy dãi ra; vả lại từ hôm qua đến nay thì sinh quyết lạnh. Nghe đầu đuôi như vậy, tôi lại xem mạch lại một lần nữa; ấn tay tận xương thì may thấy mạch còn hơi có lực, ấn tay vừa thì vị khí hãy còn, nhấc tay thì không thấy, nhưng đè sâu thì mạch vẫn còn. Tôi nói: "Còn có thể sống". Bèn cho một thang Đại thừa khí thật mạnh. Người cha bệnh nhân có vẻ lo ngại, thuốc hòa đều rồi chỉ cho uống một nửa. Tôi nói: "Nếu ông e ngại thì hãy cho nhỏ vào dần dần". Người cha bệnh nhân theo lời cho rót vào một ít, mới vào được độ 10 giọt mà đã bớt chảy dãi, rồi dần dần cho uống hết một bát thì nói được. Cho uống hết một nước thuốc thì chân trái hơi động được, hết hai nước thuốc thì trở mình được và thở dài. Đến đêm khuya lại báo tin mừng cho tôi biết là bệnh đã bớt. Tôi nói: "Ông không nghi ngại thì bệnh sẽ khỏi". Tôi bảo về  theo y đơn cũ sắc thêm nửa thang, mạnh dạn cho uống đến khi tỉnh thì thôi. Người cha theo lời cho uống hết thang thì bệnh khỏi. Tiếp sau, tôi cho uống Bát vị bỏ Phụ tử để điều lý, hơn một tháng thì bình phục.

 Đó là sáng dùng Đại hoàng mà chiều dùng Quế, Phụ, hà tất phải câu nệ việc đó, chỉ cần nhận định được xác đáng thì dùng mới quả quyết, nếu còn hơi e ngại, nhận thức chưa chắc chắn, thì chớ nên coi thường, phải rất cẩn thận.

Thang Tân tăng đại thừa khí

Đại hoàng: 2 đồng cân.

Hậu phác: 2 đồng cân.

Hoạt thạch: 1 đồng cân.

Mộc thông: 1đồng cân.

Phác tiêu: 1 đồng cân.

Nước 1 bát, sắc vài dạo, uống lúc nóng.

 Đại khái, người xưa chỉ trị hỏa để trục tà, còn tôi thì vừa trục tà, ở 2 kinh âm (lý) với 2 thang như trên, mà đái ỉa như thường. Mới nghiệm Đại hoàng là xứng đáng danh hiệu Tướng quân, có công cứu chết được sống lại. Nếu dùng thích đáng thì hiệu quả chẳng kém Sâm, Quế tí nào. Đại phàm đối với người cao lương bất đắc dĩ mà dùng, đối với bệnh người nghèo, nếu quả thực là bí mà dùng thì rất thích hợp. Bệnh này, nếu tôi được chữa từ đầu thì chả cần phải dùng thuốc mạnh như vậy. Nhưng nay cướp đã xâm nhập vào trong nhà rồi thì phải mở cửa sau mà đuổi nó ra. Phải dùng tướng mạnh mới kịp, chẳng phải những người lính yếu mà có thể đánh thắng được; chữa bệnh như dùng binh, lời ví dụ này rất đúng.

* Phân tích phương thuốc "Tân tăng thừa khí thang":

- Đại hoàng hạ lợi, tả hỏa nhiệt, tiêu tích trệ, thông huyết ứ. Hậu phác hạ khí, tiêu trướng đầy, đờm thấp tích trệ. Phác tiêu làm mềm phân kết, tẩy sổ cho mát ruột, dịu nóng. Hoạt thạch thanh nhiệt lợi tiểu, khỏi uất nóng. Mộc thông thông uất trệ ở Tam tiêu và đại tiểu tràng, bàng quang, lợi đại tiểu tiện, thanh nhiệt tiêu viêm. Phương này giải trừ tà nhiệt uất bế ở nội tạng, để khỏi hôn mê và vong âm trong bệnh ôn nhiệt.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 09, 2019, 05:31:51 PM
Bệnh án số 15

 Một người phụ nữ ngoài 30 tuổi, đã sinh 4 lần, vào cuối mùa xuân bị bệnh đơn nhiệt ghê lạnh, suốt mình đều đỏ, nổi ban lờ mờ, mê sảng, nói nhảm luôn mồm, không thích tiếp xúc với ai cả. Đã dùng mọi thứ thuốc đều vô hiệu. Bệnh ngày càng nặng thêm, nào cứu chân âm, nào trị ôn thần, bùa dấu mọi khoa, đều là vô hiệu.

 Nhà bệnh mới tôi đến chữa nhưng vẫn chưa tin tưởng. Tôi cho uống "Thoái độc" 2 thang thì bệnh lùi, 5 thang thì bệnh khỏi. Nhưng sau khi khỏi thì lại thành chứng ngớ ngẩn, tôi lại cho uống "Dẫn thần thang" thì giải được.

Thoái độc đơn

- Đan sâm: 4 đồng cân.

- Huyền sâm:  4 đồng cân.

- Cam thảo: 2 đồng cân.

- Thổ phục linh: 2 đồng cân.

- Đậu xanh: 2 đồng cân.

- Thêm Lá tre, Gạo nếp làm thang.

Dẫn thần thang

Thục địa: 4 đồng cân.

Phục thần: 2 đồng cân.

Hoài sơn: 2 đồng cân.

Liên nhục: 3 đồng cân.

Đại táo: 1 đồng cân.

Thạch xương bồ: 5 phân.

Viễn chí: 7 phân.

* Phân tích bài thuốc:

1. Thoái độc đơn

- Đan sâm bổ Tâm lương huyết, hoạt huyết, thanh nhiệt, tiêu sưng viêm. Huyền sâm bổ Thận tư âm, mát máu, hạ nhiệt, chữa sốt cơn, đơn sưng phát ban, sốt cao mê sảng, nóng âm kéo dài, khô khát táo bón, bệnh ôn nhiệt hôn mê kinh giật, không nói, mất trí... Cam thảo thanh nhiệt giải độc. Thổ phục linh trừ thấp nhiệt, tiêu độc, lợi tiểu, trị ban lở sưng ngứa. Đậu xanh giải nhiệt độc. Lá tre thanh nhiệt giải cơ biểu uất nóng, khỏi phiền khát mê sảng. Gạo nếp nhuận Phế mát da, trợ Tỳ dưỡng Vị.

* Phương này có tác dụng tư âm lương huyết, hoạt huyết tiêu độc, thanh nhiệt hỏa thấp, giải trừ ôn độc ở phần dinh huyết, tiêu thũng hóa ban, bổ thủy phối hỏa.


2. Dẫn thần thang

 Thục địa tư âm bổ tinh huyết. Hoài sơn bổ Tỳ Thận, dưỡng Tâm Phế, mạnh tiêu hóa, ích tinh khí. Phục thần bổ Tâm an thần định chí. Viễn chí bổ Tâm Thận, khôi phục ý thức, chữa hay quên mất trí, đần độn. Xương bồ khai khiếu tỉnh thần, cường Tâm ích trí, chữa ngớ ngẩn không nói, mê muội, yếu liệt. Đại táo nhuận Phế dưỡng Tâm, an thần dễ ngủ giải phiền, điều hòa dinh vệ khí huyết.

* Phương này có tác dụng thông giao Tâm Thận, điều trị các bệnh chứng về tâm thần hỗn loạn, không nói, điếc tai, ngớ ngẩn, mất trí, hay quên, ít ngủ, phiền táo, sau bệnh ôn nhiệt, hay Tâm Thận suy tổn, tinh thần hư nhược.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 10, 2019, 09:27:21 AM
Bệnh án số 16

 Một cháu lên 7 tuổi, nóng đã một tháng, lên kinh đã 30 - 40 lần, mấy hôm nay chả nói chả khóc gì cả. Khi lên cơn thì người quằn quại tựa như con giun, da thịt rung động, các gân co giật, hình thể khô róc, mắt trợn, chỉ thấy tròng trắng, chói đèn cũng chẳng liếc; ỉa toàn phân đen, đái són từng giọt. Đã dùng những thứ thuốc mà đều vô hiệu, bố mẹ bệnh nhi coi như là không thể sống được.

 Tôi đến thấy người nhà đang đem bệnh nhi đặt bỏ ra một nơi, có người hàng xóm bảo: "Hãy tạm dời để ở nơi chém tù nhân để tiên sinh thử chữa xem". Tôi nói: "hãy để thong thả" rồi tôi xem lại rất kỹ: bệnh tuy đã lâu, lúc lên cơn thì thấy chứng diễn ra ngàn hình muôn vẻ, nhưng sau khi cơn lùi, thì thần sắc hãy còn được ít nhiều, may còn chút hy vọng. Tôi bèn lập một phương gọi là "Thần tiên cứu khổ" chỉ mong uống vào mà khóc được một tiếng là còn cơ cứu được. Sau khi dần dần nhỏ luôn từng giọt, cho uống hết một nước thuốc, thì quả thực bệnh nhi kêu "e" lên được một tiếng rồi thôi. Tiếp tục cho uống luôn 5 thang thì hơi tỉnh, 10 thang thì rút nóng. Tiếp theo cho uống Bát tiên thì nóng trở lại. Lại cho uống thang trước thì sốt lại bớt. Sau lại cho uống Lục vị thì lại sốt trở lại, phải dùng lại phương thuốc lúc đầu thì mới khỏi nóng hẳn.

 Như thế trước sau, ba phen phải dùng tới 20 - 30 thang (Thần tiên cứu khổ) thì mọi chứng đều khỏi. Tuy nhiên vẫn không nói được. Người cha bệnh nhi nói: "Chỉ cần cho con sống được là may, còn không nói được thì cũng không quản ngại". Sau hai tháng cho uống "Đạt khiếu thang" một nước thuốc thì nói được, cơ thể lại bình phục như cũ. Từ đó bố mẹ cháu đổi tên cho cháu là "Sống Sót". Nay cháu đã 10 tuổi.

Thần tiên cứu khổ đan

Sinh địa: 3 đồng cân.

Huyền sâm: 3 đồng cân.

Cam thảo: 1 đồng cân.

Huyền minh phấn: 1 đồng cân.

Thạch cao: 1 đồng cân.

Vỏ đậu xanh: 1 đồng cân.

Đạt khiếu thang (Nội kinh nói: "Tà vào trong thì câm" thật đúng)

Sinh địa: 3 đồng cân.

Hoài sơn: 1,5 đồng cân.

Mẫu đơn bì: 1 đồng cân.

Thạch xương bồ: 5 phân.

Trạch tả: 1 đồng cân.

Liên tử tâm: 5 phân.

Sơn thù: 1 đồng cân.

Thêm Cỏ bấc sắc uống.

 Đây là ôn bệnh phát sinh từ năm Mậu Tuất, Kỷ Hợi (1358 - 1359). Đầu tiên cháu này mắc phải bệnh ấy, mà mọi nơi cũng đều bị bệnh như thế cả. Cho nên tôi theo phép chữa ôn dịch mà chữa bệnh khỏi theo tay. Còn các thày thì không biết, chỉ khi nào thấy bệnh dịch đã lây truyền, nhà nào cũng mắc, làng nào cũng mắt thì mới rõ. Do đó phần nhiều không phân biệt được, nhiệt cho là hàn, hàn cho là nhiệt. Đến cuối mùa xuân năm Canh Tý (1360) tôi đã công bố một y án về kinh nghiệm điều trị. Ở những nơi thiếu thuốc, thiếu thầy, người ta đã từng theo đó, mua thuốc về tương tế lẫn nhau, mà đã cứu sống được vô kể.

* Phân tích phương thuốc:

1. Thần tiên cứu khổ đan

- Sinh địa, Huyền sâm tư âm lương huyết, thanh nhiệt tiêu viêm, sinh tân dịch, khỏi phiền khát, chống sốt cao hôn mê co giật. Thạch cao giải ôn độc ở kinh Dương minh, hạ nhiệt, giải khát. Huyền minh phấn bài xuất ôn độc ở Vị phủ, hạ lợi, thanh nhiệt. Cam thảo, vỏ Đậu xanh thanh nhiệt giải độc.

 Phương này có tác dụng trị bệnh ôn dịch toàn diện, vừa bồi bổ chân âm, thêm tân dịch, làm mát máu, chống khô khát sốt cao, vừa bài độc hạ nhiệt, để ôn độc khỏi uất bế ở trong, làm tiêu hao tân dịch và truyền vào phần huyết sinh mê sảng, phát ban hay xuất huyết.


2. Đạt khiếu thang

- Sinh địa lương huyết thanh nhiệt. Hoài sơn bổ Tỳ Thận, dưỡng Tâm Phế, giúp tiêu hóa, thêm tân dịch. Mẫu đơn bì tả Can hỏa, chặn bốc nóng sưng viêm, hoạt huyết thanh nhiệt. Sơn thù bổ Can Thận, liễm tinh khí. Trạch tả tư Thận lợi tiểu, thanh nhiệt giáng hỏa. Liên tâm thanh Tâm hỏa, giải uất nhiệt ở thượng tiêu, an thần dễ ngủ. Cỏ bấc thanh Tâm hỏa lợi tiểu tiện, khỏi phiền nhiệt. Xương bồ khai khiếu, phát âm thanh mạnh thần chí.

Phương này có tác dụng bổ Thận thủy, thanh Tâm hỏa, trừ dư nhiệt uất bế sinh nóng âm trằn trọc hay ngớ ngẩn không nói, thích ứng với các trường hợp chân âm không đủ do bẩm sinh hay tân dịch hao kiệt do bệnh ôn nhiệt gây nên.


Tiêu đề: Re: Chu Văn An và Y học yếu giải
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 20, 2019, 06:47:41 PM
(https://i.imgur.com/I9vNmgt.jpg)

(https://i.imgur.com/yZVmcOp.jpg)

(https://i.imgur.com/C2D7LZJ.jpg)

(https://i.imgur.com/SbJ5Siu.jpg)