Tứ Hải giai huynh đệ

Đông Y - Traditional Medicine => Châm cứu - Án ma - Acupuncture - Massage => Tác giả chủ đề:: tuhaibajai trong Tháng Một 28, 2018, 03:44:32 PM



Tiêu đề: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 28, 2018, 03:44:32 PM
PHẦN 1

Mở đầu

Việc y trong lúc thừa nhàn
Lại đem Từ Thị (1) Đồng Nhân thừa cầu (2).
Thấy phép châm cứu nhiệm mầu,
Tài thô trí thiển dễ hầu ai tinh.
Vậy nên hết sức phát minh,
Đem lời giản dị đặt thành quốc âm.
Để cho hậu học nhập tâm,
Họa may phép cứu khỏi nhầm người ta.
Cứ ngày mồng ba tháng ba,

10. Ngọ thời (giữa trưa) lấy Ngải về nhà cẩn phong.
Âm can (phơi râm) trữ để vào trong,
Độ ba năm ấy sẽ dùng mới hay.
Ôn tân (cay ấm) là tính ngải này,
Hiệu là Y thảo (Ngải cứu) trị rày bách ban
Câu rằng "Phục dược tam niên
bất như cứu Ngải nhất tráng" (3) còn truyền.

Việc kiêng kỵ

Năm khao thần tại (4) phải kiêng,
Phạm khao thần tại cứu nên tật rày (thành thương tật).
Trọng giả táng mệnh (nặng thì chết) khi nay,

20. Khinh giả (nhẹ thì) thuở rày hóa phát ung thư (nhọt).
Ta hỏi tuổi người bệnh kia,
Một tuổi thần tai ở về cung Khôn.
Hai tuổi Chấn cung đã dồn,
Ba tuổi Tốn vị chẳng còn hồ nghi.
Bốn tuổi trung cung chớ gì.
Năm tuổi Kiền vị, sáu thì Đoài phương.
Bảy tuổi Cấn vị rõ ràng,
Tám Ly, chín Khảm, hết hàng cửu (chín) cung.
Mười tuổi Khôn cung lại dùng,

30. Mười một cung Chấn thuận dòng kể đi.
Mỗi cung một tuổi y, y.
Lại xem cung ấy thần thì ở đâu:
Khôn cung nội ngoại khỏa cầu (2 mắt cá chân),
Nha nhu (răng, bắp tay): Chấn, nhũ khẩu (vú, miệng) đầu: Tốn cung
Kiên cốt (xương vai) cưu cốt (xương mông) cư trung,
Diện mục bối (mặt, mắt, lưng) lại ở vùng Kiền môn.
Đoài cung thủ bác (bắp tay) phải tôn,
Cấn cung yêu hạng (eo lưng, gáy nay khôn động hề.
Tất lặc (đầu gối, sườn cụt) thì kỵ ở Ly.
Trửu cước độ (khuỷu tay,chân, bụng) thì kỵ ở Khảm gian.

***

40. Khao thần kể trước đã an,
Nhật thần nay lại kể tên từng ngày:
Mồng một ngón tay cái [ngón chân cái] nay, (5)
Mồng hai mắt cá ngoài rày phải không.
Mồng ba trái đùi bên trong.
Dưới lưng mồng bốn cho thông những là.
Mồng năm ở miệng chẳng xa.
Mồng sáu kia là thần tại cánh tay [bàn tay]
Mồng bẩy mắt cá trong rày,

50. Mồng tám ngày ở cổ tay chớ gì.
Mồng chín xương cùng một khi,
Mồng mười lưng bối vậy thì dám quên.
Mời một tinh mũi là tên.
Mười hai chân tóc vậy liền kể ra.
Hàm răng là ngày mười ba.
Mười bốn vị quản (vùng dạ dày) (7) thời ta chớ nhầm.
Khắp mình là ngày mười lăm,
Đến ngày mười sáu thần nằm nương long (7 + 1).
Mười bảy thần tại Khí xung (9),

60. Mười tám thần tại bên trong trái đùi,
Mười chín bắp chân [đầu gối] (10) kia ơi,
Hai mươi mắt cá nhưng ngồi bên trong.
Hai mốt ngón tay út song (2 ngón),
Hai mươi hai mắt cá ở cung bên ngoài.
Hai ba ở Can (vùng gan) chẳng sai,
Cùng là tức cước (cẳng chân) mọi nơi kia là.
Ngày hai mươi bốn kể ra,
Ở ngón tay trỏ ấy là Dương minh (11).
Hai nhăm Dương minh túc kinh (12).

70. Nương long hai sáu rành rành chớ sai.
Hai bảy đầu gối là nơi,
Ân môn (13) hai tám, thần chơi đấy là.
Ngày hai mươi chín kể ra,
Ống chân đầu gối (14) cũng là phải kiêng.
Ba mươi gót chân [bàn chân] (15) cũng kiêng,
Nhật thần tại đó, ngày kiêng chớ dùng.

***

Nhật thần trước đã kể xong,
Huyết ky (16) mỗi tháng lại cùng kể ra:
Ngày Sửu giêng, Dần hai, Vị ba,
Bốn thân, năm Mão, sáu là Dậu cung.
Thìn bảy, Tuất tám đã xong.
Chín Tỵ, mười Hợi, còn mong nỗi gì.
Mười một mười hai kể đi,
Một Ngọ hai Tý, vậy thì phải kiêng
Huyết chi (17): ngày Sửu ở tháng giêng,
Hai Dần, ba Mão, Thìn sang bốn rồi.
Năm Tý, sáu Ngọ, bảy Mùi,
Tám thân, chín Dậu, Tuất mười phải chăng,
Hợi mười một, Tý chạp thực rằng,
hễ dùng châm cứu phải năng ghi lòng.

***

90. Lại học Trực nhật cho thông,
Nam Trừ (18), nữ Phá (19) chớ dùng làm chi.
Nam Phá nữ Trừ một khi,
Ấy là ngày tốt, ta thì dùng ngay.
Lại xem khí trời bằng nay,
Thanh minh quang lãng là ngày khai thông.
Nhược bằng lôi điện vũ phong (sấm sét mưa gió),
Thiên địa âm ám (trời đất âm u) bất thông chớ hề.
Ngày nào là ngày Đinh mùi
Biển Thước (20) tử nhật (ngày mất) ta dùng làm chi.

100. Còn khi cơ bão (no đói) thất thời,
Khí hao huyết tổn, cứu thì phải hung (xấu).
Cứu xem đương Ngọ chính trung (giữa trưa).
Ấy khi dương thịnh mới thông huyết rày.
Dù hòa (mà) bóng xế về tây,
Ấy khi âm thịnh, cứu nay chẳng hèo (công hiệu).
Lại bảo cho hết mọi điều
Hoặc có bệnh phải chứng nghèo kịp hay.
Chọn sao cho được ngày rày,
Ta cứ thuở này Bát pháp Linh quy: (21)

110. Hà nhật, hà can, hà chi (ngày nào thuộc can chi gì),
Hà nhật, hà thì (huyệt nào, giờ nào) phép ấy chính công.
Đoạt trừ chư nhật thần hung (kiêng những ngày xấu).
Chẳng còn phạm sát đến trong mệnh người.
Lại còn lấy lửa đốt mồi,
Lọ (chẳng) phải lửa trời lửa đá làm chi,
Lửa đèn, lửa sáp tùy nghi
Ta dùng để cứu thực thì hiệu thay.

* Chú thích:

(1) Từ Chính Khanh khắc in và đề tựa quyển Châm cứu Tư Sinh kinh năm 1220.
(2) Đồng nhân ấn huyệt châm cứu đồ kinh của Vương Duy Nhất soạn năm 1027.
(3) Uống thuốc ba năm chẳng bằng đốt Ngải cứu một mồi.
(4) Khao thần tại là một lối kiêng châm cứu ở từng vùng theo tuổi người bệnh (ở thời xưa).
(5) Ngón chân cái (túc mậu chi): Đính chính (theo Châm cứu đại thành).
(6)Bàn tay (thủ chưởng): đính chính.
(7) Vùng dạ dày ở trên rốn khoảng 2, 4 - 5 thốn.
(7+1=8) Trước ngực (hung tiền), khoảng giữa vú.
(9) Huyệt Khí xung ở hai bên bẹn.
(10) Đầu gối (túc tất).
(11) Kinh Thủ dương minh bắt đầu từ huyệt Thương dương ở bên cạnh phía trong ngón tay trỏ.
(12) Kinh Túc dương minh bắt đầu (theo sách cổ) từ huyệt Lệ đoài ở mé cạnh ngoài ngón chân thứ hai.
(13) Vùng tiền âm và hậu môn.
(14) Bắp chân đầu gối (túc tất kinh hậu).
(15) Bàn chân (túc phu).
(16, 17) huyệt kỵ, huyết chi là những lối kiêng châm cứu mỗi tháng một ngày tính theo can, Chi, âm lịch ở thời xưa.
(18, 19) Nam kiêng ngày Tuất là Trực trừ, nữ kiêng ngày Hợi là Trực phá.
(20) Tác giả của sách Nạn kinh về châm cứu.
(21) Phép tìm huyệt châm cứu tính theo ngày giờ thuộc can chi, phối hợp tám phép giao hội với bát mạch, bát quái.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 30, 2018, 03:10:07 PM
Phân thốn xích biện thần huyệt quốc ngữ ca (*)

(CA NÔM VỀ PHÂN CHIA THƯỚC TẤC ĐỂ LẤY HUYỆT)

Tuyền cơ (22) vừa thuở thanh minh,

120. Xem pho châm cứu mới tinh nhiệm mầu.
Kinh (sách) rằng đầu có thước đầu,
Chọn ra cho biết mới hầu nên hay.
Trước thời dùng một cái dây,
Sử (khiến) người bệnh ấy ngồi bày hẳn hoi.
Trâm liền rẽ tóc cho rồi,
Đo từ chân tóc trước ngôi làu làu.
Trực thượng (thẳng lên) đến chân tóc sau,
Chia mười hai tấc mới hầu định danh (tên).
Ấy là trung bộ (đường giữa) phân minh,

130. Hễ cứu đầu thượng (trên đầu) dùng hàng mũi nơi.
Bằng người sói trán khó coi,
Chân tóc chẳng có, cứ ngôi chẳng tường.
Ta liền đo tự Ấn đường,
Trước mặt chính mũi giữa ngang hai mày.
Cứ đấy đo lên cho ngay,
Thẳng sau Hậu đỉnh, đến nơi Đại chùy.
Cứ giữa u cổ đoạn chi (cắt dây đến đấy),
Là mười tám tấc (thốn) thực thì phải thay.
Lại trừ sáu tấc bằng nay (trước và sau),

140. Đến hai chân tóc, còn dày thước hai (12 thốn).
Lại bằng phép cũ chẳng sai,
Cứu đầu thì dụng, ai ai tỏ tường.
Lại dùng phép nở hòa lường,
Có người lạ dạng khác thường thế nay.
Đại chùy chẳng có khôn (khó) thay,
U cổ thì lép ta rày cứ đâu?
Phải lấy hai bên vai đầu,
Đo ngang bằng phẳng ngồi ngay chớ gù.
Nào giữa xương sống đến đâu,

150. Bút điểm lấy đấy thực lâm (đến đấy) lại bằng.
Lại đến bối bộ trung hàng (dọc lưng),
Kể đốt xương sống lưng cho tỏ tường.
Lấy hai mươi mốt đốt sương,
Chia làm ba bảy (3 x 7) lạ đường khác tên.
Bảy đốt trên về phần kiên (vai),
Một đốt sá lấy một tấc bốn phân.
Lại thêm một ly đủ phân,
Trung chùy (giữa đốt) lại kể đến tuần bối (lưng) nay.
Lại còn bảy chùy cho hay,

160. trung bộ hơn đốt ai rày biết chi.
Một tấc sáu phân một ly,
Ấy là một chùy ta rày cứ theo.
Hạ chùy kể đến phần yêu (eo lưng),
Bảy đốt xương sống hiểm nghèo nan tri (khó biết).
Một tấc hai phân một ly [sáu ly],
Ấy là một đốt biết thì là riêng.
Kể cả ba bộ cho yên,
Chia ra ba thước luận bàn mới hay.
Cứ trên từ Đại chùy nay,

170. Hạ chí cùng cốt (đến xương cùng) thực rày thông tri.
Bằng nay (nếu như) béo lớn phát phì,
Lấn chẹt xương sống ta thì làm sao?
Ta chẳng biết đổi huyệt nào,
Đến khi lấy huyệt làm sao khó lòng.
Phải cứ bên trước tề trung (theo giữa lỗ rốn),
Đứng bằng đo lấy giữa trong rốn rày.
Chuyển hâu đem về đằng sau,
Điểm vào xương sống hiệu rày Mệnh môn.
Ấy mười bốn đốt chẳng hơn,

180. Đại chùy đến đấy nào còn phải suy.
Dưới còn bảy đốt hạ chùy,
Cứu đâu đo đấy kẻo thì suyễn sai.
Cho biết ba bộ ngắn dài,
Nhược bằng hoành tấc (đo ngang) đốt tay rõ ràng.

***

Hậu bối sau lưng đã nói tỏ tường,
Lại dẫn phúc bộ trung hàng (dọc bụng) kể ra:
Thượng, Trung, với Hạ kể ba,
Trên từ Thiên đột dưới hòa Vĩ cưu (Cưu vĩ) (23)
Đấy là Kỳ cốt giáp nhau,

190. Kể trên thượng bộ biết hầu bao nhiêu,
Tam tấc bốn phân (23) chẳng nhiều,
Thứ tự bẩy huyệt càng yêu thay là.
Thượng tiêu trung bộ kể ra,
Từ nơi Kỳ cốt đến hòa Tề trung (giữa rốn).
Ấy là giữa rốn dòng dòng,
Bẻ chín tấc chẵn (23) cho thông chớ nhầm,
Có một trung tiêu dài hơn,
Hạ tiêu lại kể nguồn cơn chép bày.
Từ rốn đến Khúc cốt nay,

200. Phân làm năm tấc thực rày đinh ninh.
Trung hàng tam bộ phân minh,
Đã chia rộng hẹp thực tình cho xong.
Lại nói đến huyệt Đản trung,
Cứ hai đầu vú ấy dùng cứu ta.
Giả linh (ví thử) cứu chị đàn bà,
Vú dài chảy xuống thày ta kể nào.
Đản trung khôn ý làm sao,
Phải tìm Thiên đột kể cao hàng dùng.
Từ Thiên đột đến Đản trung,

210. Sáu tấc ròng ròng mấy lại tám phân (24).
Vừa đương chính huyệt trung tuần,
Tức ho cứu đấy, kẻo còn lệ (e) chi.
Luận đến huyệt Cưu vĩ kia,
Có người thẳng cổ hồ nghi khôn dùng.
Ta lại cứ từ Đản trung,
Đo xuống hai tấc cũng cùng một phân (25).
Ấy huyệt Cưu vỹ như thần,
Song le cấm cứu biết phần mà noi.
Tổng danh các huyệt mọi nơi,
Khắp cả mình người tính cộng mấy nên:
Ba trăm đủ sáu mươi nhăm.

(*) "Thốn", "Phân" dùng trong châm cứu là những đơn vị đo riêng biệt, không nhất luật đối với các bộ phận của cơ thể và khác hẳn với tấc phân thông thường về trắc lượng, cho nên có thể phiên âm như một thuật ngữ, để khỏi hiểu nhầm nhất là về mức châm, chiều sâu.

(22) Tuyền cơ là một dụng cụ để xem thiên văn, Tuyền cơ cũng có ý nghĩa nói về sự xoay vần của tạo hóa.

(23) Theo sách châm cứu ngày nay: Thượng bộ kể từ huyệt Thiên đột đến huyệt Trung đình là 7 huyệt: 9 thốn. Trung bộ kể từ huyệt Trung đình đến huyệt Thần khuyết (giữa rốn): 8 thốn. Tính chẵn, từ Thiên đột đến Cưu vĩ là mười thốn.

(24) Từ huyệt Đản trung đến Cưu vĩ tính 2 thốn 6 phân.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 31, 2018, 03:40:25 PM
Huyệt cấm

Huyệt nào cấm cứu, cấm châm đâu là?
* Cấm châm trước sá kể ra:
Hai mươi tám huyệt thực là chỉn khôn:
Não hộ, Tín Hội, Giác tôn,
Thần ưng, Lạc cước, lại còn Thừa linh.
Lư ngạch (Lư tín), Thừa khấp (28) là danh,
Linh đài, Thần đạo lại hình Đản trung.
Thủy phân, Thần khuyết mấy cùng,

230. Hội dương (Hội âm), Hoành cốt, Khí xung mựa (chớ) hề.
Tam âm (27), Thừa cân huyệt kia,
Thanh linh cũng vậy ta thì khoan tay.
Kìa người thai dựng (nghén) cho hay,
Cấm châm Hợp cố cùng rày /Tam/ Âm giao.
Thạch môn, Cưu vĩ nơi nào, Vân môn Gián khách (28) người nào dám tra,
Khuyết bồn, Kiên tỉnh kia đà,
Thủ tam lý huyệt cũng là phải kiêng.
* Cấm cứu mấy lại càng thiêng:

240. Bốn mươi nhâm huyệt biết liền càng khôn.
Thừa quang, Phong phủ, Á môn,
Thiên trụ, Lâm khấp, kể dồn Tố liêu,
Tình minh, Toản trúc hòa nào,
Nghinh hương, Ty trúc, Hòa liêu cho tường.
Bạch hoàn /du/, Thiên phủ, Nhân nghinh,
Quyền liêu, Cưu vĩ, cùng hòa Đầu duy.
Hạ quan, Tích trung chớ hề,
Kiên trinh cùng về đến huyệt Tâm du,
Nhũ trung, Chu vinh mọi đồ,

250. Uyên dịch, Ngư tế đến hầu Phúc ai.
Thiếu thương, Kinh cự làm nơi,
Thiên phủ, Ngũ hội lại rày Trung xung.
Dương quan, Dương trì đều cùng,
Ẩn bạch, Lậu cốc, Ủy trung chẳng hiền.
Độc tỵ với Dương lăng tuyền (29),
Điều khẩu, Âm thị lại thêm Thừa phù.
Phục thỏ, Bễ quan một đồ,
Ân môn, Thân mạch, bảo cho mà phòng.
Tùy bệnh cứu ít mặc lòng,
260. Chẳng nên tăng vội từ vòng ba trang (mồi).

Quỷ huyệt

Cấm kỵ đã bảo tỏ tường,
Này lại dạy đường khu quỷ trừ tinh (30).
Phép ông Tư mịch tiên sinh (30),
Châm mười ba huyệt trong mình người ta:
Tự nhiên trừ hết quỷ ma,
Chẳng còn ám ảnh vào ra khỏi hề.
Trước ta phá nhà nó đi,
Châm Nhân trung huyệt quỷ tà hãi kinh.
Sau phá Quỷ tín là danh,

270. Đầu ngón tay cái châm rành hai bên (31).
Phá vào quỷ lụy kẻo bền,
Đầu ngón chân cái hai bên đấy rày (32).
Dưới móng một chút ghê thay,
Châm hai bên rày quỷ liền tuyệt tâm.
Rồi lại xuyên vào quỷ tâm,
Trước bàn tay cầm là huyệt Đại lăng.
Lại cấm lấy quỷ đi đường,
Là huyệt Thân mạch ở đường bàn chân.
Phá liền quỷ chẩm tần tần,

280. Hậu (sau) đầu một thốn ngay chưng Đại chùy (33).
Thứ bảy châm ở nhĩ thùy (dái tai) (34),
Là giường quỷ đấy trừ đi tan tành.
Tám phá chợ quỷ chính danh,
Là Thừa tương huyệt phân minh tỏ tường.
Giản sử (35), Thượng tinh, Ấn đường (35),
Châm vào một đường quỷ chẳng dám coi.
Âm hạ (Hội âm), ngọc môn hai nơi,
Chẳng nên châm đấy, húy (kiêng) nơi đàn bà.
Khúc trì, đầu thiệt (chót lưỡi) kể ra,

290. Ấy trừ tà quỷ mười ba huyệt thần.
Dầu hòa (dù mà) cứu thế độ dân,
Đắc truyền biết hết có phần tinh thông.
Chớ bì dốt nát đốt xông,
Lửa là tước (cướp) sạch khô lòng thế gian.

* Chú thích:

(26) Nghi là huyệt Thần tàng hay huyệt Ưng song.
(27) Tam dương lạc chép nhầm là Tam âm (đính chính).
(28) Theo sách cổ thì cấm châm gồm có huyệt: Cơ môn và Thủ tam ngũ lý mà không có huyệt Thần ưng, Thừa khấp và Gián khách.
(29) Đính chính: Âm lăng tuyền (chép nhầm chữ dương).
(30) Thuyết duy tâm theo sách Thiên kim phương của Tôn Tư mịch (581 - 683).
(31) Huyệt Thiếu thương.
(32) Huyệt Ẩn bạch.
(33) Huyệt Phong phủ (theo Châm cứu đại thành).
(35) Có huyệt Lao cung mà không có huyệt Giản sử, Ấn đường (Châm cứu đại thành).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Một 31, 2018, 06:33:52 PM
Bàn về huyệt Cao hoang, Hoạn môn, Tứ hoa, Trúc mã, Mỗ tự

Cao hoang mới lại luận bàn,
Trước bày chứng bệnh sau toan hành dùng.
Chẳng nề giầu khó trẻ trung,
Nam nữ lão thiếu đều cùng luận xưa.
Phụ âm bão dương kia là,

300. Thực vị bị sắc (ăn uống sắc dục) há là một ai.
Hoặc khi cảm khí đất trời,
Tứ thời bất chính trong ngoài chẳng ưa.
Huống chi là sự khôn trừ
Càng thêm chất lửa nào chừa nước hao.
Nhân cường tật nhược xem sao,
Chẳng lo rằng nó trơ vào vui riêng.
Lấy làm đắc ý chẳng kiêng.
Nào hay tự kỷ (sửa mình) biết giềng thiên cơ.
Đến khí hao kém sờ sờ,

310. Một ngày một tí nào ngờ bệnh mê.
Tiếng ho húng hắng hằng lề (thường khi),
Muốn ăn lóng mía cùng thì quả chua.
Càng thêm lạnh khí vào cho,
Tỳ  hư trở miệng, mép phô thở dài.
Hóa suyễn khi ngủ vắng người,
Chiêm bao kể thấy nói cười lăng nhăng.
Thức dậy mê mẩn khác hằng (thường),
Thần bất thủ xá (tinh thần hỗn loạn) lại rằng quý nhân.
Có người tham lộc đòi ăn,

320. Rối đùa mọi vẻ, hương phần tương liên (đốt hương luôn).
Khăn hồng yếm thắm vắt lên,
Coi vừa con mắt, bệnh liền khinh khinh (nhẹ nhẹ).
Lại khen vu hịch (thày phép ông đồng) thời danh,
Nào còn biết sự chân kinh (chân lý) là gì.
Hoặc người bẩm khí bạc suy (suy nhược),
Mỏng manh sức cốt thường khi yếu liền.
Hoặc ho, hoặc dãi, hoặc hen,
Lạnh liền đau bụng, nắng liền nhãn hoa (hoa mắt).
Ho đờm khạc huyết sinh ra,

330. Trong lòng bẩm nhẩm, ngoài da rùng rùng.
Khí suy huyết thiểu thực song,
Chưa hè đã quạt, chưa đông đã vầy (sấy).
Có khi trên ức đầy đầy,
Sái vai mỏi cổ lại hay ngáp dài.
Da vàng mái mái chẳng tươi.
Biếng ăn cơm gạo, muốn say mận đào.
Có người nguyên phải liệt lao.
Mạnh trên chưa kể được bao nhiêu ngày.
Giầu tham khó tiếc ai tày.

340. Cho nên lăn lội đông tây chẳng nề.
Ngoại thương xem đã bề bề,
Ngày hôm rượu thịt đêm kề lửa rơm.
Lạ chi mây đã nhóm cơn,
Chẳng mưa thì gió bình yên được nào.
Mượn say giả tỉnh ít nhiều,
Tinh thần hao tán mệnh nghèo sinh ra.
Cho nên chợt thấy đẫy đà,
Da trắng mỡ gà, bụng cả ễnh ương.
Phù kia phép nọ lạ dường,

350. Thuốc thì đã ít muôn phương đã nhiều.
Gái thì tuyệt thủy (kinh nguyệt) chẳng đều,
Biến làm trăm chứng gửi trêu ở mình.
Như hình giả cách ướm tình.
Mỏi mòn nặng nhẹ, trọng khinh đôi ngày.
Bụng thì khi đói khi đầy,
Mặt xem bỗng tái, bỗng hây đỏ hồng.
Khí thăng (lên) ừng ực nương long,
Ủa lên máy miệng phán rông phán dài.
Ấy là quỷ chúa bời bời,

360. Máu hay nát (dọa) người chẳng biết dễ nghe.
Chiều lòng cho khỏi ủ ê,
Mời bà xem lại nói về phần ma.
Khó tìm, giàu sắm của nhà.
Ngờ là vua chúa một ta biết người.
Kẻ thì mồ mả chuyển dời,
Sấy khô hài cốt cho người mới yên.
Dầu ai thượng trí nên ngoan,
Hễ điều tổn đức thiên vàn chớ nghe.
Có người lao trái truyền thi (lao trùng),

370. Cường tà ngoan quỷ nó thì cũng nên.
Hoặc nguyên tông phái tổ tiên
Hoặc phải phí truyền ăn mặc khí ai.
Hoặc là tôi tớ nuôi người,
Lấy phải uế khí nó dời biến sang.
Lâu ngày nhân nhược tật cường,
Nào ai biết trước kiếm phương giữ mình.
Kẻ tham bể bạc non tiền.
Vô tài dụng lực tìm miền xa khơi.
Non cao rừng rậm mọi nơi,

380. Đất thiêng nước độc ít người nhiều ma.
Dầm khe lặn suối lân la,
Cây cao bóng cả khí tà nhiễm xâm.
Trong nhiều thương thực cố tâm.
Ngoài nhiều dầu dãi sơn lâm hiểm nghèo.
Cho nên quỷ mị yêu kiều,
Ám ảnh dập dìu như gió bẻ măng.
Đến khi về tới đất bằng,
Lạ ăn phải nước, tật hằng sinh ra.
Rùng mình sởn óc ngoài da,

390. Bụng trong hòn chói báng là một bên.
Cho nên ngược chứng (sốt rét) phát liền,
Tật cùng nước độc nó liền hóa sinh.
Liền ngày, gián (cách) nhật phát hành.
Thổ tả, khái thấu (nôn, ỉa, ho) trong mình nọ kia.
Thuốc hay đã được một ai,Tích là khí nó ngày rày chưa tan.
Dĩ thượng (trên đây) các chứng luận bàn,
Cứu trừ tuyệt tích mới toan khỏi rày.
Luận cho cùng lẽ mới hay.

400. Chư hư bách tổn lâu ngày nhiễm xâm.
Lại phàm tà khí hai bên.
Phép thì cũng có, lý liền chẳng không.
Cho nên thảo mộc sinh trùng,
Nhớ người khí yếu tà tòng thừa hư (nhân yếu sinh bệnh).
Cây toan (chua) mọt mối dễ ưa,
Hễ ai có tật da thưa nhiễm vào.
Huống chi cửu khiếu bì mao (chín khiếu, chân lông),
Phong dẫn khí vào sự phải có ngoa.
Dễ xui chân tính thiên tà,


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 02, 2018, 07:28:26 AM
410. Vả khi có việc hô la trăm đường.
Chân nguyên chẳng có chủ trương,
Càng nhiều gió cả cành càng dễ lay.
Khác nào tầm gửi chọn cây,
Nhớ khi lâu ngày mượn miệng truyền hơi.
Phép thiêng cũng có chuyển dời,
Dại miệt lòng người cảm ứng chẳng thông.
Dầu ai thượng trí tài trên,
Nội công ngoại kích thực liền có hay.
Nếu mà cứu được huyệt này,

420. Như chim phá tổ, rắn nay dập đầu
Như thiên vạn quỷ âu sầu,
Lục phủ ngũ tạng mấy hầu bổ nguyên.
Bách bệnh chủ trị vi tiên,
Thượng cổ thánh hiền đã truyền Nội kinh (kinh điển)
Đắc truyền học được bảo minh,
Chữ nào nghĩa ấy dành dành như soi.
Tay làm, thầy dạy, mắt coi,
Nghĩa thông lý biết hẳn hoi rõ ràng.
Thánh sư đem hiệu cũng thường,

430. Lập làm quốc ngữ một phương nhiệm mầu.
Ông Hoàn xưa trị Tấn hầu,
Lấy chẳng nên huyệt người dầu đã chê.
Tuy nhiều sách nọ pho kia
Tiên hiền di bút người thì dấu ai.
Bởi ta sức học vắn dài,
Chữ đen đã thấu nghĩa vai còn ngờ.
Nghe hơi bắt chước tình cờ,
Khổ dê ỷ núi bây giờ chan chan.
Cậy rằng đắc thế làm càn,

440. Chẳng nề kinh chỉ (sách dạy) chẳng toan đắc truyền.
Kìa trong hòa cũng được nên,
Nào nhớ lời truyền Thiên thử phục ai.
Ấy là bàn bạc luận chơi,
Mặc sở phúc người, mặc sở lộc ta.
Hễ ai cửa thánh dạy ra,
Tìm thầy học hỏi kẻo mà đúng sai.
Cứu được huyệt ấy ai ai,
Thần kinh quỷ cụ (sợ), tuổi dài dài thêm.
Tính thiêng khí sảng bệnh êm,

450. Bách phát bách trúng giá nên ngàn vàng.
Vậy bèn dẫn huyệt Cao hoang:
Dạy bảo tỏ tường cho kẻo phân vân.
Trước đo lấy tấc (thốn) đồng thân (36).
Khiến bệnh ngồi nhổm khép chân vừa vừa.
Hai tay ôm hai gối co,
Cúi cúi mặt xuống ngồi chờ cho yên.
Hai tay kẹp nách hai bên,
Chớ hề dao động nữa liền sai đi.
U cổ kể lại một chùy (đốt xương).

460. Ngón tay áp đè cứ chỗ đốt xương.
Lấy từ Đại chùy cho tường,
Cứ trong xương sống kể hàng ấy tên (37).
Bốn, năm kể lấy cho yên (38).
Là đầu xương dưới phép truyền đã phân.
Chung ba cản lấy hai phần,
Bút điểm làm cứ (mốc) để phân lưỡng bàng (2 bên).
Tấc đồng (đồng thân) chỉ mới đo ngang,
Một bên ba tấc (thốn) lưỡng bàng: sáu nay.
Bút điểm hai huyệt cho ngay,

470. Đã hầu chính huyệt phép này càng gia.
Nguyên vai nó đã tỏ ra,
Bên trong xương ấy tay ta sờ vào.
Ngay đầu xương vai chốn nào,
Tìm ấn xuống huyệt Cao hoang cho tường.
Xương sườn kẽ nó bốn xương
Tam gian (3 khoảng) phải trái bằng dường thịt không,
Thực huyệt hình như hãm trung (chỗ lõm).
Nặng tay ấn xuống xem trong biết rày.
Xương sườn chẳng có phạm nay,

480. Mạch liền khiên dẫn (dằng đến) vai rày biết đau.
Ấy là thực huyệt nhiệm mầu,
Lại bảo một phép cứ sau cho tường.
Phải điểm giữa dưới đầu xương,
Dưới bốn tấc nữa môt đường cho ngay.
Lấy bút điểm lấy đấy rày,
Để làm sở cứ cho hay thực truyền.
Một bên năm tấc cho yên,
Lên đến hai huyệt hai bên biệt tình.
Hoặc bằng hoặc lệch phân minh,

490. Xem đã bình chính (bằng thẳng) rành rành như in.
Ngải cứu tước phẩn (bằng phân sẻ) đặt lên,
Tiên tả hậu hữu (trước trái sau phải) phép truyền cứ xưa.
Thần hỏa hạ Ngải bấy giờ,
Tiên khinh hậu trọng (trước nhẹ sau nặng) thần cơ phép cầm.
Một huyệt phỏng tự một trăm.
Phải bệnh có đờm lũng thũng chảy xuôi,
Hoặc là hai ba trăm mồi,
Cứu làm hai cữ (lần) kẻo ngồi mỏi tay.
Hoặc là bệnh /nhân/ kêu mỏi nay.

500. Bảo vịn vai cổ ngồi rày cho yên.
Chớ cho tay rũ hai hông,
Xương vai giáp lại chẳng thông khí vào.
Này phép Từ thị có công,
Trước xem bằng mặt vẽ vòng vách kia.
Khiến bệnh /nhân/ coi vòng chớ lìa,
Ngồi cho, yên chính ta thì dễ toan.
Lại như phép trước cho an.
Đại chùy cứ trước tuần hoàn kể đi,
Bằng người chẳng có Đại chùy,

510. Bằng vai lấy giữa mà suy cho tường.
Tứ ngũ chùy hạ lưỡng bàng (2 bên giữa đốt 4, 5),
Lại phân sáu tấc y tuân phép thường.
Có người béo cả (to) lấp xương,
Tay ấn chẳng tường sự ấy khôn toan,
Ta cứ bình tề (ngang rốn) Mệnh môn,
Ấy mười bốn chùy (đốt) phép còn chẳng sai.
Từ đấy lên đến đầu vai,
Làm mười bốn trụ nào ai biết tuần (bàn).
Một trụ một tấc (thốn) ba phân,

520. Lượng kỳ trường đoản vân vân như tiền (đo theo mức trên).
Mỗi trụ một phân cho yên,
Từ Đại chùy hạ (xuống) kể liền mười lăm.
Hai chùy ấy đo cản tâm,
Phân ba trung chính (chính giữa) tay cầm đinh ninh.
Lấy hai bỏ một phân minh,
Năm chùy đầu thượng (trên đốt thứ năm) điểm hình lên trên.
Đầu cản (đầu sợi rơm) đầu trụ (làm mốc) cho yên,
Điểm đầu cản độ (chấm đầu rơm) huyệt liền nảy ra.
Trong xương vi thiểu vi đa,

530. Trên nhiều dưới ít coi ra rành rành.
Học hải (học hỏi) dùng châm cho thông,
Lại dẫn đến cùng vi thiểu vi đa:
Nguyên lấy hai đốt chia ba,
Trên hai ấy chẳng vi đa thì gì.
Dưới nó nguyên có một chùy,
Kém trên hơi ít gọi thì "thiển" nay.
Kẻo còn sai suyễn ghe ngày,
Hễ ai đọc ít ca này dễ thông.

Thơ rằng:
 
"Cao hoang huyệt pháp thiểu nhân tri,
Phá trái trừ tà chân bảo y.
Lưỡng thủ tất vi linh chính tọa,
Song kiên giáp cốt sử khai ly.
Tam thiểu phân trừ tu bút ký,
Lưỡng tam bàng khứ huyệt tương kỳ.
Chân hạ phân minh u hữu tứ,
Châm câu tuy ngũ pháp vô nghi".

Dịch nghĩa:

Ít người biết phép lấy huyệt Cao hoang
để trừ tà lao trung rất là hiệu nghiệm.
Bảo người bệnh ngồi ngay hai tay bó gối,
khiến cho hai xương bả vai mở rộng ra.
Lấy huyệt ở khoảng 1/3 dưới đốt xương sống thứ tư, 2/3 trên đốt xương sống thứ năm,
làm dấu ở đấy, rồi đo thẳng ra hai bên cách 3 thốn là đúng huyệt.

Đã nói những người manh xong,

540. Bằng như người yếu khôn mong dậy ngồi.
Đồng nhân phép dạy đã rồi,
Khiến người nằm ghé ta coi dạng hình.
Huyệt thì phỏng đã dè tình,
Tay mình khiến nó vai mình hai bên.
Tay hữu vai nó mó lên
Cánh tay bằng miệng đã truyền cứ xưa.
Phỏng chừng gần huyệt sau vai,
Trực chỉ áp bối (ngón tay ôm lưng) thẳng tay rành rành..
Ngón tay giữa ngọ vị cho thông,

550. Mó chẳng đến huyệt, mó không đấy là.
Ấy cùng phải huyệt thực thà,
Bút liền điểm lấy thật là Cao hoang.
Đoạn (rồi) tay ta lại mó sang,
Hai bên cũng vậy cho bằng như in.
Xem hình thực huyệt mới yên,
Ngải mới châm cứu phép truyền rằng hay.
Hai tay hãy vịn vai này.
Đầu thì cúi xuống cho rày hở xương.
Nhược bằng tay để buông luông,

(36) Nguyên bản chú thích: Nam dùng tay trái, nữ dùng tay phải, cong ngón tay giữa lại, đo theo phía bên ngang giữa hai chỉ ngón tay, lấy chiều dài làm một thốn đồng thân.

(37) Nguyên bản chú thích: Trước lấy hàng giữa, mỗi bên một đốt xương thì chấm một điểm làm dấu.

(38) Nguyên bản chú thích: Lấy chỗ dưới đốt xương sống thứ tư trên đốt xương sống thứ năm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 02, 2018, 04:30:12 PM
560. Xương vai giáp lại chẳng thông khí vào.
Một là càng đốt được nhiều,
Một trăm với nửa cho tiêu khí tà.
Cứu rồi kiêng kỵ càng gia,
Chớ cho ngoại cảm cùng tà nội thương.
Đêm ngày điều dưỡng tư (lo) lường,
Lại luận (bàn) bệnh ấy thêm phương huyệt nào,
Tam lý, Khí hải làm sao,
Tùy cơ ứng biến dạy nào xiết chi.
Hoặc là lòng nó hồ nghi,

570. Tam hàng bối bộ (hàng thứ ba ở lưng), ấy là Cao hoang.
Hạ chùy là dưới đốt xương,
Bảo cho tỏ tường minh bạch trước sau.
Bệnh nghèo huyệt lạ nhiệm mầu,
Bất khả tự cầu (không thể cầu xin) vô vật bất linh.
Dù ai lòng có chí thành,
Thánh sư giúp sức thần kinh bàng hoàng.
Lửa là chân khí Thái dương,
Ngải kia thượng đế thực phương trừ tà! (39)
Lại kể Thôi Thị (40) Tứ hoa,

580. Mệnh môn (41) hai huyệt thực là sáu yêu.
Trước dùng tơ se một điều (sợi),
Ước ba bốn thước chớ nhiều làm chi.
Xe rồi sáp ong vuốt đi,
Cho nó chính trực (ngay thẳng) kẻo thì suyễn sai.
Khiến người bệnh ấy ai ai,
Nam tả nữ hữu chân đạp một khi.
Đứng lên bằng đất tức thì,
Dây để cho thẳng chân thì đạp lên.
Đầu ngón chân cái chớ thiên,

590. Ngay bàn đến gót mấy nên phép nào.
Cứ đấy hướng về bên sau,
Dẫn thẳng tuần cước (men dây theo chân) lên hầu trái chân.
Áp thịt thẳng đến hoành văn (chỉ ngang),
Giữa Ủy trung huyệt như cân cho bằng.
Cắt dây từ đấy rõ ràng,
Đoạn mấy bảo rằng bệnh, /nhân/ ngồi cho ngay.
Đầu rẽ mái tóc phân hai,
Từ ngôi đến gáy thực nơi như truyền.
Nào dây chân đạp đo lên

600. Từ trên sống mũi gần miền Nhân trung.
Nào cứ tề chính (tày giữa) cho song,
Áp vào dọc mũi lên thông Thần đình.
Vượt qua Bách hội rành rành,
Áp thịt đến cổ dẫn thẳng (men dây) về sau.
Xuống ngay não hậu (sau chẩm đầu) chớ lâu,
Đầu dây rủ xuống đến hầu nơi nao.
Bút liền điểm lấy phải sao,
Để lấy làm cứ (mốc) chước cao phép truyền.
Đoạn lui lấy một tấc rơm,

610. Khiến người bệnh ấy miệng liền ngậm ngay.
Chớ cười chớ động cho hay,
Lấy nõn rơm bẻ khi  nay mà lường.
Xem trong chỗ bẻ cho tường,
Đặt giữa chỗ bẻ lên miền Nhân trung.
Hai đầu rơm ấy chia đồng,
Hai bên áp hai lần vòng cho yên.
Chớ cho cười, há, ta liền hòa xem.
Hình như "Mỗ tự' (24) đã lên,
Bút ta điểm mực dây liền cắt ra.

620. Đầu thừa chẳng kể đâu là,
Dao thầy cắt cản (rơm) kẻo mà suyễn sai.
Nào ghi điểm trước kìa ơi,
Bên sau tích bối (sống lưng) mấy đời cản sang.
Cản là ruột lúa đặt ngang,
Giữa điểm giữa gấp lưỡng bàng hai bên.
Coi cho bằng phẳng phương viên (vuông vắn),
Bút mấy điểm lấy hai bên lưỡng bàng.
Lại như lưỡng vẫn (hai môi) rõ ràng,
Học cho có ý lạ đường chỉn khôn (thật khó).

630. Ấy là lưỡng (hai) huyệt Hoạn môn (43).
Ngải ta liền đặt cứu dồn trăm trang (mồi).

***

Tứ hoa mấy lại bảo đường:
Phép có dạy rằng cứ Cưu vỹ kia,
Có người chẳng có hồ nghi,
Ta phải cứ lấy một khi gia truyền.
Đo lấy giữa rốn ngay lên,
Bầy tấc (thốn) rưỡi liền đến Cưu vỹ nay.
Bút điểm trung chính (chính giữa) cho tày,
Bảo /người/ bệnh trở dậy tấc này bỏ đi (44).

640. Đứng lên bình chính (ngay thẳng) một khi,
Chớ cúi chớ ngửa áo thì lột sa.
Song tay chớ động nhưng là,
Bút mực lấy lại thầy ta điểm vào.
Bên trước giữa cái yết hầu,
Bên sau u cổ (45) phép mầu bằng nhau.
Lấy dây vuốt sáp chưa lâu,
Gấp lại hai đầu buộc lấy nút trên.
Hai đầu rủ xuống song toàn (bằng nhau),
Nào nơi u cổ ta liền mấy coi.

650. Bút điểm để đấy hẳn hoi,
Lại đầu dây nớ đem đòi về nương (giữa ngực).
Cho đến Cưu vỹ tỏ tường,
Hai đầu giáp mực dao thường cắt đi (46).
Đoạn lui trở dây ấy về sau lưng,
Nó thì một chốc chưa lâu,
Đầu dây cứ mực ở nơi yết hầu.
Hai bên rủ xuống về sau trung hàng.
Cứ trong xương sống cho tường,
Rút hai đầu xuống bằng đường chính trung.

660. Đầu dây tận xứ (hết chỗ) thực song,
Bút điểm lấy đấy ta cùng cứu chi.
Nào phép cản đạo (rơm lúa) xưa kia,
Bảo nó ngậm cản (rơm) ta thì cứ xem.
Cắt đến hai mép cho in,
Gấp cản (rơm) đem lại về miền đằng sau.
Rồi vào mực điểm trung hàng,
Giữa mực giữa gấp hoành bàng (ngang ra) hai bên.
Bình chính (bằng thẳng) chớ lệch chớ thiên,
Điểm lấy hai huyệt ngang bên cản cùng (cuối rơm).

670. Rồi lại trở cản lập tung (trở rơm dựng dọc),
Hình như thập tự "+" ấy dòng tổ sư.
Lại xem cứ giữa biết chưa,
Đầu trên đầu dưới huyệt vừa phải danh.
Bình chính giữa xương phân minh,
Trên cản (rơm) một huyệt chính danh điểm vào.
Dưới điểm huyệt nữa phải sao.
Chính danh hiệu gọi là huyệt Tứ hoa.
Đã nên tường tận chẳng ngoa,
Ngải mới đặt cứu thật là chính tông.

680. Cứu năm ba mươi tráng mặc lòng,
Sang dũ tật dũ (lở khỏi bệnh khỏi) y trong tiên hiền.
Huyệt ấy cứu nhiều chẳng nên,
Lại có Tam lý phép truyền tả cho.
Dạy tường kẻo nữa hồ đồ,
Cao hoang là chủ, thứ (sau) cầu Tứ hoa.

***

Trúc mã mới lại kể ra,
Nghĩa đen ai nói thực là mấy nên:
Trúc là cây tre cho yên,
Mã giả là ngựa, cỡi lên hòa (mà) ngồi.

(39) Ý nói tác dụng của châm cứu huyền diệu vượt lên trên thần quyền.

(40) Huyệt Tứ hoa của Thôi trí Để dùng chữa bệnh hư lao (Châm cứu Tư Sinh).

(41) Huyệt Hoạn môn (chép nhầm là Mệnh môn): đính chính.

(42) Hình chữ "Mỗ" tức hình tam giác đều.

(43) Hai huyệt Hoạn môn tương đương với hai huyệt Tâm du ở dưới đốt xương sống thứ năm ngang ra 1,5 thốn (dùng chữa lao suyễn).

(44) Nguyên bản chú thích: Lấy được đúng huyệt rồi thì bỏ dây đi.

(45) Nguyên bản chú thích: Chính huyệt Đại chùy.

(46) Nguyên bản chú thích: Bỏ đoạn dây thừa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 04, 2018, 04:18:11 PM
690. Hoành văn (vân ngang) cứ biết thực coi,
Thế gian cứ sách mà coi thất truyền.
Cho nên lỗi phép thánh hiền,
Cứu chẳng linh nghiệm, tật liền chẳng sai (khỏi).
Kể công huyệt ấy mọi lời,
Hay chữa những người phát bối ung thư (nhọt giữa lưng).
Sang độc loa dịch (nhọt độc tràng nhạc) bất trừ,
Thường thường máu dữ hằng lề nổi ra.
Thuốc hèo dầu uống dầu tra,
Đỡ một hai chút cũng là chẳng tan.

700. Hầu hiền hiền (gần như lành) lại phát lên,
Sưng sưng mủ mủ triền miên đủ đời.
Mạch lươn xuyên hạch mọi nơi,
Chốc lở đời đời lưng cổ mặt chân.
Khắp mình thẩy thẩy toàn thân,
Cứu được thần huyệt các miền đều yên,
Trước khiến tay bệnh song bàn.
Nam tả nữ hữu mấy toan luận bàn.
Hoặc dây đo hầu trung chỉ (ngón tay giữa) đến rày hoành văn.
Ngưỡng chưởng ngọ vị chính chân (ngửa thẳng chính giữa bàn tay),

710. Chớ kể ngoài móng có phần sai dư.
Nhập chưởng tận trung (vào hết giữa bàn tay) thì vừa,
Hoành văn (vân ngang) bấy giờ giữa huyệt Đại lăng.
Dao cắt lấy dây cho bằng,
Đoạn mấy bảo rằng lấy một đòn tre.
Phỏng dài năm thước (10 gang tay) bạt đi,
Cứng thẳng ngay kẻo nữa người thì khó khiêng.
Hai người tốt sức hai bên,
Ghé vai quỳ gối, /người/ bênh liền bước ngang.
Giữa trôn giữa đòn rõ ràng.

720. Lại hai người nữa giữ ràng hai bên,
Cho hai tay /người/ bệnh nương thìn (gìn).
Thầy ta mới bảo khiêng lên dần dần.
Năm người dẫn cả ra sân,
Lộ thiên đối nhật (cho dọi mặt trời) kẻo phân thiên tà.
Bóng ngay người chính thật thà,
Chân lên khỏi đất, hình đà không thiêng.
Chớ cao chớ thấp chẳng nên,
Nào dây khi ấy ta liền lấy ra.
Đo từ để cốt (xương cùng) kia là,

730. Tre xương giáp lại cứ mà thẳng lên.
Giữa xương sống ấy đo lên,
Bút ta mấy điểm thực liền phân minh.
Đây chưa phải huyệt biệt tình,
Đồng chỉ cản độ (47) rành rành phép xưa.
Hai tấc (thốn) gấp lại bây giờ,
Áp hoành (ngang) điểm cứ (chỗ mốc) gấp vừa chính trung (giữa).
Bút ta điểm lấy hai đầu.
Chẳng còn nghiêng lệch Ngải ta đặt vào,
Dặn rằng chẳng há động dao (chớ động đậy).

740. Hòa (vừa) khiêng hòa cứu kể cao chước mầu.
Tam thất tráng (3 x 7 = 21 mồi) khí lâu lâu,
Rồi đoạn hạ xuống bước vào ngồi yên.
Tìm kinh thủ (lấy) huyệt cơ quyền(tùy nên),
Đau đâu cứu đấy gần miền chung quanh.
Bệnh tiêu thấy mấy đáng danh,
Cho cam sở chí học hành chính tông.

***

Còn huyệt "Mỗ tự" dễ song,
Có thầy chẳng biết khi dùng khó thay.
Trị bệnh thiên trụy (sa đì) thật hay,

750. Hạ nang sán khí (đau hòn dái) ngày rày cả (to) ra.
Kẻ thì có đi đường xa,
Thấp khí dẫn xuống sinh ra tức thì.
Thêm chưng tửu sắc quá kỳ,
Trệ khí ngưng huyết phạm khí thử hàn (nắng rét).
Thường thường lại có kêu van,
Có người con nước nó liền phát đau.
Bên kia bên nọ đối nhau,
Trước còn dễ giấu ngày sau nặng dài.
Hóa nên đại tật (bệnh lớn) chẳng sai,

760. Bấy giờ nên bệnh khôn nài thuốc thang.
Dầu ai trước biết vội vàng,
Tìm thầy đến cứu kẻo thương tật nguyền.
Tuy rằng chứng dễ hiền hiền,
Khi đau dù bạc dù tiền tiếc ai.
Có mời ta hãy cứu chơi,
Được đỡ bệnh người trước phúc sau ơn.
Đắc truyền thực huyệt thì hơn,
Trước bảo người bệnh miệng liền há ra.
Dây liền ta mấy sẻ tra.

770. Đặt vào ngang miệng khiến hòa ngậm nay.
Chớ cười chớ động cho hay,
Đo bằng hai mép dao thầy cắt đi.
Chung ba ngần ấy một khi,
Bắt làm ba góc bẻ y lưỡi gà.
Hình như "Mỗ tự" chẳng ngoa,
Ba góc đã đoạn (xong rồi) áp hòa đâu nay.
Khiến /người/ bệnh nằm ngửa cho ngay,
Một góc giữa rốn hai bên cho bằng.
Hai bên góc nọ lưỡng bàng,

780.Bút điểm hai huyệt rõ ràng chẳng sai.
Thiên tả (sa bên trái) cứu hữu cho hay,
Thiên hữu (sa bên phải) cứu tả thực nay hiệu thần.
Hai hòn cùng cả (to) bội phần,
Đều cứu hai huyệt như cân bệnh trừ.
Dưới thì đại chỉ huyệt kia (huyệt Đại đôn),
Là hiệu ngón cái huyệt thì hai bên.
Lại phân tả hữu như tiền (trước),
Bảy tráng (mồi) đốt liền bệnh cắt thần thông.
Trước sau biện bạch dọi lòng,

790. Để khuyên hậu giác (người sau) về dòng hoạt nhân (cứu người).
Cứu là đoạt dược (cướp thuốc) chi thần,
Đã làm phải học cho cần mới hay.
Gia truyền cấp trị phép này,
Chép ra cho biết để rày tế nhân (giúp người).
Trị chư trùng độc hại nhân,
Khuyển cuồng xà giảo (chó dại, rắn cắn) vân vân bấy chày.
Lông hùm nào có đạp trầy,
Trượng thương trụy mã (bị đòn, ngã ngựa) sa cây nhiều bề.
Ngư thích phong độc (cá châm ong đốt) phạm chi,

800. Phải đâu cứu đấy như hình phép tiên.
Bảy tráng ngải đốt ngải liền,
Hoàn sinh cải tử (sống lại) gia truyền chẳng sai.
Kìa như luận sự xem ngày,
Bình thường chi bệnh (bệnh thường) ta rày cứ xưa.
Bạo thốt chi bệnh (bệnh cấp) gió mưa chẳng nề,
Cứu rồi kiêng kỵ cho hay,
Lại xem huyệt cứu có rày lở chăng.
Sang phát (lở ra) tật dũ (bệnh khỏi) lâng lâng,

810. Nhược sang bất phải (nếu không lở) nhưng nhưng có gì.
Làm phép cho lở tức thì,
Đốt quả Tạo giác (bồ kết) bôi thì lở ra.
Củ hành nướng chín đem tra,
Đặt vào thì lở lọ là (há phải) tìm đâu.
Nhược bằng quá kỳ phát đau,
Điều dưỡng Tứ vật /thang/ (48) lại cầu bổ nguyên.
Thu thập các huyệt bí truyền,
Lập làm ca nói một thiên để đời.

(47) Nguyên bản chú thích: Cắt rơm làm thốn đồng thân mà đo.

(48)Thang Tứ vật gồm: Địa hoàng (Sinh địa 3 đồng cân), Thược dược (Bạch thược 2 đồng cân), Đương quy 2 - 3 đồng cân), Xuyên khung (1 đồng 5 phân).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 06, 2018, 11:56:00 PM
TÓM TẮT PHẦN MỘT
(CỦA NGƯỜI DỊCH)

Mở đầu

 Với sự tham khảo các sách "Châm cứu Tư Sinh" của Từ Chính Khanh và sách "Đồng nhân du huyệt châm cứu đồ kinh" của Vương Duy Nhất, quyển CHÂM CỨU TIỆP HIỆU DIỄN CA đúc kết phương pháp châm cứu hiệu nghiệm, và diễn bằng ca nôm đơn giản để giúp việc chữa bệnh được chóng khỏi.

 Phép cứu dùng Ngải hái ngày 3 tháng 3 âm lịch, phơi râm gói kín, trữ sau 3 năm đem dùng chữa bệnh mới hay. Nó là một cách chữa bệnh kết quả và đỡ tốn tiền, như câu tục ngữ lưu truyền "Uống thuốc ba năm không bằng dùng Ngải đốt cứu một mồi".

 Theo sách xưa  trừ trường hợp cấp cứu phải kịp thời, đối với các bệnh thường thì châm cứu nên chọn những ngày tốt, những thời giờ thích hợp, và nên kiêng kỵ như sau để tránh những tai biến có thể xảy ra:

 - Nên chọn những ngày thời tiết tốt, trời quang mây tạnh, không mưa gió sấm sét. Nên cứu vào giờ ngọ giữa trưa, lúc ấy khí dương thịnh, huyết lưu thông tốt, không nên cứu vào buổi chiều, khí âm thịnh kém hiệu quả.

 - Các trường hợp no đói thất thường, khí huyết hao tổn, tức là lúc đói lòng mệt nhọc kém sức chống đỡ, hay nguyên khí suy nhược, mất máu hao tinh, chính khí bị tổn thương, châm cứu không có lợi.

 - Kiêng ngày Đinh mùi là ngày kỵ Biển Thước (tác giả  cuốn Nạn kinh, coi như tỵ tổ của khoa châm cứu) châm cứu không tốt.

 - Nên kiêng những ngày bộ vị của cơ thể theo tuổi người bệnh, theo ngày châm cứu, và kiêng một số ngày trong từng tháng như sau:

(https://i.imgur.com/6fzy4YW.jpg)

(https://i.imgur.com/gpO0csK.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 22, 2018, 10:10:56 AM
Cách chia phân thốn để đo lấy huyệt

Đầu

Từ chân tóc trước đến chân tóc sau chia làm 12 thốn. Nếu người bệnh hói trán hay chân tóc sau khong rõthì kể từ huyệt Ấn đường (giữa hai lông mày) đến u cổ (huyệt Đại chùy) là 18 thốn, trừ phía trước 3 thốn và phía sau 3 thốn, tức còn lại 12 thốn.

Lưng

Chia theo 21 đốt xương sống:

 - Lưng trên: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 4 phân 1 ly.
 - Lưng giữa: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 6 phân 1 ly, tính đến eo lưng (huyệt Mệnh môn) đốt thứ 14 ngang với rốn.
 - Lưng dưới: 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 2 phân 1 ly (6 ly), tính từ eo lưng đến đít.
Đo ngang thì lấy thốn đồng thân, theo chiều dài lóng ngón giữa của ngón tay giữa (nam dùng tay trái, nữ dùng tay phải).

Bụng

Chia làm ba bộ (theo ngày nay).

 - Thượng bộ: Từ huyệt Thiên đột đến huyệt Trung đình = 9 thốn.

 - Trung bộ: từ huyệt Trung đình đến giữa rốn = 8 thốn.

 - Hạ bộ: từ rốn (huyệt Thần khuyết) đến Khúc cốt = 5 thốn.
(Từ huyệt Thiên đột đến huyệt Đản trung: 7 thốn 4 phân, từ huyệt Đản trung đến huyệt Cưu vỹ: 2 thốn 6 phân).

Huyệt cấm: Trong toàn thân có 365 huyệt, cấm châm cứu các huyệt như sau:

1. Cấm châm 28 huyệt:

Não hộ, Tín hội, Giác tôn, Thừa khấp, Lạc cước, Thừa linh, Lư tín, Linh đài, Thần đạo, Đản trung, Thủy phân, Thần khuyết, Hội âm, Hoành cốt, Khí xung, Tam dương lạc, Thừa cân, Thanh linh, Thạch môn, Cưu vỹ, Vân môn, Khuyết bồn, Kiên tỉnh, Thủ tam lý, ợp cốc, Tam âm giao đối với phụ nữ có mang. Sách này có 3 huyệt Thần ưng, Thừa khấp và Gián khách không thấy ở sách châm cứu Trung y, ngược lại thiếu hai huyệt Cơ môn và Thủ ngũ lý theo Châm cứu đại thành.

2. Cấm cứu 45 huyệt:

Thừa quang, Phong phủ, Á môn, Thiên trụ, Lâm khấp,  Tố liêu, Tình minh, Toản trúc, Nghinh hương, Ty trúc, Hòa liêu, Cưu vỹ, Bach hoàn du, Thiên phủ, Nhân nghinh Quyền liêu, Đầu duy, Hạ quan, Tích trung, Kiên trinh, Tâm du Nhũ trung, Chu vinh, Uyên dịch Ngư tế, Phúc ai, Thiếu thương, Kinh cự, Thiên phủ, Địa ngũ hội,Trng xung, Dương quan, Dương trì, Ẩn bạch, Lậu cốc, Ủy trung, Độc tỵ, Âm lăng tuyền, Điều khẩu, Âm thị, Phục thỏ, Thừa phù, Bễ quan, Ân môn, Thân mạch.

3. Trừ 13 quỷ huyệt, theo Tôn Tư Mịch:

Nhân trung, Thiếu thương, Ẩn bạch, Đại lăng, Thân mạch, Phong phủ, Giáp xa, Thừa tương, Thượng tinh, Khúc trì, Đầu lưỡi, Âm hạ (nam dung huyệt Hội âm, nữ châm đầu Ngọc môn). Sách này chép hai huyệt Ấn đường, Gián sử, nhưng lại thiếu huyệt Lao cung, so với Châm cứu đại thành.

Bàn về huyệt Cao hoang, Hoạn môn, Tứ hoa, Trúc mã, Mỗ tự.

1. Huyệt Cao hoang chữa hư lao và các chứng quái lạ:

* Lấy huyệt: bảo người bệnh ngồi hai tay bó gối, khiến cho hai xương br vai mở rộng ra. Lấy mốc khoảng 1/3 dưới đốt xương sống thứ tư, 2/3 trên đốt xương sống thứ 5, ngang thẳng ra hai bên, mỗi bên cách 3 thốn đồng thân, là huyệt.

2. Huyệt Hoạn môn chữa lao suyễn:

Lấy một sợi dây đo từ đầu ngón chân cái đến giữa khoeo chân của người bệnh, bằng cách men sợi dây ấy thẳng lòng bàn chân, lên sau gót chân thẳng giữa trái chân đến ngấn chỉ ngang khoeo chân (huyệt Ủy trung), cắt dây ở đấy. Rồi lấy dây ấy đo từ sống mũi men thẳng lên giữa đỉnh đầu, qua các huyệt Thượng tinh, Bách hội, sau chẩm đầu, gáy cổ, xuống giữa cột xương sống, đầu múi dây đến đâu thì làm dấu ở đấy. Rồi lấy một sợi dây rơm bảo người bệnh ngậm để đo khoảng giữa hai mép miệng đem đoạn rơm này chia đôi, đặt chỗ giữa vào đúng điểm làm dấu ở xương sống, thẳng ra hai bên, đầu cuối sợi dây là hai huyệt Hoạn môn (tức hai huyệt Hoạn môn cách nhau bằng chiều ngang giữa hai mép miệng).

3. Huyệt Tứ hoa sau lưng cũng chữa ho lao, suyễn thở:

Trước lấy huyệt Cưu vỹ cách trên rốn 7 thốn rưỡi, làm dấu ở đấy. Rồi lấy dây quàng sau cổ người bệnh, bỏ hai múi ra phía trước chấp vào chỗ đã làm dấu (huyệt Cưu vỹ) cắt đoạn dây thừa bỏ đi. Sau lấy dây ấy quàng trước cổ rủ hai đầu múi về sau lưng ngang nhau chập vào giữa xương sống đến chỗ nào thì làm dấu ở chỗ ấy. Rồi lấy sợi rơm bảo người bệnh ngậm, đo ngang hai mép miệng, gấp đôi lại làm dấu ở giữa. Đem sợi rơm ấy đặt vào sau lưng, để điểm chính giữa sợi rơm đúng với chỗ làm dấu ở sống lưng từ trước (ngang huyệt Cưu vỹ), ngang hai đầu múi rơm là hai huyệt. Rồi lại trở sợi rơm ấy dọc theo xương sống, giữ cho giữa sợi rơm vừa đúng điểm đã làm dấu trước, lấy hai đầu múi rơm hai huyệt nữa, cộng là 4 huyệt “Tứ hoa”.

(Theo sách Trung y ngày nay thì Tứ hoa tương đương với hai huyệt Đảm du và hai huyệt Cách du, khác với sách này).

4. Huyệt Trúc mã hay Kỵ trúc mã, chữa mụn nhọt sưng lở, bướu cổ, tràng nhạc:

Bảo người bệnh ngồi trên đòn tre, hai người khiêng hai đầu như dáng cưỡi ngựa để lấy huyệt (nên gọi là Kỵ trúc mã: cưỡi ngựa tre). Lấy dây đo từ ngấn chỉ ngang cổ tay (huyệt Đại lăng) ra tận chót ngón tay giữa làm mực. Dùng dây này để đo từ ống tre làm đòn khiêng, thẳng lên xương sống của người bệnh làm mốc, rồi đi ngang ra hai bên mỗi bên cách một thốn đồng thân là huyệt. Tức là khoảng cách từ mút xương cùng đến điểm mốc ở giữa sống lưng bằng chiều dài từ huyệt Đại lăng ra tận chót ngón tay giữa của người bệnh.

(Theo sách Trung y ngày nay, thì huyệt ở đốt xương sống thứ 10 ngang ra mỗi bên 5 phân, khác với sách này).

5. Huyệt Mỗ tự chưa sa đì (hòn dái sưng sa xuống):

Lấy sợi rơm đo khoảng cách hai mép miệng bệnh nhân, gấp 3 lần làm mức, bẻ 3 góc thành hình tam giác. Dùng hình tam giác này để lấy huyệt: Đặt một góc vào giữa rốn, 2 góc buông cân xuống hai bên, lấy 2 huyệt ở hai đầu góc này (cách nhau bằng khoảng hai mép miệng).

Cứu bỏng

Phép xưa cứu bỏng cho vết cứu lở ra thì bệnh sẽ bớt dần dần. Nếu xem chỗ cứu không lở thì làm cho lở, bằng cách đốt quả Bồ kết tán bột bôi vào và đặt củ hành nướng chín rịt vào thì sẽ lở. Trường hợp lở lâu sưng đau, thì dùng thang Tứ vật (Sinh địa, Bạch thược, Đương quy, Xuyên khung) uống bổ huyết sẽ khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 22, 2018, 11:18:21 AM
PHẦN HAI

Tổng luận kinh sử chư bệnh dụng huyệt quốc ngữ ca
(Bài ca nôm về dùng huyệt chữa bệnh theo sách)

Mục 1

Kìa ai nhức đầu như xuyên,

820. Cùng là nhức óc tương liên ngày rày.
Lại thêm chóng mặt chóng mày,
Coi xa chẳng tỏ bằng nay cơ cầu.
Chứng ấy cứu những huyệt đâu,
Xem chính ngôi đầu hòa lấy mấy nên.
Cứ chân tóc trước đo lên,
Đo ngay một tấc (thốn) chớ thiên kia là.
Mực điểm đầu tấc chớ xa,
Ấy Thượng tinh huyệt vậy thì phải hay.
Lại lấy Bách hội khi nay,

830. Điểm mực đầu tấc thuở rày làm ghi.
Ngắm đi ngắm lại một khi,
Huyệt trên huyệt dưới vậy thì thẳng nhau.
Châm lấy một phân cho lâu,
Hai huyệt cũng vậy lẽ mầu là thông.
Ngải thì phải đặt cho xong,
Mỗi huyệt hai bảy tráng (14) mồi đồng chớ ngoa.
Lại lấy bốn huyệt Tứ hoa (49),
Cứ Bách hội huyệt đo ra những là.
Bốn bên bốn tấc (thốn) chớ ngoa,

840. Mỗi huyệt ta đốt vậy hòa bảy trang (mồi).
Lại cứu Phong trì lưỡng bàng,
Hai bên hai thứ đo ngang sau đầu.
Huyệt ấy cứ đo ở đâu?
Lấy Phong phủ huyệt tu cầu hòa suy (nên tìm suy ra).

***

Cứ chân tóc sau một khi,
Đo lên môt tấc (thốn) vậy thì đến nơi.
Ấy Phong phủ lại chẳng sai,
Ta liền cứ đấy một hai mà lường.
Một bên ba tấc (thốn) cho tường,

850. Hai bên sáu tấc phải phương huyệt này.
Ấy Phong trì huyệt bằng nay,
Châm cho đến huyệt thuở rày một phân.
Ngải thì ta đốt ba lần,
Thêm bốn mồi nữa ân cần cho hay.
Lại tả Thân mạch bằng nay,
Hai bên huyệt ấy ở rày bàn chân.
Huyệt ấy ở đâu mà nhuần,
Ở ngoài dưới mắt cá chân mà lường.
Thịt đỏ thịt trắng hai phương,

860. Ta liền lấy giữa cho tường chớ nghi.
Lại bảo phép này mà suy,
Lấy cho phải huyệt thực thì thần tiên.
Trong kinh (sách) lại bảo vi tiên (hơi về trước),
Ta quen ra trước phép truyền chính tông.
Châm ba bốn phân làm xong (hai bên),
Cấm bất khả cứu lý cùng lo toan.
Kìa pho Tư sinh (50) lại bàn,
Huyệt ấy cho cứu được dùng ba trang (mồi).

1. Đầu óc đau nhức, mắt tối xầm, chóng mặt như đi xe thuyền.

Nên bổ sung thêm huyệt pháp (51)

K11. Phong trì: 2 huyệt ở 2 bên, cách huyệt Phong phủ 3 thốn; huyệt Phong phủ ở dưới huyệt Não hộ 1,5 thốn. Có sách nói sau dái tai 1,5 thốn trên lằn ngang giáp Phong phủ. Châm 3 phân, cứu 7 đến 100 mồi thì thôi.

K13. Phong phủ: Huyệt này có tên là Thiệt bản ở chính giữa sau gáy trên chỗ chân tóc một thốn chỗ lõm, châm 3 phân. Có bản sách nói ở giữa gân to (cơ gáy) dưới huyệt Não hộ 1,5 thốn, châm 4 phân, cấm cứu.

K13. Thượng tinh: Huyệt ở trên chân tóc trước trán một thốn, châm 3 phân, cứu 14 mồi.

K7. Thân mạch: 2 huyệt ở hai chân, dưới mắt cá ngoài, cách chỗ da thịt trắng đỏ giáp nhau bằng móng tay, châm 3 phân, cứu 3 mồi (ở chỗ lõm phía dưới cách xương mắt cá 5 phân).

(a) + Thái dương: 2 huyệt ở hai bên góc đầu, ngang chỗ cuối đám tóc dày nơi có động mạch, cứu 3 mồi (ở chỗ lõm cách đuôi mi mắt độ 1 thốn).

K7 + Thừa quang: 2 huyệt ở ngang hai bên huyệt Thượng tinh, cách ra 3 thốn ở chỗ lõm, châm 3 phân, cấm cứu.

K13 + Thần đình: Huyệt ở thẳng dọc mũi đi lên trong chân tóc trước trán 5 phân, cấm châm, cứu 14 đến 72 mồi thì thôi. Có sách nói cứu đến 100 mồi.

K13 + Não hộ: Ở sau huyệt Bách hội 4,5 thốn, châm 3 phân, cứu 7 mồi. Có sách nói cấm cứu. (huyệt Bách hội ở chính giữa đỉnh đầu, xem mục 6).

* Chú thích:

(49) Huyệt Tứ hoa trên đỉnh đầu, nay Trung y gọi là Tứ thần thông.

(50) Sách châm cứu Tư sinh kinh của Vương Chấp Trung.

(51) Thái y viện triều hậu Lê đã phụ thêm bằng chữ Hán phần này và bổ sung một số huyệt có mang dấu + ở trước. Để tiện tra cứu, chúng tôi phụ thêm ký hiệu theo số thứ tự các kinh mạch ngày nay và phân biệt riêng đối với các huyệt đặc biệt ngoài kinh.

Mục 2

Kìa ai đầu thống hạng cường (đau đầu cứng gáy),

870. Đau vai mỏi cổ tư (lo) lường hay ra.
Đêm ngày nghiêng ngửa xót xa,
Cúi hòa chẳng được ngẩng ra phiền lòng.
Lại cứu Phong trì làm song (hai huyệt),
Đại chùy một huyệt cho thông ngày rày.
Huyệt ấy ở đâu bằng nay,
Ở trung (giữa) u cổ huyệt rày chính ngôi.
Châm cho đến thịt thì thôi,
Trang ngải ta đốt bảy mồi chớ ngoa.
Lại cứ dưới đốt đo ra,

880. Một bên tấc rưỡi vậy hòa chớ lâu.
Hai bên đo bằng tày nhau,
Chớ cho nghiêng chệch thấp cao chút nào.
Danh (tên) gọi là huyệt Bách lao,
Có danh Đại trữ lẽ nào chớ nghi (52).
Châm đến ba phân một khi,
Mỗi huyệt ta đốt vậy thì bảy trang.

2. Đau đầu cứng gáy, vai lưng không thể cúi ngửa được.

Bổ sung thêm huyệt pháp:

K11. Phong trì: (xem ở mục 1 trên đây)
K13. Đại chùy: (xem ở mục 13 sau đây, ở đốt xương sống thứ nhất)

(b) Bách lao: (xem ở mục 5 sau đây: hai bên sau gáy)

K7. Đại trữ: (xem chú thích 52)

K2 + Kiên ngung: 2 huyệt ở giữa chỗ lõm trong khoảng hai xương đầu vai, giơ vai lên mà lấy huyệt; châm 6 phân, cứu 7 đến 14 mồi

K11 + Kiên tỉnh: 2 huyệt ở chỗ lõm trên vai, sau xương quai xanh từ huyệt khuyết bồn ra một thốn 5 phân. Áp ba ngón tay vào mà lấy huyệt đúng ở chỗ lõm dưới ngón giữa.

* Chú thích:

 (52) Huyệt Bách lao ở trên huyệt Đại chùy 2 thốn ngang ra 1,5 thốn. Huyệt Đại trữ ở dưới đốt xương sống thứ nhất. Đời xưa, huyệt Đại chùy có biệt danh là Bách lao, nhưng huyệt Đại trữ không phải cùng tên với Bách lao. Đây có thể dùng  cả hai huyệt.

* Ở đây ghi chú huyệt Đại trữ bị sai - Tứ Hải.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 22, 2018, 06:30:28 PM
Mục 3

Kìa ai tức tối kêu vang,
Đau trên mỏ ác thấu ngang cạnh sườn.

890. Cứu Đản trung huyệt phép tiên lạ dường.
Huyệt ấy phép lấy giữa nương (ngực),
Đo hai đầu vú cho tường chung đôi.
Ta lại đặt đấy hòa coi,
Nào nơi bẻ gấp chính ngôi thực rày.
Ấy huyệt cấm châm bằng nay,
Ngu sư (thày dốt) chẳng biết châm rày phải thương.
Ngải thì đốt lấy mười trang,
Thêm bốn trang nữa cho tường phân minh.
Ta lại cứu huyệt Trung đình,

900. Đo Đản trung dưới thực hình phải thay.
Một tấc (thốn) đủ sáu phân nay,
Lấy mực điểm dấu ngày rày làm ghi.
Châm đến một phân một khi,
Đốt bảy tráng ngải như y chớ chầy.
Lại tìm huyệt ở cổ tay,
Cứ tự ngấn chỉ đo ngay lượng vào.
Huyệt ấy thể tấc làm sao?
Cứ hai tấc chẵn đo vào cho yên.
Chỗ ấy có lưỡng cân gian (ở giữa hai gân),

910. Xem tường cho biết Nội quan đấy rày.
Châm vào ba phân bằng nay,
Đốt bảy tráng ngải thuở này cho hay.
Ta lại tìm huyệt Đại lăng,
Ở trong ngấn chỉ thường hằng cổ tay.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải thì ta lấy phép rày ba trang.
Lại bảo khi nay cho tường,
Tức đâu đốt đấy một dường kẻo hay.
Bảo tên huyệt ấy cho hay,

920. Gọi là Thiên ứng huyệt rày hay chi.
Lại bảo chỗ ấy mà suy,
Học cứu cho biết kẻo khi hại người.
Dày thịt ta đốt hai mươi,
Mỏng thịt ta đốt mười mồi bằng nay.

3. Đau nhói trong hông sườn khó chịu không yên
Bổ sung thêm huyệt pháp:

K14. Đản trung: 1 huyệt ngay chính giữa khoảng hai núm vú, bênh nhân nằm ngửa mà lấy huyệt, cứu 14 mồi, cấm châm.

K14. Trung đình: 1 huyệt ở chỗ lõm dưới huyệt Đản trung 1,6 thốn, cứu 5 mồi, châm 2 phân.

K9. Nội quan: 2 huyệt ở phía sau bàn tay, cách cổ tay 2 thốn, thuộc kinh Thủ quyết âm - Tâm bào, châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K9. Đại lăng: 2 huyệt ở sau bàn tay khoảng giữa hai gân, chỗ lõm, thuộc kinh Thủ quyết âm - Tâm bào. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K12 + Nội môn (Kỳ môn) (53) huyệt ở hai bên huyệt Cự khuyết, chỗ lõm giữa khoảng xương sườn, mỗi bên cách 3,5 thốn. Châm 4 phân cứu 3 mồi.

(c) Tâm khí: Tìm huyệt, trước lấy một sợi rơm dài đo ngón tay - nam thì dùng tay trái, nữ dùng tay phải, đo từ chỉ ngang ở gốc ngón tay cái đến chỗ thịt giáp móng, lấy mực làm dấu, rồi đo ngón tay trỏ, ngón giữa, ngón thứ tư, ngón út, cũng đều như thế, sau thêm vào một thốn đồng thân. Lại dùng một sợi khác, trước cũng đo 5 ngón tay cùng như trên, lại thêm một thốn đồng thân (Hai sợi dài bằng nhau) đem chắp lại làm một, rồi bảo người bệnh ngồi ngay thẳng, bỏ áo ra, tách hai đầu sợi dây ra đem quàng trên cổ, lấy tay đè giữ chỗ gút sợi dây vào xương Thiên đột giữa cổ, 2 bên thòng ra sau lưng. Lấy hai đầu sợi dây thòng xuống cho tày ngang nhau chập vào giữa xương sống , đó là huyệt. Cứu 5 đến 7 mồi.

Thiên ứng: Đã nói ở trên (trên chỗ đau).

* Chú thích:

(53) Huyệt Kỳ môn, (chép nhầm là Nội môn): Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 28, 2018, 10:41:22 AM
Mục 4

Kìa ai đau dạ /ỉa/ chảy ngay,
Hoặc là đau kiết ngày rày gian nan.
Trong bụng âm ỷ đau ran,
Đêm ngày trằn trọc những toan đi đồng.
Đến nơi chẳng tập (đứng) chổng mông,

930. Ngờ là đã ỉa lại không những là.
Quặn chốc đau bụng xót xa,
Tự nhiên lại ỉa bằng hòa cứt dê.
Những mong đứng dậy đi về,
Nó lại đau vắt nhiều bề đắng cay.
Ngồi thì mong mỏi thôi chầy,
Ra thứ máu cá thuở rày gian nan.
Ta tìm lấy huyệt Hạ quản,
Điểm cho thực huyệt thiên ban càng mầu.
Huyệt ấy ta đo ở đâu?

940. Cứ từ giữa rốn tu cầu hòa suy:
Bẻ lấy hai tấc (thốn) một khi,
Đo lên đến huyệt mực ghi điểm vào.
Lấy kim hơ ngọn đèn nay,
Tức thì châm xuống huyệt rày ba phân.
Lại bảo phép này cho cần,
Khiến người đốt lấy ba lần sẽ thôi.
Ngải thì đốt lấy mười mồi,
Thêm bốn mồi nữa cho rồi đủ no.
Ta lại cứ rốn này đo,

950. Ngang ra hai tấc (thốn) phải dò cho ngay.
Ấy huyệt Thiên xu (khu) một khi,
Châm cho đến huyệt tức thì ba phân.
Bảy tráng ngải đốt cho cần,
Thêm bảy tráng nữa khí nhuần mấy tiêu.
Lại cứu Khí hải cho đều,
Huyệt ấy đệ nhất chỉn yêu lạ dường.
Lại cứ rốn ấy mà lường,
Đo xuống tấc (thốn) rưỡi ấy phương huyệt rày.
Châm đến ba phân bằng nay.

960. Ngải đốt ba bảy tráng (21 mồi) này cho yên.
Cứu thôi cất chứng như thần,
Ta lại thêm huyệt Thủy phân,
Tả Tiểu tràng nhiệt cho thông một dường.
Lại cứ giữa rốn mà lường,
Đo lên tấc chẵn ấy phương huyệt này.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải đốt ba bảy tráng rày cho yên.
Ta lại cứu huyệt Quan nguyên,
Lại cứ giữa rốn đo liền xuống ngay.
Huyệt ấy ba tấc (thốn) bằng nay,

970. Trung cực, Khí hải huyệt này cho thông.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Một huyệt tam thất (21) châm rày ba phân.

4. Ỉa chảy, đi lỏng, bụng ruột đau quặn, mót rặn tức đít, đại tiên táo bón:

K14. Hạ quản: Một hyệt ở trên rốn 2 thốn, châm 8 phân, lưu 3 hô (hơi thở), tả 5 hấp (hơi hít vào), cứu 21 mồi đến 100 mồi thì thôi.

K3. Thiên xu: Hai huyệt ở hai bên rốn, cách ra 2 thốn, cứu 100 mồi, châm 5 phân, lưu 10 hô.

K14. Khí hải: Một huyệt ở dưới rốn, cách 1,5 thốn. Châm 8 phân, cứu 100 mồi.

K14. Thủy phân: Một huyệt ở trên rốn 1 thốn. Châm 8 phân, lưu 3 hô, cứu 7 mồi đến 100 mồi thì thôi.

K14. Quan nguyên: Một huyệt ở dưới rốn 3 thốn. Châm 8 phân, lưu 3 hô, tả 5 hấp, cứu 100 đến 300 mồi thì thôi.

K14. Trung cực: Một huyệt ở dưới rốn 4 thốn. châm 8 phân, lưu 3 hô, cứu 100 đến 300 mồi thì thôi.

***

Này đoạn cấp cứu bệnh nhân,
Thấy ai đau quá ân cần cho hay.
Cứu huyệt Thần khuyết bằng nay,
Huyệt ấy giữa rốn thuở này chớ nghi.
Lại bảo trước này hào suy,
Muối thì lót xuống như y phép truyền.
Ngải tày hột táo đốt lên,

981. Đốt lấy năm mươi (mồi) phép tiên như thần.
Hoặc ai đau bụng lại luận (bàn),
Cứu bấy nhiêu huyệt vân vân như tiền (trước).

4b. Chữa hoắc loạn đau bụng đi tả
Bổ sung thêm huyệt pháp:

K14. Thần khuyết: Một huyệt ở chính giữa rốn. Lấy Ba đậu tán nhỏ đặt lên, để ngải lên trên mà cứu 21 mồi. Như đau bụng nhiệt kết thì cấm dùng Ba đậu. Nếu bệnh nhân hoắc loạn thổ tả thì không kể hàn hay nhiệt, đều dùng muối ăn đem lấp lỗ rốn rồi cứu. Nếu đi kiết hoặc đau bụng, hoặc đầy bụng, thì dùng huyệt Khí hải làm chủ. Đi ỉa chảy thì không dùng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 01, 2018, 10:16:26 AM
Mục 5

Kìa ai phải chứng lao truyền,
Đêm ngày mòn mỏi hư phiền khốn thay.
Cơm ăn chẳng ngon bằng nay,
Thân thể ngày rày vàng vọt xanh xao.
Đêm đêm nhấp thấy chiêm bao,
Dường bằng trai gái ra vào thông dâm.
Tự nhiên tinh khí hại âm,

991.Thần thái mơ mộng lầm lầm nhọc thay.
Lại thêm bải hoản chân tay,
Chờ lâu mấy tỉnh nhọc rày một thôi.
Có khi toát cơn mồ hôi,
Ấy chứng đạo hãn (mồ hôi trộm) kia ơi những là.
Có khi thức ngồi liền ra,
Ấy chứng tự hãn (tự ra mồ hôi) vậy hòa cho hay.
Đêm ngày ho lắm bằng nay,
Ngày thì thủng thẳng nôn đầy đờm diên (rãi).
Có người phải hai ba niên (năm),

1001. Ho ra những máu tâm phiền khốn thay.
Ấy bấy nhiêu chứng thực lao,
Thế gian chẳng biết đường nào hòa (mà) suy.
Những toan phù thủy khoa nghi (cúng lễ),
Lại ngờ tinh tổ cúng thì Bán thiên (54).
Lại thêm cắt đoạn oan khiêu (55),
Dời mồ dời mả tổ tiên ông bà.
Mời thầy tróc quỷ bắt tà,
Phù kia phép nọ vậy hòa ghê sao.
Người thì một ngày một hao,

1011. Bệnh thì chẳng giảm(bớt) lẽ nào cho yên.
Đất sao chẳng biết bệnh nguyên (nguyên nhân),
Lại chê trời đất thánh hiền chẳng minh.
Nhân chưng tửu sắc thất tình (56),
La đà chén rượu sự mình ỷ khôn (cậy mình là khôn).
Cho nên thân thể gầy mòn,
Âm hư hỏa động đờm thăng thịnh đầy(57).
Tổn hao tinh khí chầy ngày,
Xảy nên lao trái liền ngày truyền thi (lao trùng).
Mười người được một chẳng nghi,

1021. Dù tài Biển thánh (Biển Thước) lương y cũng nhiều.
Còn một phép cứu chỉn yêu,
Cứu hòa chẳng được thì liều sẽ thôi.
Này đoạn khiến bệnh nhân ngồi,
Lấy Bách lao huyệt cho rồi cứu đi.
Lại lấy Phế du một khi,
Hai bên hai huyệt vậy thì cho thông.
Điểm xương u cổ làm song,
Đếm xuống ba đốt đều dùng sẽ toan.
Mực điểm giữa khớp cho an,

1031. Nào nơi nó nổi có giàn cao lên.
Cứ mực đo ra hai bên,
Một bên tấc (thốn) rưỡi vậy liền chớ nghi.
Mực điểm đầu tấc làm ghi,
Hai bên ba tấc đều thì song song.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Một huyệt mười bốn cho thông ngày rày.
Châm trước ba phân bằng nay,
Đoạn ta đốt ngải khi nay cho rồi.
Này đoạn (xong) lại khiến /người/ bệnh ngồi,

1041. Ta xem lấy lại hòa coi cho tường.
Hoặc là ngồi ghế ngồi giường,
Hai đầu gối áp bằng nương (ngực) đấy rày.
Ta bảo nó lấy hai tay,
Bó hai đầu gối thuở này bằng nhau.
Mười kẽ ngón tay giáp nhau,
Khiến nó cầm gậy trước màu mà suy.
Lấy mực điểm gậy một khi,
Điểm bằng mắt nó tức thì cho coi.
Bảo bấy nhiêu lời đã rồi,

1051. Dặn đi dặn lại thì ngồi cho ngay.
Ta điểm xương sống chớ chầy,
Điểm từ u cố xuống ngay cho cần.
Đếm lấy bốn đốt hòa phân,
Cứ khớp xương ấy mực nhuần làm ghi.
Lại bảo trước ấy mà suy,
Nào khớp xương ấy vậy thì cao lên.
Mực điểm giữa khớp cho yên,
Bẻ lấy ba tấc (thốn) vậy liền đo ra.
Hai bên sáu tấc chớ ngoa,

1061. Ấy Cao hoang huyệt trừ tà ai đương.
Lẽ này phải bảo cho tường.
Bẻ bốn tấc (thốn) khác mà lường khi nay.
Chỗ điểm trên xương khớp này,
Lại đo cứ đấy xuống ngay cho bằng.
Mực điểm đầu tấc cho năng,
Để ta làm dấu hòa rằng cho yên.
Bẻ năm tấc (thốn) khác cho liền,
Ta bẻ dấu ấy đo lên ngày rày.
Đo quân (đều) đến mực bằng nay,

1071. Hai bên cũng vậy phép này tày nhau.
Lấy ngón tay ta chớ lâu,
Ấn vào huyệt ấy có đâu chẳng là.
Đau thì thực huyệt chẳng ngoa,
Châm vào đến huyệt vậy hòa ba phân.
Ngải thì ta đốt một trăm,
Hai bên hai trăm /mồi/ cho cân ngày rày.
Một bên trăm nữa cho tày,
Hai bên cũng vậy thực này chẳng ngoa.
Lại xem lấy huyệt Tứ hoa:

1081. Ở trong lưng ấy thật là chẳng nghi.
Bảo nó nằm ngửa một khi,
Ta đo giữa rốn vậy thì lên ngay.
Bẻ lấy bảy thốn bằng nay,
Thêm nửa thốn nữa cho tày hòa phân.
Mực điểm đầu thốn cho cần,
Để ta làm dấu mà nhuần kẻo nghi.
Bảo nó đứng dậy một khi,
Đứng cho bình chính (ngay thẳng) vậy thì chớ sai.
Ta lấy cái dây cho dài,

1091. Quanh  ngang u cổ chung hai cho tày.
Rủ xuống đến mỏ ác nay,
Nào nơi dấu mực cứ tày như y.
Lấy dao cứ mực cắt đi,
Đoạn rồi tức thì lần lại bên sau.
Giữa vai cứ từ xương hầu,
Quang ngang u cổ hai đầu tày nhau.
Hai bên rủ xuống đến đâu,
Cho ngay xương sống mực hầu làm ghi.
Mực điểm đầu dây một khi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 02, 2018, 11:03:17 AM
1101. Ta liền để đấy vậy thì cho xong.
Đoạn lại bên trước đối đồng,
Ta lấy dây khác cho thông ngày rày.
Đem lên miệng nó bằng nay,
Khiến nó ngậm lấy thuở này cho năng.
Đo hai bên mép cho bằng,
Lấy ra gấp lại thường bằng chung đôi.
Đem ngang sau cổ cho rồi,
Nào nơi dấu mực thì coi đấy rày.
Đem lên đến dấu bằng nay,

1111. Chỗ gấp đặt giữa dấu này hòa gia.
Dọc ngang bốn huyệt đo ra,
Lấy mực làm dấu vậy hòa bốn bên.
Dọc ngang cho bằng chớ thiên (lệch),
Lấy cho phải huyệt tự nhiên sẽ dùng.
Giữa chẳng có cứu để không,
Bảo cho biết ấy mới thông chăng là.
Tên gọi là huyệt Tứ hoa,
Châm bốn huyệt ấy vậy hòa một phân.
Lại bảo đếm ngải mà nhuần,

1121. Mỗi huyệt ta đốt mười lần sẽ thôi.
Huyệt ngang thêm hơn bốn mồi,
Hai bên cũng vậy cho rồi đủ trang.
Lấy xuống Thận du lưỡng bàng (hai bên),
Ở trên yêu phố ngang sang rốn rày.
Khiến nó đứng dậy cho ngay,
Lấy gậy thuở này cứ đất đo lên.
Áp tận bụng nó cho yêu,
Bằng giữa rốn nó vậy liền cắt đi.
Đem sang sau cổ một khi,

1131. Lại xuống từ đất thuở rày đo lên.
Đến giữa xương sống chớ thiên,
Mực ta lấy dấu cho liền đầu que.
Gọi là phép đo bằng tề (rốn),
Ấy Mệnh môn huyệt danh đề ai đang.
Cứ huyệt Mệnh môn đo ngang,
Hai bên hai huyệt lưỡng bàng cho thông.
Một bên tấc rưỡi làm song,
Hai bên ba tấc đều cùng phải thay.
Ấy huyệt Thận du bằng nay,

1141. Châm cho đến huyệt phép rày ba phân.
Lại bảo đếm ngải mà nhuần,
Đếm bằng tuổi nó vân vân những là.
Đếm được bao nhiêu phân ra,
Đốt hai huyệt ấy vậy hòa tày nhau.
Lại bảo huyệt giữa chớ lâu,
Bảo cho biết ấy phép mầu mới thông.
Nào huyệt ở giữa làm song,
Nhưng cứu huyệt ấy như không ngày rày.
Ta quay lại trước nó nay,

1151. Tìm Thiên đột thì ngày rày ở đâu.
Huyệt ấy thì ở dưới hầu,
Ở trước dưới cổ dường sâu những là.
Lấy huyệt bảo nó ngửa ra,
Mực điểm liền phết vậy hòa phải thay.
Châm đến ba phân bằng nay,
Ngải đốt ngày rày ba bảy (21 mồi) cho thông.
Ta lại cứu huyệt Đản trung,
Đo hai đầu vú chung đôi cho tường.
Huyệt ấy chính ở giữa nương,

1161. Đã có đường trước mà lường chớ nghi.
Lấy huyệt Trực cốt một khi,
Hai bên hai huyệt vậy thì ở đâu?
Lại bảo huyệt ấy chớ lâu,
Ở dưới đầu vú lẽ mầu mà suy.
Trừ trên thịt đen ấy đi,
Điểm từ thịt trắng xuống thì cho ngay.
Ấy huyệt Trực cốt bằng nay,
Hai bên cũng vậy châm rày một phân.
Ta lại đốt ngải mà nhuần,

1171.Một bên ba trận ân cần khi nay.
Lại lấy huyệt xuống rốn này,
Ấy Khí hải huyệt yêu thay lạ dường.
Ấy huyệt đệ nhất thần phương,
Đốt cho nhiều ngải mà lường đến trăm.
Khí hải trọng nớ thiên kim (quý như vàng),
Lại bảo thức giả (người biết) tri âm thường dùng.
Năng cứu huyệt ấy cho thông,
Cố chân nguyên khí đều cùng tráng dương (58).
Lại tả Tam lý cho tường,

1181. Tinh kỳ nghĩa lý (thông suốt y lý) chư phương huyệt rày,
Huyệt ấy dưới đầu gối mà nhuần khi nay.
Cứ trong mắt đầu gối này,
Đo xuống dưới rày ba tấc (thốn) chớ nghi.
Bấm mé sống chân một khi,
Chớ có lên quá đừng thì xa xa.
Gọi rằng Phụ cốt những là,
Ấy huyệt có cân cốt gian (khoảng gân xương).
Châm đều ba phân cho an,

1190. Mỗi huyệt ta cứu ngải hòn bảy trang.
Hai chân hai huyệt cho tường,
Ngải đốt cũng vậy lẽ lường cho thông.

5. Già trẻ trai gái bị lao trùng truyền nhiễm, ho, thổ huyết và các chứng hư tổn lao thương, mặt mắt vàng võ, thân thể gày gò, tay chân rũ mỏi, ăn uống không ngon, giấc ngủ mê mộng, đổ mồ hôi trộm, âm hư bốc nóng, ngũ tâm phiền nhiệt.
Bổ sung thêm huyệt pháp:

b) Bách lao: 2 huyệt ở sau gáy, chỗ lõm ở hai bên dưới đốt xương cổ thứ nhất, cách ra một thốn, châm 8 phân, cứu 7 mồi.

K7. Cao hoang: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 4 trên đốt thứ 5 ngang ra hai bên, cách 3 thốn ở chỗ lõm. Cứu 200 đến 300 mồi thì thôi (đã nói ở trên).

d) Tứ hoa sau lưng: Cách lấy huyệt đã nói ở trên. Trước cứu hai huyệt ở hai bên, mỗi huyệt 7 mồi, sau cứu thêm dần đến 100 mồi. Nhưng đối với hai huyệt trên sống lưng thì chỉ nên cứu ít, như 1 mồi đến 3 - 5 mồi, không nên cứu nhiều, cứu nhiều thì sẽ còng lưng.

K7. Thận du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 14, đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn, châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu mỗi tuổi một mồi.

K14. Thiên đột: Huyệt ở giữa chỗ lõm dưới yết hầu 1 thốn, châm 5 phân, cứu 5 mồi.

đ) Trực cốt: 2 huyệt ở chỗ mé thịt đen dưới vú thẳng xuống, ở phụ nữ núm vú thõng xuống thì huyệt vào chỗ đầu nuốm vú chấm đến, Nam dùng huyệt ở bên tả, nữ bên hữu, châm 1 phân, cứu 7 mồi.

K3. Túc tam lý: 2 huyệt ở dưới đầu gối 3 thốn, ngoài xương ống chân, giơ chân lên mà lấy huyệt. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K7. Phế du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 3, đi ra hai bên, mỗi bên cách 1,5 thốn. Ho thì châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu đến 100 mồi.

K7. Tâm du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 11 (59) đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn. Ho do Tỳ (nhiều đờm) thì dùng, châm 3 phân, lưu 7 hô, cứu 7 mồi.

K14. Đản trung: (Đã nói ở mục 3) cứu 21 mồi, cấm châm.

K14. Khí hải: (xem mục 4 ở trên).

* Chú thích mục 5:

(54). Bán thiên mão dậu: Thần linh được cầu cúng theo quan niệm duy tâm.

(55). Cắt đứt dây oan: Cách giải bệnh hoạn, tai nạn trong việc cầu cúng đời xưa.

(56). 7 mối tình chí xúc động tinh thần: Mừng, giận, lo, nghĩ, buồn, sợ, kinh.

(57). Tinh huyết sút kém sinh bốc nóng và đờm đọng sộc lên.

(58). Làm mạnh dương khí để nâng cao thể năng khí lực.

(59). Huyệt Tâm du ở dưới đốt xương sống thứ 5 ngang ra hai bên (không phải đốt thứ 11): Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 02, 2018, 11:17:11 AM
Mục 6

Kìa ai phải bệnh trúng phong,
Bán thân bất toại (liệt nửa người) cong lòng thiết thay.
Phải liệt một chân một tay,
Co vào chẳng được ngày rày buông ra.
Lại thêm khẩu nhãn oa tà (méo mồm lệch mắt),
Miệng méo mắt đỏ vậy hòa buôn muôn.
Lại thêm khẩu cấm bất ngôn (cắn răng không nói),

1200. Nói hòa chẳng được chỉn khôn (thật khó) lạ dường.
Cứu Bách hội huyệt cho tường,
Rồi ta đoạn lại cứu lường Thượng tinh.
Ấy là đầu bộ phân minh,
Ta lại xem hình ở đầu xương vai.
Cất cánh nó lên chẳng sai,
Nào nơi dường ấy trước bài làm ghi.
Huyệt giữa khớp xương một khi,
Nhấc xuống vậy thì ta cứu giữa ngôi.
Cứu chính giữa khớp kia ơi,

1210. Ấy Kiên ngung huyệt lấy rồi cứu đi.
Châm đến một phân một khi,
Ngải đốt ba bảy (21 mồi) vậy thì cho thông.
Ngải đốt hai huyệt ấy đồng,
Bảo cho biết ấy lẽ cùng mà suy.
Ta lại cứu huyệt Khúc trì,
Huyệt ấy vậy thì ngay cánh tay ta.
Ta lại bảo nó rằng bay,
Bàn tay nắm lại cánh rày dăng ra.
Ta bấm khúc xương kia là,

1220. Nắm chỗ khoanh lại vậy hòa khi nay.
Chỗ ấy bấm trũng vào nay,
Huyệt trong trũng ấy áp rày phụ xương.
Trước có nắm thịt cho tường,
Lại có ngấn chỉ một đường hòa xem.
Cứ hết đầu ngấn chớ thiên,
Lường ta làm dấu áp liền mé xương.
Lại bảo lẽ ấy cho tường,
Hai bên tả hữu hai bên huyệt rày.
Châm xuống ba phân bằng nay,

1230. Ngải đốt một huyệt thuở rày bảy viên.
Cứu Khúc trì huyệt đã yên,
Lấy huyệt Hợp cốc vậy liền ở đâu?
Tìm ra bàn tay chớ lâu,
Hễ nó thấp xuống mấy hầu lấy lên.
Đem ngón tay cái đem lên,
Ngón trỏ nó liền phải thác cách nhau.
Hình như kèo nhà giao đầu,
Bấm vào trũng ấy những đau kia là.
Bấm từ gốc ấy xem ra,

1240. Nào nơi máu mạch vậy hòa theo nhau.
Lấy huyệt giữa mạch mấy mầu,
Lựa vào chỗ ấy chớ hầu phạm xương.
Châm xuống ba phân cho tường,
Đốt bảy tráng ngải một đường cho thông.
Ấy là thủ bộ (ở tay) đã xong,
Xem cứu túc bộ (ở chân) đều cùng kể ra:
Xem nơi trái trôn (mông) kia là,
Chân dưới duỗi thẳng mà lường khi nay.
Cầm gót chân lên thuở rày,

1250. Ta bắt co lại phép này đem lên.
Gót chân đến giữa đọi đòn (chỗ lõm),
Cho in đầu gót ta liền cứ nay.
Khiến bắt chân nó duỗi ngay,
Ấn vào thấy trũng bảo nay hòa lường.
Bắt gót ôm lại cho tường,
Cứ ngay đầu gót một dường phải thay.
Ta cứ mé trũng xương này,
Ấy Hoàn khiêu huyệt khi nay tỏ tường.
Châm đến ba phân (?) mới thần,

1260. Ngải đốt ba bảy (21 mồi) cho cần mấy hay.
Bảo cho hay hai ba huyệt ấy,
Lấy phải phép bệnh ấy tiêu tan.
Kìa huyệt Phong thị lại bàn,
Ở ngoài trái vế hòa toan ngày rày.
Khiến nó chân duỗi cho ngay,
Bàn tay áp vế xuống rày từ đâu.
Cứ ngón tay trỏ chớ lâu (60),
Mực chỉ áp đầu ngón chỉ (60) làm ghi.
Lại bảo chỗ ấy mà suy,

1270. Chỗ ấy vậy thì có lưỡng cân gian (khoảng giữa hai gân).
Một huyệt mười bốn ngải hòn mà thôi.
Cứu huyệt Phong thị đã xong,
Lại huyệt Tam lý phép dùng cứu đi.
Cứ lấy như tiền (trước) một khi,
Đoạn rồi tức thì cứu huyệt Dương lăng /tuyền/.
Bảo nó ngồi trôn cho bằng,
Xem nơi đầu gối bảo rằng cho hay.
Có ba khúc xương ngồi bày,


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 02, 2018, 05:05:40 PM
1280. Hai trên một dưới ấy rày nhô ra.
Ngay miền Tam lý chẳng xa,
Lại bảo cho biết vậy hòa mấy hay.
Ở bên trái chân ngoài này,
Xem ngấn chỉ cốt (xương) lại rày sờ lên.
Tay án tất phẩm (ấp tay vào đầu gối) cho yên,
Ấy khúc xương dưới cùng liền đấy nay.
Mực điểm giữa khúc xương rày,
Để lấy làm dấu khi nay hòa lường.
Bẻ một tấc (thốn) chẵn phải phương,

1290.Đo cứ dấu ấy một dường xuống ngay.
Chỗ ấy có dòng thịt nay,
Lấy giữa dòng ấy huyệt rày mấy nên.
Châm cho một phân cho yên,
Ngải đốt mười bốn tráng mấy thôi.
Ấy huyệt Dương lăng tuyền rồi.
Lấy huyệt Tuyệt cốt (Huyền chung) kìa ơi thuở rày.
Lấy ngoài mắt cá chân nay,
Đo giữa mắt cá lên ngay cho cần.
Bẻ lấy ba tấc (thốn) hòa phân,

1300. Đo lên đến huyệt mực nhuần mà ghi.
Châm đến một phân một khi,
Ngải ta phải đốt vậy thì bảy trang.
Đoạn rồi ta lại lấy sang,
Bên trong mắt cá chính đường Tam âm /giao/.
Lại bảo cho biết kẻo nhầm,
Độ trong mắt cá cổ kim (xưa nay) đã truyền.
Bẻ lấy ba tấc (thốn) đo lên,
Cứ trong mắt cá vậy liền phải chăng.
Ấy huyệt Tam âm giao này,

1310. Hoặc người có nghén chớ rày phạm chi (61).
Châm đến hai phân một khi,
Một huyệt ta đốt ngải thì bảy trang.
Kìa ai méo miệng một bên,
Cứu Địa thương huyệt phương viên (vuông tròn) đã rồi.
Huyệt ấy ở đâu bằng nay,
Huyệt ở bên mép miệng rày chớ ghi.
Hoặc méo bên tả một khi,
Ta liền cứu hữu vậy thì cho hay.
Hoặc méo bên hữu ngày rày,

1320. Ta cứu bên tả thực rày thần tiên.
Châm đến một phân cho yên,
Ngải thì ta đốt cho liền bảy trang.
Lại cứu giáp lưỡng biên bàng (Giáp xa hai bên),
Ở dưới cằm xuống vừa đang mé hàm.
Cứ đấy cho phải sẽ làm,
Đo xuống cằm dưới phép dùng tám phân.
Lại bảo há miệng mấy nhuần,
Nào nơi trũng ấy giữa phương huyệt rày.
Châm đến một phân bằng nay,

1330. Ngải thì ta đốt thuở rày ba trang.
Kìa ai cấm khẩu bất ngôn,
Nói hòa chẳng được ỷ khôn (cậy khó) những là.
Ta cứu giữa huyệt Giáp xa,
Nào Nhân trung huyệt vậy hòa ở đâu,
Huyệt ấy dưới mũi khi nay,
Bên trên môi lõm giữa rày chính ngôi.
Châm đến một phân cho rồi,
Ngải ta liền đốt bảy mồi chớ ngoa.
Lại cứu Hợp cốc những là,

1340. Cùng Tam lý huyệt vậy hòa ở đâu.
Châm cứu mấy huyệt cho cần,
Tự nhiên bệnh đỡ vân vân những là.

6. Chữa trúng phong bại liệt nửa người, tay chân tê liệt, méo mồm lệch mắt, cấm khẩu không nói.

K13. Bách hội: huyệt ở /giữa đỉnh đầu/ cách chân tóc trước trán 5 thốn, châm 3 phân, cứu 7 đến 49 mồi.

K14. Thượng tinh: huyệt ở thẳng mũi đi lên vào trong chân tóc 1 thốn, châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K2. Kiên ngung: Huyệt ở khe lõm chỗ trũng đầu xương vai, giơ tay lên mà lấy huyệt, cứu 7 mồi đến 14 mồi, khỏi thì thôi. Nếu liệt nửa người thì cứu 49 mồi, không nên cứu nhiều.

K2. Khúc trì: 2 huyệt ở mé xương khuỷu tay, khi co cùi tay lại ở chỗ giữa xương gấp. Bảo bệnh nhân chống nạnh (vào hông) mà lấy huyệt, châm 7 phân cứu 3 mồi.

K2. Hợp cốc: 2 huyệt, có tên là Hổ khẩu, ở chỗ lõm giữa hai khe xương giáp giới ngón tay cái và ngón tay trỏ, châm 3 phân, cứu 7 mồi.

K11. Hoàn khiêu: 2 huyệt ở phía ngoài khớp xương đùi giữa mông, nằm nghiêng co chân trên duỗi chân dưới mà lấy huyệt. Châm 7 phân cứu 50 mồi.

K11. Phong thị: 2 huyệt ở giữa hai gân xương ngoài đùi. Bảo bệnh nhân đứng thẳng duỗi tay xuống, đầu ngón tay giữa đến chỗ nào thì lấy huyệt ở đấy. Châm 8 phân, cứu 7 mồi.

K3. Tam lý (Túc tam lý): 2 huyệt ở dưới đầu gối 3 thốn, ngoài xương ống chân, khoảng giữa hai gân, giơ chân lên mà lấy huyệt. Châm 1 phân, cứu 14 mồi.

K11. /Dương lăng tuyền/ (62) ở dưới đầu gối mé ngoài ống chân (xem mục 9 ở sau).

K11. Tuyệt cốt (Huyền chung): 2 huyệt ở phía ngoài (mắt cá) chân lên 3 thốn, giữa có mạch động. Cứu 7 mồi [giữa xương mắt cá ngoài kéo thẳng lên 3 thốn].

K4. Tâm âm giao: 2 huyệt trên mắt cá trong 3 thốn, giữa chỗ lõm phía trong xương chày. Châm 2 phân, cứu 14 mồi. Kỵ thai.

K13. Địa thương: 2 huyệt ở hai bên mép mồm đi ra 4 phân, chỗ gần dưới có động mạch nhỏ (ở người đau lâu thì chỗ mạch ấy có khi không động). Đau ở bên tả thì cứu ở bên hữu, đau ở bên hữu thì cứu ở bên tả, cứu 7 mồi, châm 1 phân.

K3. Giáp xa: 2 huyệt ở hai bên dưới tai, chỗ lõm đầu góc hàm, bảo bệnh nhân nằm nghiêng mở mồm mà lấy huyệt, châm 4 phân, cứu 14 mồi.

K13. Nhân trung: Huyệt ở dưới mũi /chỗ 1/3 của rãnh mũi/, châm 4 phân, lưu 5 hô, cứu 3 đến 7 mồi, dùng ngải viên bằng hòn phân chim sẻ.

K13. Á môn: Huyệt ở đằng sau gáy, giữa chỗ lõm đi vào chân tóc 5 phân, châm 3 phân, cấm cứu. Nếu cứu thì sợ bị câm huyệt này chuyên trị lưỡi duỗi đờ không nói.

* Chú thích mục 6:

(60) Ngón tay giữa (chép lầm là ngón tay trỏ): đính chính.

(61) Nguyên bản chú thích: Cấm châm cứu đối với phụ nữ có thai.

(62) Nguyên bản sót.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 03, 2018, 10:48:14 AM
Mục 7

Kìa ai phải chứng quỷ tà,
Bị mười lăm giống quỷ ma luân hồi.
Có đẻ mà chẳng có nuôi,
Lại thêm mộng tưởng kìa ơi ngày rày.
Thoạt nấp /mắt/ thấy chiêm bao nay,
Hình như rắn đỉa thuở rày vào ra.
Ta cứu Cao hoang trừ tà,

1350. Cùng Gián sử huyệt vậy hòa ở đâu?
Tìm la (ra) ở tay chớ lâu,
Xem nơi gân chỉ mấy hầu lấy nên.
Cứ ngấn chỉ ngoài cho yên,
Đo vào ba tấc (thốn) mực biên dấu rày.
Huyệt có hai gân gian (khoảng) nay,
Châm đến dưới rày cho đến 3 phân.
Ngải thì đốt lấy bảy lần,
Hai bên cũng vậy cho cân thuở này.
Lại cứu mặt đầu gối nay,

1360. Ấy Quỷ nhãn huyệt khi nay cho tường.
Lại cứu Quỷ khốc một đường,
Lại bảo huyệt ấy tư lường phép nay.
Huyệt ở ngón tay cái này,
Ta liền lấy giữa giáp rày tán phao.
Lại bảo cho biết trước cao,
Ngón tay cũng vậy lẽ nào còn nghi.
Châm đến một phân một khi,
Cứu đốt vậy thì mỗi huyệt ba trang.

7. Chữa phụ nữ kinh nguyệt không đều, ngủ thấy chiêm bao mê mộng, đẻ con khó nuôi đều thông trị:

K7. Cao hoang: Hai huyệt ở chỗ dưới đốt xương sống thứ tư, trên đốt sống thứ 5, ngang ra hai bên cách 3 thốn, cứu 100 mồi.

K9. Gián sử: Hai huyệt ở sau lòng bàn tay, cách chỗ chỉ ngang cổ tay 3 thốn, vào chỗ lõm khoảng giữa 2 gân. Châm 3 phân, cứu 7 mồi.

(e) Quỷ nhãn: 4 huyệt, mỗi chân 2 huyệt ở dưới xương bánh chè đầu gối (lấy mực làm dấu chỗ giữa mõm, đó chưa phải huyệt), rồi lấy 2,5 tấc đồng thân gấp bằng, áp đặt vào chỗ đã đánh dấu mực trước, cách ra một thốn là huyệt ở đấy (giữa chỗ lõm). Cứ 21 mồi.

(h) Quỷ khốc: 4 huyệt ở 2 ngón tay cái và 2 ngón chân cái, chỗ móng giáp thịt. Châm 1 phân, cứu 3 mồi.

K14. + Khí hải: (xem mục 4 ở trên).

K14 + Trung cực: (xem mục 4 ở trên) với phụ nữ không tiện dùng.

K4 + Tam âm giao: (xem mục 6 ở trên).

K4 + Túc tam lý: (xem mục 6 ở trên) châm 1 phân, cứu 35 mồi.

(g) + Tử cung: 2 huyệt 2 bên ngang huyệt Trung cực cách ra 2 thốn [3 thốn], châm 3 phân, cứu 14 hoặc 21 mồi.

* Thuốc xông: Ba kích, Quỷ kiến sầu (Tật lê), Thương truật, Quan quế, Hồi hương, Tạo giác (Bồ kết), Viễn chí, Đỗ trọng, Cát cánh, Hương thất, Ngưu tất, Hùng hoàng, Thần sa, A ngùy, Hổ cốt. Các vị tán nhỏ, cuộn giấy lại mà đốt 100 ngày. Nếu tiện châm cứu được dùng huyệt thì không cần thuốc xông.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 03, 2018, 10:52:55 AM
Mục 8

1370. Kìa ai phải phù thũng sưng lên,
Cứu huyệt Khí hải cho chuyên ngày rày.
Lại cứu Khúc trì bằng nay,
Cùng Hợp cốc huyệt ngày rày cho yên.
Ta lại lấy huyệt Trung quản,
Cùng Hạ quản huyệt thiên ban càng mầu.
Nào huyệt Chương môn ở đâu?
Cứ Hạ quản huyệt tu cầu suy ra.
Đo ra một bên một khi,
Một bên sáu tấc (thốn) vậy thì phải hay.
Hai bên mười hai tấc nay,

1380. Khiến nó nằm ghé lấy rày mấy thông.
Chân dưới duỗi thẳng làm song,
Chân trên co lại áp bên ngang sườn.
Trôn (khuỷu) ấy huyệt Chương môn(63),
Chính trị trướng mãn (đầy) cực khôn càng mầu.
Cứu huyệt Thủy phân chớ lâu,
Cứ từ giữa rốn ấy cầu hòa suy.
Đo lên một tấc (thốn) chớ nghi,
Ấy Thủy phân huyệt vậy thì chớ châm.
Ta lại lấy huyệt Tam âm [giao],

1390. Bên trong mắt cá chớ lầm cho minh.
Ta lại lấy huyệt Nội đình,
Ở ngón chân thứ thực hình phải thay.
Giáp đối ngón giữa bằng nay,
Ta liền lấy giữa ngày rày đốt sau.
Ấy bản tiết hậu càng mầu,
Châm xuống cho đến đủ hầu một phân.
Đốt ngải hai bảy mới nhuần,
Mười bốn hai bảy mặc lòng cho thông.
Ta lại lấy huyệt Thái xung,

1400. Ở túc đại chỉ (ngón chân cái) làm song thuở này,
Cứ bản tiết hậu (sau khớp xương) vào ngay.
Đo một tấc (thốn) rưỡi hoặc rày đo hai,
Ngó cái ngón nhị giáp lai.
Ta bấm lấy giữa chớ sai chi là,
Có thấy mạch đập đưa qua.
Huyệt giữa mạch thở vậy hòa phải thay.
Châm lấy một phân bằng nay,
Ngải đốt mười bốn tráng rày làm song.
Ta lại cứu huyệt Nhân trung,

1410. Cùng Tam lý huyệt cho thông những là.

8. Chữa nam nữ mặt mắt chân tay, thân thể bụng lưng phù thũng, trướng đầy sinh nước:

K14. Khí hải: (xem mục 4 ở trên).

K2. Khúc trì: (xem mục 6 ở trên).

K2. Hợp cốc: (xem mục 6 ở trên).

K13. Nhân trung: (xem mục 6 ở trên).

K4. Tam âm giao: (xem mục 6 ở trên).

K3. Túc tam lý: (xem mục 6 ở trên).

K14. Trung quản: Huyệt ở trên rốn 4 thốn, châm lưu 5 hấp, cứu 100 mồi.

K14. Hạ quản: Huyệt ở trên rốn 2 thốn, châm 8 phân, cứu 14 đến 100 mồi thôi.

K12. Thái xung: Hai huyệt ở sau đốt ngón chân cái 2 thốn hoặc 1,5 thốn, chỗ lõm [giữa ngón chân cái và ngón chân thứ 2]. Châm 6 phân, cứu 3 mồi.

K12. Chương môn: 2 huyệt, ở ngang huyệt Hạ quản đi ra hai bên, cách 6 thốn. Bảo bệnh nhân nằm nghiêng co chân trên duỗi chân dưới dưới mà lấy huyệt. Châm 8 phân, cứu 100 mồi.

K3. Nội đình: 2 huyệt, ở chỗ lõm phía ngoài giữa kẽ xương ngón chân thứ 2 và ngón giữa, châm 3 phân, cứu 3 mồi [huyệt ở sau đốt thứ nhất ngón chân thứ hai lui vào 5 phân].


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 04, 2018, 06:16:20 PM
Mục 9

Kìa ai phải chứng tý ma (tê dại),
Chân tay tê hết vậy hòa bất tri (mất cảm giác).
Ta cứ Kiên ngung, Khúc trì,
Cùng Đại lăng huyệt vậy thì chớ lâu.
Nào huyệt Trung trữ ở đâu?
Lại bảo chước mầu thủ chỉ vô danh (ngón tay thứ tư).
Ở nơi bản tiết (đốt xương) phân minh,
Lại đối ngón út thực hình ngoại biên (mé ngoài).
Lấy chính giữa khớp mấy nên,

1420. Chấm cho xuống đến cho liền một phân.
Tính ngải đốt lấy cho cân,
Mỗi huyệt ta đốt ân cần ba tao.
Lại cứu lấy huyệt Tam âm giao,
Cùng Quỷ nhãn huyệt khí điều mấy đang.
Ta lại cứu huyệt Hoàn khiêu,
Cùng Tam lý huyệt hiệu mau những là,
Điều khẩu huyệt ở đâu xa.
Đo Tam lý xuống vậy hòa cho ngay,
Đo năm tấc (thốn) chẵn bằng nay.

1430. Ấy Điều khẩu huyệt thực rày chớ nghi,
Châm đến ba phân một khi.
Bất khả cấm cứu lẽ thì cho hay,
Trong kinh (sách) lại nói rằng bay.
Bảo cho ngải cứu lấy rày ba trang,
Lại cứu Phong thị cho tường.
Rồi ta lại lường lấy huyệt Lao cung.
Các ngón nắm lại đừng song,
Khuât (co) vào cho đến chưởng trung hãm rày.
Ở giữa trong gan bàn tay (chỗ lõm),

1440. Nay châm xuống rày cho đến một phân.
Ngải đốt mỗi huyệt ba lần,
Đoạn ta lại nhuần cứu huyệt Ngoại quan.
Huyệt ấy ở đâu hòa bàn,
Cứ đo như huyệt Nội quan chớ chầy.
Huyệt có lưỡng cân (giữa hai gân) bằng nay,
Nội ngoại huyệt rày xích thốn như nhau.

9. Bệnh đau phong thấp, tay chân tê dại không rõ hàn nhiệt
Bổ sung thêm huyệt pháp:

K2. Kiên ngung: (xem mục 6 ở trên).

K2. Khúc trì: (xem mục 6 ở trên).

(e). Quỷ nhãn: (xem mục 7 ở trên).

K11. Hoàn khiêu: (xem mục 6 ở trên).

K3. Túc tam lý: (xem mục 6 ở trên).

K11. Phong thị: (xem mục 6 ở trên).

K4 + Tam âm giao: (xem mục 6 ở trên).

K12 + Thái xung: (xem mục 8 ở trên).

K7 + Thận du: (xem mục 5 ở trên).

K9. Đại lăng: (xem mục 3 ở trên).

K10. Trung chử: 2 huyệt, ở sau đốt xương /thứ nhất/ của ngón tay thứ tư, chỗ lõm phía ngoài gần ngón út. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.

K3. Điều khẩu: 2 huyệt, ở thẳng dưới huyệt Túc tam lý 5 thốn, châm 3 phân, không nên cứu, có bản cho cứu 3 mồi.

K3. Lao cung: 2 huyệt ở trong lòng bàn tay, co các ngón tay lại xem đầu ngón giữa đến chỗ nào thì lấy huyệt ở chỗ ấy [giữa khe đầu ngón giữa và ngón thứ tư chấm vào đường chỉ ngang lòng bàn tay], châm 1 phân, cứu 3 mồi.

K10. Ngoại quan: 2 huyệt ở sau bàn tay, cách chỉ ngang cổ tay 2 thốn [ngang huyệt Nội quan ở phía trong tay], châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K11 + Dương lăng tuyền: 2 huyệt, ở chỗ lõm phía ngoài ống chân, cách dưới đầu gối 1 thốn, ngồi nhổm để lấy huyệt, châm 1 phân, cứu 7 mồi.

K7 + Côn lôn: 2 huyệt ở chỗ lõm trên xương gót sau mắt cá ngoài, châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K3 + Thái khê: 2 huyệt, ở chỗ lõm trên xương gót sau 2 mắt cá trong, nơi có động mạch. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K12 + Đại đôn: 2 huyệt, ở chỗ ngón chân cái giữa nơi mọc lông chân (tam mao) cách móng ngón chân khoảng bằng lá hẹ. Châm 3 phân, lưu 6 hô, cứu 3 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 06, 2018, 08:54:19 AM
Mục 10

Kìa ai kinh nguyệt bất (chẳng) điều,
Ấy người phụ nữ cho minh ngày rày.
Có người thấy máu trước nay,

1450. Rồi mấy đau bụng đau rày như xuyên.
Có người đau trước tự nhiên,
Đoạn thoát (rồi) vậy liền mấy thấy máu ra.
Lại thêm tiểu tiện xót xa,
Hình như đái dắt vậy hòa bất thông.
Dịch hạ (dưới nách) nó lạnh như đồng,
Cùng là trước rốn lạnh đông (đau) chẳng chầy.
Ta cứu Thiên (xu) khu bằng nay,
Cùng Khí hải huyệt thuở rày cho yên.
Ta cứu lấy huyệt Quan nguyên,

1460. Cùng Trung cực huyệt phép tiên lạ dường.
Ta cứu Tử cung cho tường.
Đoạn ta lại lường lấy huyệt Thận du.
Huyệt ấy ngang rốn mà đo,
Cứ như đằng trước mà so lấy rày.
Lại cứu Tam lý bằng nay,
Cùng Tam âm huyệt thuở rày cho thông.

10. Thông trị kinh nguyệt không đều, trước khi thấy kinh mình rũ mỏi hay tiểu tiện không thông, sau khi thấy kinh bụng rốn đau nhói.

Các huyệt: Thiên xu, Quan nguyên, Trung cực, Khí hải (xem mục 4 ở trên).

Các huyệt: Túc tam lý, Tam âm giao (xem mục 6 ở trên).

Huyệt Thận du (xem mục 5 ở trên).

(g) Tử cung: 2 huyệt ngoài kinh, ở hai bên huyệt Trung cực cách ra hai thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 07, 2018, 09:17:07 AM
Mục 11

Đoạn rồi phụ nữ làm xong,
Hao tổn trong long, hình thể xanh xao.
Nhân chưng máu nó ra nhiều,

1470. Cùng là máu đỏ hỗn hào tanh hôi.
Ấy chứng đới hạ kia ơi,
Ta cứu Bách hội cho rày bình an.
Cứu huyệt Thận du mấy hay,
Cùng Quan nguyên huyệt phép rày cho thông.
Lại cứu Khí hải làm xong,
Với huyệt Trung cực thực cùng phải hay.
Thêm huyệt Tam âm giao nay,
Cùng /Túc/ Tam lý huyệt lấy rày cho minh.

11. Phụ nữ hư tổn gầy hao, khí hư bạch đới

K13. Bách hội: Huyệt ở /giữa đỉnh đầu/ thẳng mũi đi lên, cách chân tóc 5 thốn, cứu 7 đến 14 mồi.

Các huyệt khác đều đã nói ở trên.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 07, 2018, 09:25:30 AM
Mục 12

Kìa ai sản hậu làm xong,

1480. Ác lộ bất chỉ (máu hôi không dứt) trong lòng đau thay.
Đẻ được một tháng bằng nay,
Hoặc hai ba tháng máu rày thường ra.
Cứu huyệt Thủy phân chớ qua,
Cùng Quan nguyên huyệt vậy hòa cho hay.
Cứu Cao hoang huyệt bằng nay,
Tam âm giao huyệt ấy rày làm song (hai bên).

12. Chữa phụ nữ sau khi đẻ máu hôi ra không dứt

K14. Thủy phân: Huyệt ở trên rốn 1 thốn, cấm châm, cứu 100 mồi.

Các huyệt Cao hoang, Quan nguyên, Tam âm giao, đều đã nói ở các mục trên.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 07, 2018, 09:56:09 AM
Mục 13

Kìa ai phải chứng chạy rông,
Ấy điên cuồng tật cho thông ngày rày.
Mắt đỏ mình nóng bằng nay,

1490. Khiến những đánh chém tìm rày người ta.
Có người đăng cao nhi ca (trèo cao mà hát),
Có người vậy hòa bỏ áo vất đi.
Cuồng ngôn loạn ngữ (nói nhảm) đôi khi,
Bệnh ấy vậy thì cứu những huyệt đâu?
Ta lấy Bách hội trên đầu,
Cùng Thần đình huyệt ở đâu hòa nhuần.
Cứ theo chân tóc cho cần,
Bẻ lấy nửa tấc (5 phân) vừa phần đo lên.
Đo ngay ngôi đầu chớ thiên,

1500. Mực ta điểm dấu cho liền một khi.
Huyệt ấy cấm châm cho hay,
Hoặc là châm nữa thì rày phải đau.
Ngải đốt bảy mồi cho tường,
Hoặc là mười bốn phải lường mấy thông.
Lại lấy Đại chùy kia cùng,
Huyệt giữa u cổ thực rằng chính ngôi.
Lại cứu Thân trụ kia ơi,
Điểm từ u cổ mà lôi xuống rày.
Điểm ba đốt xuống bằng nay,

1510. Huyệt chính giữa khớp khi nay hóa lường.
Ngải thì đốt lấy bảy trang,
Hoặc là mười bốn cho tường chớ nghi.
Lấy huyệt Cùng cốt một khi,
Huyệt ấy vậy thì ở xương cùng trôn.
Ấn lấy giữa khớp chính môn,
Huyệt chính giữa khớp càng khôn lẽ mầu.
Ngải đốt mười bốn chớ lâu,
Đoạn ta quay lại bên hầu nó kia.
Lấy huyệt Cự khuyết khi nay,

1520. Cứ đo giữa rốn lên ngay những là.
Bẻ sáu tấc (thốn) rưỡi chớ ngoa,
Mực điểm làm dấu vậy hòa cứu đi.
Châm xuống sáu phân một khi,
Ngải đốt tức thì mười bốn cho thông.
Lại cứu lấy huyệt Nhân trung,
Cùng Thừa tương huyệt làm xong chớ chầy.
Huyệt ở dưới cằm bằng nay,
Ở trên hàm khuất (cong) khi nay những là.
Châm đến một phân chớ ngoa,

1530. Đốt làm bảy tráng vậy hòa cho thông.
Tìm ra tay ấy làm xong,
Lấy giữa ngấn chỉ giáp cùng Đại lăng.
Lại bảo cho biết ấy rằng,
Ngay kẽ xương út thường hằng đem lên.
Ẩy Thần môn huyệt là tên,
Châm xuống đến huyệt cho liền một phân.
Ngải đốt mười bốn mấy nhuần,
Hai tay cũng vậy cho cân đến rày.

13. Chữa điên cuồng hoảng hốt, mất trí khôn.
Đều dùng:

K13. Nhân trung, Bách hội (xem ở trên).

K13. Thần đình: Huyệt ở thẳng chân tóc trước trán đi vào 5 phân, cứu 3 mồi, cấm châm.

(P) Cùng cốt: 1 huyệt trên huyệt Trường cường, chỗ tận đầu chốt đuôi xương tủy (xương cùng) cứu 14 mồi.

K14. Cự khuyết: Huyệt ở thẳng trên rốn 6 thốn, châm 6 phân, cứu 7 đến 49 mồi.

K13. Đại chùy: Ở chỗ lõm trên đốt xương sống thứ nhất, châm 5 phân lưu 7 hô cứu mỗi tuổi một mồi.

K5. Thần môn: 2 huyệt ở chỗ lõm đầu chót xương ngoài sau bàn tay [gần chỉ ngang cổ tay phía ngón út, bàn tay ngửa].

K13. Thân trụ: Huyệt ở dưới đốt xương sống thứ ba, cúi mà lấy huyệt. Châm 1 phân, cứu 7 mồi.

K14. Thừa tương: Ở chính giữa rãnh môi dưới.

K3. Xung dương: Ở chỗ cao trên mu bàn chân, nơi có động mạch.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 08, 2018, 10:29:38 AM
Mục 14

Kìa ai phải chứng động kinh,

1540. Cứu huyệt Thần đình cùng Bách hội nay.
Đại chùy một huyệt thở rày,
Cùng cốt một huyệt khi nay mà lường.
Lại cứu Cự khuyết một khi,
Cùng Đản trung huyệt mà suy cho cần.
Lại cứu Khí hải mấy nhuần,
Cùng Hợp cốc huyệt lại nhuần cho thông.
Lại cứu lấy huyệt Thái xung,
Cùng Hành gian huyệt làm xong thuở rày.
Lại cứu Tam lý huyệt nay,


1550. Lại bảo ngày rày cho biết hòa suy.
Có người phải bệnh một khi,
Phút chốc liền ngã vậy thì chẳng hay.
Ấy chứng Âm kiểu bằng nay,
Ta cứu Chiếu hải huyệt rày làm song.
Huyệt dưới mắt cá bên trong,
Lấy huyệt Thân mạch cho xong đấy rày.
Có người phát những ban ngày,
Thân mạch, Chiếu hải huyệt rày cứu đi.

14. Chữa trẻ em kinh phong, tay chân rung giật, chảy rãi nguy cấp.

Các huyệt Thần đình, Khí hải, Đản trung, Khí xung, Thần môn, Nhân trung (xem ở các mục trên).

K2. Hợp cốc: (xem mục 6 ở trên) châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K3. Túc tam lý: (xem mục 6 ở trên) châm 1 phân, cứu 3 mồi.

K12. Hành gian: (xem mục 8 ở trên) châm 6 phân, lưu 10 hô, cứu 3 mồi.

K13. Thân trụ: (xem mục 1 ở trên) châm 5 phân, cứu 49 mồi.

K7.Thân mạch: (xem mục 1 ở trên) dùng cho trường hợp bệnh phát ban ngày do mạch Âm kiểu sinh ra, châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K8. Chiếu hải: 2 huyệt ở dưới mắt cá chân trong 1 thốn. Dùng cho trường hợp bệnh do mạch Dương kiểu sinh ra phát về ban đêm, châm 3 phân, cứu 3 hoặc 7 mồi.

K13 + Thần đạo: Huyệt ở khoảng dưới đốt xương sống thứ 5, cúi mà lấy huyệt, cứu 14 mồi. Trẻ em kinh phong thì cứu 7 mồi.

(a) + Tứ hoa ở đầu: Ở trước, sau và hai bên trái phải huyệt Bách hội cách ra 1 thốn. Kể cả Bách hội thì gọi là Ngũ hoa, cứu 49 mồi.

K14 + Cưu vỹ: (Huyệt đã nói ở trên) châm 3 phân lưu 3 hô, như người béo thì nên châm thêm. Dễ gây nguy hiểm.

K13 + Tích trung: Huyệt này cũng gọi là Thần thủ, ở khoảng dưới đốt xương sống thứ 11, cúi mà lấy huyệt. Châm 5 phân, cấm cứu, cứu thì còng lưng.

K7 + Tâm du: (Xem mục 5 ở trên) cấm châm, cứu 3 mồi.

K8 + Dũng tuyền: 2 huyệt ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân 1/3 về phía trước, co chân cong ngón chân lại mà lấy huyệt giữa vùng trũng, châm 1 phân, cứu 1 mồi.

K9 + Lao cung: (Xem mục 9 ở trên) cứu 3 mồi.

K6 + Hậu khê: 2 huyệt ở chỗ lõm đằng sau đốt xương thứ nhất cạnh ngoài ngón tay út, châm 1 phân, cứu 1 mồi.

K3 + Nội quan: 2 huyệt ở chỗ giữa sau bàn tay, cách cổ tay 2 thốn. Châm 3 phân, cứu 1 mồi.

(e) + Quỷ nhãn: (Xem mục 7 ở trên) cứu 3 mồi.

(i) + Quân dần: 2 huyệt ở đầu ngón tay út, buộc hai ngón lại với nhau mà cứu hai đầu, cứu 7 đến 14 mồi.

* Phương thuốc: Lấy xác rắn đốt ra tro, tán nhỏ, mỗi tháng uống hai lần, mỗi lần một đồng cân, uống với rượu vào ngày mồng một và ngày rằm âm lịch, uống cho đến khi không lên cơn nữa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 08, 2018, 10:46:59 AM
Mục 15

Này chứng thiên trụy (sa đỳ) kể ra,
Gọi danh sưng dái vậy hòa bằng nay.
Tức ngược lên rốn khốn thay,
Nằm ngồi chẳng được đêm ngày buôn muôn.
Ta tìm lấy huyệt Đại đôn,
Đầu ngón chân cái vậy khôn những là.
Bên góc móng chân chẳng xa,

1570. Bảo cho biết vậy ấy hòa mấy hay.
Góc ấy huyệt Đại đôn này,
Góc ấy Ẩn bạch huyệt rày cho thông.
Hai huyệt hai bên làm song,
Khử trảo giáp giác (mé góc móng) đều cùng cho yên.
Ta phỏng từ góc ấy nay,
Cách một lá hẹ vậy rày chính ngôi.
Châm xuống đến một phân rồi,
Ngải ta liền cháy 3 mồi bằng nay.
Lại cứu Đới mạch khi nay,

1580. Cứ xương sườn cụt đo rày hòa suy.
Đo đến xuống huyệt một khi,
Tám phân một thốn vậy thì phải thay.
Châm xuống một phân bằng nay,
Đốt trăm tráng ngải thuở rày kia ơi.
Ta lại cứu huyệt Quy lai,
Đo Thiên xu xuống chẳng sai chi là.
Đo lấy bảy (64) tấc chớ ngoa,
Ngải ta liền đốt vậy hòa năm viên.
Cứu bấy nhiêu huyệt cho yên,

1590. Nào huyệt Mỗ tự vậy liền ở đâu?
Lấy một cái dây chớ lâu,
Khiến miệng ngậm lấy chước mầu hào suy.
Hai mép đo bằng một khi,
Cắt ra ghép lại mép tày như in,
Bẻ ba ngấn ấy cho nên,
Bắt làm ba góc vậy liền phải thay.
Hình như “Mỗ tự” bằng nay,
Dàng như lưỡi cày ba góc song song.
Một góc đặt giữa tề trung (giữa rốn),

1600.Hai góc ở dưới đều cùng hòa thay.
Hai góc hai huyệt bằng nay,
Mực điểm làm dấu ngày rày hai bên.
Mực điểm làm dấu cho yên,
Bảo rồi biết ấy tự nhiên mấy mầu.
Lấy móng tay ta chớ lâu,
Bấm vào huyệt ấy cho đau đấy rày.
Đương khi bấm nó bằng nay,
Hút lấy hơi rày ba bận vào trong.
Châm lấy ba phân mấy thông,

1610. Ngải đốt hai bảy làm song những là.
Có người bên tả năng ra,
Thì cứu bên hữu vậy hòa bằng nay.
Có người bên hữu sa nay,
Thì cứu bên tả thuở rày cho yên.
Có người sa cả hai bên,
Thì cứu tả hữu tự nhiên càng mầu.
Cứu mấy nhiêu huyệt trước sau,
Lường mà châm cứu tu cầu hòa suy.

15. Chữa chứng bôn đồn đồi sán gọi là thiên trụy
(Hòn dái lệch sa)

K12. Đại đôn: 2 huyệt ở giữa đám lông, cạnh đầu ngón chân cái, cách móng bằng một lá hẹ. Châm 3 phân, lưu 6 hô, cứu 3 mồi.

K4. Ẩn bạch: 2 huyệt ở cạnh mé trong đầu ngón chân cái, cách móng bằng lá hẹ, châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K11. Đới mạch: 2 huyệt ở dưới rốn cuối sườn cụt 1 thốn 8 phân, châm 1 phân, cứu 3 mồi.

K3. Quy lai: 2 huyệt ở dưới huyệt Thiên khu 7 thốn (ở dưới rốn 4 thốn, ngang ra 2 thốn), châm 8 phân, cứu 5 mồi.

(K) Mỗ tự: (Xem tóm tắt phần 1) cứu 14 mồi hoặc 40 mồi.

* Chú thích: Huyệt Quy lai ở dưới huyệt Thiên khu 4 thốn, hay ngang huyệt Trung cực ở dưới rốn 4 thốn: Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 08, 2018, 10:51:44 PM
Mục 16

Này chứng háo hống kể ra,

1620. Tục là hen tật vậy hòa cho hay,
Trước cứu Thiên đột bằng nay.
Cứ Tuyền cơ huyệt ngày rày ở đâu?
Lại bảo cho biết chước mầu,
Đo Thiên đột xuống chớ lâu chi là.
Đo xuống một tấc chớ ngoa,
Mực điểm làm dấu để hòa nhớ ghi.
Châm đến một phân một khi,
Ngải ta liền đốt tức thì bảy trang.
Cứ Tuyền cơ huyệt đo ngang,

1630. Một bên hai tấc lưỡng bàng cho công.
Hai bên bốn tấc làm song,
Ấy Du phủ huyệt cho thông đấy rày.
Châm đến một phân bằng nay,
Ngải đốt phép rày mười bốn cho thông.
Lại cứu lấy huyệt Đản trung,
Cùng Trực cốt huyệt song song những là.
Ngải đốt như tiền (trước) chớ ngoa,
Đoạn lui vậy hòa cứu huyệt Phế du.
Cứu bấy nhiêu huyệt toàn no (đủ),

1640. Tự nhiên bệnh đỡ chớ lo chẳng hèo.
Lại luận làm thuốc một liều,
Cho nó uống vào khu trục đờm ra.

16. Hen suyễn, thở gấp, ngực bụng đầy hơi, gan trướng không nằm được, đờm rãi khí rược lên nghẹn tắc.

K14. Thiên đột: Huyệt ở giữa chỗ trũng dưới cổ họng 1 thốn Châm 5 phân, lưu 3 hô, cứu 7 mồi.

K14. Tuyền cơ: Huyệt ở giữa chỗ lõm dưới huyệt Thiên đột 1 thốn, ngẩng đầu lên mà lấy huyệt. Châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K8. Du phủ: 2 huyệt ở dưới xương đòn gánh, chỗ lõm, cách huyệt Tuyền cơ ngang ra 2 thốn. Ngẩng đầu lên mà lấy huyệt. Châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K14. Đản trung: (Xem mục 3 ở trên) cứu 14 mồi, cấm châm.

K3. Túc tam lý: (Xem mục 5 ở trên) châm 1 phân, cứu 14 mồi.

K1 + Thái uyên: 2 huyệt ở chỗ lõm (bên cạnh xương quay) sau bàn tay phía thẳng chót ngón tay cái vào. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.

* Các huyệt Trực cốt, Phế du: xem mục 5 ở trên.

Phương thuốc: Thăng ma (dùng nước sắc Ma hoàng rửa rồi nướng), Thương truật, Long não tán nhỏ, Nhân ngôn (65) tẩm giấm nướng, nấu nhiều lần, tán nhỏ, viên với hồ, mỗi lần uống 10 viên, với nước gừng hay nước chanh, vào những ngày gần lên cơn hen.

Thuốc viên cho nôn ra đờm: Nhân ngôn, Tử tô tán nhỏ, lấy một con cá diếc bỏ ruột, cho thuốc vào trong bụng cá, rồi lấy một đoạn ống tre non, cho cá vào trong, lấy đất bùn bịt kín miệng lại, đốt ống tre cho lâu, đến khi cá ở trong chưng lên sắc vàng thì lấy ra, tán nhỏ, viên với hồ bằng hột đậu xanh, tùy theo tuổi thêm bớt liều mà dùng, người lớn dùng 4 - 5 viên, trẻ con 2 - 3 viên (66), không thể uống quá liều, dùng lá táo giã ra, vắt lấy nước cốt mà uống với thuốc.

* Chú thích mục 16:

(65) Thạch tín, Phê sương (Aseniơ) thuốc độc (bảng A) làm chết người, rất nguy hiểm!

(66) Liều dùng uống cho người lớn (phối hợp với các vị khác) nhiều nhất mỗi lần 0,002g, mỗi ngày 0,004g. Nhưng dù liều ít, uống lâu ngày, nhiều lần, chất độc tích lũy lại cũng rất nguy hại về sau. Không nên dùng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 09, 2018, 10:27:10 AM
Mục 17

Này chứng cước khí kể ra,
Hoặc là nóng lạnh vậy hòa cho hay.
Có người đầu gối đau nay,
Cùng dưới mắt cá đau rày làm song.
Có người lưỡng cước thũng hồng (hai chân sưng đỏ),
Sưng đỏ hàn hất đau dòng (nhức) thuở này.
Có người năm ngón chân nay,

1650. Đau đau nhức nhức khốn thay những là.
Hình như búa chọc lò qua,
Nóng rát vậy hòa dưới gót bàn chân.
Ấy là cước khí mà nhuần,
Xem cho biết ấy hòa phân huyệt rày.
Lấy huyệt Độc tị bằng nay,
Huyệt ở đầu gối thực rày cho yên.
Bốn huyệt Quỷ nhãn hai bên,
Độc tị ở giữa ngồi bày liền nhau.
Lại lấy Tất quan trước sau,

1660. Đo Độc tị xuống tu cầu hòa suy.
Đo xuống hai tấc (thốn) một khi,
Huyệt ấy vậy thì ở giữa khớp xương.
Ngải đốt mười bốn cho tường,
Đoạn ta lại lường lấy huyệt Ủy trung.
Bảo nó đứng dậy cho xong,
Xem dây ngấn trạng cho thông thuở này.
Lấy giữa ngấn dây bằng nay,
Lường xem dấu đấy lấy rày làm ghi.
Lại bảo trước ấy mà suy,

1670. Tay ta liền án như y kinh (sách) truyền.
Huyệt ấy có mạch động lên,
Lấy huyệt giữa mạch mấy nên những là.
Châm cho đến máu chảy ra,
Thủ kỳ kinh huyệt vậy hòa mấy hay.
Huyệt bất khả cứu (cấm cứu) bằng nay,
Trong kinh (sách) cho cứu ngải rày ba viên.
Lại lấy huyệt Dương lăng tuyền,
Đoạn ta vậy liền lại lấy Thái xung.
Lại lấy Thân mạch làm song,

1680. Cùng Chiếu hải huyệt cho thông những là.
Côn lôn huyệt ấy bao xa?
Ở ngoài mắt cá vậy hòa chân nay.
Huyệt bên sau mắt cá rày,
Bên trên xương gót nơi rày hãm trung (chỗ lõm).
Châm đến một phân chớ lâu,
Ngải đốt mười bốn mấy hầu đủ trang (mồi).
Ta lại lấy huyệt Công tôn,
Ở ngón chân cái chẳng khôn (khó) những là.
Cứ bản tiết hậu (sau khớp xương) chẳng ngoa,

1690. Hiệu là nội trắc (mé trong) vậy hòa phải thay.
Đo lên mé đốt vào ngay,
Lường lấy một tấc (thốn) lượng này làm ghi.
Cứ ngay cạnh xương một khi,
Chớ cao cao quá cũng đừng xuống xa.
Cùng có mạch máu đi qua,
Đo giữa mạch động vậy hòa phải thay.
Châm đến bốn phân bằng nay,
Ngải đốt thuở rày một bày cho yên.
Ta lại lấy huyệt Dũng tuyền,

1700. Giữa gan chân ấy vậy liền phải thay.
Bảo nó gấp ngón chân nay,
Giữa ngần trũng ấy huyệt này chính trung.
Châm đến năm phân cho thông,
Ngải ta mỗi huyệt thì cùng năm trang.

17. Chân gối đau nhức hoặc nóng hoặc lạnh, hai mắt cá sưng đỏ, mười ngón chân đau không thể bước được.

K13. Độc tị: 2 huyệt ở dưới xương bánh chè đầu gối giáp giữa gân to. Nếu Độc tị bị cứng thì chớ dùng, phải rửa chườm cho mềm dần thì chóng khỏi.

(e). Quỷ nhãn: (Xem mục 7 ở trên).

K12. Tất quan: 2 huyệt ở dưới Độc tị 2 thốn, châm 4 phân, cứu 5 mồi.

K7. Ủy trung: 2 huyệt ở giữa khoeo chân, chỗ lằn chỉ có động mạch, lấy tay ấn ba lần, châm cho ra máu để lấy huyết ở kinh mạch ấy ra thì khỏi ngay, cứu 3 mồi.

K12. Thái xung:  (Xem mục 8 ở trên).

K7. Thân mạch:  (Xem mục 1 ở trên). Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K8. Chiếu hải:  (Xem mục 14 ở trên). Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K4. Công tôn: 2 huyệt, ở sau đốt xương thứ nhất, phía trong ngón chân cái 1 thốn, giữa chỗ lõm sau huyệt Thái bạch 1 thốn. Châm 3 phân, cứu 3 đến 7 mồi thôi.

K8. Dũng tuyền:  (Xem mục 14 ở trên). Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K11 + Dương lăng tuyền:  (Xem mục 9 ở trên).

K3 + Túc tam lý:  (Xem mục 5 ở trên). Châm 1 phân, cứu 21 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 09, 2018, 03:48:35 PM
Mục 18

Này chứng hoắc loạn kể ra,
Thượng thổ hạ tả vậy hòa khốn thay.
Lại thêm chuyển gân bằng nay,
Chân tay giật hết buồn rày chẳng yên.
Trước cứu lấy huyệt Hạ quản,

1710. Cùng Thần khuyết huyệt thiên ban càng mầu.
Lại thêm cánh tay chớ lâu,
Cứu Khúc trì huyệt cho mau những là.
Thừa cân huyệt ấy ai qua,
Huyệt ấy vậy hòa ở dưới bắp chân.
Bảo nó ngồi thấp mà nhuần,
Hai chân duỗi thẳng cho cân ngày rày.
Tức thì ta liền lấy ngay,
Sờ trong gân cốt liền ngay mà lường.
Xem thấy thịt nồi làn tay,

1720. Hiệu là phân nhục ấy rày phải thay.
Nào nơi cao thịt bằng nay,
Ta lấy chính huyệt xuống rày hãm trung (giữa lõm).
Ngải đốt bảy mồi làm song,
Châm xuống đến huyệt cho cùng bảy phân.
Hoặc là châm huyệt Thừa cân,
Ấy huyệt ở giữa gót (67) chân thuở rày.
Thừa sơn ở dưới khi nay hòa lường,
Thừa cân chính giữa trung ương.

1730. Lấy cho phải huyệt một đường mấy thông,
Huyệt ấy cấm cứu (67b) làm song,
Mỗi huyệt ngải đốt đều cùng bảy trang.
Lại bảo lấy huyệt Hợp dương,
Cứ ngấn chỉ trạng đo lường xuống nay.
Đo lấy hai tấc khi này,
Chủ trị Tất thống (đau gối) cùng rày hành toan (68).
Ngải đốt hai bảy cho an,
Châm xuống đến huyệt tuần hoàn sáu phân.
Như bệnh hoắc loạn chuyển gân,

1740. Hợp dương: Bất dụng (không dùng) hòa thuần cho minh.

18. Hoắc loạn trên thổ dưới tả, chuyển gân

K14. Thần khuyết: (Xem mục 14 ở trên) cấm châm, cứu 100 mồi.

K14 + Thượng quản: Huyệt ở trên rốn 5,5 thốn (5 thốn), châm 8 phân, cứu 21 đến 100 mồi.

K14. Hạ quản: (Xem mục 8 ở trên).

K2. Khúc trì: (Xem mục 6 ở trên), châm 7 phân, cứu 3 mồi. Trường hợp chuyển gân tay thì dùng.

K7. Thừa sơn: 2 huyệt ở dưới bắp chân, giữa chỗ lõm nơi rẽ. Châm 3 phân, cứu 5 mồi. Chuyển gân chân thì cứu huyệt này.

K7 + Ủy trung: (Xem mục 17 ở trên).

K7. Hợp dương: 2 huyệt ở dưới gối phía trong 2 thốn (cách huyệt Ủy trung 2 thốn), châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K7. Thừa cân: 2 huyệt, ở chỗ lõm chính giữa bụng chân. Cấm châm, cứu 3 mồi.

* Chú thích mục 18:

(67). Huyệt Thừa cân ở giữa bụng chân (sách chép nhầm là gót chân): Đính chính.

(67b). Theo phần 1 ở trên, huyệt Thừa cân không phải cấm châm hay cấm cứu, 2 từ "cấm cứu" đã chép nhầm.

(68). Hành toan là xương ống chân đau mỏi (nguyên bản đã chép nhầm là hành đàm): Đính chính


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 10, 2018, 04:01:40 PM
Mục 19

Nào bệnh đau mắt kể ra,
Cứu Thượng tinh huyệt vậy hòa phải thay.
Toản trúc huyệt ở đầu mày,
Xa miền sống mũi thuở này ngay lên.
Châm đến một phân cho yên,
Ngải đốt cho liền một bảy chớ ngoa.
Tình minh huyệt ở đâu xa?
Ở mé con mắt vậy hòa bên trong.
Châm đến một phân mấy thông,

1750. Ngải ta liền đốt thì cùng ba trang.
Ta lại lấy huyệt Đồng liêu,
Huyệt ở chỗ nào cho biết khi nay?
Huyệt ở mé ngoài mắt này,
Lại bảo cho biết huyệt này mấy thông.
Lấy huyệt ngừa phạm nhãn đồng (tròng mắt),
Tình minh cũng vậy làm song những là.
Châm xuống một phân chớ ngoa,
Ngải đốt vậy hòa huyệt rày bảy viên.
Lại cứu Hợp cốc cho yên,

1760. Nào Tiền cốc huyệt vậy liền ở đâu?
Tìm ngón tay út cho mau,
Cho song nắm lại chớ lâu chí là.
Có ba đốt xương giò ra,
Ta lấy đốt giữa vậy hòa mé bên.
Gọi là ngoại trắc tiết tiền,
Lấy huyệt áp liền mé đốt làm song.
Ngoại trắc tiết hậu (sau đốt xương mé ngoài ở đâu),
Có huyệt Lâm khấp lẽ cùng như nhau.
Ngải đốt ba tráng chớ lâu,

1770. Châm xuống đến huyệt cho hầu một phân.
Lâm khấp huyệt ấy dưới chân,
Xem hình ngón út mà nhuần khi nay.
Cứ bản tiết hậu (sau khớp xương) vào ngay,
Đo lấy một tấc (thốn) mực rày làm ghi.
Huyệt ấy mé xương một khi,
Gân ấy vậy thì đằng ngón út lên.
Châm xuống hai phân cho yên,
Ngải đốt cho liền nhất ngũ (5 mồi) làm song.

19. Đau mắt đỏ màng che, ngứa và chảy nước mắt đều chữa

K13. Thượng tinh: (xem mục 1 ở trên) cứu 7 mồi, không nên cứu nhiều.

K2. Hợp cốc: (xem mục 6 ở trên) châm 1 phân, lưu 6 hô, cứu 3 mồi. Có thai kiêng dùng.

K7. Toản trúc: 2 huyệt ở chỗ lõm hai đầu lông mày, châm 1 phân, lưu 3 hô, không nên cứu. Lấy kim tam lăng nhỏ mà châm. Có sách nói có thể cứu 3 mồi.

K7. Tình minh: 2 huyệt, ở phía góc trong đầu mắt (chỗ lõm) châm 1 thốn 8 phân (?) [nội dung nguyên tắc nói không châm quá 1 phân] lưu 5 hô, cấm cứu. Có sách nói cho cứu 3 mồi.

K11. Đồng tử liêu: 2 huyệt ở ngoài đuôi mắt 5 phân, châm 2 phân, cứu 3 mồi.

K6. Tiền cốc: 2 huyệt ở mé ngoài ngón tay út, chỗ lõm của đốt xương /thứ nhất/. Châm 1 phân, cứu 1 mồi.

K11. Lâm khấp (69): 2 huyệt ở chỗ lõm sau đốt xương ngón chân thứ tư mé ngón chân út. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.

* Bổ sung thêm 4 huyệt: Khúc trì, Phong trì, Tam lý, Thái dương, đều đã nói ở trên.

* Chú thích mục 19:

(69). Nghi là huyệt Lâm khấp ở đầu là chính. Huyệt này ở thẳng giữa con ngươi đi lên vào trên chân tóc trước trán 5 phân. Còn huyệt Túc lâm khấp ở chân thường chủ trị hoa mắt, hoặc có thể phối hợp chữa đau khóe mắt ngoài mà ít khả năng chuyên trị các chứng đau mắt khác.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 10:44:59 AM
Mục 20

Này chứng tủng nhĩ (tai điếc) kể ra,

1780. Hiệu (gọi) là tai điếc vậy hòa cho hay.
Trong tai như sấm động nay,
Có người thuở này dường tựa ve kêu.
Nhân chưng hư thận tại yêu (eo lưng),
Khí huyết bất điều thành tật bằng nay.
Có người ở trong tai này,
Hoặc đau nhức, chảy nước rày mủ ra.
Lấy huyệt Nhĩ môn kia là,
Huyệt ấy vậy hòa bên ngoài cửa tai.
Tay sờ chỗ trũng chẳng sai,

1790. Huyệt có động mạch mựa (chưa) tài lấy lên.
Mực điểm làm dấu cho yên,
Châm xuống cho liền phỏng tựa một phân.
Ngải đốt mười bốn mấy nhuần,
Đoạn ta lại nhuần lấy huyệt Thính cung.
Huyệt ở chỗ tai bên trong,
Xem châu tử (nhĩ châu) nó làm xong thuở rày.
Hình như hạt ngọc khi nay,
Bằng hạt đậu nhỏ nở rày dăng ra.
Lấy xuống huyệt ấy cho xa,

1800. Lường vào ngay lỗ tai hòa phải thay.
Đốt lấy ba tráng ngải rày,
Đoạn lui thuở này lấy huyệt Ế phong.
Xem bên sau tai làm song,
Áp nơi chỗ góc trũng nay cho tường.
Ấn vào chỗ trũng một dường,
Trong tai đau nhói ấy phương huyệt rày.
Châm đến một phân mấy hay,
Ngải đốt ngày rày một bảy cho song.
Ta lại cứu huyệt Thận du,

1810. Cùng Tam lý huyệt chính đồ trị chi.

20. Chữa tai ù, tai điếc đều dùng:

K10. Nhĩ môn: 2 huyệt, ở chỗ thịt giô trước tai ngang chỗ tai khuyết. Châm 1 phân, lưu 3 hô, cứu 7 mồi.

K6. Thính cung: 2 huyệt ở chỗ lõm trước nhĩ châu, châm 1 phân, cứu 3 mồi.

K10. Ế phong: 2 huyệt ở chỗ lõm sau dái tai, ấn vào chỗ ấy thì đau xiên vào trong tai. Châm 1 phân, cứu 7 mồi.

K7. Thận du: (Xem mục 6 ở trên) cứu mỗi tuổi một mồi.

K3. Tam lý: Đã nói ở trên.

+ Khúc tân: 2 huyệt ở chỗ ngang trên chót tai, ấn sát vào đầu mà lấy huyệt, cứu 3 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 11:03:43 AM
Mục 21

Kìa ai trướng mãn phúc trung,
Hiệu là đầy bụng cho thông chứng rày.
Ăn vào lại mửa ra ngay,
Nhân chưng con Vị (Dạ dày) chẳng sai những là.
Cứu huyệt Đản trung chớ ngoa,
Cùng Thượng quản huyệt vậy hòa cho minh.
Ta lại cứu huyệt Trung đình,
Cùng Hạ quản huyệt mấy linh nghiệm rày.
Nào huyệt Thái bạch đâu nay?

1820. Ở ngón chân cái ngày rày bên trong.
Cứ bản tiết hậu cho thông,
Lấy ngay ở dưới làm song cho tường.
Thịt đỏ thịt trắng hai phương,
Huyệt điểm lấy giữa một dường phải thay.
Châm đến một phân bằng nay,
Ngải đốt ngày rày mỗi huyệt năm trang.

21. Chữa bụng đầy không muốn ăn, ăn vào thì mửa ra:

K14. Đản trung: (Xem mục 3 ở trên) cấm châm, cứu 7 mồi.

K14. Thượng quản: (Xem mục 18 ở trên) châm 1 phân, cứu 14 đến 100 mồi.

K14. Trung quản: (Xem mục 8 ở trên) châm 8 phân, lưu 7 hô, cứu 14 đến 100 mồi.

K14. Trung đình: (Xem mục 3 ở trên) châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K14. Hạ quản: (Xem mục 4, 8 ở trên).

K4. Thái bạch: 2 huyệt ở chỗ lõm phía sau đốt xương /thứ nhất/ mé trong ngón chân cái. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 11:45:12 AM
Mục 22

Kìa ai thoát giang (lòi dom) lạ sao,
Ta cứu huyệt nào thu được dom lên.
Lấy huyệt Bách hội ở trên,

1830. Cùng Mệnh môn huyệt cho yên thuở rày.
Lại cứu huyệt Trường cường nay,
Này khỏi lỗ đít ngày rày cho thông.
Trường cường ở dưới xương cùng,
Bên trên lỗ đít làm song những là.
Ta liền lấy giữa chớ ngoa,
Mực điểm làm dấu vậy hòa kể đi.
Châm vào một phân một khi,
Ngải đốt vậy thì cho hai bảy tao (14 mồi).
Lại cứu Trung cực hay sao,

1840. Ngải đốt ba bảy châm vào ba phân.

22. Đại tràng hư lạnh, lòi dom không thu vào được:

K13. Bách hội: (Đã nói ở trên).

K13. Mệnh môn: Huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 14, cúi mà lấy huyệt. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

K13. Trường cường: Huyệt ở chót xương cùng /chỗ lõm ở khoảng giữa đầu mút xương cùng và hậu môn/. Châm 2 phân, cứu 30 đến 100 mồi. Chổng mông mà lấy huyệt.

K14. Trung cực: (Xem mục 4 ở trên).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 06:22:06 PM
Mục 23

Này đoạn tiểu nhi kể ra,
Các chứng cho biết vậy hòa mấy hay.
Mới sinh được ba bốn ngày,
Hoặc là hai bảy ngày rày chẳng yên.
Vợ chồng năn nỉ kêu van,
Con nó chẳng biết vì chưng thế nào.
Đêm ngày nó những khóc gào,
Năm canh chẳng ngủ khôn (khó) sao những là.
Mời thầy mở sách xem ra,

1850. Hoặc có phải tà nó quấy con tôi.
Thầy rằng chẳng lệ (gở) chi nuôi,
Ta cứu một mồi tẩn ngẩn cắt thân.
Lấy huyệt thừa tương cho cần,
Châm vào cho đến một phân thuở rày.
Một viên bằng phân rơi nay,
Ngải đốt ngày rày cho đủ làm song.

23. Chữa trẻ con khóc đêm không bú:

K14. Thừa tương: (Xem mục 13 ở trên).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 06:35:54 PM
Mục 24

Này là tiểu nhi kinh phong,
Chân tay giật hết giồ rung khi này.
Lại thêm cấm khẩu bằng nay,

1860. Mắt thì trực thị ngày rày ngược lên.
Hình như đã chết tự nhiên,
Nước rãi nhầy nhớt hai bên nước hàm.
Hiệu là Càn sát càn bà (ma quan sát),
Nào ai có biết bệnh hòa kinh phong.
Cứu Bách hội huyệt cho thông,
Ngải tày phân sẻ đốt tày ba trang.
Xem nơi nó bú cho yên,
Lấy Phục nguyên huyệt bên trên những là.
Lấy mé thịt đen chớ xa,

1870. Ngay xuống vậy hòa Trực cốt huyệt nay.
Trên huyệt Phục nguyên khi nay,
Ngải tày phân sẻ đốt rày ba trang.
Bảo cứu huyệt ấy cho tường,
Nam tả nữ hữu phải phương kẻo nhầm.

24. Chữa trẻ con kinh phong, chân tay co giật, cắn răng trợn mắt:

K13. Bách hội: (Xem mục 6 ở trên).

(1) Phục nguyên: 2 huyệt, ở trên vú tận chỗ thịt đen, đối với huyệt Trực cốt /ở dưới/, nam dùng bên tả, nữ dùng bên hữu. Cứu 3 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 12, 2018, 06:39:54 PM
Mục 25

Kìa ai nóng rét bằng nay,
Hoặc phải cách nhật, hoặc rày liên chi.
Hoặc có đau đầu một khi,
Càng thêm nháy mắt vậy hòa khốn sao.
Chứng ấy ta cứu huyệt nào?

1880. Cứu Thượng tinh huyệt bảo tao trên đầu.
Khiến nó đứng dậy chớ lâu,
Hai bàn chân lại kề nhau cho bằng.
Tức thì lấy cái thích thằng (dây),
Quàng lấy hai gót cho năng thuở này.
Đo vi nhiễu (vòng quanh) dây chân nay,
Chập lại ngày rày đến ngón cái chân.
Hai đầu giáp lại cho cân,
Lấy dao cắt hẳn hòa phân hai đầu.
Đem lại sau lưng chớ lâu,

1890. Quàng ngang trước cổ lẽ màu hòa suy.
Hai đầu rủ xuống một khi,
Chung lại làm một vậy thì bằng nhau.
Rủ ngay xương sống đến đâu,
Mực điểm áp đầu dây ấy chớ xa.
Hoặc đương nóng rét kia là,
Lấy huyệt khi tỉnh vậy hòa mấy hay.
Đợi cơn nó sốt đến nay,
Ngải ta liền đốt thuở rày ba trang.
Danh gọi là huyệt Bối lam,

1900. Chủ trị ngược tật (sốt rét) thường thường hay chi.
Hoặc có người sốt lâu ghê,
Thích (dây) đo hai đầu nuốm vú kia ơi.
Cắt ra chập lại chung đôi,
Ta bẻ lấy nửa, nửa rồi bỏ đi.
Đặt xuống nuốm vú một khi,
Đo thẳng liền xuống vậy thì đều nhau.
Mực điểm dây ấy áp đầu.
Bẩy trang ngải đốt chớ lâu chi là,
Tiên hiền người đã dạy ta

1910. Nam thì cứu tả, nữ hòa hữu nay.
Cùng cứu huyệt Hợp cốc tày,
Lấy y như trước thuở này mấy thông.
Hoặc là sốt rét làm song,
Cứu Đại chùy huyệt liền cùng Bách lao.

25. Chữa sốt rét cơn lâu năm hay mới phải, đều dùng:

K13. Thượng tinh: (Xem mục 1 ở trên) dùng kim tam lăng nhỏ mà châm, cứu 7 mồi.

(n) Bối lam: Bảo người bệnh đứng thẳng, hai bàn chân để sát nhau, dùng một sợi dây quây vòng quanh hai bàn chân đến đầu ngón chân cái, lấy dao cắt đi. Rồi đem dây ấy quàng trước cổ cho hai đầu múi dây thòng về sau lưng, chập hai múi đầu dây vào giữa xương sống đến đâu là huyệt ở đấy.

(m) Nhũ ảnh: Huyệt này, dùng một sợi dây (rơm) đo khoảng hai đầu vú, cắt lấy một nửa (tức đến huyệt Đản trung), để đo từ nuốm vú thòng xuống đến đâu là huyệt ở đấy. Nam cứu bên tả, nữ cứu bên hữu, cứu 3 mồi.

K2. Hợp cốc: (Xem mục 6 ở trên) châm 5 phân, cứu 7 mồi.

K13. Đại chùy: (Xem mục 13 ở trên) châm 5 phân, lưu 3 hô, cứu mỗi tuổi một mồi.

(b) Bách lao: (Xem mục 5 ở trên) châm 5 phân, cứu 7 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 14, 2018, 03:23:36 PM
Mục 26

Kìa ai nằm thường chiêm bao,
Đêm đêm nhấp thấy quỷ giao dâm cùng.
Ăn ở như hình vợ chồng,
Khiến tinh bất cấm (tiết ra) làm song những là.
Cứu huyệt Cao hoang trừ tà,

1920. Cùng Quỷ nhãn huyệt vậy hòa phải thay.
Cùng huyệt Gian sử bằng nay,
Cùng Thận du huyệt thuở rày cho yên.
Lại huyệt Trung Cực cho an,
Cùng Nhiên cốc huyệt phép tiên như thần.
Lại tả Tam lý cho cần,

1926. Cùng huyệt Khí hải vân vân những là.

26. Chữa nằm ngủ thấy mê giao cấu và xuất tinh
(Mộng tinh)

K7. Cao hoang: (Xem mục 5 ở trên) cứu 100 đến 300 mồi.

K14. Trung cực: (Xem mục 4 ở trên) châm 8 phân, lưu 10 hô, cứu 100 đến 300 mồi.

(e) Quỷ nhãn: (Xem mục 7 ở trên).

K9. Giản sử: (Xem mục 7 ở trên) châm 3 phân, cứu 5 mồi.

K14. Khí hải: (Xem mục 4 ở trên).

K7. Thận du: (Xem mục 5 ở trên).

K10. Nhiên cốc: 2 huyệt ở giữa chỗ lõm dưới xương trước mắt cá trong. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

K3. Túc tam lý: (Xem mục 5 ở trên) châm 1 phân, cứu 7 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 15, 2018, 09:57:40 AM
Tóm tắt phần 2
(Của người dịch)

 Tổng hợp việc dùng huyệt chữa bệnh theo các mục (*) trong thiên "Tổng luận kinh sử chư bệnh dụng huyệt quốc ngữ ca".

1. Nhức đầu, nhức óc, chóng mặt:

Thượng tinh (13), Bách hội (13), Tứ hoa ở đầu (a), Phong trì (11), Phong phủ (13), và tả Thân mạch (7).

Thái y viện Hậu Lê thêm: Thừa quang (7), Thái dương (ngoài kinh) (a), Thần đình (13), Não hộ (13).

2. Đau đầu cứng gáy, đau vai mỏi cổ:

Phong trì (11), Đại chùy (13), Bách lao (ngoài kinh) (b), Đại trữ (7).

Bổ sung: Kiên ngung (2), Kiên tỉnh (11).

3. Đau mỏ ác, nhức nhói ở hông sườn:

Đản trung (14), Trung đình (14), Đại lăng (9), Nội quan (9), Thiên ứng (châm cứu trên chỗ đau).

Bổ sung: Kỳ môn (12), Tâm khí (c).

4. Đau bụng đi tả, kiết lỵ mót rặn, đại tiện táo kết:

Hạ quản (14), Thủy phân (14), Khí hải (14), Quan nguyên (14), Trung cực (14), Thiên xu (3).

Bổ sung: Thổ tả hoắc loạn thì cứu thêm huyệt Thần khuyết (đổ muối lấp đầy rốn, cứu lên trên).

5. Lao truyền nhiễm, ho thổ huyết, mọi chứng hư tổn gày gò vàng võ, mỏi mệt kém ăn mất ngủ, phiền nhiệt, mồ hôi trộm:

Bách lao (b), Cao hoang (7), Tứ hoa sau lưng (d), Mệnh môn (13), Khí hải (14), Thiên đôt (14), Đản trung (14), Trực cốt (đ), Túc tam lý (3), Phế du (7), Thận du (7).

Bổ sung: Tâm du (7).

6. Trúng phong bại liệt nửa người, méo mồm lệch mắt, cắn răng không nói:

Bách hội (13), Thượng tinh (13), Nhân trung (13), Kiên ngung (2), Khúc trì (2), Hợp cốc (2), Hoàn khiêu (11), Phong thị (11), Dương lăng tuyền (11), Tuyệt cốt (11), Túc tam lý (3), Tam âm giao (4), Địa thương (14), Giáp xa (3).

Bổ sung: Á môn (13).

7. Phụ nữ kinh nguyệt không đều, ngủ hay mê mộng, sinh đẻ khó nuôi:

Cao hoang (7), Gản sử (9), Quỷ nhãn (e).

Bổ sung: Khí hải (14), Trung cực (14), Tử cung (ngoài kinh) (g), Tam âm giao (4), Túc tam lý (3), Quỷ khốc (h), và một phương thuốc xông.

8. Phù thũng, trướng đầy:

Khí hải (14), Trung quản (14), Hạ quản (14), Khúc trì (2), Hợp cốc (2), Nhân trung (13), Thái xung (12), Hành gian (12), Chương môn (12), Tam âm giao (4), Nội đình (3), Túc tam lý (3).

9. Phong thấp, đau nhức, tê dại:

Kiên ngung (2), Khúc trì (2), Đại lăng (9), Trung trữ (10), Quỷ nhãn (e), Hoàn khiêu (11), Túc tam lý (3), Điều khẩu (3), Phong thị (11), Lao cung (9), Ngoại quan (10).

Bổ sung: Âm lăng tuyền (4), Dương lăng tuyền (11), Tam âm giao (4), Thái xung (12), Côn lôn (7), Thái khê (7+1=8), Đại đôn (12), Thận du (7).

10. Kinh nguyệt không đều, trước và sau khi thấy kinh đau bụng, rũ mỏi tiểu tiện không thông:

Thiên xu (3), Quan nguyên (14), Trung cực (14), Khí hải (14), Tử cung (g), Thận du (7), Túc tam lý (3), Tam âm giao (4).

11. Xích bạch đới (khí hư) gầy xanh:

Bách hội (13), Thận du (7), Quan nguyên (14), Khí hải (14), Trung cực (14),  Tam âm giao (4), Túc tam lý (3).

12. Sau khi đẻ, máu hôi ra không dứt:

Thủy phân (14), Cao hoang (7), Quan nguyên (14), Tam âm giao (4).

13. Điên cuồng hoảng hốt:

Bách hội (13), Thần đình (13), Cùng cốt (p), Đại chùy (13), Thân trụ (13), Nhân trung (13), Cự khuyết (14), Thừa tương (14), Thần môn (5), Đại lăng (9).

Bổ xung: Xung dương (3).

14. Động kinh và trẻ kinh phong, co giật, chảy rãi:

Nhân trung (13), Bách hội (13), Thần đình (13), Cùng cốt (p), Đại chùy (13), Đản trung (14), Cự khuyết (14), Khí hải (14), Hợp cốc (2), Thần môn (5), Túc tam lý (3), Thái xung (12), Hành gian (12), Chiếu hải (7+1=8), Thân mạch (7).

Bổ sung: Thần đạo (13), Tích trung (13), Cưu vỹ (14), Lao cung (9), Tứ hoa ở đầu (a), Quân dần (i), Quỷ nhãn (e), và một phương thuốc (xác rắn độc, uống với rượu 1 đồng cân).

15. Sa đì (hòn dái sưng đau và sa xuống):

Đại đôn (12), Ẩn bạch (4), Đới mạch (11), Quy lai (3), Mỗ tự (k).

16. Hen suyễn, hông ngực căng tức, đờm dãi tắc nghẽn:

Thiên đột (14), Tuyền cơ (14), Đản trung (14), Trực cốt (đ), Phế du (7), Du phủ (7+1=8), Túc tam lý (3).

Bổ sung: Thái uyên (1).

(Mục này có giới thiệu hai phương thuốc trục đờm trong đó có vị Nhân ngôn (As) độc bảng A, uống dễ gây tử vong nguy hiểm, hoặc di hại về sau nếu dùng lâu với liều ít, không nên dùng).

17. Cước khí, chân sưng đau:

Độc tỵ (3), Ủy trung (7), Côn lôn (7), Thân mạch (7), Công tôn (4), Chiếu hải (7+1=8), Dũng tuyền (7+1=8), Thái xung (12), Tất quan (12), Quỷ nhãn (e).

Bổ sung: Dương lăng tuyền (11), Túc tam lý (4).

18. Hoắc loạn, thổ tả:

Thần khuyết (14), Hạ quản (14), Hợp dương (7), Thừa cân (7). Có chuyển gân thì không dùng huyệt Hợp dương. Chuyển gân tay thì dùng Khúc trì (2), chuyển gân chân thì dùng Thừa sơn (7).

Bổ sung: Ủy trung (7).

19. Đau mắt:

Thượng tinh (13), Toản trúc (7), Đồng tử liêu (11), Tình minh (7), Hợp cốc (2), Lâm khấp (11), Tiền cốc (6).

Bổ sung: Khúc trì (2), Phong trì (11), Tam lý (93), Thái dương (a) huyệt ngoài kinh.

20. Ù tai, điếc tai:

Nhĩ môn (10), Thính cung (6), Ế phong (10), Thận du (7), Túc tam lý (3).

Bổ sung: Khúc tân (11).

21. Ăn không tiêu, bụng đầy nôn mửa:

Đản trung (13), Thượng quản (24), Trung đình (14), Hạ quản (14) Thái bạch (4).

22. Lòi dom:

Bách hội (13), Mệnh môn (13), Trường cường (13), Trung cực (14).

23. Trẻ khóc đêm không bú:

Thừa tương (4).

24. Trẻ kinh phong:

Bách hội (13), Phục nguyên (1).

25. Sốt rét cơn:

Thượng tinh (13), Đại chùy (13), Hợp cốc (2), Bách lao (b) ngoài kinh, Nhũ ảnh (m), Bối lam (n).

26. Di mộng tinh:

Cao hoang (7), Quỷ nhãn (e), Giản sử (9), Thận du (7), Túc tam lý (3), Nhiên cốc (7+1=8), Trung cực (14), Khí hải (14).

(*) Chúng tôi đánh số các mục để tiện tham khảo sách dẫn và chú riêng "bổ sung" các huyệt do Thái y viện thêm vào.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 17, 2018, 08:57:36 AM
PHẦN 3

Tổng luận chứng huyệt ca
(Bàn chung về việc dùng huyệt chữa bệnh)

Thong dong nhân buổi hạ thiên (khi nhàn),
Dọn pho châm cứu để truyền thế nhân (người đời).
Trúng phong bán toại bán thân (liệt nửa người),

1930. Bách hội vi chủ như thần trị chi (chữa rất hiệu).
Lại có Kiên ngung, Khúc trì,
Kìa ai cấm khẩu miệng thì bất ngôn (không nói):
Cứu Giáp xa huyệt liền yên,
Miệng liền nói được phép tiên những là.
Thiên phong khẩu nhãn oa tà (méo mồm lệch mặt):
Địa thương vi chủ (làm chủ) càng gia lạ dường.
Lại cứu lấy huyệt Thừa tương,
Miệng méo liền đã viên phương (tròn vuông) lại lành.
Cũng nên cứu huyệt Nhân nghinh,

1940. Cùng Thủy câu huyệt đinh ninh những là.
Tả méo cứu hữu càng gia,
Hữu méo cứu tả, lẽ đà bằng nhau.
Mục khai bất ngữ (mở mắt không nói) cứu đâu?
Cứu Á môn huyệt thực mau lạ dường.
Có người mục ám hạng cường (nhắm mắt cứng gáy),
Tỵ tắc xuất thế (mũi tắc chảy nước) thường thường lưu liên.
Ấy chứng phong hàn tự nhiên,
Cứu Phong môn huyệt thần tiên nghiệm hèo.
Có người ngột thống (đau ngột) (70) chẳng tiêu,

1950. Thần đình huyệt ấy một liều năm trang.
Có người đờm suyễn càng thương,
Cứu Phế du huyệt thường thường càng gia.
Có người tê tay chẳng giơ,
Cứu Trung chữ huyệt thực là càng yêu.
Kinh thuộc nhân thân Tam tiêu,
Tại bản tiết hậu (sau đốt xương gốc) một liều mười trang.
Này chứng hư tổn phiền thay,
Tạng phủ hư nhược, khôn (khó) hay lẽ nào.
Chứng ấy thực là bệnh lao,

1960. Cứu Quan nguyên huyệt hay sao những là.
Cùng huyệt Khí hải càng gia,
Cứu đến nhất bách hoặc gia thường thường (100 mồi).
Cố đông (đau lâu) tạng phủ ở trong,
Nội hư tả tiết (ỉa chảy) huyết hằng chảy ngay.
Thần khuyết huyệt ấy thiêng thay,
Rồi ta lại cứu huyệt này Thận du.
Hư tiết (đi lỏng mạn tính) cứu huyệt Địa cơ,
Tam âm /giao/, Kinh cốt cũng cho những là.
Có người tạng dịch (tân dịch) bất hòa,

1970. Bạo bệnh tâm thống (tim đau đột ngột) kêu ca thật buốn.
Liền tay cứu huyệt Thần môn,
Đại lăng, Giản sử nào còn có đau.
Cứu huyệt Thượng quản cực mầu,
Tự nhiên bệnh đã bởi đâu nghiệm hèo.
Thương Tỳ tạng thống (đau lá lách) kíp đau,
Cứu huyệt Phủ xá lẽ mầu liền tan.
Này chứng mỏ ác mửa khan,
Òa òa ụa miệng kêu vang ngày rày:
Cứu Trung đình huyệt càng hay,

1980. Đản trung, Nhiên cốc thuở này anh linh.
Tử cung, Giản sử càng lành,
Xích trạch, Ẩn bạch đinh ninh càng mầu.
Cứu bấy nhiêu huyệt tày nhau,
Chủ trị can ẩn ở đầu mửa khan.
Đầu phong là chủ bách ban,
Cứu huyệt Bách hội liền an những là.
Thần đình huyệt ấy càng gia,
Đầu mục hôn ám (đầu mắt tối xẩm) cứu huyệt Thượng tinh.
Lại gia cứu huyệt Thần đình,

1990. Tín hội, Thân mạch cho tinh một đường.
Có người phải chứng điên cuồng,
Bỏ áo mà chạy miệng thường nói rông:
Ta liền cứu huyệt Phong long,
Bách hội, Giản sử đều cùng Thương khâu.
Thần đình, Thân trụ tày nhau,
Tâm bi (buồn sầu) gia huyệt Thương khâu những là.
Cùng huyệt Giản sử càng gia,
Tâm thần hoảng hốt nói ma nó làm.
Có người bất tỉnh nhân sự (hôn mê),

2000. Cứu Bách hội huyệt cùng Cự khuyết nay.
Kinh khủng nằm chẳng yên nơi,
Cứu Thần đình huyệt thuở rày càng thiêng.
Có người khủng cụ (sợ hãi) tâm kinh,
Cứu Đại lăng huyệt đinh ninh an bài.
Lại thêm cứu huyệt Lệ đoài,
An hồn định phách định tài càng gia.
Rày huyệt Cao hoang, Tứ hoa,
Chủ trị lao trái, khử nhà truyền thi (lao trùng).
Phế du huyệt ấy càng ghê,

2100. Thận du, /túc/ Tam lý cứu thì càng gia.
Này chứng tê thấp kể ra,
Cứu Dương phụ huyệt chưa qua mà chầy,
Cứu huyệt Thừa tương thiêng thay.
Có người âm thũng ở rày ngọc môn:
Tiên nguyên cứu huyệt Đại đôn,
Cùng Thủy đạo huyệt cực khôn nhiệm mầu.
Có người phải chứng chuyển bào (chuyển dạ con tức đái),
Cứu Trung cực huyệt một liều hay sao.
Ta lại cứu huyệt /Tam/ âm giao,

2020. Bằng thũng (nếu sưng) dường nào ấy chứng cực khôn (khó):
Chủ thì lấy huyệt Đại đôn,
Có người cứu huyệt Côn lôn cũng hèo.
Tiểu tràng (ruột non) bằng có thống (đau) nhiều,
Đại đôn, Trung cực cứu liền bảy trang.
Còn đau âm ỉ nhiều đàng,
Lại cứu Khí hải huyệt càng hèo thay.
Thiên trụy (sa đì) bế tật ngày rày,
Tiểu tiện xuất huyết ngày rày càng thương:
Ta phải cứu huyệt Quan nguyên,

2030. Đại đôn, Trung cực phép càng anh linh (công hiệu).
Có người phải chứng di tinh,
Tiểu tiện bạch trọc rành rành huyết lâm (đái đục ra máu):
Liền tay cứu huyệt /Tam/ âm giao,
Cùng Trung chữ huyệt chớ nhầm làm chi.
Có người huyết thóa (nhổ ra máu) tạng suy,
Cứu Thái âm huyệt (71), Đại chùy, Hồn môn.
Còn chứng thoát giang (lòi dom) chẳng khôn (khó),
Cứu huyệt Khí hải nào còn có đau.
Trường cường, Bách hội tày nhau,

2040. Có người thũng thống yết hầu chẳng thông (sưng họng):
Cứu huyệt Giản sử, Trung phong,
Cùng Trung chữ huyệt làm song thuở rày.
Hầu tý (họng tắc) chứng ấy khốn thay,
Cứu Khúc trì huyệt cùng rày Đại lăng.
Lại cứu Trung chữ cũng bằng,
Này chứng nục huyết lại càng xót xa.
Mũi thường có máu chảy ra,
Cứu Thần đình huyệt phép hòa thiêng thay.
Liền cứu Thân mạch bằng nay,

2050. Tật thì lại đã phép rày anh linh.
Có người mũi xuất thế thanh (chảy nước mũi trong),
Tín hội, Thần đình huyệt ấy càng gia.
Tỵ hàn thương phế quá đa (mũi lạnh hại phổi nhiều),
Thượng tinh, Bách hội, lại hòa Tín môn (Tín hội).
Này bí đại tiện chỉn khôn (thật khó),
Cứu Thừa tương huyệt, Đại đôn hòa dùng.
Đại tiểu câu bí (đều bế) bất thông,
Ta liền cứu huyệt Phong long tức thì.
Đại đôn, Đan điền càng ghê,

2060. Cứu hai huyệt ấy nhiều bề nghiệm thay.
Đại tiện bế sáp (táo bón) bằng nay,
Đại tràng du huyệt thuở rày càng thiêng.
Thần khuyết cùng huyệt Quan nguyên,
Thạch môn huyệt ấy cứu càng phép tiên.
Tiểu tiện bất cấm tương liên (vãi đái luôn):
Ta lại cứu huyệt Quan nguyên thuở rày.
Huyệt ấy cấm châm thương thay,
Gia Thiếu phủ huyệt ngày rày bảy trang.
Có người ra chứng minh tràng (sôi bụng),

2070. Bụng sôi bằng sấm kêu vang rào rào:
Cứu huyệt /Túc/ tam lý, /Tam/ âm giao,
Cùng Thủy phân huyệt lẽ nào tày nhau.
Huyết hà (báng máu) đầy bụng thêm đau,
Cứu Chương môn huyệt khỏi đau những là.
Chứng thực bất hạ (ăn không vào) càng gia,
Cứu Trung quản huyệt cùng là Thủy phân.
Có người đói chẳng hay ăn,
Cứu Trung cực huyệt mười phân lạ lùng.
Hung mãn bất tiến thực song (đau bụng kém ăn),

2080. Ta liền cứu huyệt Huyền chung những là.
Ẩm thực bất hạ (ăn uống không vào) càng gia,
Cứu Đản trung huyệt thực là hèo thay.
Hay ăn chứng ấy lạ sao,
Đa thực thân sấu (ăn nhiều mà gầy) huyệt nào chớ quên.
Ta cứu Thận du cho đều,
Cùng Thiên xu huyệt hèo sao những là.
Cuồng tật sát nhân (điên cuồng giết người) kinh là,
Đánh người bỏ áo nói ma chạy càn:
Cứu Thân trụ huyệt cho an,

2090. Tự nhiên thấy phép thần tiên rành rành.
Muốn nằm thì cứu Thần đình,
Nằm mà chẳng ngủ cứu danh Đại chùy.
Huyệt ấy thậm thương chỉn ghê,
Thần tiên diệu phép thật thì anh linh.
Này chứng huyết áp (tim đè) mơ màng,
Thấy những ma quỷ tà tinh đến đè:
Ta cứu huyệt Thương khâu đi,
Tự nhiên lại đã thần thông nghiệm hèo.
Này ách nghịch chứng chỉn nghèo,

2100. Đêm ngày những nấc khôn tiêu bệnh hàn:
Ta liền cứu huyệt Hành gian,
Đại lăng, Cự khuyết, Hành gian an bài.
Nghịch suyễn chứng nọ nghèo thay,
Hung trung suyễn cấp (ngực thở gấp) cứu rày Thận du.
Thần đình, Đại lăng cùng cho,
Đản trung, Thiên đột mọi đồ rất thiêng.
Này chứng khí suyễn Tỳ kinh,
Cứu Khí hải huyệt đinh ninh lạ dường.
Cũng nên cứu huyệt Đản trung,

2110. CÙng Thiên đột huyệt, với cùng Phế du.
Bôn đồn sán khí bô phù (đau rằn bụng lên ngực):
Thạch môn, Thiên đột ấy đồ cứu tiêu.
Vả lại cứu huyệt /Tam/ âm giao (72),
Này chứng ái khí (ợ hơi) tạng nào phải ra:
Cứu huyệt Chí âm càng gia,
Cung Tỳ du huyệt cứu hòa đã ngay.
Lại cứu Đại chùy thiêng thay,
Tiểu nhi kinh giản gọi là động kinh:
Bách hội vi chủ rất lanh,

2120. Thân trụ, Thần đình ba huyệt cùng cho.
Này chứng khái thấu đờm ho,
Cứu Đản trung huyệt, Phế du càng hèo.
Hầu trung đàm suyễn chưa tiêu,
Cứu Thiên đột huyệt một liều bảy trang.
Tích tụ khí khối (báng) càng thương,
Dạ bằng bát áp (bụng như bát úp) nhiều dường đau thay:
Cứu Âm giao huyệt chớ chày,
Thượng, Trung, Hạ quản ba nơi cũng bằng.
Nha đông là chứng nhức răng,

2130. Cứu Khúc trì huyệt làm song đã đành.
Tâm phúc trướng mãn bành bành (ngực bụng đầy căng):
Thạch môn, /Túc/ tam lý (73) huyệt lành cứu đi.
Ẩn bạch huyệt ấy chỉn ghê.
Này chứng phúc thống dạ này đau thay:
Phong long cùng Khí hải này,
Suốt cứu liền đã, phép nay lạ dường.
Bành trướng bụng cả (cổ trướng) chẳng đang,
Thảng như tang trống đầy trương bành bành:
Thủy phân huyệt ấy càng lanh,


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 18, 2018, 11:32:13 AM
2140. Cùng Thần khuyết huyệt đã đành chớ lo.
Phù thũng mình lớn tày bồ,
Cứu /Túc/ tam lý huyệt, Thận du càng hèo.
Thủy phân, Trung cực /Tam/ âm giao,
Cùng Tỳ du huyệt hay sao chước mầu.
Cứu sáu huyệt ấy bằng nhau,
Những là tề tích (tích ở rốn) cũng là rốn đau.
Những người kêu van xót xa,
Còn liền đau bụng cứu hòa những đâu?
Cứu huyệt Khí hải, /Tam/ âm giao,

2150. Cùng Quan nguyên huyệt hay sao làm vầy.
Có người yêu bối (lưng) đau thay,
Rát nóng như lửa, hóa rày chứng khôn (khó):
Thần đường, Phách hộ, Côn lôn,
Cứu ba huyệt ấy phép truyền hiệu thay.
Có người tức nương long (ngực) nay,
Đản trung huyệt ấy khỏi ngay tức thì.
Tay đau thì cứu Kiên ngung,
Cùng Khúc trì huyệt, cứu song (hai nơi) chớ nhầm.
Tý thống vô lực (cánh tay đau mỏi) đau âm,

2160. Bất nhân ma mộc (tê dại) khôn (khó) cầm được nay:
Cứu Khúc trì huyệt hèo thay,
Cùng Kiên ngung huyệt thuở rày càng gia.
Thủ túc (tay chân) quyết lạnh hay là,
Cứu Khúc trì huyệt chớ qua mà chày.
Có Phong long huyệt mấy hay,
Có chứng ma mộc chân rày bất nhân (chân tê dại):
Trung đô cùng huyệt Thừa cân,
Cứu hai huyệt ấy thì chân lại hành.
Tam âm /giao/, /Túc/ tam lý càng nhanh,

2170. Thừa sơn huyệt ấy đã đành tiêu tan.
Cước thũng (chân sưng) cứu huyệt Thừa sơn,
Côn lôn, /Túc/ tam lý liền an tức thì.
Có người hoãn nhược tứ chi (tay chân yếu mỏi),
Cử động bất đắc (không được) nhiều bề thương thay.
Nhấc chẳng nổi chân nổi tay,
Cứu Chương môn huyệt bằng nay nghiệm hèo.
Thi quyết (chết giả) chứng ấy rất nhiều,
Thốt trúng cấm khẩu (bỗng cắn răng) cứu liền Đại đôn.
Mười tráng chưa đẫy hãy còn,

2180. Lại cứu Ẩn bạch liền yên những là.
Cước tất đông thống (chân gối đau nhức) xót xa,
Cứu Thừa sơn huyệt thật là rất tinh.
Bất nhân câu cấp (tê dai co quắp) chẳng lành,
Thận du, Độc tị đã đành cứu nay.
Đau lưng như bẻ khốn thay,
Bất năng chuyển trắc (trăn trở khó) ấy rày chứng khôn:
Thận du, cùng huyệt Mệnh môn,
Thừa sơn huyệt ấy chẳng khôn (khó) nhiệm mầu.
Yêu bối (lưng) đau xương bởi đâu?

2190. Khâu khư huyệt ấy phép mầu càng gia.
Có người cốt thống ai qua,
Đêm ngày nhức nhối thực là nhức xương:
Tử cung cùng huyệt Ngọc đường,
Mấy Cự khuyết huyệt phải càng anh linh.
Tai kêu là chứng nhĩ minh,
Ve kêu trống đánh thùng thình một khi.
Điếc tai chẳng biết tiếng gì,
Cứu Trung chữ huyệt tức thì lại an.
Thiên vàn cứu huyệt Thượng quan,

2200. Có người nhĩ thống (đau tai) chẳng an nhiều bề:
Trung chữ cùng huyệt Khúc trì,
Ta cứu tức thì lại đã (khỏi) liền tay.
Nhĩ tủng (tai điếc) chứng ấy khốn thay,
Thận du, Bách hội ấy rày huyệt linh.
Có người nóng huyết rành rành,
Tiếng ve tiếng sấm dần dần kêu vang:
Nhĩ môn cùng huyệt thượng quan,
Cứu hai huyệt ấy được an được lành.
Có người mục ám bất minh (mắt mờ):

2210. Cứu Thận du huyệt đã đành rằng an.
Tam lý cùng huyệt Hành gian,
Cứu ba huyệt ấy mấy toan những là.
Có người mắt đỏ mắt đau,
Mục hôn châu lệ (mắt mờ chảy nước) nhỏ sa càng phiền:
Cứu huyệt Lâm khấp, Hành gian,
Cùng Bách hội huyệt thiên ban càng hèo.
Mục ế xích vân (mắt bị màng tía đỏ che) rất nhiều.
Trong ngoài như máu cứu liền Chí âm,
Thúc cốt, Kinh cốt nhập thâm (châm sâu).

2220. Khâu khư bốn huyệt cứu châm hay là,
Có người xích bạch /đới/ khí ra.
Con mắt đỏ tía cứu hòa Đại lăng,
Cứu huyệt Kinh cốt cũng bằng.
Tự nhiên bệnh đã lâng lâng lại lành.
Có người phải chứng thanh manh,
Cứu Thương khâu huyệt lại thanh nhãn đồng (sáng con ngươi).
Có người miệng nói chẳng thông,
Phải chứng ấm à (câm ngọng) cong lòng vũ (buồn) âu:
Ta cứu Thủy câu chớ lâu,

2230. Cùng Thừa tương huyệt phép mầu tiêu tan.
Có người chứng táo yết can (họng khô),
Cứu huyệt Thiên đột lại hoàn (còn) Đại nghinh.
Cứu hai huyệt ấy lại lành.
Này chứng hoàng đản mắt xanh nhiều đàng,
Bụng da măt mũi da vàng.
Cứu Thận du huyệt nghiệm bằng phép tiên,
Có người phải chứng nhiệt hàn (nóng rét).
Cứu Huyền chung huyệt mà toan chớ nhầm,
Có người phát hãn (mồ hôi) như dầm.

2240. Mồ hôi chảy xuống nhỏ xâm dòng dòng,
Ấy nó là chứng hãn phong.
Ta liền lấy huyệt cứu dòng Cách du,
Có người nhiệt bệnh hãn thu (mồ hôi không ra).
Buồn phiền bứt rứt toan lo chước nào:
Mệnh môn cùng huyệt Thương khâu.
Cứu hai huyệt ấy đều cùng được thông,
Có người ẩn chẩn (mề đay) ngoại phong.
Biến thân tao dạng suốt mình ngứa gãi cùng ngứa ngon,
Ấy là phong huyết tẩu bôn (máu phong chạy).

2250. Giát (mề đay) nổi máu ngứa gãi mòn móng tay:
Cứu Khúc trì huyệt thiêng thay.
Tiêu phong tán huyết, liền tay (khỏi ngay) tức thì.
Cốt tiết (khớp xương) nhức nhối tứ chi,
Cứu huyệt Khúc trì liền đã (khỏi) tự nhiên.
Phụ nhân xuất huyết tương liên,
Băng trung lậu hạ (rong huyết, bạch đới) mình phiền tanh dơ:
Ta cứu Khí hải tự như,
Cùng Đại đôn huyệt huyết hư liền nhuần.
Có người phiền muộn (buồn bực) thập phân,

2260. Xích bạch đới hạ, tần tần (luôn luôn) di tinh.
Tanh hôi mình mẩy thể hình.
Cứu Khí hải huyệt đã đành hèo sao,
Đại đôn cùng Tam âm giao.
Cứu ba huyệt ấy lẽ nào tày nhau,
Phụ nhân kinh nguyệt bất điều.
Ta liền cứu liều Trung cực, Quan nguyên,
Liền thông khí huyết một đàng.
Da đỏ bằng ngọc bằng vàng tốt sao,
Có người ung nhũ (sưng vú) kêu đau.

2270. Cứng ngờ hòn đá huyệt nào cứu linh,
Thiếu trạch, Nhũ căn thực lanh.
Cứu hai huyệt ấy đinh ninh chớ nhầm,
Huyết dịch khí cố bao trầm.
Chứng nó đau ngầm nhưng nhức trong xương,
Tụ huyết âm thì thắng dương.
Cứu Trúc mã huyệt phép thường hai bên,
Phép cứu tan huyết thì yên,
Tức thì lại đã phương viên (vuông tròn) thay là.
Ngũ tạng chủ khí bất hòa.

2280. Ác sang phát thũng (đơn sưng) đầy da lạ dường,
Ấy chứng âm đới thắng dương.
Ta liền đặt ngải một mồi mười trang,
Kìa chứng anh lựu (bướu cổ) càng thương.
Huyết ngưng thành tật bằng dường ung thư (mụn nhọt),
Tráng ngải đốt bằng phép xưa.
Đau đâu cứu đấy bây giờ chớ lâu,
Phát bối nên cái (nhọt độc sau lưng) thậm đau.
Lấy mực mà điểm trong đầu hòa coi,
Tay ấn cho thật chính ngôi.

2290. Lấy mảnh gừng đặt rồi cho yên,
Để hẳn đặt nó (ngải) ở trên.
Cứu tan khử trệ (khỏi tụ) ngải liền mười trang,
Tự nhiên lại đã (khỏi) lạ dường.
Ấy là chủ phép hòa lường cho thông,
Lược bày tự thủy chi chung.

2296. Để cho nhân thế (người đời) hòa dùng hậu lai (sau này).

Chú giải các huyệt trong bài ca "Tổng luận chứng huyệt"
(Trừ các huyệt đã nói ở phần trước)

K13. Tín hội: Huyệt ở chân tóc trước trán vào 2 thốn (hay cách trước huyệt Bách hội 3 thốn).

K3. Nhân nghinh: Huyệt ở chỗ hai bên cổ, dưới hàm cong, nơi có động mạch.

K7. Phong môn: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ hai, ngang ra mỗi bên 1,5 thốn.

K4. Địa cơ: 2 huyệt ở dưới đầu gối 5 thốn giữa khoảng hai xương (mé phía sau cạnh xương ống chân).

K7. Kinh cốt: 2 huyệt ở mé cạnh ngoài bàn chân dưới đốt xương to, chỗ thịt trắng đỏ (sau đốt xương thứ nhất ngón chân út).

K4. Phủ xá: 2 huyệt ở thẳng dưới huyệt Kỳ môn 8 thốn (dưới huyệt Trung cực giữa bụng nửa thốn, ngang ra hai bên mỗi bên 4 thốn).

K14. Tử (tía) cung (74): Huyệt ở dưới huyệt Thiên đột 3 thốn 6 phân (giữa ngực ngang khoảng sườn thứ hai).

K1. Xích trạch: 2 huyệt, ở dưới khuỷu tay mé trên động mạch vào giữa (mé cạnh ngoài cái gân to chính giữa ngấn ngang chỗ lõm của khuỷu tay).

K3. Phong long: 2 huyệt, ở trên mắt cá ngoài 8 thốn, chỗ lõm phía ngoài xương ống chân.

K4. Thương khâu: 2 huyệt chỗ lõm xế dưới mắt cá trong hơi chệch về phía trước.

K11. Dương phụ: 2 huyệt ở thẳng mắt cá ngoài đi lên 4 thốn mé sau xương hai ống chân.

K3. Thủy đạo (75): 2 huyệt ở dưới huyệt Thiên xu 5 thốn (3 thốn).

K7. Hồn môn: 2 huyệt ở hai bên dưới đốt xương sống thứ 9 đi ra, cách mỗi bên 3 thốn, chỗ lõm. Ngồi thẳng mà lấy huyệt.

K12. Trung phong: 2 huyệt ở chỗ lõm trước mắt cá trong 1 thốn, thẳng đầu ngón chân, giữa mé ngoài đi vào. Ngửa duỗi bàn chân mà lấy huyệt.

K14. Đan điền:  (76) ở chỗ rốn.

K14. Thạch môn: Một tên là Thần cơ, một tên là Lộ tinh, một tên là Đan điền (ở dươi rốn 2 thốn).

K5. Thiếu phủ: Huyệt ở trong bàn tay, co ngón tay út lại đến chỗ nào là huyệt ở chỗ đó, ngang với huyệt Lao cung (vào chỗ giữa kẽ ngón út và ngón thứ tư).

K7. Tỳ du: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 11 ngang ra, cách mỗi bên 1,5 thốn.

K7. Thần đường: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 5 ngang ra hai bên, mỗi bên cách 3 thốn.

K7. Phách hộ: 2 huyệt, ở dưới đốt xương sống thứ 3, ngang ra hai bên mỗi bên 3 thốn.

K12. Trung đô: 2 huyệt, ở chỗ mé trong xương ống chân, thẳng mắt cá trong đi lên 7 thốn.

K11. Khâu khư: 2 huyệt, ở chỗ lõm xế phía trước xương mắt cá ngoài, thẳng ngón chân thứ tư vào, cách huyệt Túc lâm khấp 3 thốn.

K14. Ngọc đường (77): Ở chỗ lõm dưới huyệt Thiên đột 5 thốn (ngang với khoảng giữa xương sườn thứ 3, hay dưới huyệt Thiên đột 5 thốn 8 phân).

K7. Chí âm: 2 huyệt ở đầu ngón chân út (mé cạnh ngoài ngón chân út, cách góc móng 1 phân).

K7. Thúc cốt: 2 huyệt ở chỗ lõm sau đốt xương ngón chân út.

K3. Đại nghinh: 2 huyệt ở chỗ lõm trên xương trước nơi cong góc hàm 1 thốn 3 phân.

K3. Thủy đột: Ở trước ngấn lớn trên cổ, thẳng giữa huyệt Nhân nghinh và huyệt Khí xá.

K14. Âm giao: Huyệt ở thẳng dưới rốn 1 thốn.

K11. Thượng quan: 2 huyệt ở giữa chỗ nhô ra trước tai (ở mé trên đầu xương trước tai). Nên cứu 7 mồi, châm thì nằm nghiêng.

K7. Cách du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 7 đi ra hai bên, cách mỗi bên 1,5 thốn.

K7. Đại tràng du: 2 huyệt ở dưới đốt xương sống thứ 16 đi ra hai bên, mỗi bên cách 1,5 thốn.

K3. Nhũ căn (78): 2 huyệt ở dưới vú 1 thốn (chỗ lõm dưới huyệt Nhũ trung 1 thốn 6 phân).

* Chú thích phần 3:

(70): Đau đột ngột rung động không yên.

(71): Huyệt Phế du.

(72): Đây là huyệt Tam âm giao thuộc kinh Tỳ (4) không phải huyệt Âm giao thuộc mạch Nhâm (14). Xem bảng tóm tắt ở sau để phân biệt.

(73): Đây là huyệt Túc tam lý thuộc kinh Vị (3) ở chân, không phải huyệt Tam lý thuộc kinh Đại trường (2)
ở tay . Xem bảng tóm tắt ở sau để phân biệt.

(74): Huyệt Tử cung ở trên huyệt Đản trung 3 thốn 2 phân, hay ở dưới huyệt Tuyền cơ 3 thốn 2 phân, tức là ở dưới huyệt Thiên đột 4 thốn 2 phân (sách chép nhầm là 3 thốn 6 phân): Đính chính.

(75): Huyệt Thủy đạo ngang với huyệt Quan nguyên đi ra 2 thốn, tức ở dưới huyệt Thiên xu 3 thốn (không phải 5 thốn): Đính chính.

(76): Đan điền là biệt danh của huyệt Thạch môn. Theo Nạn kinh, vùng Đan điền ở cách dưới rốn 3 thốn (huyệt Quan nguyên) với đường kính 4 thốn.

(77): Huyệt Ngọc đường ở trên huyệt Đản trung 1,6 thốn, hay ở dưới huyệt Thiên đột 5 thốn 8 phân (không phải 5 thốn): Đính chính.

(78): Huyệt Nhũ căn ở ngang với huyệt Trung đình đi ra, thẳng dưới nuốm vú 1,6 thốn (không phải 1 thốn): Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 20, 2018, 03:34:54 PM
(https://i.imgur.com/k7r6HHg.jpg)

(https://i.imgur.com/t3W1SlR.jpg)

(https://i.imgur.com/vVTKN3m.jpg)

(https://i.imgur.com/V686jxU.jpg)

(https://i.imgur.com/wwMXbGM.jpg)

(https://i.imgur.com/hH7laLB.jpg)

(https://i.imgur.com/j6JG7TY.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 20, 2018, 03:55:40 PM
PHẦN 4

A - Bài ca về mười hai kinh mạch thuộc lục phủ ngũ tạng

Thong dong cất lấy bút nghiên,
Chép âm dương mạch để truyền người ta.
Từ thủ đại chỉ (ngón tay cái) kể ra,

2300. Thiếu dương vậy hòa /Thủ/ Thái âm kinh.
Thứ chỉ nội trắc (mé trong ngón trỏ) /Thủ/ Dương minh,
Thương dương thuộc Đại tràng kinh chẳng nhầm.
Trung chỉ (ngón giữa) tâm bào /Thủ/ Quyết âm,
Trung xung huyệt ấy chớ nhầm, tư (lo) lường.
Vô danh chỉ (ngón thứ tư) mạch /Thủ/Thiếu dương,
Tam tiêu kinh huyệt thực đàng Quan xung.
Tiểu chỉ nội (mé trong ngón út) thuộc /Thủ/ Thiếu âm,
Tam kinh tùy (theo) huyệt Thiếu xung một đàng.
Tiểu chỉ ngoại trắc (mé ngoài ngón út) /Thủ/ Thái dương,

2310. Tiểu tràng: Thiếu trạch phép thường cổ kim.
Thủ chỉ (ngón tay) ta kể đã xong,
Này túc tiểu (79) /đại/ chỉ (ngón chân cái) ta cùng kể ra:
/Túc/Quyết âm: Can kinh chẳng ngoa,
Ngoại trắc (mé ngoài) có huyệt gọi là Đại đôn.
Đại chỉ nội trắc (mé trong ngón chân cái) càng khôn,
Ẩn bạch tuần hoàn: /Túc/ Thái âm Tỳ kinh.
Thứ chỉ đương bối (trên lưng ngón chân thứ hai) Túc dương minh,
Lệ đoài huyệt ấy thực hình ngoại biên (bên ngoài).
Trung chỉ túc tâm (ngón giữa, ở lòng bàn chân) Dũng tuyền,

2320. Thận tạng đến đấy thuộc quyền /Túc/ Thiếu âm.
Vô danh (ngón chân thứ tư) /Túc/ Thiếu dương chớ nhầm,
Đởm phủ có huyệt Khiếu âm một đường.
Tiểu chỉ (ngón chân út) Bàng quang /Túc/ Thái dương,
Chí âm huyệt ấy, trắc phương (phía mé) bên ngoài.
Đo hết thiên kim, Bảo đài (80),
Đông nhân, Từ thị chẳng sai chút nào.
Mạch đốc: hàng giữa hai mươi bảy huyệt:
Ngận giao, Nhân trung, Đoài đoan, Tố liêu...
Mạch nhâm: hàng giữa hai mươi bốn huyệt (81).

* Chú thích mục A:

(79) Huyệt Đại đôn  của kinh Can ở mé ngoài ngón chân cái, túc đại chỉ (sách chép nhầm là tiểu chỉ): Đính chính.

(80) Sách Thiên kim phương của Tôn Tư Mịch (thế kỷ 7) và ngoại đài bị yếu của Vương Đạo (thế kỷ tám).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 22, 2018, 10:06:53 AM
B - Ca về mạch Đốc mạch Nhâm, vùng lưng hông sườn bụng, hàng giữa từ đầu đến hậu môn, xương cùng (81).

1.  BÀI CA BÀN VỀ 27 HUYỆT Ở HÀNG GIỮA:


Này đoạn Đốc Nhâm kể ra,
Hai mươi bảy mạch vậy hòa ở đâu?
Ngận giao huyệt ấy làm đầu

2330. Lên trong răng ấy giáp hầu lợi nay.
Bảo cho hay Đoàn đoan huyệt ấy,
Hòa xem lấy giữa đầu mi môi.
Lên Nhân trung dưới mũi môi,
Trên Tố liêu cùng ở bên trên mũi này.
Ấn đường huyệt ấy liền ngay,
Hai bên đầu mày huyệt giữa chính ngôi.
Bước lên phát tế (chân tóc) một thôi,
Gọi là chân tóc kia ơi những là.
Có người lại rậm tóc ra,

2340. Hói trán vậy hòa ta biết cứ đâu?
Lại bảo cho biết trước mầu,
Cứ Ấn đường huyệt tu cầu hòa suy (nên tìm mà suy ra).
Bẻ lấy ba tấc (thốn ở đầu) một khi,
Đo lên khúc huyệt mực ghi dấu rày.
Tấc ấy đến đâu bằng nay,
Ấy là chân tóc thuở này phân minh.
Cứ chân tóc ấy cho bằng,
Đo lên Thần đình nửa tấc (thốn) phải chăng.
Bảo cho các huyệt cũng vậy,

2350. Cũng cứ chân tóc nơi này đo lên.
Thượng tinh một tấc cho yên,
Tín hội hai tấc cùng liền đấy na.
Tiền đình ba tấc ghi rày (82),
Bách hội năm tấc thẳng ngay giữa đầu.
Lại xem lấy huyệt bên sau,
Cứ Bách hội huyệt tu cầu hòa suy.
Đo xuống tấc rưỡi một khi
Đấy Hậu đính huyệt vậy thì phải thay.
Lại cứ Hậu đính xuống ngay,

2360. Đo xuống tấc rưỡi vậy rày Cường gian.
Cứ Cường gian tấc rưỡi xuống đấy,
Não hộ huyệt rày đấy thấy khi nay.
Lại bảo chân tóc sau này,
Hoặc nó rậm xuống phép rày cứ đâu?
Cứ lấy ba tấc chớ lâu,
Cứ xuống u cổ trước đầu đo lên.
Tấc ấy đến đâu cho yên,
Mực điểm áp liền đầu tấc làm ghi.
Ấy chân tóc sau một khi,

2370. Hiệu phát tế hậu vậy thì hòa khôn.
Đo lên đến huyêt Á môn,
Cứ chân tóc ấy chính còn năm phân.
Tìm lên Phong phủ ân cần,
Lại cứ chân tóc mà nhuần khi nay.
Đo lên một tấc khi nay,
Ấy huyệt Phong phủ thuở này làm xong.
Bảo cho thông Đại chùy huyệt ấy,
Xem lấy đấy giữa u cổ xương.
Hai đốt Đào cốc (Đào đạo) (83) cho tường,

2380. Thân trụ ba tấc (đốt) một đường phải thay.
Thần đạo thứ năm đốt này,
Linh đài thứ sáu bảy rày Chí dương.
Lại bảo Cân thú (Cân súc) thứ chín,
Lại xuống đến Thập nhất chùy chi (đốt thứ 11).
Ấy Tích trung huyệt một khi,
Tiếp cốt huyệt thì thứ mười hai này.
Huyền trụ (Huyền xu) mười ba đốt rày,
Mệnh môn mười bốn khi nay cho tường.
Ngay liền bằng rốn một đường,

2390. Bảo cho biết ấy mà lường mấy thông.
Dương quán mười sáu làm xong,
Hai mươi bốn đốt huyệt cùng Yêu du (84).
Bảo cho hay Cùng cốt huyệt ấy,
Thực ở đấy là xương cùng trôn.
Trường cường huyệt trước giang môn (hậu môn) (85),
Sau Cùng cốt huyệt, ỉ /khôn/ lạ dường.
Các huyệt sau trước cho tường,
Lấy cho chính giữa khớp xương thực rày (86).

* Chú thích mục B:

(81) Sách xưa gọi gộp hai mạch Nhâm Đốc với nhau. Nguyên bản có chú thích thêm về mạch Đốc và mạch Nhâm: "Bộ Đốc nam giới lấy sau lưng là làm dương, lấy trước ngực là âm. Nữ lấy ngực bụng làm dương, lấy sau lưng làm âm". Về mạch Đốc, sách này đã giới thiệu thêm 3 huyệt: Ấn đường, Tiếp cốt, Cùng cốt. (Phân đoạn "thốn" để lấy huyệt ở đầu và dọc lưng đã nói ở phần 1).

(82) Huyệt Tiền đình ở cách huyệt Bách hội 1,5 thốn, hay kể từ chân tóc lên 3,5 thốn (sách chép nhầm là 3 tấc): Đính chính.

(83) Huyệt Đào đạo (chép nhầm là Đào cốc) ở khoảng dưới đốt xương thứ nhất (không phải đốt xương thứ 2): Đính chính.

(84) Huyệt Yêu du ở chỗ xương mông và xương cùng giáp nhau, tức ở đốt 21 kể từ trên xuống (chép nhầm đốt thứ 24): Đính chính.

(85) Huyệt Trường cường ở dưới chót xương cùng 5 phân.

(86) Còn có một câu: "Bảo cho hay Nhâm mạch từ đấy" nhưng chính đoạn trên nói về mạch Đốc, mà lại thiếu mất về sau?


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 23, 2018, 08:51:53 AM
2. BÀN VỀ CÁC HUYỆT Ở HAI BÊN MẠCH ĐỐC ĐI RA TỪ HUYỆT ĐẠI CHÙY (hàng thứ hai).

Lại dạy bộ hai hàng kia,

2400. Cứ đốt thứ nhất hạ chùy (dưới đốt).
Đo ra tấc rưỡi vậy thì cho hay,
Hai bên ba tấc bằng nay.
Ấy Đại trữ huyệt lại rằng Bách lao (87),
Xem chỗ cao đốt thứ hai ấy,
Lại cứ đo ra hai bên,
Lấy một tấc rưỡi cho yên.
Hai bên ba tấc vậy liền phải thay,
Bảo cho hay ấy Phong môn huyệt.
Rồi lại xem đốt ở thứ ba,
Ta lại cứ đấy đo ra.

2411. Mỗi bên tấc rưỡi vậy hòa chớ nghi,
Hai bên ba tấc một khi.
Ấy Phế du huyệt vậy thì cho thông,
Đốt thứ ba, bốn làm song.
Quyết âm du huyệt lưỡng đồng hai bên (88),
Lại xem xuống đốt thứ năm.
Thì cứ ở đấy đo ra lưỡng bàng,
Ấy Tâm du huyệt cho tường.
Lại xuống một đường đốt thứ bảy nay,
Ấy Cách du huyệt khi nay.

2421. Hai bên hai tấc thửa này song song (9),
Ấy Can du huyệt lưỡng đồng bày nhau.
Thẳng đốt thứ mười chớ lâu,
Là Đởm du huyệt ở hầu hai bên,
Mười một đốt ấy xuống liền.
Là Tỳ du huyệt phân yên lưỡng bàng,
Bảo cho tường thứ mười hai đốt.
Vị du huyệt cứ đấy đo ra,
Lại xuống thứ đốt mười ba.

2431. Tam tiêu du huyệt cứ hòa đo ngay (90),
Bảo cho hay huyệt Thận du đấy (91).
Cứ mười bốn đốt cho ngang bên này,
Khí hải du thứ mười năm.
Bảo cho mà biết lưỡng bàng hòa đo,
Lại bảo cho biết thứ mười sáu đốt:
Đại tràng du ngồi hai bên này,
Tiểu tràng du mấy gọi rày.
Một bên tấc rưỡi phép nay gia truyền,

2440. Huyệt ấy liền dưới mười tám đốt.
Bàng quang du lại kể cho hay:
Mười chín đốt ấy ngồi rày hai bên.
Từ đấy lại lấy đo liền,
Một bên tấc rưỡi đều thì đo ngang.
Hai bên ba tấc phải dường cho hay,
Lại lấy huyệt Trung lữ du nay.
Huyệt ấy ta rày biết lấy ở đâu?
Cứ đốt mười chín hai dưới đầu (92).
Một bên tấc rưỡi chớ lâu chi là,
Hai mươi mốt đốt chẳng xa.
Bạch hoàn du huyệt thì ta tu cầu (nên tìm),
Hoành xuất (ngang ra) tấc rưỡi ở đâu?
Hai bên ba tấc thực rày sau lưng,
Bảo cho ta biết chung từ đấy.
Dù ai đọc thấy phải dụng tâm suy,

*Chú thích:

(87) Huyệt Bách lao không phải cùng tên với huyệt Đại trữ (xem chú thích số 52 ở phần 2).

(88) Huyệt Quyết âm du ở dưới đốt thứ tư ngang ra 1,5 thốn.

(89) Các huyệt đều ngang ra 1,5 thốn (không phải hai bên hai tấc): Đính chính.

(90) Huyệt Tam tiêu du ở ngang đốt xương eo lưng thứ nhất, tức huyệt Huyền khu đo ra 1,5 thốn.

(91) Huyệt Thận du ở ngang đốt xương eo lưng thứ 2, tức huyệt Mệnh môn đo ra 1,5 thốn.

(92) Huyệt Trung lữ du ở ngang đốt xương mông 3, tức là đốt thứ 20 từ trên xuống (sách chép nhầm là thứ 12: Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 23, 2018, 09:36:57 AM
3. BÀN VỀ VIỆC LẤY HUYỆT MẠCH NHÂM HÀNG GIỮA TRƯỚC BỤNG (*)

Này đoạn Nhâm mạch kể ra,
Hai mơi bốn huyệt vậy hòa ở đâu:
Từ Thừa tương ấy làm đầu,
Huyệt ở môi dưới trũng sau phải rày.
Bảo cho hay xương hầu cổ ấy,

2461. Liêm tuyền huyệt chỗ ấy ở trên.
Lại xuống liền khớp xương cổ ấy,
Thiên đột huyệt ở đấy chớ nghi.
Đo xuống một tấc huyệt thì Tuyền cơ.
Cứ Tuyền cơ đo xuống tấc sáu,
Ấy là Hoa cái huyệt này xuống ngay.
Lại xuống tấc sáu huyệt rày Tử cung,
Bảo cho thông cứ Tử cung huyệt.
Xuống đấy rày một tấc sáu phân.
Ấy Ngọc đường huyệt chớ nhầm,

2471. Đoạn ta lại nhuần trực lưỡng nhũ gian (thẳng khoảng hai vú),
Đản trung ở giữa đã an.
Xuống Đản trung huyệt hòa bàn cho minh:
Một tấc sáu phân thực hình,
Danh gọi là huyệt Trung đình chớ nghi.
Bảo một khi trong này giữa rốn,
Cứ đo lên bảy tấc rưỡi nay (93).
Ấy huyệt Cưu vỹ khi nay,
Cự quan (Cự khuyết) sáu tấc rưỡi huyệt rày chẳng xa (94).
Bảo chẳng xa Thượng quản năm tấc,

2481. Lại bảo cho cứ đấy mà suy:
Trung quản bốn tấc chớ nghi,
Kiến lý ba tấc vậy thì cho thông.
Hạ quản hai tấc làm xong,
Thủy phân một tấc đo cùng lên trên.
Bảo cho hay tề thượng (trên rốn) từ đấy,
Lại xuống lấy tề hạ (dưới rốn) một khi.
Cứ giữa rốn ấy mà suy,
Các huyệt cũng vậy xuống thì cho ngay.
Một tấc huyệt Âm giao nay,

2491. Tấc rưỡi Khí hải yêu thay lạ dường.
Hai tấc Thạch môn cho tường,
Quan nguyên ba tấc mà lường cho thông.
Trung cực bốn tấc làm xong,
Khúc cốt năm tấc đều cùng phải thay.
Bảo cho hay Hội âm huyệt ấy,
Xuống ở đấy bên trước giang môn (lỗ đít).
Bên sau lưỡng âm chỉn khôn,
Rất chính ở giữa chớ còn hồ nghi.
Bảo hòa suy Nhâm mạch từ đấy,

2501. Lại lấy lên rốn bộ hai hàng.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về thốn đo dọc trước thân chia theo 3 phần:

- Phần ngực từ huyệt Thiên đột đến huyêt Trung đình: 9 thốn.

- Bụng trên từ huyệt Trung đình đến giữa rốn: 8 thốn.

- Bụng dưới từ huyệt Thần khuyết đến huyệt Khúc cốt: 5 thốn.

(93) Huyệt Cưu vỹ ở trên rốn 7 thốn (theo sách châm cứu ngày nay): Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 23, 2018, 09:53:27 AM
4. BÀN VỀ CÁC HUYỆT HAI BÊN MẠCH NHÂM

Cứ Tuyền cơ huyệt đo ngang (95),
Một bên hai tấc lưỡng bàng cho thông (95b).
Ấy du phủ huyệt làm song,
Lại cứ Du phủ đo cùng xuống ngay.
Một tấc với sáu phân này,
Ấy Quắc trung huyệt khi nay cho tường.
Đo Quắc trung xuống một đường,
Sáu phân một tấc hòa lường chớ nghi.
Ấy Thần tàng huyệt một khi,

2511. Lại cứ Thần tàng xuống vậy thì cho ngay.
Một tấc với sáu phân rày,
Ấy Linh khư huyệt thở rày cho thông.
Cứ Linh khư xuống làm song,
Sáu phân một tấc Thần phong huyệt ngồi.
Cứ Thần phong xuống một thôi,
Sáu phân một tấc vừa rồi Bộ lang.
Ấy là hung bộ lưỡng bàng (hai bên ngực),
Này phúc bộ (vùng bụng) huyệt hai hàng hòa gia:
Cứ Cự khuyết huyệt đo ra,

2521. Một bên tấc rưỡi (96) vậy hòa phải thay.
Hai bên một tấc thuở rày,
Là U môn huyệt đã tày chớ ghi.
Cứ U môn huyệt một khi,
Đo xuống một tấc vậy thì cho minh.
Ấy huyệt Thông cốc thực hình,
Cứ Thông cốc xuống cho minh hòa lường.
Đo lấy một tấc phải phương,
Là Âm đô huyệt một dường cho yên.
Từ Âm đô xuống Thạch quan,

2531. Thì có một tấc hòa bàn khi nay.
Bảo cho hay cứ Thạch quan huyệt,
Ấy xuống đấy thấy huyệt Thương khúc kia.
Cùng có một tấc như y,
Đoạn lui tức thì xuống huyệt Hoang du.
Cùng cứ thương khúc hòa đo,
Đo xuống hai tấc thì so đoạn tề (tầy đầu) (97).
Trung chú huyệt ấy chỉn ghê,
Ngang Âm giao huyệt vậy thì năm phân.
Tứ mãn đo ngang mấy nhuần,

2541. Cứ Thạch môn huyệt mà lường năm phân.
Lại lấy Khí huyệt cho cần,
Ngang Quan nguyên huyệt năm phân đấy rày.
Đo từ Khí huyệt xuống ngay,
Cứ một tấc chẵn điều vậy chớ ngoa.
Ấy huyệt Đại hách đã qua,
Này huyệt Hoành cốt vậy hòa cho hay.
Đo Đại hách xuống bằng nay,
Có một tấc chẵn để nay hòa lường.
Bảo cho tường đo hai hàng từ đấy,

2551. Lại lấy bộ tam hàng (hàng thứ 3) kia ơi (98):
Cứ từ U môn đo ra (theo phân thốn ở ngực) (98b),
Lấy một tấc rưỡi vậy hòa Bất dung.
Cứ Bất dung một tấc xuống đấy,
Là Thừa mãn huyệt ấy vừa đến ngôi.
Lại cứ Thừa mãn kia ơi,
Đo xuống cho rồi một tấc Lương môn.
Lương môn đo xuống Quan môn,
Thì có một tấc càng khôn thuở rày,
Cứ Quan môn đo xuống Thái nhất (Thái ất).

2561. Đo cho tất một tấc chớ ngoa.
Cứ Thái ất đo xuống hòa gia,
Đến huyệt Hoạt nhục /môn/vậy hòa mười phân.
Lại lấy Thiên xu cho cần,
Cứ giữa rốn ấy hòa nhuần đo ngang.
Một bên ba tấc (99) lưỡng bàng,
Hai bên sáu tấc (99) chính đường Thiên xu.
Cứ Thiên xu một tấc đến đấy,
Ngoại lăng huyệt ấy lại vừa đến nay.
Lại cứ Ngoại lăng xuống rày,

2571. Đo xuống một tấc khi nay cho tường.
Huyệt ấy Đại cự một dường,
Lại lấy Thủy đạo hòa lường cho thông.
Cứ Thiên xu huyệt xuống làm song,
Thủy đạo năm tấc (100) lẽ cùng chớ sai.
Bảy tấc (101) thì huyệt Quy lai,
Xuống đến tám rày (102) thì huyệt Khí xung.
Bảo cho thông bộ hàng đã hết,
Lại xem biết đệ tứ hàng kia:

2581. Đến tấc rưỡi vậy thì Kỳ môn (103),
Cứ Kỳ môn đo xuống Nhật nguyệt.
Bảo cho biết thì cứ năm phân (104),
Lại cứ Nhật nguyệt hòa nhuần.
Đo xuống tấc rưỡi ấy phần Phúc ai (105),
Xuống đến Đại hoành huyệt nay,
Cứ ngang giữa rốn đo ngang ấy rày.
Một bên ba tấc rưỡi này (106),
Hai bên bảy tấc (106) thì rày chẳng ngoa.
Ấy huyệt Đại hoành chẳng xa,

2591. Lại nói huyệt khác bảo ta mấy màu.
Đo Đại hoành xuống chớ lâu,
Lấy ba phân chẵn rằng Phúc kết nay (107).
Ấy là chính huyệt phải thay,
Lại cứ Hoành cốt khi nay hòa bàn:
Ba tấc Phủ xá cho an (108).
Lại cứ Đại hoành xuống ngay,
Lấy đo năm tấc huyệt rày Xung môn
Huyệt Xung môn thẳng ngay xuống ấy,

2600. Phải xem hòa lấy đấy mấy nên.

***

Ấy bộ tứ hàng đã yên,
Này phúc bộ tiếp (hông bụng) lưỡng bàng hai hàng.
Lại cứ Hạ quản đo ngang,
Một bên sáu tấc lưỡng bàng khi nay.
Hai bên mười hai tấc rày,
Chương môn thuở ấy huyệt này chớ nghi.
Lấy huyệt nằm ngửa một khi,
Hiệu là ngọa trắc bảo thì cho thông.
Lại lấy Kinh môn làm song,

2610. Mẻ xương sườn cụt liền cùng đấy nay (110).
Bảo cho hay cứ xương cụt ấy,
Đo xuống rày một tấc tám phân.
Lấy Đới mạch huyệt mà nhuần (111),
Đoạn lui lại nhuần lấy huyệt Ngũ xu (112).
Cứ Đới mạch xuống hòa đo,
Có ba tấc chẵn thì so cho tường.
Ở Thủy đạo bàng (bên) một dường,
Lại bảo hòa lường ở Thủy đạo ra.
Đo hai tấc rưỡi chớ ngoa,

2620. Ấy Ngũ xu huyệt vậy hòa làm song.
Bảo cho thông lấy Duy đạo huyệt (113),
Cứ Chương môn đo hết xuống ngay.
Năm tấc ba phân bằng nay,
Ấy Duy đạo huyệt tên rày lạ sao.
Huyệt Cự liêu (114) cứ Chương môn ấy,
Đo xuống đấy làm tấc ba phân (114).
Lại bảo cho biết ân cần,
Hiếp bộ từ đấy hòa nhuần chớ sai.

* Chú thích:

(95) Bàn về các huyệt hàng thứ 2 thuộc kinh Túc thiếu âm - thận.

(95b) Tấc đo ngang: kể từ đầu vú bên trái sang đầu vú bên phải là 8 thốn.

(96) Huyệt U môn ở ngang huyệt Cự khuyết đo ra cách 5 phân (không phải tấc rưỡi): Đính chính.

(97) Huyệt Hoang du ngang huyệt Thần khuyết (giữa rốn) cách dưới huyệt Thương khúc 2 thốn.

(98) Bàn về các huyệt ở hàng thứ 3 trước thân thuộc kinh Túc dương minh - vị.

(98b) Thốn đo ngang ngực như đã chú ở hàng thứ 2 (số 49b).

(99) Huyệt Thiên xu ở ngang rốn cách ra 2 thốn (không phải 3 thốn) tức là 2 bên 4 thốn (không phải 6 thốn): Đính chính.

(100) Huyệt Thủy đạo cách dưới Thiên xu 3 thốn (chép nhầm là 5 thốn): Đính chính.

(101) Huyệt Quy lai cách huyệt Thiên xu 4 thốn (chép nhầm là 7 tấc): Đính chính (xem chú thích (67) ở trên.

(102) Huyệt Khí xung cách dưới huyệt Thiên xu 5 thốn (không phải 8 tấc).

(103) Huyệt Kỳ môn thuộc kinh Túc quyết âm - can, ở ngang huyệt Cự khuyết đi ra cách 3,5 thốn (theo phân thốn ở ngực).

(104) Huyệt Nhật nguyệt thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở khoảng sườn thứ 7, dưới huyệt kỳ môn khoảng sườn thứ 6 độ 1 thốn (theo Giáp ất kinh là 1,5 thốn. Châm cứu đại thành là 5 phân).

(105) Huyệt Phúc ai thuộc kinh Túc thái âm - tỳ, ở dưới huyệt Nhật nguyệt 2 thốn (Đại thành : 1,5 thốn) hay trên huyệt Đại hoành 3 thốn.

(106) Huyệt Đại hoành thuộc kinh Tỳ ở ngang rốn đi ra, cách mỗi bên 4 thốn (không phải 3 tấc rưỡi) tức hai bên 8 thốn (không phải 7 tấc).

(107) Huyệ Phúc kết (kinh Tỳ) ở dưới huyệt Đại hoành 1,3 thốn (không phải 3 phân chẵn).

(108) Huyệt Phủ xá (kinh Tỳ) ở dưới huyệt Đại hoành 4 thốn 3 phân. Nếu lấy huyệt Hoành cốt làm mốc thì ngang trên huyệt Hoành cốt 7 phân đi ra mỗi bên 3,5 thốn.

(109) Huyệt Chương môn thuộc kinh Túc quyết âm - can, ở chỗ dưới chót xương sườn thứ 11.

(110) Huyệt Kinh môn thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở chỗ xương sườn cụt (thứ 12).

(111) Huyệt Đới mạch thuộc kinh Túc thiếu dương - đởm, ở khoảng giữa hai huyệt Chương môn và Kinh môn đi xuống, ngang với rốn, cùng các huyệt Đại hoành, Thiên xu.

(112) Huyệt Ngũ xu (khu) thuộc kinh Đởm, ở dưới huyệt Đới mạch, ngang với huyệt Quan nguyên, cách huyệt Thủy đạo 2,5 thốn.

(113) Huyệt Duy đạo thuộc kinh Đởm, ở dưới huyệt Ngũ xu 5 phân.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 24, 2018, 09:57:08 AM
C - BÀN VỀ CÁCH LẤY HUYỆT CỦA MƯỜI HAI KINH Ở TAY
(6 kinh ở hai tay) (*)

1. KINH THỦ THÁI ÂM - PHẾ

Này Thủ thái âm kể ra,

2630. Hiệu là kinh Phế vậy hòa cho hay.
Tả hữu hai mươi hai nay (115),
Thiếu thương ở rày góc móng cái trong.
Bảo cho thông vào bản tiết hậu,
Ngư tế huyệt ấy ở hầu mé bên.
Lại vào lấy huyệt Thái uyên,
Ở trong ngấn chỉ thuộc miền Thái âm.
Lại bảo rằng huyệt Kinh cự,
Ấy cùng liền đấy ở trong mé lên (116).
Cứ ngấn cổ tay cho yên,

2640. Đo vào tấc rưỡi vậy liền phải thay:
Ấy Liệt khuyết huyệt bằng nay,
Hoặc lấy thế này dị thủ phản thoa (tréo trái tay).
Tay úp tay ngửa kia là,
Hai kẽ tay cái lại hòa tréo nhau.
Cứ ngón trỏ ấy đến đâu,
Mực điểm áp đầu ngón trỏ làm ghi.
Lại đo tấc ấy như y,
Bằng chẳng hay chớ thì suy mà lường.
Bảo cho tường cứ uyển ngấn chỉ (ngấn cổ tay),

2650. Ấy đo vào đấy bảy tấc cho ngay:
Ấy Khổng tối huyệt khi nay.
Xích trạch giữa cánh tay làm song:
Bảo cho thông thì ngang thường thấy,
Thì lấy giữa ngấn mấy thường phải thay.
Lại cứ giữa vào đấy ngay,
Đo lấy năm tấc thuở rày cho yên.
Chỗ có vi động mạch (mạch nhảy nhỏ) lên,
Ấy Hiệp bạch huyệt là tên cho tường.
Lấy vào Thiên phủ một dường,

2660. Cứ dưới dịch (nách) ấy mà lường chớ xa.
Bẻ lấy ba tấc đo ra,
Bảo nó vậy hòa dăng cánh tay cao.
Bảo nó ngón mũi áp vào,
Lấy cho bằng mũi lẽ nào còn nghi.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về phân đoạn "thốn" ở tay ngày nay:

- Cánh tay từ ngang nách đến ngấn khuỷu tay: 9 thốn.

- Cẳng tay từ ngấn khuỷu tay đến ngấn cổ tay: 12 thốn rưỡi.

(114) Huyệt Cự liêu thuộc kinh Đởm, ở cách huyệt Duy đao 3 thốn, chếch xuống về phía sau. Huyệt Cự liêu ngang với huyệt Trung cực so với huyệt Chương môn ngang với khoảng giữa huyệt Hạ quản và Thủy phân thì chỉ cách nhau 5 thốn rưỡi (dọc bụng): Đính chính.

(115) Kinh Thủ Thái Âm - phế có mỗi bên 11 huyệt. Đây chỉ nêu lên mỗi bên 9 huyệt, còn hai huyệt Vân môn và Trung phủ không dùng. Kinh này trình bày từ huyệt "tỉnh" ở tay đi vào, khác với sách Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay, kể từ trong ngực đi ra.

(116) Huyệt Kinh cự ở phía trong đầu xương quay trên nếp gân cổ tay 1 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 25, 2018, 10:44:24 AM
2. BÀN VỀ HUYỆT CỦA KINH THỦ DƯƠNG MINH - ĐẠI TRÀNG

Này là thủ bộ Dương minh,
Huyệt ấy thuộc Đại tràng kinh một dàng.
Bảo cho tường có mười bốn huyệt (117),
Xem cho biết tả hữu hai hàng:
Trước xem thấy huyệt Thương dương,

2670. Ở ngón tay trỏ hòa lường cho thông.
Mé góc móng ấy ở trong,
Khử trảo giáp giác (cách góc móng) đều cùng phải thay.
Phỏng từ góc ấy vào rày,
Cách một lá hẹ huyệt rày mé bên.
Lại vào mé bản tiết tiền,
Nhị gian ở đấy đã yên những là.
Lại vào tiết hậu (sau đốt) chẳng xa,
Ấy Tam gian huyệt cũng là Dương khê (118).
Huyệt Dương khê bảo hòa cho biết:

2680. Chỗ cốt tiếp (khớp xương) lấy giữa mấy nên.
Hai gân thì ở hai bên,
Giữa uyển trắc (cạnh cổ tay) ấy vậy liền chớ nghi.
Cứ uyển trung (giữa cổ tay) ấy một khi,
Đo vào ba tấc như y cho tường:
Ấy chứng Thiên trụy (huyệt Thiên lịch) (119) một dường,
Lại bảo cho biết hòa lường mấy thông.
Tay kia bấm thiết làm song,
Xem cánh tay nó có dòng sớ đi.
Thẳng lên Khúc trì một khi,

2690. Bảo cho biết ấy hòa suy mà lường.
Cứ uyển nhiễu dòng sớ thiên (cứ chỉ cổ tay xiên lên),
Đo vào năm tấc vậy liền Ôn lưu.
Bảo trước cao cứ Khúc trì ấy,
Cứ theo dòng ấy hai tấc đo ra:
Ấy Tam lý huyệt kia là,
Lại cứ Tam lý đo ra cho rồi:
Ba tấc Thượng liêm chẳng sai (120),
Cứ đấy lấy thẳng ra ngoài một khi:
Đo bốn tấc ấy thực thì Hạ liêm (121),
Lại bảo cho Khúc trì cũng vậy.

2701. Hai đầu xương ấy huyệt vào trong khe,
Lại bảo cho biết kẻo nghi.
Trửu liêu, Khúc trì cũng ngang chếch nhau (122),
Cứ thì đo lên chớ lâu.
Ba tấc Ngũ lý, bảy hầu Tý nhu.
Kiên ngung khớp xương đầu vai,
Ấy lấy mực mài làm dấu chớ thiên.
Cự cốt huyệt ấy cũng liền,
Ngay xương vai cao lên cho tường.
Cùng có hai xương hai bên,

2711. Huyệt vào giữa một dàng phải thay.

* Chú thích:

(117) Kinh này có 20 huyệt. Đây nêu lên 15 huyệt, còn thiếu năm huyệt: Hợp cốc, Thiên đình, Phù đột, Hòa liêu, Nghinh hương.

(118) Sót huyệt Hợp cốc ở chỗ lõm giữa xương ngón tay cái và ngón tay trỏ giáp nhau (xem phần 2, mục 6, câu 1232 - 1234).

(119) Huyệt Thiên lịch đã chép nhầm là chứng Thiên trụy: Đính chính.

(120) Huyệt Thượng liêm ở dưới huyệt Khúc trì 3 thốn.

(121) Huyệt Hạ liêm ở dưới huyệt Khúc trì 4 thốn.

(122) Huyêt Trửu liêu ở trên huyệt Khúc trì 1 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 25, 2018, 11:04:32 AM
3. BÀN VỀ HUYỆT CỦA KINH THỦ QUYÊT ÂM - TÂM CHỦ

Này Thủ quyết âm: Tâm /bào/ kinh,
Thuộc vào bào lạc thực hình cho hay.
Tả hữu có mười một huyệt nay (123),
Trung xung giữa rày góc ngón tay trong.
Lại vào lấy huyệt Lao cung,
Giữa gan tay ấy cho thông hòa rằng.
Huyệt Đại lăng ở giữa cổ tay,
Ấy lại xem thấy có lưỡng cân gian (giữa hai gân).
Cứ ngấn đo vào Nội quan,

2721. Thì có hai tấc cho an những là.
Cứ ngấn ba tấc chớ ngoa,
Đo vào Giản sử huyệt hòa đấy nay.
Lại cứ ngấn ấy đo ngay,
Đo vào năm tấc huyệt rày Khích môn.
Mạch hãy còn vào nơi Khúc trạch,
Bảo cho hòa biết lấy mấy nên.
Cánh nó co lại giăng lên,
Bên trong giữa ngấn trũng liền đấy ra.
Huyệt ở giữa ngấn chẳng xa,

2731. Ấy Khúc trạch huyệt vậy hòa chớ nghi.
Bảo một khi cứ góc dịch (nách) ấy,
Đo ra đấy hai tấc chớ sai.
Huyệt ấy Thiên tuyền chính ngôi,
Cùng ngay Khúc trạch kia ơi những là.

* Chú thích:

(123) Kinh Thủ Quyết âm tâm - bào gồm 9 huyệt. Đây chỉ nêu lên 8 huyệt, không nói đến huyệt Thiên trì ở ngoài nuốm vú 1 thốn. Theo sách Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay thì thứ tự các huyệt kể từ trong ra.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 26, 2018, 07:55:31 AM
4. BÀN VỀ KINH THỦ THIẾU DƯƠNG - TAM TIÊU

Thủ thiếu dương kinh lại xem,
Hòa lấy tả hữu mọi phần cho yên.
Bốn mươi sáu huyệt hai bên (124),
Quan xung mé góc móng ngoài vô danh (ngón thứ tư).
Lại vào kẽ ngón vô danh,

2741. Giáp kẽ ngón út thực hình Dịch môn.
Trung trữ tiết hậu (sau khớp) thực song,
Là ngoại trắc hãm (chỗ lõm) ở bên mé ngoài.
Lại đo Dương trì vào ngay,
Giữa chỉ ngấn ấy thấy rày trũng sâu.
Bảo trước mầu đo Ngoại lăng [Ngoại quan] (125) huyệt,
Đo hai tấc ấy rày Nội quan.
Nội thì có lưỡng cân gian (giữa hai gân),
Ngoại thì lưỡng cốt (giữa hai xương) hòa bàn cho thông.
Chi câu cứ uyển (cổ tay) vào trong,

2751. Thì có  ba tấc làm song những là.
Hội tông huyệt ấy chẳng xa,
Ngang ra một tấc vậy hòa chớ nghi.
Tam dương lạc huyệt một khi,
Cứ lấy một tấc chẵn (126) vậy thì đo lên.
Lại lấy Tứ độc cho yên,
Cứ thì đấy rày năm tấc đo ra (127).
Lại lấy Thiên tỉnh kia là,
Bảo nó vậy hòa dăng cánh áp nương.
Xem nơi khúc trửu (khuỷu tay co) cho tường,

2761. Có nắm thịt ấy một dường cao lên.
Cứ đo trửu (khuỷu) ấy cho yên,
Đo thẳng lên liền một tấc mấy yên.
Huyệt ấy có lưỡng cân gian,
Chân Quyền lại bàn thấy ấy chớ thông.
Thoa thủ án tất (tréo tay ấn gối) làm song,
Lưỡng cân cốt ấy đều cùng trổ ra.
Tự nhiên thấy trũng những là,
Cứ đấy lấy huyệt vậy hòa mấy hay.
Lại hòa thẳng cánh cho ngay,

2771. Cứ trửu (khuỷu tay) thuở này hai tấc đo lên:
Ấy Thanh lanh huyệt là tên,
Tiêu lịch (lạc) huyệt liền trệ dưới vai.
Góc nách ấy thiên ra ngoài,
Lấy ngay giữa huyệt chớ sai chi là.

* Chú thích:

(124) Kinh Thủ Thiếu dương - Tam tiêu gồm 23 huyệt mỗi bên, đây được nêu lên 11 huyệt, còn thiếu 12 huyệt: Nhu hội, Kiên liêu, Thiên liêu, Thiên dũ, Khế mạch, Lư tức, Giác tôn, Hòa liêu, Ty trúc không, Ế phong, Nhĩ môn.

(125) Huyệt Ngoại quan chép nhầm là Ngoại lăng: Đính chính.

(126) Huyệt Tam dương lạc ở trên huyệt Chi câu 1 thốn, hay trên huyệt Dương trì 4 thốn.

(127) Huyệt Tứ độc ở trước khuỷu tay đo ra 5 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 26, 2018, 10:55:26 AM
5. BÀN VỀ KINH THỦ THIẾU ÂM - TÂM

Thủ thiếu âm - Tâm kể ra,
Tả hữu vậy hòa mười tám huyệt nay.
Thiếu xung huyệt rày ở ngón út tay,
Ta thì xem lấy góc móng bên trong.
Vào bản tiết hậu làm song,

2781. Thiếu phủ huyệt ở bàn tay trong lòng.
Thiếu phủ hoành trục (thẳng ngang) Lao cung một đường,
Ở bên ngưỡng chưởng (ngửa bàn tay) cho tường.
Lại bảo biết ấy hòa lường kẻo nghi,
Vào Thần môn huyệt một khi,
Giữa ngấn chỉ ấy giáp vì Đại lăng.
Lại bảo rằng các huyệt cũng vậy,
Lấy ngấn đo vào đấy cho ngay:
Năm phân Âm khích bằng nay,

2790. Một tấc Thông lý ấy rày trùng ngôi.
Linh đạo tấc rưỡi cho rồi,
Phép lấy tấc rưỡi kia ơi những là.
Hoặc vượt qua vào Thiếu hải huyệt,
Bảo cho biết giữa cánh bên trong.
Gò xương dăng lấy làm song,
Cứ mé xương ấy cho thông lấy rày.
Hoặc là ta lấy thế này,
Cứ trửu (khuỷu) ba tấc vào liền.

2800. Ấy Thanh linh tuyền huyệt tên cho tường,
Vào ngay gần nách một dường.
Sờ nơi động mạch hòa lường hòa suy,
Ấy huyệt Cực tuyền môt khi.
Huyệt ấy vậy thì có lưỡng cân gian.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 06:35:40 AM
6. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH THỦ THÁI DƯƠNG - TIỂU TRÀNG

Thủ Thái dương - tiểu tràng kinh ấy,
Ta thì lấy đấy tả hữu hai bên:
Ba mươi tám huyệt cho yên,
Thiếu trạch ở liền ngón út khi nay.
Ở mé góc ngoài móng tay,

2810. Hiệu là ngoại trắc thuở này cho thông.
Vào bản tiết hậu làm song,
Là huyệt Tiền cốc ở liền mé bên.
Lại bảo vào liền bản tiết hậu,
Ấy thì Hậu khê ấy chẳng sai.
Vào ngay cổ tay kia ơi,
Có xương ở đấy hòa coi cho tường.
Phải lấy chước ấy hòa lường,
Tiền uyển trắc hãm (chỗ lõm mé trước cổ tay) mà lường phải thay.
Ấy huyệt Uyển cốt khi nay,

2820. Lại đầu xương ấy vào rày giữa khe:
Là huyệt Dương cốc chớ nghi.
Lại cứ Dương cốc một khi cho tường:
Đo vào một tấc mà lường.
Ấy huyệt Dưỡng lão một dường cho thông,
Năm tấc Chi chính làm song.
Cứ đo Dương cốc đều cùng phải thay,
Bảo cho hay cứ đầu xương ấy.
Thì xem đấy hai đầu hai bên,
Huyệt vào giữa khe cho yên:

2830. Ấy Tiểu hải huyệt là tên thưc rày.
Bảo cho hay mười hai kinh thủ,
Dọn đã đủ từ đấy chẳng sai.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 07:02:40 AM
D - BÀN VỀ MƯỜI HAI KINH Ở CHÂN
(6 kinh ở 2 chân) (*)

7. LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THÁI ÂM - TỲ

Này Túc tả hữu Tỳ kinh,
Hai bên tả hữu thực hình kể ra:
Bốn mươi hai huyệt chẳng ngoa (128),
Ẩn bạch ở hòa góc móng chân trong.
Bảo cho thông vào bản tiết hậu,
Sau Đại đô huyệt ở đâu nay.
Cứ bản tiết hậu cho ngay,

2840. Giữa nơi hạch cốt (đốt thứ 2) lấy rày mấy nên:
Ấy Thái bạch huyệt mé bên.
Lại cứ tiết hâu ngay liền vào trong,
Đo vào một tấc làm song,
Ấy Công tôn huyệt cho thông một dường.
Bảo cho tường xem trong thuở ấy,
Mé mắt cá có chỗ trũng sâu.
Lấy ra trước một tý mấy mầu:
Ấy Thương khâu huyệt ở đầu (gần) đấy nay.
Bảo cho hay cứ nội khỏa (mắt cá trong) ấy,

2850. Đo lên đấy ba tấc lạ sao,
Bấm trũng huyệt Tam âm giao.
Lấy mé xương ấy lẽ nào chớ nghi,
Bẻ lấy sáu tấc một khi.
Cùng nội khỏa ấy đo thì lên ngay,
Lấy mé xương ấy khi nay.
Là Lậu cốc huyệt thuở này là tên,
Cứ ngấn gối ấy cho yên.
Đo lên năm tấc là miền Địa cơ,
Lại bảo cho Âm lăng tuyền huyệt.

2860. Bắt chân nó mà duỗi thẳng ra,
Lần tìm chỗ trũng vào hòa.
Mé xương huyệt ấy biết là mấy thông,
Phải cứ Dương lăng tuyền làm xong.
Đo ngang sang đấy đối đồng bằng nhau,
Ngay mé Địa cơ ở đâu?
Ở ngay Địa cốt (Địa kiện) (129) có dòng đo lên,
Huyệt Âm lăng tuyền đã yên.
Lại lấy Huyết hải ở bên gối này,
Gài mé bánh chè khi nay.

2870. Đo ngang xuống (130) rày hai tấc cho tinh,
Giữa chỗ thịt trắng phân minh.
Lần lấy thực hình có chỗ sâu chăng,
Trũng thì phải huyệt thực song.
Đoạn ta lại lấy Cơ môn huyệt rày:
Cứ đo Huyết hải lên ngay,
Có sáu tấc chẵn xem rày cho minh,
Huyệt thì ở giữa khe gân.
Lại xem động mạch có chăng đấy rày,
Phải huyệt thì động mạch ngay.

2880. Ấy Tỳ kinh túc huyệt rày chép ra.

* Chú thích:

(*) Phụ chú về phân đoạn "thốn" ở chân ngày nay:

- Phần đùi vế: 18 thốn (từ ngang huyệt Khí xung đến huyệt Độc tỵ).

- Phần cẳng chân: 16 thốn (từ huyệt Độc tỵ đến huyệt Giải khê).

(128) Kinh Túc Thái âm - Tỳ, mỗi bên có 21 huyệt. Mục B.4 ở trên đã nói về 4 huyệt: Đại hoành, Phúc kết, Phủ xá, Xung môn. Bài này giới thiệu 11 huyệt, còn 6 huyệt không nêu lên là Phúc ai, Thực đậu, Thiên khê, Hung hương, Chu vinh, Đại bao (không dùng).

(129) Huyệt Địa cơ trên huyệt Địa kiện 1 thốn (Địa kiện là huyệt ngoài kinh, đây đã chép nhầm là huyệt Địa cốt: Đính chính).

(130) Huyệt Huyết hải ở mé trong đầu xương bánh chè thẳng lên 2 thốn (đây chép nhầm là đo ngang ra 2 tấc: Đính chính).


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 09:20:01 AM
8. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC QUYẾT ÂM - CAN

Này là bộ Túc quyết âm,
Thuộc Can kinh ấy chớ nhầm làm chi.
Lường xem tả hữu hòa suy,
Hai mươi sáu huyệt vậy thì chẳng sai (131).
Đại đôn góc móng cá ngoài,
Hành gian ngồi rày giáp kẽ ngón chân.
Lại bảo cho biết hòa phân,
Cùng có động mạch mà nhuần mấy thông.
Lại vào xem huyệt Thái xung.

2890. Cứ bản tiết hâu làm xong đo rày,
Đo vào hai tấc khi nay.
Hoặc là tấc rưỡi thuở này lường suy,
Bảo nó duỗi chân một khi.
Bàn chân các ngón vậy thì co lên,
Xem nội khỏa nó ư liền (trước mắt cá trong).
Gọi là mắt cá nhận nhìn cho lâu,
Ta ấn xem chỗ trũng sâu:
Ấy Trung phong huyệt ở hầu đấy nay.
Bảo cho hay giữa mắt cá ấy,

2900. Đo lên đấy một tấc mấy nên.
Cứ trong nội khỏa đo lên,
Giữa ống chân ấy áp liền cho ngay.
Đo lấy năm tấc khi nay:
Ấy Lãi câu huyệt thuở này đến khu (nơi).
Bảy tấc thì huyệt Trung đô,
Cùng cứ thuở ấy chớ lo làm gì.
Bảo kẻo nghi lấy trong xương ấy,
Thì xem đấy tủy /hành/ cốt chính trung (giữa xương ống chân).
Lại lấy Tất quan làm vong,

2910. Cứ Độc tỵ xuống cho thông hòa lường.
Đo xuống hai tấc phải phương,
Huyệt ấy ở giữa tủy xương thuở này.
Bảo cho hay giữa góc vế ấy,
Sờ góc ấy có lưỡng cân gian (khoảng giữa hai gân).
Thượng đại hạ tiểu (trên to dưới nhỏ) như bàn,
Ấy lấy ở giữa cho an những là.
Lại bảo ta lấy huyệt này là khó,
Lại bảo nó tọa cứ (ngồi nhổm) cho ngay.
Lại bảo xem góc vế ấy này,

2920. Có ngấn chỉ trạng thuở này sờ lên.
Lấy áp đầu ngấn cho liền,
Ấy gọi là huyệt Khúc tuyền phải phương.
Lại bảo cho tường một hai huyệt ấy,
Xem cho biết luận chứng mà suy.
Lại lấy Âm bao một khi,
Cứ đầu góc ngấn ấy lấy thì cho ngay.
Đo vào bốn tấc khi nay,
Huyệt vào đấy rày có lưỡng cân gian.
Cứ lại Khí xung cho an

2930. Đo xuống Ngũ lý hòa bàn cho minh.
Có ba tấc chẵn thực hình,
Âm liêm hai huyệt cho tinh ngày rày.
Cùng huyệt Khí xung lạ thay,
Huyệt có động mạch cho hay kẻo nhầm.

* Chú thích:

(131) Kinh Túc Quyết âm - Can có mỗi bên 14 huyệt. Mục B.4 ở trên đã chỉ dẫn 2 huyệt Chương môn và Kỳ môn ở vùng hông bụng, bài này giới thiệu 11 huyệt, còn huyệt Cấp mạch (không dùng) ở dưới huyệt Khí xung 1 thốn, trên huyệt Âm liêm 1 thốn hay trên huyệt Ngũ lý 2 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 09:35:19 AM
9. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC DƯƠNG MINH - VỊ

Này là bộ Túc Dương minh,
Huyệt vào đến Vị kinh chẳng dời.
Tả hữu huyệt có ba mươi (132),
Lệ đoài ngón trỏ góc ngoài bên nay.
Bảo cho hay vào bản tiết hậu,

2940. Ấy Nội đình huyệt ở đấy giữa khe.
Lại bảo Hãm cốc một khi,
Cứ Nội đình huyệt hòa suy đo vào.
Có hai tấc chẵn lạ sao,
Lấy cho phải giữa chớ vào kẽ gân.
Cứ Hãm cốc ấy góc chân,
Được có năm tấc ấy phần Xung dương (133).
Bảo cho tường cứ giữa trũng ấy,
Huyệt Xung dương ở đấy đã yên.
Lại cứ Xung dương đo lên (134),

2950. Có một huyệt ấy ở miền Giải khê.
Cứ huyệt Xung dương một khi,
Tám tấc ấy thì tên gọi Phong long (135).
Bảo cho thông cứ Tam lý ấy,
Đo xuống đấy ba tấc Thượng liêm (Thượng cự hư) (136).
Cứ Cự hư ba tấc xuống dưới,
Hạ liêm (Hạ cự hư) (137) thì vừa đấy khi nay.
Lại cứ Hạ liêm khi nay (37),
Hạ liêm (137) làm cứ (mốc) thuở này lên ngay.
Điều khẩu một tấc cho hay,

2960. Xem mắt đầu gối khi nay mà lường.
Hai huyệt Quỷ nhãn cho tường,
Hai bên Độc tỵ ở giữa bày lên.
Kìa Lương khâu huyệt ở bên gối này:
Cứ đấy đo lên cho ngay.
Có hai tấc chẵn giữa rày hai gân,
Cứ gối đo lên cho cần.
Ba tấc Âm thị hòa nhuần cho thông,
Khiến nó vái xuống cúc cung (lạy).
Tự nhiên thấy trũng sẽ dùng phải thay,
Cho hay lại từ gối ấy.

2971. Đo lên đấy sáu tấc cho minh:
Ấy huyệt Phục thỏ thực hình,
Giữa nơi cao thịt ấy tình lường chi.
Lại lấy Bễ quan một khi (138),
Giữa nơi ngấn chỉ kinh rày đi ra:
Phỏng ngay Phục thỏ kia là,
Lại bảo vậy hòa ngấn giữa ấy ra.

Phải huyệt lại song cho tường.

* Chú thích:

(132) Kinh Túc Dương minh - vị gồm 45 huyệt. Bài này giới thiệu 15 huyệt, và mục B.4 ở trên đã chỉ dẫn 12 huyệt ở hai bên mạch Nhâm, còn thiếu 18 huyệt không được nêu lên (xem phần tóm tắt mục K.3 ở sau). Kinh này trình bày từ chân đi lên khác với Châm cứu đại thành.

(133) Nguyên bản chú thích: Huyệt Xung dương cách huyệt Hãm cốc 3 tấc.

(134) Huyệt Giải khê ở trên huyệt Xung dương 1,5 thốn.

(135) Huyệt Phong long ở trên mắt cá ngoài 8 thốn (không phải cách huyệt Xung dương 8 tấc): Đính chính.

(136) Ở dưới huyệt Túc tam lý 3 thốn là huyệt Thượng cự hư (sách chép nhầm là Thượng liêm): Đính chính.

(137) Ở dưới huyệt Thượng cự hư 3 thốn là huyệt Hạ cự hư (sách chép nhầm là huyệt Hạ liêm): Đính chính.

(138) Huyệt Bễ quan ở trên huyệt Phục thỏ 6 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 04:02:04 PM
10. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THIẾU ÂM - THẬN

Này Túc Thiếu âm - Thận kinh,

2980. Tả hữu thực hình huyệt có hai mươi (139).
Xem giữa gan chân kia ơi,
Co chân thấy trũng huyệt rày chính ngôi.
Ấy phải Dũng tuyền chẳng sai,
Lại xem nội khỏa (mắt cá trong) khi nay hòa lường.
Có xương trước mắt rày,
Lấy áp xương ấy thuở rày mé bên:
Ấy là Nhiên cốc chính tên,
Thái khê ở liền sau mắt cá trong.
Bên trên xương gót làm xong,

2990. Huyệt có động mạch mấy thông những là.
Đại chung tại hậu (ở sau) năm phân chớ xa,
Lấy áp xương ấy vậy hòa cho hay.
Bảo cho hay cứ Thái khê ấy,
Đo xuống đấy một tấc cho minh:
Là Thủy tuyền huyệt thực hình,
Lại lấy Chiếu hải cho tinh một đường.
Ở dưới nội khỏa (mắt cá trong) cho tường,
Lấy như Thân mạch hòa lường cho thông.
Cứ nội khỏa ấy làm song,

3000. Đo lên hai tấc ấy dòng Phục lưu.

* Thêm phần viết bằng chữ Hán (140):

 Giao tín: 2 huyệt ở trên mắt cá trog 3 thốn (141), trước huyệt Phục lưu sau Tam âm giao, ở khoảng gân xương bắp ống chân thuộc Âm kiểu. Trị sa hòn dái, đái són (lâm lậu) đau gấp ở xương đùi, xương ống chân, cùng chứng ỉa chảy, kiết lỵ, phụ nữ khí hư rong huyết không dứt. Châm 4 phân cứu 3 mồi.

 Trúc tân: 2 huyệt ở bắp chân trên mắt cá trong, giữa xương sau, trên gân to, dưới gân nhỏ, co chân mà lấy huyệt (142). Chữa trẻ con sài không bú, điên cuồng nói nhảm, nôn mửa, đau trong bắp chân. Có thể châm 3 phân cứu 5 mồi.

 Âm cốc: 2 huyệt ở trong đầu gối (đầu trong nếp gấp khoeo chân), sau xương phụ, dưới gân to, trên gân nhỏ, chỗ có động mạch, co gối mà lấy huyệt. Là nơi của mạch của kinh Túc thiếu âm thận hợp vào. Chữa đau đầu gối như dùi đánh không thể co duỗi, thè lè lưỡi chảy dãi, phiền nghịch, đái ít, trong đùi bắp teo, liệt sinh dục, phụ nữ bạch đới, rong huyết, bụng trướng căng, khó thở, tiểu tiện vàng, nam thì như cổ trướng, nữ thì như có mang. Có thể cứu 3 mồi.

* Chú thích:

(139) Kinh Túc Thiếu âm - Thận, có mỗi bên 27 huyệt, bài ca giới thiệu 7 huyệt và được phụ thêm bằng chữ Hán 3 huyệt, còn 17 huyệt không nêu lên (xem bảng tóm tắt phần IV, mục K.VIII).

(140) Những phần viết bằng chữ Hán về vị trí và tác dụng của các huyệt từ đây đến cuối có thể do người đời sau bổ sung vào những tờ cuối của nguyên bản bị rách nát.

(141) Huyệt Giao tín ở trên mắt cá trong 2 thốn (không phải 3 thốn), trước huyệt Phục lưu 5 phân, trên huyệt Thái khê 2 thốn, xê dưới huyệt Tam âm giao ở trước.

(142) Huyệt Trúc tân ở thẳng trên mắt cá trong, trên huyệt Thái khê 5 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 27, 2018, 04:25:18 PM
11.  BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THIẾU DƯƠNG - ĐỞM

Này Túc Thiếu dương - Đởm kinh,
Tả hữu thực hình hai mươi tám huyệt nay (143).
Xem ngón vô danh chớ chầy,
Góc ngoài móng ấy khi nay cho tường:
Ấy huyệt Khiếu âm phải phương.
Đoạn lui lại lường lấy huyệt Hiệp khê:
Cứ bản tiết hậu một khi.
Xem nơi kỳ cốt giữa thì khe chân,
Cứ Hiệp khê huyệt cho cần,

3010. Đo vào một tấc hòa nhuần cho thông.
Ấy Đia ngũ /hội/ huyệt làm song,
Lại bảo tiết hậu hãm trung (chỗ lõm sau đốt xương) đo vào.
Có một tấc rưỡi lạ sao,
Ấy chỗ huyệt nào cho biết kẻo nghi.
Vượt qua gân ngón út đi,
Gân ấy vậy thì đằng ngón út lên.
Lấy giữa gân ấy cho yên,
Vậy huyệt /Túc/ Lâm khấp là tên cho tường.
Xem nơi ngoại khỏa (mắt cá trong) một dường.

3020. Là dưới mắt cá hòa lường khi nay (14),
Cứ huyệt Lâm khấp vào ngay.
Đo vào ba tấc thuở rày Khâu khư,
Cứ giữa ngoại khỏa (mắt cá ngoài) y như.
Đo lên ba tấc chớ dư chi là:
Ấy huyệt Huyền chung hỏi qua.
Lại rằng Tuyệt cốt vậy hòa phải thay,
Bảo cho hay cứ ngoại khỏa ấy.
Đo lên trên bốn tấc chớ sai:
Ấy huyệt Dương phụ khi nay.

3030. Đo lên năm tấc huyệt Rày Quang minh,

* Phần thêm bằng chữ Hán:

 Ngoại khâu: 2 huyệt, ở chỗ lõm xương trên mắt cá ngoài 6 thốn (145) là nơi sở sinh của kinh mạch Túc thiếu dương. Trị da đau tê liệt, hông sườn trướng đầy, đau ở đỉnh đầu, sợ gió lạnh, bệnh điên. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

(Lược bỏ một dòng về chữa bệnh chó dại cắn không liên quan đến huyệt này, do người đời sau chép xen vào).

 Dương giao: 2 huyệt, cùng huyệt Ngoại khâu đều ở trên mắt cá ngoài 7 thốn, hướng xế về phần thịt tam dương /ngang huyệt Ngoại khâu ở sau/. Trị nóng rét kinh cuồng, họng đau, lưng (hông) ngực căng đầy, mặt thũng tê lạnh, gối chân không co vào được. Châm 6 phân, lưu 7 hô, cứu 3 mồi.

 Dương lăng tuyền: 2 huyệt, ở chỗ lõm phía ngoài ống chân, dưới khớp xương đầu gối 1 thốn, ngồi nhổm mà lấy huyệt. Đó là nơi của kinh mạch Túc Thiếu dương đi vào. Châm 6 phân cho đắc khí, nếu đi tả thì cần phải lưu châm lâu. Chủ trị đầu gối không co duỗi được, chân lạnh tê dại, trúng phong liệt nửa người, chân lạnh da trắng bệch thì cứu 7 đến 49 mồi càng tốt.

 /Tất/ Dương quan: 2 huyệt, ở trên huyệt Dương lăng tuyền 2 thốn (3 thốn) chỗ lõm dưới huyệt Độc tỵ (146) phía ngoài ống chân, ngổi nhổm mà lấy huyệt. Chữa đau ngoài đầu gối, khó co duỗi, phong tê mất cảm giác. Châm 5 phân, cấm cứu.

 Trung độc: 2 huyệt, ở chỗ lõm khoảng thăn thịt ngoài xương đùi to, trên đầu gối 5 thốn, chỗ có lạc mạch của Túc thiếu dương. Chữa khí lạnh nhiễm vào phần cơ thịt ở đùi sinh đau rằng lên trên và xuống dưới, gân thịt tê dại. Cứu 5 mồi, châm 3 phân, lưu 7 hô.

 Phong thị: 2 huyệt, chủ trị phong lở đau khớp. Lấy huyệt: người bệnh đứng thẳng, 2 tay buông xuống, ngón tay giữa đến chỗ nào thì lấy huyệt ở đấy.

 Hoàn khiêu: Huyệt ở giữa chỗ trũng sau xương mông. Nằm nghiêng co chân trên, duỗi chân dưới mà lấy huyệt, châm 1 thốn, lưu 10 hô, cứu 5 mồi. Trị phong thấp tê lạnh, mề đay (phong chẩn), phong liệt nửa người, lưng đùi đau không thể trở mình được.

* Chú thích:

(143) Kinh Túc Thiếu dương - Đởm có 44 huyệt. Đây giới thiệu 15 huyệt, với 6 huyệt đã nói ở mục B.4, cộng 21 huyệt (xem phần tóm tắt mục k.11). Các huyệt được trình bày từ chân đi lên khác với Châm cứu đại thành.

(144) Huyệt Túc lâm khấp ở chỗ lõm sau đốt xương thứ nhất của ngón thứ tư về phía ngón út, cách huyệt Khâu khư trước mắt cá ngoài 3 thốn.

(145) Huyệt Ngoại khâu ở ngang sau huyệt Dương giao trên mắt cá ngoài 7 thốn (không phải 6 thốn): Đính chính.

(146) Huyệt Tất dương quan ở trên huyệt Dương lăng tuyền 3 thốn (không phải 2 thốn) chỗ lõm mé ngoài trên huyệt Độc tỵ (không phải dưới huyệt Độc tỵ): Đính chính.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 28, 2018, 09:00:50 AM
12. BÀN VỀ LẤY HUYỆT CỦA KINH TÚC THÁI DƯƠNG - BÀNG QUANG

Này là /Túc/ Thái dương - Bàng quang,
Ba mưới sáu huyệt lưỡng hàng hai bên (147).

 Chí âm: 2 huyệt, ở mé cạnh ngoài ngón chân út, cách góc móng bằng một lá hẹ (1 phân) là nơi mạch của Túc Thái dương đi ra, làm huyệt Tỉnh. Chủ trị mắt sinh màng mộng, mũi tắc đầu nặng, phong hàn theo ngón.

Chân út dấy lên sinh tê thấp, bạch đới, đau hông sườn, thỉnh thoảng rút gân, hàn tà không ra mồ hôi, tâm phiền, dưới chân nóng, tiểu tiện không lợi, di tinh. Châm 3 phân, cứu 3 mồi.

 Thông cốc: 2 huyệt, ở chỗ trước đốt xương mé ngoài ngón chân út, là nơi của kinh mạch Túc Thái dương chạy đến làm huyệt Huỳnh. Chữa đau đầu chóng mặt, lở họng, chảy máu mũi, cứng gáy, chảy nước mũi, đau tức hông sườn, tim bồn chồn kinh sợ. Và theo Chân Quyền nói thì chữa cả tích kết, ăn uống không tiêu. Châm 2 phân, cứu 3 mồi.

 Thúc cốt: 2 huyệt, ở chỗ lõm sau đốt xương mé ngoài ngón chân út, là nơi kinh mạch Túc Thái dương dồn đến, làm huyệt Du. Chữa đau eo lưng như gãy, mông trệt như kết, tai điếc, sợ gió lạnh, chóng mặt đau gáy không thể quay cổ được, tròng mắt đỏ chói. Cứu 3 mồi.

 Kinh cốt: 2 huyệt, ở dưới xương to mé ngoài chân, chỗ lõm nơi giáp thịt trắng đỏ, có kinh mạch Túc Thái dương đi qua làm huyệt Nguyên. Chữa đau đầu gối không thể co duỗi được, nóng đầu, chóng mặt, trong khóe mắt có màng trắng, phát cơn sốt rét, hay kinh rùng mình, kém ăn, gân liệt chân tê, đau cổ, cứng gáy, sống lưng và chân cẳng cúi ngửa vận động khó khăn, chảy máu mũi không dứt. Cứu 7 mồi.

 Thân mạch: 2 huyệt, là nơi mạch Dương kiểu đi ra, ở chỗ lõm trước chân, dưới mắt cá ngoài (5 phân), cách chỗ giáp thịt trắng đỏ khoảng móng tay. Chữa đau eo lưng không thể cử động, thân thể và chân lạnh không thể ngồi lâu, nếu đi thuyền đi xe thì như quay cuồng, nóng rét. Châm 3 phân, cấm cứu.

 Kim môn: 2 huyệt, ở trước chân dưới mắt cá ngoài (148) là nơi kinh mạch Túc Thái dương và Dương duy rẽ ra. Trị hoắc loạn chuyển gân, chân gối mỏi ê, rung mình không thể đứng lâu, bị ngất, điên giản, bỗng đau hòn dái (sán khí) trẻ con kinh giản, miệng há đầu lắc lư, uốn ván. Châm 1 phân, cứu 3 mồi.

 Bộc tham: 2 huyệt, ở chỗ lõm dưới xương gót chân, cong bàn chân mà lấy huyệt. Chữa gót chân đau không muốn bén đất, chân liệt, chuyển gân, lạnh buốt tựa như trúng khí độc, bị ngất (thi quyết), hoắc loạn nôn ói, điên giản nói cuồng như ma làm. Châm 3 phân, cứu 7 mồi.

 Côn lôn: 2 huyệt, ở chỗ lõm trên xương gót chân, phía sau trên mắt cá ngoài (5 phân), là nơi kinh mạch Túc Thái dương đi qua, làm huyệt Kinh. Chữa eo lưng đau ngầm, bàn chân, gót sưng, chân nhức không thể đặt xuống đất, chảy máu mũi, nhức đầu, lưng đau gấp, ho suyễn, bỗng đau bụng dữ dội, đầy trướng, trẻ con lên cơn kinh giật. Châm 3 phân, cứu 5 mồi.

 Phụ dương: 2 huyệt ở chân, trên mắt cá ngoài 3 thốn. Châm 6 phân, cứu 3 mồi.

 Dương kiểu: Ở khoảng gân xương trước kinh Thái dương, sau kinh Thiếu dương, nơi mạch Âm kiểu đi ra. Trị bệnh nuy quyết phong tê, đau đầu gáy, nách, mông, ống chân đau phong co quắp, tê dại, có khi nóng rét, chân tay không cử động. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Phi dương: 2 huyệt lạc của Túc Thái dương, chạy rẽ sang kinh Túc Thiếu âm, ở trên mắt cá ngoài 7 thốn. Chữa bệnh trĩ, phong đau các khớp xương, ngón chân không thể co duỗi được, đầu mắt tối xẩm, khí nghịch đổ máu mũi, điên, rét cơn. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Thừa cân: 2 huyệt, ở sau bắp chân, chỗ giữa đùi đi xuống cẳng chân, trên ngấn cổ chân 7 thốn (11 thốn) (149). Chữa tê lạnh chuyển gân, chân thũng, đại tiện không thông, bắp chân đau buốt.

 Hợp dương: 2 huyệt ở chính giữa dưới khoeo gối 2 thốn. Chữa lưng sống đau cứng xiên ra bụng, trong háng vế nóng, đầu gối ê buồn, bước mạnh khó khăn, hàn sán âm nang lệch đau, phụ nữ rong huyết, bạch đới. Châm 6 phân, cứu 5 mồi.

 Thừa sơn: 2 huyệt, ở dưới bụng chân, chỗ lõm nơi rẽ ra thăn thịt, nhón bàn chân lên khỏi đất một bước mà lấy huyệt. Chữa lưng đau, chân rung, ống chân tê buốt đau ngặt, dưới bàn chân nóng, bệnh cước khí cẳng chân sưng đau không thể đứng lâu, chứng hoắc loạn chuyển gân, đại tiện không thông, bệnh trĩ sưng đau. Châm 7 phân, cứu 3 mồi.

 Ủy trung: Huyệt ở giữa ngấn chỉ ngang khoeo chân trong đầu gối, chỗ có động mạch, là nơi kinh mạch Túc Thái dương đi vào, làm huyệt Hợp. Chữa eo lưng giáp xương sống đau êm ẩm, vãi đái, đái són, lưng nặng khó trăn trở, mông đùi đau tê, có thể chích cho máu ra; chữa tràng nhạc lâu năm đều khỏi. Nay phụ thêm chữa bệnh chảy máu ở hậu môn, bệnh nhiệt mồ hôi không ra, chân nóng mà quyết nghịch, gối sưng không thể co duỗi, chích lấy máu ở kinh ra thì rất chóng khỏi.

 Ủy dương: 2 huyệt, ở chỗ chót ngấn chỉ ngang khớp đầu gối, giữa khoảng hai gân phía ngoài ống chân, cách huyệt Ủy trung 2 thốn (150), co chân mà lấy huyệt. Chữa dưới nách sưng đau, hông đầy căng, mình nóng rút gân co giật, nuy quyết, tê dại, són vãi đái. Có thể cứu 3 mồi, châm 7 phân.

 Phù khích: 2 huyệt, ở trên huyệt Ủy trung 2 thốn (1 thốn) (151) co đầu gối mà lấy huyệt. Chữa bụng dưới nóng, đại tràng kết, ngoài đùi gân rút, mông đít tê dại, đại tiện không thông, Bàng quang nóng. Châm 5 phân, cứu 3 mồi.

 Ân môn: 2 huyệt, ở chỗ trong đùi chân, dưới huyệt Thừa phù 6 thốn. Chữa đau lưng, xương sống không thể cúi ngửa được, cử động nặng nề, máu xấu ngưng tụ ngoài đùi sưng đau. Châm 5 phân, cấm cứu.

  Thừa phù: 2 huyệt, ở giữa ngấn chỉ ngang, dưới mông đít, trên vế trong. Chữa eo lưng xương sống dằng đau như kéo, trĩ mãn tính, sưng lỗ đít, đại tiện khó, tử cung âm đạo bị lạnh, vãi đái. Châm 1 phân.

* Chú thích:

(147) Kinh Túc Thái dương - Bàng quang có 67 huyệt. Ở đây được giới thiệu bằng chữ Hán 18 huyệt, có thể do người đời sau chép thay chỗ nguyên bản bằng ca bị khuyết. Bài ca mục B.2 ở trên đã nêu lên 17 huyệt, với huyệt Cao hoang nói ở phần I, cộng 36 huyệt (xem phần tóm tắt, mục K.7 ở sau). Kinh này đã trình bày các huyệt từ chân đi lên khác với ngày nay.

(148) Huyệt Kim môn ở trước chân dưới mắt cá ngoài, sau huyệt Kinh cốt, trước huyệt Thân mạch.

(149) Huyệt Thừa cân ở chính giữa bụng chân, trên ngấn cổ chân đi thẳng lên 11 thốn: Đính chính.

(150) Huyệt Ủy dương ở ngang huyệt Ủy trung cách nhau 1 thốn.

(151) Huyệt Phù khích ở trên huyệt Ủy dương 1 thốn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 28, 2018, 10:46:53 AM
BỆNH VỀ KỲ KINH

Bệnh kỳ kinh không phải tự nó sinh ra, vì nhân các kinh khác tràn ra mà chảy vào.

Bệnh Dương duy thì nóng rét. Bệnh Âm duy thì đau vùng tim. Bênh Dương kiểu thì dương cấp mà chạy cuồng. Bệnh Âm kiểu thì âm cấp mà chân thẳng đờ. Bệnh về Xung mạch thì khí nghịch mà Lý cấp (đau quặn trong bụng). Bệnh về Đốc mạch thì xương sống cứng, quyết nghịch như bẻ. Bệnh Nhâm mạch nam thì sa đì (đồi sán), nữ thì bạch đới, báng hòn. Bệnh Đới mạch thì bụng trướng đầy mà eo ưng lạnh buốt, ấy do 2 kinh Xung và Nhâm dẫn tới. Vả lại bệnh phụ nữa về vú sữa và kinh nguyệt là từ đấy mà ra (nam nữ khác nhau là ở chỗ ấy). Mạch kỳ kinh là như vậy.

Ba mạch: Dương kiểu, Dương duy và Đốc mạch đều thuộc dương chủ bệnh ở vai, lưng, eo lưng, đùi và chứng ở biểu.

Năm mạch: Âm kiểu, Âm duy, Nhâm mạch, Xung mạch, Đới mạch đều thuộc âm, chủ bệnh ở tâm, bụng, sườn, xương cụt, chứng nặng ở Lý.

Cách chia trên dưới xương sống làm ba bộ:

 - Thượng bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 4 phân 1 ly, là phần vai.

- Trung bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 6 phân 1 ly, là phần lưng.

- Hạ bộ 7 đốt, mỗi đốt 1 thốn 2 phân 6 ly, là phần eo lưng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 28, 2018, 10:50:18 AM
PHÉP LẤY HUYỆT Ở ĐẦU VÀ LƯNG ĐỂ CHỮA BỆNH

Thái dương trên Tử mạch: 2 huyệt ở bên trán, chỗ đuôi lông mày có động mạch. Chủ trị nhức đầu đau mắt chảy nước mắt. Cấm châm, nặng thì cứu 27 mồi, vừa thì cứu 7 mồi, nhẹ thì cứu 5 mồi.

Ngư vĩ: 2 huyệt, ở chỗ lõm ngoài đuôi mi đầu khóe mắt. Chủ trị mắt sinh màng, sít lại khó mở. Cứu 7 mồi.

Ấn đường: Huyệt ở giữa khoảng hai đầu lông mày. Chủ trị đau hai góc đầu, mắt không thấy rõ và trúng phong hôn mê không tỉnh. Cứu 49 mồi.

Uất trung: 2 huyệt, lấy bằng cách dùng một sợi rơm đo thẳng từ huyệt Đản trung đến huyệt Thiên đột, bẻ lấy một nửa (điểm mực đánh dấu ở đó). Rồi lấy một nửa sợi rơm ấy gấp lại làm hai, để vào chỗ đánh dấu mực ở giữa, đi ra hai bên là huyệt (ở hai đầu sợi rơm) vào chỗ lõm khoảng giữa hai xương. Cứu 14 đến 21 mồi, chủ trị hen suyễn, ho nhiều đờm. Người béo thì không nên cứu.

Nhũ ảnh: 2 huyệt. Lấy huyệt Đản trung làm mốc, dùng sợi rơm đo khoảng giữa hai nuốm vú, bẻ lấy một nửa, rồi đo từ nuốm vú thòng xuống đến đâu là huyệt ở đấy. Nam dùng bên tả, nữ dùng bên hữu mà cứu, chủ trị bệnh sốt rét cơn như thần (xem mục 25 phần II).

Phục nguyên: 2 huyệt, ở chỗ thịt đen thẳng trên nuốm vú, nam dùng bên tả, nữ bên hữu, cứ một tuổi cứu 3 mồi, 2 tuổi cứu 7 mồi. Chữa trẻ em kinh giản (xem mục 24 phần II).

Bối lam: Huyệt ở sau lưng. Cách lấy: bảo bệnh nhân đứng ngay thẳng, hai chân giáp bằng nhau, lấy dây khoanh chu vi hai bàn chân, bỏ chỗ dây thừa đi. Gấp đôi dây ấy cho cân, để chỗ giữa vào trên yết hầu, thòng hai đầu dây ra sau lưng (chập vào xương sống) đến đâu là huyệt đấy. Chủ trị bệnh sốt rét cơn rất hay, khi lên cơn hen thì cứu khỏi nóng rét. Nên cứu 21 mồi hoặc 14 mồi (xem mục 25 phần II).

Trực cốt: 2 huyệt, ở mép thịt đen dưới vú xuống (xem mục 5 phần II). Chủ trị ho lâu ngày không khỏi, nam dùng huyệt bên tả, nữ dùng huyệt bên hữu, cứu 7 đến 14 mồi.

Quan mạch: 2 huyệt ở trong bộ "Thốn", ngoài bộ "Xích" của mạch tay, huyệt này ở giữa. Chữa trúng phong tê dại mất cảm giác. Nên cứu 7 mồi.

Độc âm: 2 huyệt, ở giữa ngấn chỉ ngang dưới ngón chân thứ 2 . Trị thai chết trong bụng và nhau không ra. Cứu 5 mồi. Trị đẻ ngược thì dùng kim may nhỏ châm vào lòng bàn chân của đứa con 3 - 5 lần, sau kíp lấy ít muối xát bôi vào chỗ châm, thai liền ra.

Xung môn: 2 huyệt ở hai bên huyệt Khúc cốt cách ra mỗi bên 3 thốn (152) nơi có động mạch nhỏ. Chủ trị sa đì dái sưng to, cứu 14 mồi, cấm châm.

Khúc cốt: Huyệt ở trên xương mu, chỗ lõm đám lông, nơi có động mạch, ngang với huyệt Thận du (153).

Mỗ tự: 2 huyệt (đã nói ở mục 15 phần II) chủ trị bệnh sa đì.

Tử cung: 2 huyệt, ở hai bên huyệt Trung cực, cách mỗi bên 2 thốn (154) (xem mục 7 phần II). Chữa lạnh dạ con, kinh nguyệt không đều, huyết tụ thành hòn, bạch đới, hoặc trước khi thấy kinh mỏi mệt, lâu không có thai. Nên cứu 14 đến 21 mồi.

Đại cốt không: 2 huyệt ở trên đốt xương trước của ngón tay cái, co ngón tay mà lấy huyệt ở chỗ nhọn. Chủ trị nhức đầu đau mắt, chảy nước mũi không dứt. Cứu 3 mồi.

Tứ hoa ở đầu (Nay gọi là Tứ thần thông): Cách huyệt Bách hội đi ra 4 bên, trước sau và hai bên tả hữu, mỗi bên 1 thốn. Chủ trị phong ở đầu, mặt và mũi đều đỏ. Cứu 7 mồi hoặc 14 mồi. Cả huyệt Bách hội thì gọi là Ngũ hoa (xem mục 14 phần II).

Tiểu cốt không: 2 huyệt ở ngón tay trỏ, trên chỗ khớp xương thứ hai giáp đốt trước, co ngón tay mà lấy huyệt trên chỗ nhọn. Chủ trị phong ở đầu sinh màng mắt, liệt và máy mắt. Nên cứu 7 mồi.

Độc tuyên: 2 huyệt. Bảo người bệnh nằm ngửa, co gối, chập hai chân lại với nhau, lấy dây buộc chặt, cứu 2 đầu ngón chân giữa, chỗ cuối 2 ngón chụm lại. Cứu 3 mồi, chủ trị bệnh sa đì (hòn dái sưng sa xuống).

Đơn tuyên: 2 huyệt, ở khoảng hai đầu ngón tay thứ 4 và ngón út, lấy dây buộc chặt hai ngón lại với nhau, cứu ở chỗ hai đầu ngón giáp nhau, cứu 1 mồi hoặc 7 mồi. Chủ trị kinh giản, bệnh kính, Xí (co cứng hôn mê do trúng phong thấp), bệnh điên cuồng và các tật ở miệng.

Độc âm(155): 2 huyệt, cũng gọi là Chí âm, ở đầu ngón chân út. Như chảy máu mũi thì buộc hai ngón chân, cứu chỗ đầu hai ngón chập lại 3 mồi. Nếu là phụ nữ khó đẻ thì bảo bệnh nhân ngồi ở giường thòng chân xuống đất mà cứu, đẻ được thì thôi. Theo Từ Thị nói thì Chí âm ở mé cạnh ngoài ngón chân út cách góc móng 1 phân. Châm 2 phân cứu 3 mồi.

Kim tân - Ngọc dịch (156): 2 huyệt ở cách huyệt Liêm tuyền đi ra hai bên, mỗi bên 1,5 thốn. Chủ trị sưng lưỡi, sưng họng (song nga, đơn nga) và trúng phong cấm khẩu, cứu 7 mồi. Châm cứu huyệt này thì ngửa mặt mà lấy huyệt.

Tụ tuyền: 1 huyệt ở chót đầu lưỡi (157). Lấy lát gừng cách ly mà cứu lên trên. Như ho nhiệt thì dùng Hùng hoàng tán nhỏ cho một tý vào ngải mà cứu. Ho lạnh thì dùng Khoản đông hoa tán nhỏ trộn với Ngải mà cứu. Lại chữa lưỡi cứng, hen suyễn, ho lao. Cứu 7 mồi.

Hải tuyền: 1 huyệt ở dưới lưỡi, chỗ giữa chót ngoài da (158), cứu 7 mồi. Chữa lưỡi sưng to. Có bản sách nói Tụ tuyền và Hải tuyền là một huyệt.

Ngoại khỏa tiêm: 2 huyệt, ở trên chót xương mắt cá ngoài. Cứu 7 mồi. Chủ trị ống chân, cẳng chân chuyển gân (chuột rút) và vì lạnh cước khí đau chân.

Nội khỏa: 2 huyệt ở chân, chỗ thịt trắng đỏ (dưới mắt cá trong). Chủ trị 10 loại phù thũng bí nước, toàn thân trướng đầy. Cứu 3 mồi (159).

Giao tín (160): 2 huyệt, ở chân men gót đi lên 5 thốn. Chủ trị bệnh hàn sán (sa đì do lạnh), bụng dưới đau, tiểu tiện không lợi. Cứu 3 mồi.

Trung tuyền: 2 huyệt ở giữa lưng cổ tay (huyệt Dương khê ở trong Dương trì ở ngoài). Chủ trị tim đau và khí uất trong ngực khó chịu. Cứu 7 mồi.

Tỵ chuẩn: Huyệt ở  chót sống mũi đi lên 1 thốn. Chữa nghẹt mũi, tịt mũi không ngửi được, lại chữa mũi sinh mãn phong. Cứu 5 mồi, cấm châm.

Hoa đà (161): 2 huyệt ở ngón chân cái, chỗ thịt trắng đỏ, cạnh nó trong cách góc móng 5 phân. Chữa trúng nắng mình nóng. Cứu 3 mồi.

Toản trúc: 2 huyệt, ở chỗ lõm ngoài góc lông mày. Châm 1 phân, cấm cứu (xem mục 19 phần II). Chủ trị mắt nhìn không rõ.

Ngũ hổ (162): 4 huyệt, ở chỗ chót đầu các ngón tay trỏ, ngón giữa, ngón thứ tư. Nắm quắp lại mà lấy huyệt. Chủ trị ngón tay co quắp.

Tình minh: 2 huyệt, ở khóe mắt phía trong, chỗ lõm thịt đỏ. Đó là 5 mạch của các kinh Thủ, Túc thái dương, Thiếu âm, Dương kiểu, Âm kiểu, Túc dương minh hội lại. Châm 5 phân, cấm cứu. Chủ trị mắt nhìn không rõ, gặp gió thì chảy nước mắt, mắt màng mộng, đau đầu tối mắt.

Nhãn mã (163): 2 huyệt, chữa tia máu đỏ ở mắt. Sách Tư Sinh nói cứu 3 mồi. Huyệt Tình minh cũng vậy (163).

Cùng cốt: 1 huyệt ở trên huyệt Trường cường, chỗ đầu chót xương cùng (xem mục 13 phần II). Chủ trị 25 chứng giản cả thể cứng và thể mềm, điên cuồng, trĩ rò kiết lỵ đau quặn mót rặn. Cứu 5 mồi.

- Chữa đại phong (phong hủi): Phép chữa dùng kim hào châm, trước châm huyệt Tố liêu 3 lần cho ra máu, rồi châm huyệt Thừa tương và huyệt Ủy trung.

- Chữa chó dại cắn chưa phát hay đã phát lên cơn, dùng dây đo từ cuối mắt bên trái đến hết cuối mắt bên phải, bỏ phần thừa, rồi lấy dây ấyđo từ huyệt Ấn đường (chính giữa khoảng hai lông mày) lên đầu, đến cùng dây là huyệt ở đấy. Cứu 14 mồi, và lấy phân người khô đặt vào chỗ bị chó cắn mà cứu lên trên (164).

* Chú thích:

(152) Huyệt Xung môn ở ngang huyệt Khúc cốt đi ra cách 3,5 thốn, dưới huyệt Đại hoành 5 thốn.

(153) Huyệt Khúc cốt ở trên xương mu thuộc mạch Nhâm, ngang với huyệt Yêu du thuộc mạch Đốc trên xương cùng trôn (không phải ngang với Thận du): Đính chính.

(154) Huyệt Tử cung ở hai bên huyệt Trung cực ngang ra 3 thốn: Đính chính.

(155) Huyệt Độc âm (ngoài kinh) ở giữa ngấn ngang dưới ngón chân thứ 2, khác với huyệt Chí âm ở mé ngoài đầu ngón chân út thuộc kinh Bàng quang. Cả 2 huyệt đều có tác dụng chữa đẻ khó.

(156) Theo tài liệu ngày nay, cũng như sách Châm cứu đại thành thì hai huyệt Kim tân và Ngọc dịch ở dưới lưỡi trên tĩnh mạch. Kim tân ở bên tả, Ngọc dịch bên hữu, ở trên chỗ hầu kết 1 thốn, cách ra mỗi bên 3 phân. Còn hai bên huyệt Liêm tuyền thì gọi là Bàng Liêm tuyền.

(157) Theo Châm cứu đại thành thì huyệt Tụ tuyền ở chỗ giữa khe trũng trên lưỡi.

(158) Theo Châm cứu đại thành thì huyệt Hải tuyền ở trên mạch khoảng giữa phía dưới lưỡi.

(159) Khác với huyệt Nội khỏa tiêm ở trên chóp xương mắt cá trong, và tác dụng trị bệnh cũng khác.

(160) Xem huyệt Giao tín ở kinh Túc Thiếu âm thận (K.VIII).

(161) Khác với huyệt Hoa đà giáp tích ở sau lưng (theo tài liệu ngày nay).

(162) 4 huyệt Ngũ hổ ở chính giữa mặt sau khớp đốt xương 1 và 2 của ngón tay trỏ và ngón tay thứ 4 (theo Châm cứu đại thành và tài liệu ngày nay).

(163) Huyệt Nhãn mã không nói rõ vị trí. Huyệt này cũng không thấy chép trong Châm cứu đại thành, và cũng không thấy nói ở trong Châm cứu Tư Sinh. Hơn nữa huyệt Tình minh cũng không thể cứu được.

(164) Những kinh nghiệm chữa bệnh chó dại cắn và phong hủi trên đây được chép ở nguyên bản xen vào sau huyệt Độc âm và trước huyệt Xung môn, chúng tôi chuyển xuống sau cùng để tiện việc tham khảo.


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 08:22:16 AM
TỔNG HỢP TÓM TẮT PHẦN IV

(https://i.imgur.com/Vhe53Bo.jpg)

(https://i.imgur.com/0aW0pkM.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 08:32:58 AM
K 13 - MẠCH ĐỐC (Phần IV B/1)

Theo sách châm cứu ngày nay, mạch Đốc có 27 huyệt kể từ huyệt Trường cường đến huyệt Ngận giao. Đây tác giả giới thiệu 30 huyệt kể từ huyệt Ngận giao qua đầu xuống dọc sống lưng đến huyệt Trường cường. Trong đó có huyệt Ấn đường và huyệt Tiếp cốt (ngoài kinh) còn thêm huyệt Cùng cốt (trên huyệt Trường cường).

Các huyệt được nêu lên là: Ngận giao, Đoài đoan, Nhân trung, Tố liêu, Ấn đường, Thần đình, Thượng tinh, Tín hội, Tiền đính, Bách hội, Hậu đỉnh, Cường gian, Não hộ, Phong phủ, Á môn, Đại chùy, Đào đạo, Thân trụ, Thần đạo, Linh đài, Chí dương, Cân súc, Tích trung, Tiếp cốt, Huyền khu (xu), Mệnh môn, Dương quan, Yêu du, Cùng cốt, Trường cường.

(https://i.imgur.com/2DqdkJg.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:34:16 AM
(https://i.imgur.com/ycC6syc.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:34:46 AM
(https://i.imgur.com/AV34cw9.jpg)

(https://i.imgur.com/W3GDWzV.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:36:08 AM
(https://i.imgur.com/SqfN11H.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:41:13 AM
K1 - KINH THỦ THÁI ÂM - PHẾ  (Phần IV C/1)

Về kinh Thái âm - Phế ở tay, sách này giới thiệu 9 huyệt kể từ huyệt Tỉnh ở tay đi vào, khác với sách Châm cứu đại thành kể từ trong ngực đi ra, với các huyệt Trung phủ, Vân môn mà ở đây không nêu lên. Trong số huyệt được nói ở mục C/1 phần IV: Thiếu thương, Ngư tế, Thái uyên, Kinh cừ, Liệt khuyết, Khổng tối, Xích trạch, Hiệp bạch, Thiên phủ, tác giả đã dùng hai huyệt sau đây:

(https://i.imgur.com/1QokwKz.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:51:17 AM
K2 - KINH THỦ DƯƠNG MINH - ĐẠI TRÀNG (IV C/2)

Bài ca đã giới thiệu 15 huyệt của kinh Dương minh - Đại tràng ở tây: Thương dương, Nhị giản, Tâm giản, Dương khê, Thiên lịch, Ôn lưu, Hạ liêm, Thwowngjlieem, Thủ tâm lý Khúc trì, rửu liêu, Ngũ lý,Tý như, Kiên ngừng Cự cốt. Huyệt Hợp cốc đã được chỉ dẫn ở phần II mục 6, còn bốn huyệt không nêu lên là Thiên đình, Phù đột, Hòa liêu,Nghinh hương.

(https://i.imgur.com/AH9BK2s.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:57:57 AM
K9 - KINH THỦ QUYẾT ÂM TÂM - BÀO (IV C/3)

Tác phẩm trình bày các huyệt của kinh này kể từ ngoài tay đi vào: Trung xung, Lao cung, Đại lăng, Nội quan, Giản sử, Khích môn, Khúc trạch, Thiên tuyền, cộng 8 huyệt, mà không nêu lên huyệt Thiên trì ở ngực vú.

(https://i.imgur.com/fo0NKCA.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 09:59:41 AM
K10 - KINH THỦ THIẾU DƯƠNG - TAM TIÊU (IV C/4)

Kinh Thiếu dương - Tam tiêu ở tay gồm 23 huyệt. Mục này nêu lên 11 huyệt: Quan xung, Dịch môn, Trung chữ, Dương trì, Ngoại quan, Chi câu, Hội tông, Tam dương lạc, Tứ độc, Thiên tỉnh, Thanh lãnh uyên, 2 huyệt Ế phong và Nhĩ môn đã được giới thiệu ở phần II mục 20, còn 10 huyệt không nêu lên là: Tiêu lạc, Nhu hội, Kiên liêu, Thiên dũ, Chế mạch, Lư tức, Giác tôn, Hòa liêu, Ty trúc không.

(https://i.imgur.com/GMiRQZu.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:12:35 AM
K5 - KINH THỦ THIẾU ÂM - TÂM (IV C/5)

Kinh Thiếu âm - Tâm ở tay có 9 huyệt, được trình bày ở đây kể từ huyệt Tỉnh đi vào: Thiếu xung, Thiên phủ, Thần môn, Âm khích, Thông lý, Linh đạo, Thiếu hải, Thanh linh, Cực tuyền.

(https://i.imgur.com/xQIkjPR.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:18:17 AM
K6 - KINH THỦ THÁI DƯƠNG - TIỂU TRÀNG (IV C/6)

Kinh này có 19 huyệt, tài liệu này giới thiệu 8 huyệt: Thiếu trạch, Tiền cốc, Hậu khê, Uyển cốt, Dương cốc, Dưỡng lão, Chi chính, Tiểu hải,. Ngoài huyệt Thính cũng được dùng ở mục 20 phần II, còn 10 huyệt sau đây: Kiên trinh, Nhu du, Thiên tông, Bỉnh phong, Khúc viên, Kiên ngoại du, Thiên song, Thiên dung, Quyền liêu.

(https://i.imgur.com/NzoTVpP.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:25:07 AM
K4 - KINH TÚC THÁI ÂM - TỲ (Phần IV D/7)

Kinh Thái âm - Tỳ ở chân gồm 21 huyệt, bài ca ở mục D/7 đã diễn giải 11 huyệt: Ẩn bạch, Đại đô, Thái bạch, Công tôn, Thương khâu, Tam âm giao, Lậu cốc, Địa cơ, Âm lăng tuyền, Huyết hải, Cơ môn. Mục B4 đã chỉ dẫn các huyệt ở bụng  là Phúc ai, Đại hoành, Phúc kết, Phủ xá, Xung môn,  (câu 2584 - 2600), còn các huyệt không nêu lên là Thực đậu, Thiên khê, Hung hương, Chu vinh, Đại bao.

(https://i.imgur.com/bIaGiK3.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:31:25 AM
K12 - KINH TÚC QUYẾT ÂM - CAN (IV D/8)

Kinh Quyết âm - Can ở chân gồm 14 huyệt. Bài ca ở mục này giới thiệu 11 huyệt: Đại đôn, Hành gian, Thái xung, Trung phong, Lãi câu, Trung đô, Tất quan, Khúc tuyền, Âm bao, Ngũ lý, Âm liêm. Mục B/4 ở trên đã chỉ dẫn 2 huyệt Chương môn, và Kỳ môn ở vùng hông bụng, còn huyệt Cấp mạch không được nêu lên.

(https://i.imgur.com/Y34UbLa.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:42:06 AM
K3 - KINH TÚC DƯƠNG MINH - VỊ (IV D/9)

Kinh Dương minh - Vị ở chân có 45 huyệt, đã được chỉ dẫn:

- Ở phần IV mục B/4 (câu 2554 - 2577) 12 huyệt ở vùng bụng là Bất dung, Thừa mãn, Lương môn, Qnan môn, Thái ất, Hoạt nhục môn, Thiên xu, Ngoại lăng, Đại cự, Thủy đạo, Quy lai, Khí xung.

- Ở bài ca mục D/9 này 15 huyệt kể từ dưới chân đi lên (khác với Châm cứu đại thành và các sách châm cứu ngày nay): Lệ đoài, Nội đình, Hãm cốc, Xung dương, Giải khê, Phong long, Hạ liêm (Hạ cự hư), Điều khẩu, Thượng liêm (Thượng cự hư), Túc tam lý, Độc tỵ, Lương khâu, Âm thị, Phục thỏ, Bễ quan, Trong số huyệt còn lại, 5 huyệt: Nhũ căn, Nhân nghinh, Giáp xa, Đại nghinh, Địa thương, đã được dùng ở phần II và phần III, 13 huyệt không được nêu lên là Thừa khấp, Tứ bạch, Cự liêu, Hạ quan, Đầu duy, Khí xá, Khuyết bồn, Khí hộ, Khố phòng, Ốc ế, Ưng song, Nhũ trung, Âm thị.

(https://i.imgur.com/EzMs7Tz.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 10:50:49 AM
K8 - KINH TÚC THIẾU ÂM - THẬN (IV D/10)

Kinh này có 27 huyệt. Bài ca nói 20 huyệt mà chỉ nêu lên 7 huyệt: Dũng tuyền, Nhiên cốc, Thái khê, Đại chung, Thủy tuyền, Chiếu hải, Phục lưu. Đời sau phụ thêm bằng chữ Hán 3 huyệt: Giao tín, Trúc tân, Âm cốc, 17 huyệt: Du phủ, Quắc trung, Thần tàng, Linh khư, Thần phong, Bộ lang, U môn, Thông cốc, Âm đô, Thạch quan, Thương khúc, Hoang du,Trung chú, Tứ mãn, Khí huyệt, Đại hách, Hoành cốt, ở vùng ngực bụng đã đều được chỉ dẫn ở mục B/4 nói trên.

(https://i.imgur.com/yX5WJIS.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 11:45:13 AM
K11 - KINH TÚC THIẾU DƯƠNG - ĐỞM (IV D/11)

Bài ca nôm giới thiệu từ dưới chân đi lên các huyệt: Khiếu âm, Hiệp khê, Địa ngũ hội, Túc lâm khấp, Khâu khư, Huyền chung (Tuyệt cốt), Dương phụ, Quang minh, Và người đời sau phụ thêm bằng chữ hán các huyệt Ngoại khâu, Dương giao, Dương lăng tuyền, Dương quan, Trung độc, Phong thị, Hoàn khiêu; cộng 15 huyệt. Kinh này có 44 huyệt (câu ca 3001 chỉ nói 28 huyệt). Mục B/4 phần IV trên đây đã chỉ dẫn 6 huyệt ở bụng hông là Nhật nguyệt, Kinh môn, Đới mạch, Ngũ xu, Duy đạo, Cự liêu. Còn 23 huyệt không được nêu lên là Đồng tử liêu, Thính hội, Thượng quan, Hàm yếm, Huyền lư, Huyền ly, Khúc tân, Suất cốc, Thiên xung, Phù bạch, Khiếu âm, Hoàn cốt, Bản thần, Dương bạch, Lâm khấp, Mục song, Chính dinh, Thừa linh, Não không, Phong trì, Kiên tỉnh, Uyên dịch, Triếp cân.

(https://i.imgur.com/ge4YCir.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 03:20:21 PM
K7 - KINH TÚC THÁI DƯƠNG - BÀNG QUANG (IV D/12)

Kinh Thái dương - Bàng quang ở chân đã giới thiệu sau 2 câu ca mở đầu, 18 huyệt kể từ chân lên bằng chữ Hán, có thể  vì phần cuối tập sách bị rách, và đã được người đời sau bổ sung: Chí âm, Thông cốc, Thúc cốt, Kinh cốt, Kim môn, Thân mạch, Bộc tham, Côn lôn, Phụ dương, Phi dương, Thừa sơn, Thừa cân, Hợp dương, Ủy trung, Ủy dương, Phù khích, Ân môn, Thừa phù. Mục B/2 của phần IV ở trên đã chỉ dẫn các huyệt 2 hàng sau thân từ trên xuống: Đại trữ, Phong môn, Phế du, Quyết âm du, Tâm du, Cách du, Can du, Đởm du, Tỳ du, Vị du, Tam tiêu du, Thận du, Khí hải du, Đại tràng du, Bàng quang du, Trung lữ du, Bạch hoàn du (17 huyệt câu 2403 - 2455). Với huyệt Cao hoang đã nói ở phần I (câu 451 - 538), tổng cộng 36 huyệt. Còn 31 huyệt không được nêu lên là Tình minh, Toản trúc, My xung, Khúc sai, Ngũ xứ, Thừa quang, Thông thiên, Lạc khước, Ngọc chẩm, Thiên trụ ở mặt đầu, và Thận du, Quan nguyên du, Tiểu tràng du, Thượng liêu, Thứ liêu, Trung liêu, Hạ liêu, Hội dương, Phụ phân, Phách hộ, Thần đường, Y hy, Cách quan, Hồn môn, Dương cương, Ý xá, Vị thương, Hoang môn, Chí thất, Bào hoang, Trật biên ở sau lưng, kể từ trên xuống. Kinh này có tổng số là 67 huyệt.

(https://i.imgur.com/43zAdXv.jpg)

(https://i.imgur.com/TxWubMp.jpg)


Tiêu đề: Re: Châm cứu tiệp hiệu diễn ca
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Ba 30, 2018, 04:38:54 PM
HUYỆT ĐẶC BIỆT

Cuối phần IV, đã chép thêm bằng chữ Hán, 8 mạch kỳ kinh: Dương duy, Âm duy, Dương kiểu, Âm kiểu, Mạch đốc, Mạch nhâm, Mạch xung, Mạch đới. Tiếp sau phần này được kết thúc với một số huyệt đặc biệt gồm:

- Tình minh, Toản trúc, Giao tín, Xung môn, Khúc cốt, Chí âm, đã được giới thiệu trong các kinh mạch ở trên.

- Thái dương, Ngư vĩ, Ấn đường, Tử cung, Đại cốt không, Tứ hoa ở đầu, Tiểu cốt không, Ngoại khỏa tiêm, Kim tân, Ngọc dịch, Tụ tuyền, Mỗ tự, Hải tuyền, Độc âm, Trung tuyền, Tỵ chuẩn, Ngũ hổ là những kỳ huyệt ngoài kinh.

- Một số huyệt khác không thấy ở sách châm cứu Trung y là: Nhũ ảnh, Bối lam, Phục nguyên, Trực cốt, Quan mạch, Uất trung, Độc tuyền, Nội khỏa, Đơn tuyền, Hoa đà (khác), Nhãn mã, Cùng cốt.

(https://i.imgur.com/ukM5Xj5.jpg)