Tứ Hải giai huynh đệ

Đông Y - Traditional Medicine => Châm cứu - Án ma - Acupuncture - Massage => Tác giả chủ đề:: tuhaibajai trong Tháng Sáu 09, 2017, 06:17:12 AM



Tiêu đề: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 09, 2017, 06:17:12 AM
Quyển thứ nhất

1. Chín loại kim - 12 huyệt nguyên (Cửu châm thập nhị nguyên)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung:

- Cửu châm là 9 loại kim, Thập nhị nguyên là 12 huyệt chữa bệnh của tạng phủ.

- Nói lên tác dụng của 9 loại kim, các thủ thuật nhanh chậm, tác dụng của nghênh tùy bổ tả, tầm quan trọng trên lâm sàng của trị thần, độc khí, chẩn mạch. Nêu ra muốn điều trị tốt cần phải căn cứ vào tình trạng hư thực, nông sâu của bệnh để vận dụng linh hoạt, và cũng nêu lên tác dụng xấu khi chữa sai. Giới thiệu vị trí 12 nguyên ở các khớp, nói rõ tại sao dùng 12 nguyên để chữa bệnh tạng phủ. Nói rõ ý nghĩa của tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, và quan hệ của chúng với tạng phủ.

Hoàng đế: Châm kim nhỏ để qua được da vào cơ, sơ thông kinh mạch, để điều hòa khí huyết, là khí huyết trong kinh mạch tuần hoàn không ngừng. Muốn vậy phải quy định rõ ràng cách làm.

Kỳ Bá: Dùng kim nhỏ nhìn chung đơn giản, nhưng muốn nắm được tinh túy của nó thì không đơn giản.

Trong chẩn đoán người bình thường thì dựa vào bề ngoài để quan sát bệnh tình, người giỏi thì xem xét phần khí (sự thịnh suy của khí huyết), tìm nguyên nhân gây bệnh, nơi nguyên nhân tác động vào.

Sự vi diệu (mấu chốt tác dụng) của châm kim nhỏ là (động kim) nhanh hay chậm. Người bình thường chỉ lấy huyệt gần khớp của tứ chi, người giỏi phải xem (khí) cơ (sự thịnh suy của chính khí (khí huyết), thịnh suy của tà khí qua thể chất, tinh thần người bệnh. Sự biến động của (khí) cơ không tách khỏi huyệt (nơi phản ánh sự thịnh suy, hư thực của khí huyết). Khí của huyệt vận hành thanh tĩnh và bé nhỏ. Vì vậy khi tà khí thịnh không nên đón nó và dùng phép bổ, khi tà đã lui cũng không dùng phép tả để trục tà khí. Người giỏi mới nắm được tình hình đến, đi của khí để bổ tả đúng lúc. Người không biết quy luật này thì dù có châm cũng không đạt kết quả.

Về khí thuận nghịch: Khí đi (mạch khí hư và nhỏ) là nghịch. Khí đến (mạch khí bình và hòa hoãn) là thuận. Khí nghịch mà dùng phép tả sẽ gây hư thêm. Khí thuận mà dùng phép bổ sẽ làm cho thực thêm (châm theo hướng ngược với hướng đi của nó là tả cái thực của nó, làm nó từ thực thành hư ngược lại châm xuôi theo hướng đi của mạch khí là bổ cái hư của nó, làm cho khí từ hư sang thực). Như vậy, tả theo hướng ngược đường đi của mạch khí, bổ theo hướng thuận đường đi của mạch khí là mấu chốt của phép châm để điều hòa hư thực.

- Nguyên tắc chung của phép châm là: Hư phải làm cho khí đủ (bổ), đầy (thực) phải làm nó tiết đi (tả để đuổi khí); Uất tích lâu (uyển trần) phải trừ (châm xuất huyết để đuổi bệnh tà ủng trệ ở trong).

Nếu tà khí (thịnh) thắng chính khí phải (tả để đuổi tà ra ngoài) làm thực thành hư. Thiên "Đại yếu" viết (tiến kim) chậm rồi (rút kim) nhanh làm khí đủ (thực, bổ); (tiến kim) nhanh rồi (rút kim) chậm làm (tà khí theo kim ra ngoài) thịnh thành hư (tả). Hư và thực là không có khí, có khí (đắc khí, không đắc khí). Muốn biết có đắc khí hay không người thầy thuốc phải quan sát so sánh trước sau. Trong điều trị bằng châm, cần hiểu sự hư suy của chính khí, mức độ tác động của tà khí để quyết định việc bổ tả.

Tả là châm chờ cho khí đắc, rút kim nhanh, từ từ không bịt lỗ kim, nhằm tạo một đường cho tà khí từ trong thông ra ngoài. Nếu đáng tả mà dùng thủ pháp ấn và dẫn kim để bổ sẽ làm khí huyết uất ở trong thường gọi là nội ôn. Huyết uất không tích tán được tà, tà khí không ra ngoài được.

Bổ là châm thuận theo hướng đi của (mạch) khí (để bổ khí của nó). Trong khi châm, lúc dẫn khí, ấn huyệt để tiến kim phải rất nhẹ nhàng như con muỗi đậu, như lưu giữ lại. Khi rút kim cũng vậy, như con muỗi bay, như mũi tên lìa cung, phải dứt khoát và nhanh. Tay phải rút kim, tay trái bịt lỗ kim để ngăn trung khí thoát ra ngoài. Trung khí sẽ ở lại và đầy đủ. Khi châm không được để lưu huyết, nếu có lưu huyết dưới da phải chích nặn máu cho nhanh.

- Cầm kim phải chắc có lực, tiến kim phải (dùng 3 ngón cái, trỏ, giữa giữ kim) cho thẳng, không lệch phải lệch trái. Trong khi thao tác thần của mình phải để vào kim, phải chú ý theo dõi tình trạng bệnh, huyết mạch của người bệnh - có vậy mới không lo lắng. Khi châm phải quan sát thần khí và khí tạng phủ để biết người bệnh còn sống hay chết. Khi ấn vào huyệt mạch nếu thấy cứng đau là tà khí ở ngoài vào kết tụ ở đó, nên châm tả để trừ đi.

Chín loại kim:

1. Sàm châm: 1,6 tấc đầu kim to, mũi kim nhọn (như đầu mũi tên) để (chích ở nông) tả dương khí.

2. Viên châm: 1,6 tấc mũi kim như quả trứng dùng trong xoa bóp, chữa bệnh tà ở giữa cơ, không làm tổn thương cơ mà (có thể) tả khí ở đó.

3. Để châm: 3,6 tấc mũi kim tròn nhọn như quả hạt dẻ. Không chích qua da, chủ yếu để xoa bóp kinh mạch sơ thông khí huyết.

4. Phong châm: 1,6 tấc mũi kim nhọn, 3 cạnh để chích máu (ở lạc - dùng trong nhiệt độc).

5. Phi châm: Dài 4 tấc, rộng 2,3 phân, mũi như mũi kiếm, dùng để chích tháo mủ.

6. Viên lợi châm: 1,6 tấc to như lông dài (ngựa), tròn nhọn, thân kim hơi thô để (chữa bệnh cấp) lấy bao khí.

7. Hào châm: 3,6 tấc nhọn, nhỏ như vòi muỗi, dùng chữa thống tý, lay động kim từ từ, trong khi đợi khí, có thể lưu kim lâu để phù dưỡng chân khí.

8. Trường châm: 7 tấc, mũi nhọn thân mảnh để chữa chứng tý lâu ngày.

9. Đại châm: 4 tấc, đầu nhọn, hơi tròn, như cây côn để tả thủy, dùng trị bệnh khớp có nước.

Tà khí vào kinh mạch gây bệnh: Tà khí tại thượng (ngoại tà phong hàn...thường từ đầu vào), trọc khí tại trung (ăn uống không thận trọng gây trọc khí, thường dừng ở trường vị), thanh khí tại hạ (ẩm thấp lạnh lẽo thường từ chân vào). Trong châm châm vào hãm mạch (châm huyệt trên đầu) có thể làm tà khí theo kim ra ngoài, châm vào trung mạch (kinh tì vị - Trung thổ) có thể trừ trọc khí tích trệ ở trường vị. Bệnh ở nông nếu châm sâu, tà không ra mà theo kim vào làm bệnh nặng lên. Vì vậy do vị trí của da, nhục, cân, mạch khác nhau, bệnh của chúng cũng khác nhau và cách châm cũng phải tương ứng với vị trí.

- Bệnh thực không được dùng phép bổ, bệnh hư không được dùng phép tả. Vì làm như vậy đã có bệnh lại càng thêm bệnh; Bệnh đã nặng rồi, nếu tả khí của 5 kinh âm (tạng), có thể chết, nếu tả khí của 6 kinh dương (phủ) có thể làm người bại hoại, khó hồi phục. Tả nhầm kinh âm (làm tạng khí kiệt) có thể chết, tả nhầm kinh dương (làm hao tổn dương khí) có thể phát cuồng. Đó là cái hại của bổ tả nhầm.

- Hậu khí: Châm rồi mà khí chưa đến (chưa có cảm giác đắc khí) cần tiếp tục kích thích đến khi đắc khí. Châm mà khí đến (đắc khí), có thể rút kim, không cần lưu kim. Đắc khí biểu thị có hiệu quả, đấy là đạo lý chính của châm.

Hoàng đế: Muốn biết "nơi mạch khí ra vào chẩy đi của 5 tạng 6 phủ".

Kỳ Bá: Mỗi tạng thông với một kinh mạch. Mỗi kinh mạch đều có 5 huyệt du (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp). 5 kinh cộng với 25 huyệt du, mỗi phủ cũng thông với mỗi kinh mạch, mỗi kinh mạch có 6 huyệt du (tỉnh, huỳnh, du, nguyên, kinh, hợp). Công 36 huyệt du. Cơ thể có 12 kinh chính, 15 lạc mạch, cộng 27 đường kinh lạc, theo mạch khí của kinh mạch thì có 27 khí, tuần hoàn toàn thân.

- Nơi mạch khí xuất ra (như đầu nguồn) là tỉnh. Nơi mạch khí đi qua (như dòng chảy nhỏ) là huỳnh. Nơi có mạch khí tưới vào (như chảy vào chỗ trũng) là du. Nơi mạch khí chảy ào ào là kinh, nơi mạch khí đi vào (như trăm sông đổ vào bể) là hợp. 27 khí đều đi ở ngũ du.

- Nơi giao nhau của các tiết có 365 hội, nếu hiểu thực chất của nó thì hiểu tất cả, nếu không sẽ hiểu rất lan man. Tiết (huyệt) là nơi thần khí ra vào du hành. Không phải là da thịt gần xương.

- Khi châm, phải xem mắt (thần) sắc của bệnh nhân để hiểu trạng thái bệnh tật của họ còn hay hết, cần theo dõi động tĩnh và xác định rõ tà chính của bệnh nhân. Lúc châm tay phải cầm kim để châm, hai ngón tay trái giữ để phòng kim cong. Châm song khi khí đến (đắc khí) thì rút kim. Khi châm cứu, phải xem mạch để xác định bệnh nặng nhẹ rồi mới chữa.

- Nếu khí ngũ tạng của bệnh nhân đã kiệt (âm hư) mà châm ngược lại (bổ dương) sẽ làm âm thêm hư, hư thêm hư là "trùng kiệt". Tạng khí mà trùng kiệt thì chết, và chết yên tĩnh(vì là âm kiệt) nguyên nhân chủ yếu là vì thầy thuốc vi phạm nguyên tắc (tạng khí lý âm hư phải bổ tạng), đã dùng huyệt ở kinh nơi tạng khí ra ở dưới nách và hai bên ngực (làm cho tạng khí càng suy kiệt gây nên). Nếu khí ngũ tạng có biểu hiện kiệt ở ngoài (đó là dương hư), thầy thuốc lại bổ bên trong (kinh âm), trợ âm thì (dương khí sẽ kiệt, đó là biến chứng khí âm dương không thuận tiếp nhau) là nghịch quyết. Chứng quyết cũng gây chết (vì là âm có khi thừa), nên trước khi chết bệnh nhân bồn chồn. Đó là do thầy thuốc đã chữa ngược (lý dương hư phải bổ dương) lại dùng huyệt ở các đầu chi, làm cho dương khí càng suy kiệt.

- Cái hại của châm:

Nếu dùng phép tả để châm đúng bệnh tà mà lưu kim không rút, làm tinh tiết bệnh nặng lên, người gầy đi; châm chưa đúng bệnh tà (chưa làm thủ thuật) đã rút kim ngay làm tà khí lưu trệ, làm úng uất lại thành ung nhọt.

- Khí của 5 tạng có biểu lý với 6 phủ, bên ngoài của 6 phủ có cả thẩy 12 huyệt nguyên. 12 nguyên đều xuất ở tứ quan, tứ quan chủ trị bệnh của 5 tạng. Bệnh của 5 tạng dùng 12 huyệt nguyên để chữa. 12 huyệt nguyên là nơi tụ tập khí vị của 365 tiết để nuôi 5 tạng, là nơi phản ảnh bệnh của 5 tạng. Quan sát phản ứng của các huyệt nguyên có thể hiểu tình trạng bệnh tật của ngũ tạng. Thiếu âm ở trong dương là phế, huyệt nguyên là Thái uyên.

- Thái dương ở trong dương là Tâm, huyệt nguyên là Đại lăng -  thiếu dương ở trong âm là Can, huyệt nguyên là Thái xung - chí âm ở trong âm là Tỳ, huyệt nguyên là Thái bạch - thái âm ở trong âm là Thận, huyệt nguyên là Thái khê. Huyệt nguyên của Cao là Cưu vỹ (thuộc mạch nhâm). Huyệt nguyên của Hoang manh là Khí hải (thuộc mạch nhâm). 5 tạng có 10 huyệt nguyên, thêm 2 huyệt của Cao và Hoang cộng 12 huyệt nguyên.

- Là nơi khí của tạng phủ kinh lạc chảy đến, cho nên được dùng để chữa bệnh của 6 phủ 5 tạng.

- Bệnh bụng chướng: lấy huyệt ở 3 kinh dương ở chân để chữa. Nếu ỉa chảy sống phân lấy huyệt ở 3 kinh âm ở chân để chữa.

- Có người cho rằng bệnh lâu không thể chữa được, điều đó không đúng. Người thầy châm cứu có thể chữa được bệnh lâu, người nói không chữa được là không nắm được phép châm cứu.

- Châm chữa các bệnh sốt (dùng châm nông, nhẹ và nhanh) như dùng tay thử nước sôi, cho vào rút ra ngay. Vậy châm chữa bệnh hàn hoặc chân tay lạnh, dùng cách châm sâu và lưu kim (như lưu luyến quê nhà không muốn rời vậy). Dương tà vào phần âm gây sốt, cần lấy Túc tam lý, đợi tà khí lui rồi mới ngừng châm. Nếu tà khí chưa lui vẫn phải châm tiếp. Nếu bệnh ở trong (tạng) mà chững lại ở trên cao, cần lấy Âm lăng tuyền (Thái âm tỳ), nếu bệnh ở phủ mà chứng lại ở trên cao, cần lấy huyệt Dương lăng tuyền (Thiếu dương đởm).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 17, 2017, 04:54:12 PM
Thiên 2. Các huyệt du của mỗi đường kinh (Bản du)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Thảo luận khí của kinh mạch và tạng phủ, chỉ rõ tên và vị trí của tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, và các huyệt quan trọng của 6 kinh dương, 2 mạch nhâm đốc. Còn thảo luận về quan hệ và tác dụng của tạng phủ, cách lấy huyệt thường dùng trong bốn mùa.

Hoàng đế: Đạo lý của châm là phải hiểu rõ chỗ bắt đầu, kết thúc của từng đường kinh, nơi 15 mạch lạc, biểu lý thông với nhau, vị trí của tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp. Nơi hợp của lục phủ (tương hợp của tạng phủ), chỗ ra vào (ảnh hưởng) của khí hậu 4 mùa ở thân thể (gây nên phản ứng của khí huyết), nơi khí của kinh lạc, ngũ tạng chạy qua, kết tụ lại ở thân thể, nhất là mức độ to nhỏ của lạc và kinh, sự phân bố ở sâu nông của chúng và quan hệ từ đầu đến chân của chúng.

Kỳ Bá:

* Phế bắt đầu từ huyệt Thiếu thương - ở phía trong đầu ngón cái - gọi là huyệt tỉnh, thuộc mộc - xuất phát từ huyệt tỉnh, kinh khí chảy đến huyệt Ngư tế - ở mô ngón cái lòng bàn tay - huyệt huỳnh. Từ đó tưới vào huyệt Thái uyên - ở chỗ lõm sau Ngư tế ở tay 1 tấc - huyệt du. Từ đó chảy đến huyệt Kinh cừ, ở thốn khẩu - huyệt kinh. Từ đó chảy vào huyệt Xích trạch - ở giữa đường gấp khuỷu tay chỗ động mạch đập - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh thủ Thái âm.

* Tâm bắt đầu từ huyệt Trung xung (của tâm bào) - đầu ngón tay giữa - huyệt tỉnh thuộc mộc - chảy đến huyệt Lao cung - ở lòng bàn tay giữa đốt bàn tay 3.4 - huyệt huỳnh. Tươi cho huyệt Đại lăng - giữa đường lằn cổ tay giữa hai xương - huyệt du. Đi đến huyệt Gian sử, giữa hai gân sau cổ tay 3 tấc, nếu kinh có bệnh thì ở đây có phản ứng - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Khúc trạch ở chỗ lõm của bờ trong gân cơ 2 đầu trên nếp khuỷu, co tay để lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh thủ Thiếu âm (kinh Tâm bào).

* Can bắt đầu từ huyệt Đại đôn - ở chỗ lông đầu ngón chân cái - huyệt tỉnh, thuộc mộc - chảy đến huyệt Hành gian - chỗ lõm khe giữa hai ngón chân cái và thứ hai - huyệt huỳnh. Chảy đến huyệt Thái xung, chỗ lõm trên huyệt Hành gian 2 tấc - huyệt du. Đi đến huyệt Trung phong, chỗ lõm trước mắt cá chân trong 1,5 tấc (giáp ất kinh: 1 tấc) châm ở huyệt này nếu ngược khí của nó thì gây uất kết, nếu hòa với khí của nó thì lưu thông, nên co duỗi bàn chân để thủ được huyệt, huyệt này thuộc huyệt Kinh. Nó chảy vào huyệt Khúc tuyền khi lấy huyệt vểnh bàn chân lên, huyệt ở chỗ lõm dưới lồi củ xương đùi trên gân to, gấp gối để lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh túc Quyết âm can.

* Tỳ bắt đầu từ huyệt Ẩn bạch ở phía trong đầu ngón chân cái - huyệt tỉnh, thuộc mộc. Chảy đến huyệt Đại đô sau đốt xương ngón chân - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Thái bạch ở chỗ lõm dưới khớp ngón bàn chân - huyệt du.  Đi đến Thương khâu ở chỗ lõm phía dưới trước mắt cá trong - huyệt kinh. Từ đó chảy vào Âm lăng tuyền ở chỗ lõm dưới lồi củ xương chày, duỗi chân để lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh túc Thái âm tỳ.

* Thận bắt đầu từ huyệt Dũng tuyền, chỗ lõm dưới lòng bàn chân - huyệt tỉnh, thuộc mộc. Chảy đến huyệt Nhiên cốc, ở chỗ lõm dưới xương chêm - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Thái khê ở chỗ lõm trên xương gót, sau mắt cá trong - huyệt du. Đi đến Phục lưu ở trên mắt cá trong 2 tấc, có động mạch đập không ngừng - huyệt kinh. Chảy vào Âm cốc, sau lồi củ xương chày (đầu nếp gấp trong) giữa 2 gân to và nhỏ, co chân để lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh túc Thiếu âm thận.

* Bàng quang bắt đầu từ huyệt Chí âm ở đầu ngón chân út - huyệt thuộc tỉnh. Chảy đến huyệt Thông cốc, ở trước ngoài đốt ngón bàn chân 5 - huyệt du. Qua huyệt Kinh cốt ở chỗ phía ngoài trước đầu sau xương bàn chân 5 - huyệt nguyên. Đi đến huyệt Côn lôn ở chỗ lõm trên xương gót sau mắt cá ngoài - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Ủy trung ở chỗ lõm giữa khoeo - co chân lấy huyệt. Đó là 5 huyệt du của kinh túc thái dương bàng quang.

* Đởm bắt đầu từ huyệt Khiếu âm ở bờ ngoài ngón chân 4 - huyệt tỉnh, thuộc kim. Chảy đến huyệt Hiệp khê ở khe giữa 2 ngón chân 4.5 - huyệt huỳnh. Chảy vào huyệt Lâm khấp ở chỗ lõm trên Hiệp khê 1,5 tấc (sau khớp bàn ngón chân) - huyệt du. Qua Khâu khư ở chỗ lõm  trước dưới mắt cá ngoài - huyệt nguyên. Đi đến huyệt Dương phụ ở trên mắt cá chân ngoài ở trên 4 tấc (trước xương mác và đầu Tuyệt cốt) - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Dương lăng tuyền ở chỗ lõm phía ngoài gối (chỗ lõm dưới đầu xương mác) - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du của kinh túc Thiếu dương đởm.

* Vị bắt đầu từ huyệt Lệ đoài ở phía ngoài ngón chân thứ 2 - huyệt tỉnh, thuộc kim. Chảy đến huyệt Nội đình ở khe ngoài ngón chân thứ 2 - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Hãm cốc ở chỗ lõm trên huyệt Nội đình 2 tấc (ở khe của 2 đốt xương bàn chân 2.3) - huyệt du. Đi đến huyệt Xung dương ở chỗ lõm trên mu bàn chân 5 tấc (có mạch  đập) -  huyệt nguyên, muốn lấy huyệt phải vận động chân. Đi đến huyệt Giải khê chỗ lõm sau huyệt xung dương 1,5 tấc (chỗ lõm khớp cổ chân) - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Túc tam lý ở dưới gối (tất nhãn) 3 tấc phía ngoài xương chày - huyệt hợp. Xuống tiếp 3 tấc là huyệt Thượng cự hư lại xuống tiếp 3 tấc là huyệt Hạ cự hư (phản ứng sinh lý bệnh lý) của Đại trường ở Thượng cự hư, của Tiểu trường ở Hạ cự hư. Vì đại tiểu trường đều thuộc vị. Đó là 5 huyệt du và huyệt nguyên của kinh túc Dương minh vị.

* Tam tiêu hợp với kinh Thiếu dương ở tay, bắt đầu từ huyệt Quan xung ở bờ ngoài phía ngón út của móng ngón tay đeo nhẫn - huyệt tỉnh, thuộc kim. Chảy đến huyệt Dịch môn, ở đầu khe giữa hai ngón tay út và đeo nhẫn - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Trung chữ ở chỗ lõm sau khớp (bàn ngón tay 4 - 5 giữa hai xương) - huyệt du, đi qua huyệt Dương trì ở chỗ lõm ở trên cổ tay (phía mu tay) - huyệt nguyên. Đi đến huyệt Chi câu ở sau khớp cổ tay 3 tấc  chỗ lõm giữa 2 xương - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Thiên tỉnh chỗ lõm của xương lớn ngoài khuỷu tay - huyệt hợp. Kinh Thiếu dương tam tiêu, có thông với huyệt ở chân - huyệt Ủy dương. Đó cũng là biệt lạc của kinh Thái dương (bàng quang). Đó là huyệt du, huyệt nguyên, và huyệt du dưới của kinh Thủ thiếu dương.

Tam tiêu có liên hệ mật thiết với túc Thiếu dương và túc Thái âm, do đó huyêt du ở dưới của tam tiêu là biệt lạc của kinh Thái dương bàng quang. Mach khí của nó từ trên mắt cá ngoài 5 tấc, xuyên vào bắp chân rồi ra huyệt Ủy dương, chủ trì của huyệt Ủy dương bao gồm bệnh ở bàng quang, có quan hệ khí hóa của tam tiêu, chứng thực là tiểu tiện không thông, chứng hư là di niệu. Di niệu thì bổ, đái khó thì tả.

* Thủ Thái dương tiểu trường (ở bụng). Tiểu trường lên hợp với thủ Thái dương bắt đầu từ huyệt Thiếu trạch, phía ngoài đầu ngón tay út huyệt tỉnh, thuộc kim. Chảy đến huyệt Tiền cốc ở chỗ lõm trước khớp (bàn ngón tay út) - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Hậu khê ở phía ngoài sau khớp (bàn ngón tay út) - huyệt du. Đi qua huyệt Uyển cốt, ở chỗ lõm phía ngoài trước Uyển cốt sau đốt bàn tay 5 - huyệt nguyên. Đi đến huyệt Dương cốc, ở chỗ lõm (phía ngoài khớp cổ tay) trước đầu xương trụ - huyệt kinh. Chảy vào TIểu hải ở chỗ lõm phía ngoài đại cốt (mỏm trong xương cánh tay, cách mỏm khuỷu 5 phân (rãnh trụ), duỗi tay lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du, huyệt nguyên, của kinh thủ Thái dương.

* Thủ Dương minh đại trường. Đại trường lên hợp với thủ Dương minh bắt đầu từ huyệt Thương dương ở đầu ngón trỏ phía ngón cái - huyệt tỉnh thuộc kim. Chảy đến huyệt Nhị gian ở trước đốt bàn ngón trỏ - huyệt huỳnh. Tưới cho huyệt Tam gian ở sau đốt bàn ngón trỏ - huyệt du. Đi qua Hợp cốc ở giữa xương bàn tay trái và trỏ - huyệt nguyên. Đi đến Dương khê ở chỗ lõm 2 gân (hố lào giải phẫu) - huyệt kinh. Chảy vào huyệt Khúc trì ở chỗ lõm ngoài xương cánh tay của khuỷu, gấp tay lấy huyệt - huyệt hợp. Đó là 5 huyệt du, huyệt nguyên, của kinh thủ Dương minh đại trường.

Trên đây là các huyệt du chính của 5 tạng 6 phủ. Mỗi tạng có 5 huyệt, cộng 25 huyệt. Mỗi phủ có 6 huyệt, cộng 36 huyệt. 6 phủ đều xuất từ 3 kinh dương ở chân, lên hợp với 3 kinh dương ở tay.

Chú ý: Trong thiên bản du không nói đến các huyệt du của kinh tâm, lấy tâm bào làm tâm, vì vậy chỉ có 5 tạng. Để cho hoàn chỉnh, Giáp ất kinh đã bổ xung thêm 5 huyệt du của kinh tâm là: Thiếu xung (tỉnh, mộc), Thiếu phủ (huỳnh), Thần môn (du), Linh đạo (kinh), Thiếu hải (hợp).

Thiên đột của mạch nhâm ở giữa 2 khuyết bồn, đó là hàng thứ nhất. Cạnh mạch nhâm, huyệt Nhân nghinh của kinh Dương minh chân, ở trên hàng thứ 2 chỗ mạch đập. Huyệt Phù đột của kinh Dương minh tay ở trên hàng thứ 3 (sau huyệt Nhân nghinh 1,5 tấc). Huyệt Thiên song của kinh Thái dương tay, ở trên hàng thứ 4 (sau  huyệt Thiên đột 1 tấc). Huyệt Thiên dung của kinh Thiếu dương chân ở trên hàng thứ 5 (chú ý bây giờ đặt ở kinh Thái dương tay). Huyệt Thiên dung của kinh Thiếu dương tay ở trên hàng thứ 6. Huyệt Thiên trụ ở kinh Thái dương bàng quang ở trên hàng thứ 7. Huyệt Phong phủ mạch đốc ở giữa gáy, huyệt Thiên phủ của kinh Thái âm tay, ở chỗ động mạch nách. Huyệt Thiên trì của kinh tâm (Quyết âm tay) ở dưới nách 3 tấc.

Châm huyệt Thượng quan (chỗ lõm khi há miệng) phải há không được ngậm miệng. Châm huyệt Hạ quan phải ngậm miệng không được há miệng. Châm huyệt Độc tỵ cần co chân không được duỗi. Châm huyệt Nội quan và ngoại quan phải duỗi tay không được co tay.

Kinh Dương minh chân ở chỗ mạch đập cạnh hầu, huyệt của nó ở chỗ cao của ngực (thành ngực). Kinh Dương minh tay ở đường ngoài kinh trên (sau 1,5 tấc) dưới góc hàm 1 tấc (huyệt Phù đột). Kinh Thiếu dương tay ở sau tai dưới huyệt Hoàn cốt (huyệt Thiên dũ - 1/3 ngoài đường nối Thiên dung - Thiên trụ). Kinh Thái dương ở chân kẹp giữa 2 gân to của gáy, chỗ chân tóc (huyệt Thiên trụ).

Ở huyệt Ngũ lý có động mạch trụ thuộc âm, châm vào huyệt đó có thể làm cho 5 huyệt du tận, là huyệt cấm châm.

Phế hợp với Đại trường. Đại trường là phủ truyền đạo - Tâm hợp với Tiểu trường, Tiểu trường là phủ tiếp nhận (thức ăn đã tiêu hóa). Can hợp với  Đởm, Đởm là phủ có tàng tinh chấp. Tỳ hợp với Vị, Vị là phủ của ngũ cốc. Thận hợp với Bàng quang, Bàng quang là phủ của tân dịch. Thiếu dương (tam tiêu) thuộc Thận (kinh Tam tiêu lên cổ, tản ra ngực, kinh thận cũng lên liên hệ với Phế - phần dưới của kinh Tam tiêu thuộc Bàng quang. Bàng quang hợp với Thận, nên tam tiêu cũng thuộc Thận - Mã Nguyên Đài). Thận liên hệ với Phế ở trên và quản lý 2 tạng (Tam tiêu và Bàng quang). Tam tiêu là phủ của đường nước, có tác dụng bài tiết nước thuộc (có liên hệ) Bàng quang, là phủ cô độc (vì không phối hợp với tạng nào).

Đó là sự phối hợp giữa các tạng phủ.

Mùa Xuân châm lạc mạch, các huyệt huỳnh và kinh lớn ở giữa cơ. Bệnh nặng thì châm sâu, bệnh nhẹ châm nông.

Mùa Hạ châm các huyệt du, tôn lạc ở phần trên (nông) của da cơ.

Mùa Thu châm các huyệt hợp, cách châm giống như châm của mùa Xuân.

Mùa Đông châm các huyệt tỉnh, huyệt du, châm sâu và lưu kim.

* Đó là ý nghĩa trình tự 4 mùa, là nơi ở của khí, là nơi bị bệnh, là nơi để chữa bệnh của tạng.

Châm người bị chuột rút, phải để họ đứng, có thể làm co giật mất nhanh, chữa cho người bị nuy quyết, để nằm dạng chân tay mà châm, để làm khí huyết vận hành tốt và kết quả nhanh.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 20, 2017, 04:07:47 PM
3. Giải thích về cách châm kim nhỏ (Tiểu châm giải)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung:  Chủ yếu giải thích giới thiệu những vấn đề của kim nhỏ (tiểu châm).

- Mấu chốt của việc dùng châm nhỏ, nói thì dễ, nhưng những vấn đề tinh vi của nó thì khó làm người khác hiểu. Thầy thuốc thông thường thì dùng nó một cách máy móc. Thầy thuốc giỏi thì tiến hành bổ tả trên cơ sở phân biệt được sự thừa thiếu của khí huyết. Thần là chính khí. Khách là tà khí. Tà khí đi (trong cơ thể) qua các nơi mà chính khí ra vào. Nếu chưa chẩn đoán rõ chính tà gây bệnh ở kinh nào thì làm sao biết được nguồn gốc của bệnh. Vì vậy  cần phải rõ trạng thái (hư thực) bệnh của kinh rồi mới quyết định dùng kinh huyệt nào để chữa.

- Tác dụng kỳ diệu của châm là ở chỗ (nắm được thủ pháp tiến kim rút kim) nhanh hay chậm. Thầy thuốc thường, chỉ biết dùng một số huyệt ở khớp tứ chi mà không biết trạng thái động tĩnh tiến thoái (thịnh suy) của khí huyết, tà khí và chính khí. Thầy thuốc giỏi biết giữ khí (hiểu được tính quan trọng của giữ khí).

Hoạt động của (khí) cơ không tách rời được huyệt (nếu hiểu điều đó) thì trước hết phải định (trạng thái) hư thực của khí rồi mới định thủ thuật nhanh hoặc chậm (bổ, tả). Hoạt động khí cơ ở huyệt rất thanh tịnh và nhỏ. Khi châm dật đắc khí rồi cần phải giữ khí, không được để mất. Khi khí đến không được đón nó, tức là khí thịnh không được dùng phép bổ. Khi khí đi không được đuổi theo, tức là khí suy không được dùng phép tả (khi châm đại đắc khí rồi cần vận dụng thủ pháp ngay). Không được để một sai sót nhỏ nào, nếu không thì sẽ mất ngay. Đánh vào nó mà nó không phát (phản ứng) là không biết bổ tả vậy, dù châm có làm cho khí huyết hao tổn vẫn không trừ được tà khí.

Biết được sự vãng lai của khí cũng là biết quy luật thịnh suy thuận nghịch của khí. Biết lúc nào lấy huyệt để châm có nghĩa là biết thời cơ thích hợp nhất để châm. Thầy thuốc thường thì không phát hiện rõ điều cơ mật (và tác dụng diệu kỳ của sự tuần hành) của khí. Người thầy thuốc giỏi ngược lại hiểu rõ tầm quan trọng của châm ý (đắc khí và thủ thuật châm). (Tà) khí đi là nghịch, nghĩa là khí hư và nhỏ gọi là nghịch. (Chính) khí đến là thuận nghĩa là hình (thái). Khí bình, bình gọi là thuận. Hiểu rõ quan hệ thuận nghịch (của khí hành) thì có thể chọn được huyệt thích đáng và biện pháp điều trị tốt. Châm kim ngược với chiều đi của kinh mạch là tả. Châm kim xuôi chiều kinh mạch là bổ.

"Hư tắc thực chi" là mạch khí ở thốn khẩu yếu thì dùng phép bổ. "Mãn tắc tiết chi" là mạch khí ở thốn khẩu thịnh thì dùng phép tả (để tiết tà khí). "Uyển trần tắc trừ chi" là dùng phép tả huyệt (nặn máu) để trừ bệnh tà lưu cữu tích lại ở huyết mạch. "Tà thắng tắc hư chi" là những kinh mạch có tà khí thịnh phải dùng phép tả để tà khí theo châm tiết ra ngoài. "Từ nhi tật tắc thực" tức là châm tiến kim chậm và rút kim nhanh là thuộc phép bổ làm cho thực. "Tật nhi từ tắc hư" tức khi châm tiến kim nhanh và rút kim từ từ, là thuộc phép tả tà. Khí từ thịnh thành hư, nói thực và hư là nói như có như không. "Thực giả hữu khí" là dùng phép bổ để làm chính khí thịnh (lúc châm bệnh nhân có cảm giác nóng). "Hư giả vô khí" là dùng phép tả để làm tà khí hư (lúc châm bệnh nhân có cảm giác lạnh, không còn cảm giác nóng do tà khí thịnh gây nên). Quyết định dùng phép tả hay bổ phải dựa vào sự quan sát trước sau xem tà khí còn (thịnh) hay đã rút (hư) để rồi dùng phép bổ, tả (dùng phép bổ để làm khỏe chính khí, là làm cho bệnh nhân được cảm thấy được thêm, dùng phép tả để trừ tà khí để làm cho bệnh nhân trở lại bình thường.

"Tà khí tại thượng" là tà khí xâm nhập vào cơ thể bắt đầu ở đầu. "Trọc khí tại trung" là thủy cốc vào vị, tinh hoa tưới lên phế, trọc khí lưu ở trường vị. Nếu thời tiết nóng lạnh không thích hợp, ăn uống không điều độ, sinh bệnh ở trường vị gọi là trọc khí tại trung. "Thanh khí tại hạ" là thấp khí của đất xâm nhập vào người bắt đầu từ chân. Nếu tà khí ở trên đầu châm hãm mạch huyệt ở kinh bị bệnh ở trên đầu sẽ làm tà khí theo kim ra hết. Nếu trọc khí tại trung, thì lấy huyệt hợp (Túc tam lý) của kinh Dương minh để làm trọc khí ra ngoài.

Bệnh ở biểu không được châm sâu, vì nếu châm sâu thì tà khí sẽ theo vào trong sâu. Da, cân, nhục, mạch mỗi thứ có một vị trí riêng, đó là những vị trí mà triệu chứng cả kinh mạch biểu hiện ra và cũng là nơi tiến hành điều trị. Nếu bệnh ở 5 tạng lại có trung khí bất túc (nguyên khí kiệt) mà vẫn dùng phép tả các kinh âm của 5 tạng thì có thể chết (gây nguy hiểm). Nếu chẳng tính thực hư gì, cứ tả hoài 3 kinh dương của 6 phủ thì sẽ làm cho khí tận, khó mà hồi phục. "Đoạt âm giả tử" là tả huyệt Ngũ lý làm cho tạng khí kiệt mà chết. "Đoạt dương giả cuồng" là nếu châm nhầm 3 kinh dương có thể làm thành cuồng. Xem sắc, xem thay đổi của mắt, có thể đoán sự tốt xấu của bệnh. Nhìn hình, xem mạch, biết mạch tiểu, đại, hoãn, cấp, hoạt, sáp vv... thì có thể nắm được trạng thái bệnh tật. Cần phải phân biệt chính tà, biết rõ chính, tà tức nhân lao lực ra mồ hôi mà cảm phong tà hoặc hư tà tức cảm thụ tặc phong của 4 mùa. Khi châm cần đắc khí, rồi dùng thủ thuật bổ hoặc tả để điều khí, rồi mới ngừng châm, rồi tay phải tiến kim, tay trái giữ kim để xuất nhập. Mấu chốt của điều khí là hai mặt ở chung thủy (kết thúc và bắt đầu sự vận động gốc ngọn, kết căn, khai hạp vv...để có thể thống nhất trong ngoài) thầy thuốc phải nắm chắc vấn đề mới dùng một cách linh hoạt được. Chỗ giao của của khớp toàn thân có 365 hội (huyệt) đó là nơi các lạc mạch tưới cho các khớp vậy.

- Khí của ngũ tạng ở trong đã tuyệt là chỉ mạch trọng án vô lực, phải lấy mạch ở nông (phù và rất tế, thuộc âm hư, tủy kiệt, tinh thương) lúc đó nếu châm lại dùng huyệt hợp của kinh dương, lưu kim để bổ khí ở ngoài, dương khí sẽ vượng và càng làm tổn hao âm, làm cho tạng đã kiệt lại càng kiệt, sẽ chết. Khi sắp chết vì khí đã kiệt nên yên tĩnh.

- Khí của ngũ tạng ở ngoài đã tuyệt là chỉ mạch ngoài huyệt (vì lẽ như có như không), nếu lại lấy các huyệt ở đầu chi và lưu kim để bổ khí âm ở trong. Âm ở trong tăng thì dương khí đã rất ít ở ngoài lại phải vào trong nữa thành càng kiệt, sẽ sinh ra huyết nghịch, sẽ chết. Trước khi chết, dương vào với âm, âm khí có thừa thành hiện tượng phiền táo.

- Cho nên, nhìn mắt bệnh nhân có thể thấy được 5 sắc tươi nhuận vì khí của 5 tạng 6 phủ đều tưới lên mắt. Mắt tươi sáng thì tiếng sẽ vang và tiếng vang này không giống lúc bình thường.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 20, 2017, 10:51:52 PM
4. Tình hình bệnh tật của Tạng Phủ khi bị tà khí (Tà khí tạng phủ bệnh tình)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự khác nhau của cơ thể khi bị tà khí xâm nhập vào các vị trí khác nhau, trúng âm, trúng dương, nói lên các nguyên nhân làm tà khí tác động vào cơ thể, và nói lên tầm quan trọng trong chẩn đoán của xem sắc, xem mạch và xem da. Nêu lên tình hình bệnh tật của 5 tạng biểu hiện ra các loại mạch hoãn, cấp, đại, tiểu, hoạt, sác vv...và cách châm, tình hình bệnh tật của 6 phủ, cách lấy huyệt và cách châm.

Trọng điểm thảo luận là nguyên nhân để tà khí tác động vào cơ thể, tình hình bệnh của 5 tạng 6 phủ khi tà khí tác động vào.

Hoàng đế: Tà khí trúng vào người thì thế nào?

Kỳ Bá: Các tà khí phong, hàn, thử, thấp, đầu tiên tác động vào chỗ cao (phần trên của cơ thể).

Hoàng đế: Cao thấp có phân biệt gì không?

Kỳ Bá: 1/2 người trên thường là trúng tà (phong hàn). 1/2 người dưới thường là trúng thấp. Tà khí vào người, bệnh không nhất thiết phải sinh ở nơi tà khí vào. Tà khí trúng kinh âm (Tạng) có thể chuyển sang Phủ (kinh dương).

Nếu kinh dương bị tà khí xâm nhập thì có thể truyền ngay ở kinh đó.

Hoàng đế: Kinh âm, dương tuy khác tên nhưng cùng hệ kinh lạc trên dưới tuần hoàn thông suốt với nhau, vậy tại sao khi tà khí xâm nhập cơ thể, có lúc bệnh ở kinh âm, có lúc bệnh ở kinh dương và chỗ bị bệnh lúc ở bên trái, lúc ở bên phải, lúc ở trên, lúc ở dưới không cố định ở đâu cả?

Kỳ Bá: Mặt là nơi hội tụ của các kinh dương. Tà khí thường thừa hư như vừa làm mệt, hoặc ăn uống ra mồ hôi hoặc tấu lý khai (Vệ khí yếu) để tấn công cơ thể. Trúng ở mặt là vào kinh Dương minh ở chân. Trúng ở gáy là vào kinh Thái dương ở chân. Trúng ở má là vào kinh Thiếu dương ở chân, nếu trúng vào lưng ngực cạnh sườn thì (tùy vị trí) vào (từng đường) kinh (khác nhau trong 3 kinh dương ở chân).

Hoàng đế: Tà khí tác động vào (kinh) âm như thế nào?

Kỳ Bá: Thường bắt đầu từ cánh tay hoặc cẳng chân. Vì mặt trong của chúng có da mỏng, cơ nhu nhuận hơn do đó dễ bị tà khí tác động (vào kinh âm) hơn.

Hoàng đế: Nếu (kinh) âm bị thì Tạng có bị không?

Kỳ Bá: Thân bị trúng phong không nhất thiết Tạng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu tà khí vào Tạng thì Tạng khí thực và tà khí sẽ bị đẩy lùi ra phủ, do đó nếu trúng (kinh) dương thì bệnh ở kinh, nếu trúng (kinh) âm thì bệnh ở Phủ (có quan hệ biểu lý).

Hoàng đế: Tà khí trúng Tạng thì thế nào?

Kỳ Bá: Buồn lo, khiếp sợ có thể thương Tâm. Thân thể bị lạnh, lại ăn lạnh sẽ thương Phế. Vì hàn ở ngoài và hàn ở trong làm cả trong lẫn ngoài đều bị thương, do đó có thể gây suyễn do khí nghịch. Nếu ngã từ trên cao xuống ác huyết ứ ở trong. Nếu giận quá khí sẽ lên mà không xuống, tích ở dưới sườn sẽ thương Can. Nếu ngã hay bị đánh (chạm thương) hoặc say mà ngủ với vợ (chồng), hoặc ra mồ hôi mà đứng giữa gió thì thương Tỳ. Lao lực hoặc nâng nặng rồi nhập phòng quá độ, hoặc ra mồ hôi mà tắm thì thương thận.

Hoàng đế: Trúng phong của ngũ tạng là thế nào?

Kỳ Bá: Nếu cả âm (ngũ tạng) lẫn dương (lục phủ) đều bị thương thì trong ngoài đều hư, do đó phong tà thừa hư mà trúng vào ngũ tạng.

Hoàng đế: Đầu mặt thân thể gắn với nhau bởi gân xương và là nơi khí huyết hợp lại và tuần hành. Lúc trời rất lạnh, đất có thể nứt, băng giá, nếu đột nhiên lạnh thì người co ro, tại sao mặt lại chịu được rét?

Kỳ Bá: Vì khí huyết của 12 kinh mạch và 365 lạc đều tuần hành lên mặt và các khiếu rỗng. Chất tinh của khí dương nên mắt nên nhìn được, nhánh của nó vào tai nên nghe được, tông khí lên mũi nên ngửi được. Trọc khí (khí của ngũ cốc) ra ở vị, lên môi lưỡi nên nếm được. Tân dịch của các khí đó xông bốc lên mặt nên ở đó da dầy, cơ chắc do đó dù khí trời rất lạnh cũng không thắng được (làm cho mặt lạnh được).

Hoàng đế: Tình trạng bệnh tật khi bị trúng tà khí như thế nào?

Kỳ Bá: Hư tà (tà khí 4 mùa) tặc phong thừa hư thâm nhập cơ thể gây nên gai rét sợ gió, bệnh ở biểu. Chính tà (khi làm việc ra mồ hôi, tấu lý mở và tiết, bị phong tà) tác động, bệnh rất nhẹ, chỉ thấy hơi thay đổi sắc, còn thân thể như có lại như không có bệnh, như là tà đã đi rồi lại như tà còn lưu lại ở trong, như còn tý bệnh lại như không có bệnh, rất khó nhận ra bệnh tình của nó.

Hoàng đế: Tại sao nhìn khí sắc có thể biết bệnh tình mà gọi là minh, xem mạch có thể biết diễn biến của bệnh gọi là thần, hỏi có thể biết được bệnh gọi là công?

Kỳ Bá: Vì sắc, mạch, da ở mặt trong cánh tay và bệnh có quan hệ tương ứng nhất định, như dùi đánh trống có liên quan đến tiếng trống, như gốc và ngọn, như rễ và lá. Nếu rễ cây mà chết thì lá sẽ héo khô. Sự thay đổi của sắc, mạch, thịt không thể tương thất được (thường tương ứng) do đó nói, thầy thuốc biết một trong 3 nội dung trên là có công (phu), biết 2 trong 3 nội dung trên là thần (giỏi) biết cả 3 là thần (giỏi) và minh (sáng suốt).

Về sắc mạnh: Sắc xanh đi với mạch huyền, sắc đỏ mạch câu (hồng đến mạch đi yếu), sắc vàng mạch đại, sắc trắng mạch mao (phù, hư, nhẹ), sắc đen mạch thạch (trầm, cứng). Nếu mạch không tương ứng với sắc, không những vậy mạch tương khắc với sắc là mạch chết. Mạch tương sinh với sắc, bệnh sẽ khỏi (mạch khắc với sắc: Ví dụ sắc xanh, thường mạch huyền (can), nay lại là mạch mao (phế), phế kim khắc can mộc - mạch mao khắc sắc xanh. Mạch sinh với sắc: Ví dụ sắc xanh, thường mạch huyền, nay mạch thạch Thận), Thận thủy sinh Can mộc - mạch thạch sinh sắc xanh.

Hoàng đế: Sự biến hóa bệnh tình ở ngũ tạng như thế nào?

Kỳ Bá: Chỉ cần xác định quan hệ tương ứng giữa 5 mạch và 5 sắc là có thể phân biệt được bệnh tình của chúng.

Hoàng đế: Xác định sắc và mạch rồi làm thế nào để phân biệt?

Kỳ Bá: Xem kỹ tình trạng hoãn cấp, to nhỏ, hoạt sắc của mạch là có thể xác định là bệnh gì?

Hoàng đế: làm thế nào để định các loại mạch trên?

Kỳ Bá: Mạch đến cấp, da ở bộ xích cũng cấp (căng); mạch đến từ từ (hoãn), da ở bộ xích cũng hoãn; mạch nhỏ da ở bộ xích mỏng, gầy và ít khí; mạch to, da ở bộ xích như nổi lên; mạch hoạt, da ở bộ xích hoạt lợi; mạch sáp, da ở bộ xích cũng sáp trệ. Những thay đổi đó ở thể đó có ít, có nhiều, vì vậy nếu giỏi quan sát da ở bộ xích, có thể có lúc không cần xem mạch thốn. Nếu giỏi xem mạch, có lúc có thể không xem sắc. Nếu nắm cả 3 (da, mạch, sắc) là thầy thuốc giỏi, chữa 10 khỏi 9. Nếu nắm được 2 là thầy thuốc vừa, chữa 10 khỏi 7. Nếu chỉ biết 1 là thầy thuốc kém, chữa 10 khỏi 6.

Hoàng đế: Tình hình bệnh tật của các mạch hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sáp như thế nào?

Kỳ Bá: Xin xem lần lượt từng tạng. Tạng tâm: mạch tâm rất cấp làm chân tay co quắp - Hơi cấp thì đau vùng tim xuyên ra lưng, ăn không được. Mạch tâm rất hoãn là cuồng, cười không thôi; hơi hoãn là phục lương (bệnh tích của ngũ tạng do khí huyết tích tụ) ở thượng vị. Khi nó di động lên xuống có thể nôn ra máu. Mạch tâm rất to, thì họng như có vật làm tắc lại, mạch hơi to thì tâm tý (do mạch không thông) đau lan ra lưng, có lúc chảy nước mắt, mạch rất nhỏ sẽ nấc, mạch hơi nhỏ thì tiêu khát. Mạch tâm rất hoạt - thường rất khát, mạc hơi hoạt có thoát vị (tâm sán) dẫn đến rốn, sôi bụng dưới (Tâm - Tiểu trường quan hệ biểu lý). Mạch tâm rất sáp sẽ câm, mạch hơi sáp (làm tổn thương huyết) sẽ nôn ra máu, chảy máu mũi. Bốn mạch âm duy, dương duy bị quyết nghịch (chân tay bị gía lạnh), tai ù, bệnh điên.

Xem tiếp bảng

(https://i.imgur.com/jJiKykT.jpg)

(https://i.imgur.com/yKNuQaq.jpg)

Hoàng Đế: 6 biến của bệnh (thay đổi biểu hiện ra 6 loại mạch) cần châm như thế nào?

Kỳ Bá: Mạch cấp thường là hàn, mạch hoãn thường là nhiệt, mạch to thường khí nhiều huyết ít, mạch nhỏ thường khí huyết đều ít, mạch hoãn thường dương khí thịnh, hơi có nhiệt, mạch sáp thời huyết nhiều khí ít, hơi có hàn. Châm cho người bệnh có mạch cấp, phải sâu và lưu kim (vì tà hàn, thường khó đuổi đi). Châm cho mạch hoãn phải nông mà rút kim nhanh (để nhiệt theo kim ra dương biểu). Châm cho mạch đại có thể hơi tả khí của nó, không nên xuất huyết. Châm cho mạch hoạt phải châm nông, rút kim nhanh, sơ tiết dương khí để đuổi nhiệt ra, châm cho mạch sáp, phải trúng mạch, châm theo thuận hoặc nghịch hướng của khí hành và lưu kim lâu, phải làm xoa bóp theo kinh trước để giúp khí huyết vận hành, rút kim rồi phải bịt lỗ châm ngay, không cho máu ra để điều hòa khí huyết trong mạch. Châm cho mạch nhỏ, do âm dương hình khí đều kém, không nên châm mà dùng thuốc ngọt để chữa.

Hoàng đế: Khí của 5 tạng 6 phủ chảy ở tỉnh, huỳnh, du, kinh rồi đổ vào hợp bằng đường nào? Khi vào thì có quan hệ tương quan với kinh mạch tạng phủ nào?

Kỳ Bá: Đi từ kinh dương ở chân tay vào trong và liên hệ với phủ.

Hoàng đế: Các huyệt huỳnh, du và hợp có định danh không?

Kỳ Bá: Huyệt huỳnh, huyệt du đều ở nông, chữa bệnh ở kinh mạch và ở biểu. Huyệt hợp ở sâu, dùng chữa bệnh ở tạng phủ. Như vậy chữa bệnh ở phủ thì dùng huyệt hợp của các kinh.

Hoàng đế: Tên của các huyệt hợp là gì?

Kỳ Bá: Tên của chúng là Túc tam lý, hợp của vị, Thượng cự hư của đại tràng, Ủy dương của tam tiêu, Ủy trung của bàng quang, Dương lăng tuyền của đởm.

Hoàng đế: phải lấy huyệt như thế nào?

Kỳ Bá: Lấy huyệt Túc tam lý phải để xuôi bàn chân xuống; lấy huyệt Cự hư phải vểnh bàn chân lên; lấy huyệt Ủy dương phải co duỗi chân; lấy huyệt Ủy trung phải co chân lại; lấy huyệt Dương lăng tuyền phải ngồi thẳng, co gối, thõng bàn chân, huyệt này ở phía ngoài của Ủy dương, lấy các huyệt ngoài kinh phải để chân tay ở tư thế thoải mái.

Hoàng đế: Bệnh của 6 phủ ra sao?

Kỳ Bá: Của túc Dương minh là mặt có biểu hiện nhiệt; của thủ Dương minh là xung huyết ở lạc của Ngư tế (mô cái); huyệt Xung dương (trên mu bàn chân có mạch đập) đầy thực và cứng hoặc hư yếu và sa xuống đều là bệnh của túc Dương minh - (kinh này là một kinh mạch quan trọng trong chẩn đoán bệnh nguy kịch) đó là mạch của Vị.

Bệnh ở Đại trường, đau trong ruột và sôi bụng, mùa đông lạnh nếu lại bị lạnh sẽ ỉa chảy, đau vùng rốn không thể đứng lâu được. Đại trường đồng khí với Vị, nên lấy huyệt (du ở dưới) Thượng cự hư để chữa.

Bệnh của Vị, ngực bụng đầy tức, đau ở vị quản, cạnh sườn hoành, họng bị tắc không thông, ăn uống không được, lấy huyệt Túc tam lý để chữa.

Bệnh của Tiểu trường, đau bụng dưới, đau xuyên lưng, tinh hoàn, có lúc ỉa đái không lợi, trước tai nóng hoặc chỉ có vai rất nóng và nóng ở giữa ngón út và đeo nhẫn, hoặc kinh mạch suy lõm xuống. Đó là những chứng của tiểu trường, có thể lấy huyệt Hạ cự hư (hợp dưới) để chữa.

Bệnh của tam tiêu: Bụng đầy khí (trệ), bụng dưới cứng, không đái được làm người bệnh mót đái quẫn bách, nước tràn ra nên bị phù làm thành trướng, nó biểu hiện ra ở đại lạc của túc Thái dương, đại lạc nằm ở giữa Thái dương và Thiếu dương, có thể thấy phản ứng của kinh mạch, phải dùng huyệt Ủy dương để chữa.

Bệnh của Bàng quang, bụng dưới hơi thũng (phù) và đau, ấn chỗ đau thì muốn đái nhưng không đái được, nóng ở tai, có thể mạch lõm xuống; dùng huyệt Ủy trung để chữa.

Bệnh của Đởm, hay thở dài, mồm đắng, nôn ra mật đắng, tâm thần bất an ủy mị, lo sợ người ta đến bắt mình, họng như vướng cái gì luôn muốn khạc ra. Ở huyệt gốc của kinh túc Thiếu dương nếu thấy mạch lõm xuống thì dùng cứu. Còn nếu thấy chứng hàn nhiệt vãng lại thì dùng huyệt (hợp của kinh) Dương lăng tuyền để chữa.

Hoàng đế: Cách châm các huyệt đó như thế nào?

Kỳ Bá: Trước hết phải châm trúng huyệt, không châm vào nhục tiết (cơ khớp). Châm trúng huyệt thì dọc kinh sẽ có cảm giác. Còn châm vào cơ khớp thì da bị đau. Nếu bổ tả ngược với bệnh thì bệnh sẽ nặng lên. Nếu châm trúng gân sẽ làm thương gân, vận động khó, tà khí không ra ngược lại, lại đấu tranh với chân khí và vào sâu thêm. Nếu dùng châm không cẩn thận, thì đã biến thuận thành nghịch vậy. Đó là hậu quả của châm sai.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 28, 2017, 07:49:15 AM
Quyển thứ hai

5. Căn kết (Huyệt căn và huyệt kết)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Bàn về huyệt căn và huyệt kết và tác dụng của chúng. Căn là nơi kinh và khí hậu bắt đầu tương hợp, kết là nơi chúng sẽ quy kết, là nơi tương ứng của khí hậu 4 mùa và nội tạng, là sự thông suốt giữa trong ngoài, biểu lý, do tác dụng khai, hợp, khu của các kinh âm và dương. Thiên này nói tên và vị trí của các huyệt căn, huyệt kết của 3 kinh âm, 3 kinh dương, tác dụng khai, hợp, khu và bệnh tật của chúng, nêu cả các huyệt chính căn, lưu, trú, nhập của 3 kinh dương ở chân và tay. Dựa vào nguyên lý kinh chạy ngày đêm 50 chu kỳ, thảo luận về số lần mạch đập để phán đoán trạng thái của tạng phủ, đề xuất sự khác nhau giữa các cách châm nhanh, chậm, nông, sâu, nhiều, ít tùy thể chất người bệnh.

Kỳ Bá: Trời đất giao nhau nóng và lạnh cũng thay đổi nhau theo đạo (quy luật tiến hóa) của Âm Dương thì trong mỗi mùa, Âm Dương nhiều hay ít có khác nhau. Số âm chẵn, số dương lẻ. Mùa Xuân Hạ, âm khí ít, dương khí nhiều, với bệnh lý âm dương không điều hòa trong mùa này thì bổ tả như thế nào? Mùa Thu Đông, dương khí ít, âm khí nhiều, âm khí thịnh mà dương khí suy nên lá cây khô vàng chỉ còn thấp, nước nuôi gố cây mà thôi. Với bệnh lý âm dương thay nhau này thì bổ tả thế nào? Hư tà (kỳ tà) rời kinh đi sâu vào tạng phủ, sẽ gây nhiều bệnh cho tạng phủ, do chúng đi khắp nơi. Nguyên nhân là do không hiểu ý nghĩa huyệt căn, huyệt kết, không rõ tác dụng khai, hạp ra vào nông sâu của 5 tạng 6 phủ, làm cho cơ quan khai, hạp bị hỏng, để tinh khí tiết ra mất, khí âm và khí dương bị tổn hại lớn khó mà phục hồi được. Tác dụng của châm xem ở thiên "Chung Thủy". Hiểu rõ chung thủy sẽ hiểu rõ tác dụng kỳ diệu của châm. Và đó cũng là đạo lý của châm.

Kinh Thái dương huyệt căn ở Chí âm, huyệt kết ở Mệnh môn (Tình minh). Mệnh môn là mắt. Kinh Dương minh huyệt căn là Lệ đoài, huyệt kết ở tảng đại (Đầu duy) ở góc trán. Kinh Thiếu dương, huyệt căn ở Khiếu âm, huyệt kết ở Thính cung (song long) ở giữa tai. Thái dương là khai, Dương minh là hạp, Thiếu dương là khu. Nếu tác dụng khai (của Thái dương) bị mất thì sinh bệnh ở cơ khớp, gầy teo, mềm yếu và bệnh cấp. Vậy bệnh cấp, lấy huyệt ở kinh Thái dương, nếu thực thì tả hư thì bổ. Nếu tác dụng hạp (của Dương minh) bị mất thì không có chỗ nghỉ (chân khí bị tà khí ngăn lại) sinh chứng nuy (chân tay mềm dũ). Chữa nuy lấy huyệt ở kinh Dương minh, nếu thực thì tả hư thì bổ.

Nếu tác dụng khu (của Thiếu dương) bị mất thì cốt dao tứ khớp lỏng không đi được. Chữa bệnh này dùng huyệt của kinhTthiếu dương, nếu thực thì tả hư thì bổ.

Tóm lại phải dựa vào tác dụng khai, hạp, khu và triệu chứng của 3 kinh dương để có cách điều trị đúng.

Kinh Thái âm huyệt căn ở Ẩn bạch, huyệt kết ở Thái thương (Trung quản). Kinh Thiếu âm huyệt căn ở Dũng tuyền, huyệt kết ở Liêm tuyền. Kinh quyết âm, huyệt căn ở Đại đôn, huyệt kết ở Ngọc anh (Ngọc đường) liên lạc với Đản trung. Kinh Thái âm (là biểu của 3 kinh âm) là khai, kinh Quyết âm (là lý của 3 kinh âm) là hạp, kinh Thiếu âm (ở giữa) là khu. Nếu chức năng khai bị tổn thương thì kho lúa không biết vận chuyển ra sao (chức năng vận hóa rối loạn, không thể hấp thu chuyển hóa tinh hoa của thủy cốc), sẽ bị bệnh cách động (ở trên thì hoành cách bị tắc, ở dưới thì ỉa chảy không cầm được). Chữa chứng cách động (tắc ở hoành cách hoặc ỉa chảy không cầm) thì dùng huyệt của kinh Thái âm, hư thì bổ, thực thì tả. Chức năng khai bị tổn thương thì Can khí tuyệt (tắc ở trong).

Làm cho bệnh nhân bị quan, chữa bi quan dùng huyệt của kinh Quyết âm, hư thì bổ, thực thì tả. Nếu khu bị tổn thương  thì mạch (Thận) bị uất kết, hạ tiêu không thông. Chữa phải dùng huyệt kinh Thiếu âm, hư thì bổ, thực thì tả. Chứng có uất kết này thường thuộc chứng hư, cần phải bổ.

Kinh Thái dương bàng quang huyệt căn ở Chí âm (tỉnh) chảy đến Kinh cốt (nguyên) tưới cho Côn lôn (kinh) chảy vào Thiên trụ, Phi dương (lạc).

Kinh Thiếu dương đởm huyệt căn ở Khiếu âm, chảy đến Khâu khư (nguyên) tưới cho Dương phụ (kinh) chảy vào Thiên dung, Quang minh (lạc).

Kinh Dương minh vị, huyệt căn ở Lệ đoài (tỉnh), chảy vào Xung dương (nguyên) tưới cho hạ lăng (Túc tam lý - song ở đây phải là Giải khê - kinh) chảy vào Nhân nghinh, Phong long (lạc).

Kinh Thái dương tiểu trường, huyệt căn ở Thiếu trạch (tỉnh) chảy vào Dương cốc (nguyên) tưới cho Tiểu hải (hợp) (các kinh khác chảy vào huyệt nguyên - kinh này lại là hợp - tại sao?). Chảy vào Thiên song, Chi chính (lạc).

Kinh Thiếu dương tam tiêu huyệt căn ở Quan xung (tỉnh) chảy vào Dương trì (nguyên) tưới cho Chi câu (kinh) chảy vào đại dũ (Thiên dung) Ngoại quan (lạc).

Kinh Dương minh đại trường huyệt căn ở Thương dương (tỉnh) chảy đến Hợp cốc (nguyên) tưới cho Dương khê (kinh) chảy vào Phù đột, Thiên lịch (lạc).

Trên đây là 12 kinh. Nếu kinh lạc thịnh (thực) cần tả các huyệt trên.

Một ngày, đêm có 50 vòng tuần hoàn để vận hành tinh (khí) của ngũ tạng, nếu không ứng với số đó (thái quá hoặc bất cập) gọi là cuồng sinh. 50 vòng tuần hoàn để đảm bảo cho ngũ tạng có được tinh (khí). Cần đếm được số mạch ở thốn khẩu và nắm được (trạng thái thịnh suy) của nó. Nếu đập 50 lần đều đặn, không mất nhịp nào là ngũ tạng tốt. Nếu đập 40 lần thiếu một là một tạng không có khí, nếu đập 30 lần thiếu một là 2 tạng không có khí, nếu đập 20 lần thiếu một là 3 tạng không có khí, nếu đạp 10 lần thiếu một là 4 tạng không có khí, đập dưới 10 lần đã thiếu một là 5 tạng không có khí, là sắp chết. Ý nghĩa của vấn đề này đã được trình bày ở thiên chung thủy. Qua số lần đập là biết trạng thái ngũ tạng, có thể dự đoán được sống chết. Nếu đập 50 lần đều đặn là ngũ tạng bình thường. Còn mạch lúc nhanh lúc chậm rời rạc là sắp chết.

Hoàng đế: Ta biết châm nghịch thuận ở 5 loại hình người khác nhau là nói đến sự to hay nhỏ của xương khớp, chắc hay nhẽo của cơ, sự dầy hay mỏng của da, tình hình thanh trọc của huyết, trạng thái hoạt sáp của khí, sự dài ngắn của mạch, sự ít nhiều của huyết, số kinh lạc của người ta. Những điều đó thường ứng với người áo vải. Còn những bậc vương giả, đại nhân họ ăn nhiều, song thân thể mềm yếu, khí huyết mạnh (thịnh) hung, hoạt lợi thì việc châm nhanh, chậm, nông, sâu, nhiều ít so với trên có giống nhau không?

Kỳ Bá: Người to chắc và người cậu ấm cô chiêu có giống nhau không? Nguyên tắc chung khi châm là nếu khí hoạt lợi (đắc khí mạnh) thì rút kim nhanh, nếu khí sáp (chậm chạp, đắc khí yếu) thì rút kim chậm. Nếu khí hãm (mạch hung) (đáp ứng rất nhanh) dùng kim nhỏ châm nông. Nếu khí sáp trệ (đáp ứng rất chậm) dùng kim to, châm sâu. Châm sâu cần lưu kim, châm nông thì rút kim nhanh. Như vậy với người áo vải (to chắc) thì châm sâu và lưu kim, với những người đại nhân châm kim nhỏ, châm từ từ vì ở những người ấy khí mạnh hung, hoạt lợi (đáp ứng rất nhanh và sợ đau).

Hoàng đế: Làm thế nào phân biệt được cách chữa trạng thái bệnh phù hợp và không phù hợp với thể xác?

Kỳ Bá: Người bệnh có hình khí không đủ, bệnh tình rầm rộ là tà thắng (thịnh) phải tả gấp. Hình khí có thừa (thực) bệnh khí (chức năng của tạng phủ bị bệnh) không đủ, phải bổ gấp. Hình khí (thể xác, chức năng) đều không đủ là âm dương đều không đủ, không được châm, châm sẽ lại gây thêm không đủ như vậy âm dương đều kiệt, khí huyết đều tận, ngũ tạng sẽ bị hư và rỗng (không có tinh để tàng), gân xương tủy khô héo, người già từ suy đến kiệt rồi chết, người trai tráng khó hồi phục. Thể xác (hình), chức năng (khí) có thừa, nếu bệnh khí hữu dư (nặng) là âm dương đều thừa cần tả gấp tà khí, để điều hòa hư thực của bệnh nhân, cho nên nói: Thừa (thực) thì phải tả nó, thiếu (hư) thì phải bổ nó.

Nếu châm mà không biết sự thuận nghịch, tác dụng ngược nhau của bổ tả, sự đấu tranh giữa chính tà, đã đầy (thực) lại bổ thì âm dương sẽ trào ra 4 phía (tứ chi), trường vị đầy ắp, Can Phế bị ứ trướng ở trong (không thông), âm dương sẽ xa nhau (không cân bằng). Nếu hư lại tả thì kinh mạch sẽ hư và rỗng, huyết khí khô kiệt, khí ở trường vị tích tụ, da mỏng, lông khô sẽ dễ chết.

Do đó, mấu chốt của châm là biết điều hòa Âm Dương, Âm Dương điều hòa thì tinh khí sẽ sáng tỏ (đầy đủ), hoạt động của hình và khí hòa hợp (thể xác và chức năng hợp) thần sẽ tàng ở bên trong.

Cho nên thầy thuốc biết bình khí, thầy thuốc trung bình làm loạn mạch khí, thầy thuốc kém làm tuyệt khí và nguy đến tính mạng. Cần hết sức cẩn thận trước khi châm, phải xem xét bệnh tình của ngũ tạng, mạch trường tương ứng, trạng thái hư thực của kinh lạc, da khô hay nhuận, rồi mới lấy huyệt để chữa.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 30, 2017, 08:19:15 AM
6. Thọ yểu cương nhu

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự khác nhau giữa âm, dương, cương, nhu của hình thể và chức năng của cơ thể. Trong đó có sự hoãn cấp của hình thể, sự thịnh suy của nguyên khí, sự mỏng dày của da, sự to nhỏ của xương, sự chắc nhẽo của cơ bắp, sự to nhỏ, khỏe yếu của mạch v.v...Qua sự cân bằng hoặc tương ứng của khí huyết kinh lạc v.v. trong hình khí để nói lên quan hệ sinh lý, bệnh lý thuộc âm dương, cương nhu, để theo dõi tuổi thọ dài ngắn. Thông qua 2 mặt ngược nhau của cương nhu để phân tích sống chết thọ yểu.

Hoàng đế: Người sống trên đời tính tình có cương có nhu, thể chất có mạnh có yếu, thân thể có dài có ngắn, tính chất có âm có dương, vậy cách châm phải thế nào?

Thiếu sư: Trong âm có âm, trong dương có dương. Nắm được âm dương thì sẽ có cách châm đúng (để điều hòa sự mất cân bằng âm dương). Cần rõ bệnh bắt đầu (từ âm hay dương) để có cách châm có lý. Cũng phải xem quan hệ tương ứng của nhân tố gây bệnh với sự thay đổi của bốn mùa ra sao, bên trong hợp với tạng phủ, bên ngoài với da, gân cốt. Nghĩa là trong có âm dương, ngoài cũng có âm dương. Ở trong ngũ tạng là âm, 6 phủ là dương. Ở ngoài gân xương là âm, da là dương. Cho nên nếu bệnh âm tại âm (tạng) cần châm huyệt huỳnh (hỏa), huyệt du (thổ) của kinh âm. Nếu bệnh dương tại dương (da), châm huyệt hợp (thủy) của kinh dương. Nếu bệnh âm tại dương (gân cốt) châm huyệt kinh (kim) của kinh âm. Nếu bệnh dương tại âm (phủ) châm huyệt lạc ở kinh dương.

Bệnh dương tại dương gọi là phong, bệnh ở âm gọi là tý, ở cả âm và dương gọi là phong tý. Bệnh có hình mà không đau là thuộc dương (biểu), không có hình mà đau là thuộc âm (lý). Không có hình mà đau là do dương hoàn hảo và âm (tạng) tổn thương, lấy ngay huyệt ở kinh âm để chữa gấp, không châm kinh dương. Bệnh có hình mà không đau là do âm hoàn hảo (tạng phủ không có bệnh), chỉ có dương bị tổn thương (biểu, kinh dương), cần lấy ngay huyệt ở kinh dương để chữa, không lấy kinh âm. Nếu bệnh ở cả kinh âm và dương, lúc có hình (ở biểu - gân xương), lúc không có hình (ở lý - tạng phủ), lúc đó có tâm phiền, gọi là bệnh ở âm nặng hơn ở dương. Loại bệnh này kéo dài không lâu (khó chữa và sẽ chết).

Hoàng đế: Sự xuất hiện trước sau của bệnh ở hình khí, ứng với bên trong và bên ngoài như thế nào?

Bá Cao: Phong hàn làm tổn thương hình, lo nghĩ, sợ hãi, phẫn nộ làm tổn thương khí. Khí làm tổn thương tạng (ảnh hưởng đến hoạt động của tạng) gây bệnh ở tạng. Hàn tác động vào hình (biểu), tất nhiên da, cơ ở vùng tương ứng bị bệnh. Phong tà tấn công cân mạch (ở giữa biểu lý) do đó cân mạch bị bệnh. Đó là tương ứng giữa trong và ngoài, khi hình và khí bị tổn thương.

Hoàng đế: Vậy châm thế nào?

Bá Cao:

- Bệnh đã 9 ngày, phải châm 3 ngày mới khỏi.
- Bệnh đã 1 tháng, phải châm 10 ngày mới khỏi.
- Bệnh đã lâu ngày hay mới, dù nhiều hay ít đều theo cách đó để châm.

Với bệnh tý lâu ngày, khi châm không có kết quả, phải chích huyết lạc và nặn máu.

Hoàng đế: Bệnh có do ngoại nhân, có do nội nhân, có khó chữa, có dễ chữa, làm thế nào để phân biệt?

Bá Cao:  Nếu bệnh (do ngoại nhân tác động) ở hình (biểu) chưa vào tạng (lý) số lần châm bằng 1/2 số ngày của nó (số thời gian cần châm). Bệnh (do nội nhân) ở lý sau đó biểu cũng ứng theo (cũng có bệnh) thì phải bội số lần châm mới được (phải châm 10 lần như ở bệnh 1 tháng). Đó là nội dung của việc châm phải tùy theo sự tương ứng giữa bên trong và bên ngoài, giữa chữa dễ và chữa khó.

Hoàng đế: Hình (thể xác) có hoãn cấp, có thịnh suy, xương có to nhỏ, thịt có chắc nhẽo, da có dày mỏng, làm thế nào biết thọ yểu?

Bá Cao: Hình và khí tương nhậm (xứng) thì thọ. Không tương nhậm thì yểu. Da và thịt tương quả (bao nhau) thì thọ, không tương quả (bao nhau) thì yểu. Huyết khí kinh lạc thắng hình thì thọ, không thắng hình thì yểu.

Hoàng đế: Sự hoãn cấp thân hình là như thế nào?

Bá Cao: Thân hình đày đặn, da hoãn (mềm mại) là thọ, đầy đặn nhưng da cấp (căng) là yểu. Thân hình đầy đặn có mạch chắc thớ là thuận, có mạch nhỏ yếu là khí suy, khí suy thì nguy. Thân hình đầy đặn nhưng gò má không nhô là xương nhỏ, xương nhỏ thì yểu. Thân hình đầy đặn to lớn, bắp thịt không nở nang, không rắn chắc là cơ nhẽo, cơ nhẽo là yếu.

Trên đây là nói về sinh mệnh trời cho, có hình (thể) có khí (chức năng). Hình (bên ngoài), khí (chức năng bên trong), cân bằng thống nhất hay không, có thể coi là tiêu chuẩn để đánh giá thọ hay yểu. Trên lâm sàng phải dựa vào hình (mạnh hay yếu), khí (thịnh hay suy), quan hệ giữa hình và khí (rồi đưa vọng chẩn và thiết chẩn để xem xét bệnh tình và tiên lượng, trên cơ sở đó) để quyết định sự sống chết.

Hoàng đế: Vấn đề thọ yểu có quy định được không?

Bá Cao: Bốn bên quanh mặt lõm xuống, thấp hơn những nơi minh đường (giữa sống mũi) khuyết (ấn đường) giữa trán), sống độ 30 tuổi thì chết. Nếu lại bị ngoại cảm, nội thương nữa, chỉ độ 20 tuổi thì chết.

Hoàng đế: Hình và khí có tương thắng (thân thể và chức năng có lúc cái nọ hơn cái kia). Vậy làm thế nào để dựa vào đó để tiên đoán thọ yểu?

Bá Cao: Nói chung người không có bệnh (nguyên) khí thắng thân thể, thì (tuy người bé nhỏ) nhưng vẫn thọ. Người có bệnh, gầy còm thì dù (nguyên) khí vượt thân thể (nhưng vì khí không thể tồn tại một mình) nên vẫn chết, (thân thể chưa thật gầy còm, nhưng nguyên khí đã kiệt), tuy thân thể hơn (nguyên) khí, bệnh vẫn rất nguy hiểm.

Hoàng đế: Cách châm có 3 cái "biến". Thế nào là 3 cái biến?

Bá Cao: 3 cái biến là (dựa vào tính chất khác nhau, bệnh chứng khác nhau, có 3 cách châm khác nhau): Châm vào Dinh, châm vào Vệ, châm vào Hàn tý ngưng trệ ở trong kinh lạc. Châm vào Dinh để làm chẩy máu ứ, châm vào Vệ để làm thoát vệ khí, châm vào Hàn tý để làm cho trong nóng lên (bằng cách cứu tiếp để tán hàn).

Hoàng đế: Bệnh của Dinh, Vệ, Hàn tý sinh ra như thế nào?

Bá Cao: Bệnh của Dinh là hàn nhiệt (vãng lai), khí ít, thở yếu, huyết có thể lên xuống (sai đường). Bệnh của Vệ là khí thông, khí đến, khí đi, làm cho uất nô (bụng đầy tức khó chịu), hoặc sôi bụng, do phong hàn xâm nhập trường vị gây nên. Bệnh hàn tý là hàn tà lưu (ở kinh lạc) có những lúc da đau và tê bì.

Hoàng đế: Châm hàn tý làm trong nóng lên là như thế nào?

Bá Cao: Châm cho người áo vải (lao động khỏe chắc) phải dùng hỏa châm. Châm cho đại nhân (được nuông chiều sung sướng) thì châm xong phải chườm nóng bằng thuốc.

Hoàng đế: Cách chườm như thế nào?

Bá Cao: Dùng 20 cân rượu ngon, Hồ tiêu một thăng, Can khương 1 cân, Quế tâm 1 cân, thuốc đập nhỏ như hạt đậu, ngâm rượu, dùng 1 cân bơ tông, 4 trượng vải trắng mỏng cùng ngâm vào rượu. Hâm rượu lên rồi um bằng phân ngựa (để đến cổ lọ thôi) và dùng đất trát kín miệng lọ, um 5 ngày đêm, lấy bông và vải ra phơi nắng cho khô, rồi lại thấm rượu phơi đến lúc thấm hết rượu thì thôi. Mỗi lần thấm hết và phơi hết mất một ngày đêm. Đến khi thấm rồi mà lấy ra còn khô thì lấy bã thuốc phơi khô rồi để cả bã thuốc và bơ tông vào túi vải. Mỗi túi có 2 lần vải và làm thành 6,7 túi. Khi dùng, hơ túi thuốc trên than hồng của cây dâu cho nóng, rồi chườm lên chỗ đã châm của hàn tý để nóng vào trong. Mỗi lần chườm hơ túi thuốc và chườm chỗ đau 30 lần. Mỗi lần chườm ra mồ hôi, lau khô cộng 30 lần. Chườm xong người bệnh đi bộ trong phòng kín gió (để tránh gió). Mỗi lần châm đều lên chườm và bệnh sẽ khỏi. Đấy gọi là phép "nội nhiệt" (làm cho nóng lên).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 30, 2017, 04:43:41 PM
7. Cách sử dụng của kim (Quan châm)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên tầm quan trọng của việc dùng đúng 9 loại kim, tính năng của 9 loại kim (9 kim có 9 biến, 9 biến có 9 cách châm). Lại dựa vào vị trí của bệnh ở sâu, nông, to, nhỏ, nêu ra cách (ngẫu thích, báo thích, khôi thích, tề thích, dương thích, trực châm thích, du thích, đoản thích, phù thích, âm thích, bàng châm thích, tán thích) tiến kim và phối hợp. Còn nêu 5 thủ pháp châm: Bán thích, báo văn thích, quan thích, hợp thích, du thích dùng trong chữa bệnh của 5 tạng tương ứng.

Tóm lại: Thiên này nói lên kim nào chữa bệnh nào, bệnh nào dùng cách châm nào, và đều phải chọn kim và cách châm đã được mọi người công nhận.

Mấu chốt của cách châm chích là cách dùng kim (hợp quy cách) 9 kim đều có phạm vi dùng riêng và có tác dụng điều trị riêng. Các loại kim dài, kim ngắn, kim to, kim nhỏ đều có đối tượng riêng. Nếu dùng không đúng bệnh sẽ không lành. Bệnh ở nông (biểu) mà (dùng cách) châm sâu, sẽ làm tổn thương thịt lành (làm chảy máu), sinh mụn nhọt ở da. Bệnh ở sâu mà (dùng cách) châm nông, làm tổn thương các chi lạc, không tả được bệnh tà và cũng gây ổ mủ ở da. Bệnh nhỏ mà dùng kim to sẽ tả (thương tổn) nguyên khí làm bệnh nặng lên. Bệnh to (nặng, sâu) mà dùng kim nhỏ thì tà khí không bị đẩy ra ngoài, kết quả sẽ kém. Sau đây nói về cách sử dụng kim cho đúng:

- Bệnh ở da (nông) không có chỗ cố định, dùng kim mũi như mũi tên (sàm châm) để châm nơi có bệnh (để tả phong nhiệt), không châm vào chỗ da trắng.

- Bệnh ở giữa các lớp cơ (các gân) dùng kim mũi tròn (viên châm) tác động vào nơi có bệnh (để lưu thông khí huyết). Bệnh ở kinh lạc, thường là chứng tý ngoan cố, "dùng kim mũi 3 cạnh" (phong châm - tam lăng châm để chích xuất huyết ở lạc). Bệnh ở mạch khí không đủ phải bổ, dùng để châm (không châm qua da) ấn các tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp và các huyệt khác (để làm cho khí huyết lưu thông). Bệnh có ổ mủ dùng kim mũi kiếm (phi châm - để chích tháo mủ). Bệnh tý bạo phát (cấp tính) dùng kim mũi tròn, sắc (viên lợi châm, châm sâu để chữa đau gấp). Bệnh tý đau liên miên, dùng hào châm (lưu kim lâu để trừ đau). Bệnh ở giữa (sâu) dùng kim dài (trường châm - để chữa, tà vào sâu gây tý ở sâu). Bệnh phù, có nước ở khớp, dùng kim to mũi, hơi tròn (đại châm - để tiết nước tích ở khớp ra). Bệnh ngoan cố ở ngũ tạng, dùng kim tam lăng (phong châm) để tả các huyệt tỉnh, huỳnh...tùy mùa mà chọn huyệt (Xuân huyệt huỳnh, Hè huyệt du, Thu huyệt hợp, Đông huyệt tỉnh, huyệt du).

* Chú ý: Sàm châm để làm chảy máu ở nông. Viên châm đề châm để xoa bóp huyệt. Phong châm để chích nặn máu. Phi châm để tháo mủ. Đại châm để trục thủy ở khớp (đại châm là phong châm làm to lên). Trường châm để chữa chứng tê lâu ngày. Ngày nay tháo mủ dùng ngoại khoa. Kim tam năng (phong châm) để chích xuất huyết. Hào châm thay viên châm. Trường châm ít dùng vì có thể gây nguy hiểm. Kim hoa mai có tác dụng tương tự sàm châm. Ngày nay rất ít dùng viên châm để châm, để xoa bóp huyệt.

Chín cách châm dùng cho 9 trạng thái bệnh lý như sau

1. Du thích là châm 5 huyệt hùynh du của các kinh và các huyệt du ở lưng của tạng phủ.

2. Viễn đạo thích là châm huyệt ở xa, bệnh ở trên lấy huyệt ở dưới còn gọi là "phủ du" huyệt của (các kinh dương ở chân).

3. Kinh thích (châm vào đường kinh) là châm các huyệt và nơi kết lạc của kinh bị bệnh.

4. Lạc thích (châm vào lạc) là châm các lạc mạch nhỏ nổi ở dưới da (để nặn máu, tả máu ứ).

5. Phân thích là châm ở khe giữa các bó cơ (nơi các kinh đi qua).

6. Đại tả thích (châm tả mạnh) là châm nơi có mủ, tháo dẫn lưu mủ bằng phi châm.

7. Mao thích (châm nông) là châm chữa chứng tý ở da (không vào đến thịt).

8. Cự thích (châm đối xứng) là đau bên phải châm bên trái, đau bên trái châm bên phải.

9. Thối thích là dùng kim đốt nóng để chữa chứng tý.

12 cách châm dùng cho (trạng thái bệnh lý của) 12 kinh:

1.Ngẫu thích là tìm 2 huyệt ở lưng và ngực cùng vị trí đau, châm vào đó để chữa tâm tý (đau thắt ngực). Cần châm chếch (để không làm tổn thương tạng).

2. Báo thích: Là châm ở bệnh có đau không cố định, đau chạy lên trên, xuống dưới, châm ở đúng chỗ đau không rút kim. Sau lấy tay trái ấn vào chỗ đau khác mới rút kim và châm tiếp chỗ đau khác. Với chỗ đau khác cũng làm như vậy.

3. Khôi thích là châm thẳng sát gân (hoặc trước hoặc sau). Mổ cò, mở rộng lỗ châm để làm mềm gân bị co, dùng để chữa chứng cân tý (cân mạch co gây đau).

4. Tề thích: là châm đúng giữa một kim, châm ở hai bên phải trái. Mỗi bên một kim dùng để chữa chứng hàn khí ở chưa sâu lắm, còn gọi là tam thích để chữa chứng tý chưa vào sâu.

5. Dương thích: là châm ở giữa một kim, châm ở 4 xung quanh 4 kim nữa, dùng cách châm nông, để chữa hàn tý ở nông và phạm vi nông, phạm vi rộng.

6. Trực châm thích: Là véo da ở phía trên huyệt lên rồi châm kim luồn dưới da (không tổn thương đến thịt), để chữa hàn tý ở nông.

7. Du thích: là tiến và rút kim nhanh, dùng ít huyệt, châm sâu để chữa bệnh nhiệt do tà khí thịnh (để tả nhiệt).

8. Đoản thích chữa cốt tý, châm vào từ từ, tiến kim xong hơi lay kim, rồi lại tiến kim sâu hơn, làm mũi kim đến gần xương, rồi mổ cò như xoa bóp xương vậy (dùng kim ngắn nhưng châm vào sát xương).

9. Phù thích là châm chếch (vào phần cơ) nông để chữa chứng thuộc hàn của cơ bị co đau.

10. Âm thích là châm cả hai bên phải trái để chữa chứng hàn quyết, hàn quyết có liên quan đến kinh (thận) thiêu âm (nên châm hai huyệt Thái khê hai bên) sau mắt cá.

11. Bàng châm thích là châm một kim thẳng vào kinh, châm một kim chếch (vào lạc), để chữa chứng tý lâu ngày không khỏi.

12. Tán thích là tiến kim và rút kim nhanh, ở ngay chỗ đau, châm nông, nhanh vài kim cho ra máu để chữa xưng tấy mụn nhọt.

Nếu kinh mạch ở sâu có bệnh, nhìn không thấy thì khi châm tiến kim từ từ vào trong, lưu kim lâu để thông mạch khí ra huyệt, làm cho có cảm giác đắc khí. Nếu mạch ở nông thì không trực tiếp châm vào nó mà dùng tay đẩy mạch để châm cho khỏi vào mạch. Sẽ không gây chảy máu, không làm tinh khí tiết ra ngoài mà chỉ làm tà khí tiết ra mà thôi.

Tam thích là 3 mức độ nông sâu khác nhau (thiên, địa, nhân), đều có cốc khí (cảm ứng đắc khí). Mới đầu châm nông qua da làm dương tà (ở phần vệ) tiết ra ngoài, tiếp đó châm sâu thêm để đuổi âm tà (tà ở phần dinh), lúc đó kim vào đến thịt nông nhưng chưa vào đến lớp cơ sâu - cuối cùng vào đến lớp cơ sâu (phần nhục chi gian) sẽ làm cốc khí xuất (có cảm giác đắc khí). Vì vậy "thích pháp" viết: Mới đầu châm nông ở da để đuổi tà khí ở nông làm thông khí huyết, tiếp đó châm hơi sâu để đuổi tà khí ở phần âm, cuối cùng châm rất sâu để hạ cốc khí (có đắc khí - để đạt mục đích bổ hư tả thực).

Do đó thầy châm giỏi phải biết thời khí (trong năm) của lúc châm, tình hình thời khí thịnh suy (của từng tiết), và trạng thái hư thực (của bệnh nhân) do thời tiết gây nên.

Có 5 cách châm để ứng với (bệnh của) ngũ tạng:

1. Bán thích là châm rất nhanh, nông ở da, không làm tổn thương cơ như nhổ lông, để sơ tiết tà khí ở da (phế chủ da), nên ứng với phế (hiện nay châm trong da, gõ kim hoa mai).

2. Báo văn thích: là châm nhiều kim trúng lạc mạch ở trước sau, phải trái của (quanh) nơi bệnh, để cho máu ứ của kinh lạc thoát ra (Tâm chủ huyết) nên cách châm này ứng với tâm.

3. Quan thích là châm ở nơi bám của các cân ở khắp tứ chi để chữa cân tý. Cẩn thận không để chảy máu (Can chủ cân) nên ứng với Can (cân tý là chân tay co quắp, không đau, không vận động được tốt).

4. Hợp cốc thích là châm sâu vào cơ, hai bên phải trái chỗ bệnh mỗi bên một kim, châm chếch và bắt gặp nhau như chữ V, dùng chữa cơ tý (tỳ chủ cơ nhục) nên ứng với Tỳ (cơ tý: do bị hàn thấp nên da cơ đều đau).

5. Du thích là tiến kim rút kim nhanh, châm sâu đến gân xương. Dùng chữa bệnh cốt tý (Thận chủ cốt) nên ứng với thận.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 01, 2017, 06:02:18 AM
8. Nguồn gốc của thần (Bản thần)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên nguốn gốc sinh ra hoạt động tinh thần (tinh, thần, hồn, phách, tâm , trí, lý, tư, trì. lự), quan hệ giữa sức khỏe và dưỡng sinh. Nêu lên sự lao tổn của thất tình sẽ ảnh hưởng đến thần. Khi châm cần quan sát trạng thái thần của người bệnh đã rồi hãy chữa.

Hoàng đế: Nguyên tắc của châm, đầu tiên phải dựa vào cái gốc - đó là thần của người bệnh. Vì huyết, mạch, dinh, khí và (các hoạt động) tinh thần đều do ngũ tạng tàng chứa (là cơ sở vật chất và động lực của sự duy trì sự sống của ngũ tạng).

Nếu thất tình dâm dục quá độ để làm tâm khí phân ly, tinh khí mất, hồn phách bay bổng, ý chí hoảng loạn, năng lực tư duy và trí hao tổn, tại sao? Thế nào là đức, khí, sinh, tinh, thần, hồn, phách, tâm, ý, chí, tư, trì, lự ?

Kỳ Bá:

- Đức là khí của thiên (trời) trong ở trong ta. Khí là (khí) của đất (-) tồn ở trong ta. Sinh là dự giao lưu của thiên đức ở trên và địa khí ở dưới (sinh hóa). Nguồn gốc của sinh mệnh (là vật chất sinh ra do sự giao lưu của âm dương), vật chất đó là tinh, lưỡng tinh của âm dương tương tác (kết hợp) thành (sự sống) là thần. Hồn là cái (tinh thần ý chí) theo sự vãng lai hoạt động của thần khí. Phách là cái ra vào cùng với tinh (công năng tự động của cơ quan) để nuôi dưỡng hoạt động tạng khí. Tâm là cái phụ trách trọn vẹn sự vật (phát huy tác dụng với hoạt động của sinh mệnh). Ức niệm (ý niệm, động cơ của sự suy nghĩ) ở trong tâm để thực hiện là ý. Ý đã định, muốn quyết tâm thực hiện là chí (điều khiển để hành động). Suy nghĩ để thực hiện chí (nguyện) là tư. Nghĩ từ cái trước mắt suy ra cái tương lai  là lự. Suy nghĩ để định ra cái xử lý thích hợp gọi là trí.

- Phương pháp dưỡng sinh của người có tri (thức) là biết thuận khí hậu 4 mùa, thích ứng với lạnh, nóng, không vui giận quá độ và thích ứng với hoàn cảnh sống (an cư), điều tiết tốt âm dương, điều hòa cương nhu (làm cho chúng tương tế). Được như vậy bệnh tà không thể xâm phạm, do đó có thể sống lâu.

- Nếu sợ hãi quá, lo nghĩ quá, sẽ thương thần. Thần bị thương thì sẽ sợ hãi và lưu dâm (tinh chảy ra) không ngừng. Do bi ai quá nên tạng (khí huyết) bị suy kiệt (tận tuyệt) thì sẽ chết. Vui quá thì thần sẽ hao tán, không tàng được. U buồn quá thì khí bế không hành được. Ức giân quá thì mê loạn không tự chủ được. Khiếp sợ quá thì thần tán loạn không thu về được.

Tâm (tàng thần) - Lo sợ quá, suy nghĩ quá, bồn chồn quá sẽ thương thần. Thần bị thương thì sẽ (khủng cụ), kinh khủng lo sợ và tự mất, dẫn đến cơ bắp teo, lông khô, sắc yếu và chết về mùa đông. (Tâm thuộc hỏa, mùa đông thuộc thủy, thủy khắc hỏa nên chết về mùa đông).

Tỳ (tàng ý) - Ưu sầu quá không giải được sẽ thương ý. Ý bị thương thì bồn chồn phiền lạnh trong ngực. chân tay không cử động được, da sắc yếu, lông khô và chết về mùa xuân (Xuân - mộc, khắc Tỳ - thổ).

Can (tàng hồn) - Bi ai quá làm động bên trong sẽ thương hốn. Hồn bị thương thì sẽ thành cuồng, vong (quên) sẽ không còn tinh, không còn tinh thì bất chính (nói và làm không đúng), làm âm vật chun bé lại, cân mạch co quắt, xương sườn không di động, sắc yếu. Lông khô, chết về mùa thu (Thu - kim khắc Can - mộc).

Phế (tàng phách) - Vui vô độ sẽ thương phách, phách bị thương sẽ thành cuồng, cuồng thì ý thức lộn xộn, không nhận ra người khác, da khô héo, sắc yểu, chết về mùa Hạ (Hạ - hỏa khắc Phế - kim).

Thận (tàng chí) - Giận quá sẽ thương chí. Chí bị thương thì trí nhớ giảm, chóng quên lời nói trước, sút lưng, da khô sắc yếu, chết về cuối Hạ (Hạ - thổ khắc Thận - thủy).

- Kinh khủng không được giải thì thương tinh. Không thể để chúng bị thương. Tinh bị thương sẽ không nội thủ (giữ ở trong người) được, gây nên âm hư. Âm hư thì không có khí, không có khí thì chết.

(5 tạng tàng tinh là Tâm tàng mạch, Can tàng huyết, Phế tàng khí, Tỳ tàng dinh, Thận tàng tinh - sinh ra thần, hồn, phách, ý, chí).

- Khi dùng châm để chữa bệnh, cần nhìn hình thái người bệnh để biết sự tồn vong của tinh, thần, hồn, phách, ý, được hay không. Nếu 5 cái đó đã bị thương (bệnh như vậy đã nặng), châm không thể chữa khỏi.

- Can tàng huyết, hồn ở tại huyết (hồn là hoạt động tinh thần đại biểu cho thần chí, ý thức, phát triển trên sự mưu lược của Can). Can khí hư sẽ gây lo sợ, Can khí thực sẽ giận cáu.

- Tỳ tàng dinh, dinh là nhà của ý (ý niệm, những động cơ của suy nghĩ). Tỳ khí hư thì 4 chi không vận động được, ngũ tạng không yên. Thực thì bụng chướng, tiểu tiện không thông lợi.

- Tâm tàng mạch, mạch là nhà của thần (hoạt động sống). Tâm khí hư thì bi ai, thực thì cười mãi không thôi.

- Phế tàng khí, khí là nhà của phách (công năng tự động của cơ quan trên cơ sở tự tiết). Phế khí hư thì mũi tắc, thiếu khí. Thực thì khó thở, tiếng thô, ngực đầy, phải ngửa cổ lên để thở.

- Thận tàng tinh, tinh là nhà của chí (suy nghĩ đã thành thục, điều kiện để hành động). Thận khí hư thì quyết lạnh, thực thì chướng.

- Ngũ tạng không yên, phải xem xét bệnh tình của chúng để biết hư thực, trên cơ sở đó chữa để điều hòa lại.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 03, 2017, 10:25:50 AM
9. Bắt đầu và kết thúc (Chung thủy)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về các chứng mạch thốn khẩu và nhân nghinh, 3 kinh âm, 3 kinh dương và hư thực, bổ tả, lấy huyệt ít hay nhiều, thời gian châm...Nêu rõ cần dựa vào sự hư thực của chứng mạch để quyết định thủ thuật bổ hay tả, Nêu ra nguyên tắc tuần kinh, châm gần và châm xa, châm nông sâu, trước hay sau, cơ sở của nó là xem hàn hay nhiệt, thời mùa nào, thể chất của bệnh nhân, nơi châm. Nêu ra 12 loại cấm châm và triệu chứng của 12 loại cấm châm và triệu chứng của 12 kinh mạch tuyệt tận. Do đó nội dung của thiên này chủ yếu là giải thích các mặt sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán, điều trị, từ bắt đầu đến kết thúc, những yếu tố, tính chất và tác dụng của các giai đoạn và phải nắm những quy luật biến hóa từ bắt đầu đến kết thúc đó để có cách châm đúng.

- Quy luật của châm được ghi ở thiên chung thủy (bắt đầu và kết thúc). Hiểu rõ nó thì lấy ngũ tạng là kỷ (cơ sở) rồi xác định (quan hệ của các kinh) âm dương. Kinh âm chủ tạng, kinh dương chủ phủ. Kinh dương nhận khí ở tứ chi, kinh âm nhận khí ở ngũ tạng, do đó tả thì ngược kinh, bổ thì thuận kinh, biết châm ngược, biết châm thuận thì có thể điều hòa được khí. Phương pháp điều hòa khí dựa trên cơ sở hiểu rõ (quy luật) âm dương.

- Ngũ tạng thuộc âm, lục phủ thuộc dương, lý luận này truyền cho đời sau, người đời sau phải quyết tâm học sâu nó. Người nào chuyên môn thì sẽ minh (có kết quả tốt), kẻ nào coi thường sẽ vong (không có kết quả). Nếu không dựa vào quy luật âm dương, chỉ dựa vào ý riêng sẽ gây tai họa trong điều trị.

- Cần nắm vững quy luật biến hóa của thiên nhiên. Bây giờ nói đến chung thủy (bắt đầu và kết thúc). Phải dựa vào kinh mạch, kinh mạch vi kỷ. Bắt mạch thốn khẩu ở tay (để biết ngũ tạng), và nhân nghinh (ở cổ) để biết sáu phủ, để có thể biết âm dương thừa hay thiếu, cân bằng hay không. Như vậy là đã nắm được quy luật (biến hóa) của thiên nhiên.

- Người bình thường không có bệnh thì cả 2 mạch (đại diện của âm dương) đều ứng với 4 mùa, mạch khí trên dưới tương ứng. Mạch đập của 6 kinh không kết, không động (tuần hoàn tốt). Bản (tạng) ngọn (kinh mạch) giữ nhau để hoạt động bình thường, tuy nóng lạnh thất thường song hình thể, cơ bắp, khí, huyết phải tương ứng, phải điều hòa thống nhất. Đó là người bình thường. Người có (nguyên) khí thiểu, 2 mạch đều yếu vô lực và (độ dài bình thường của mạch) không tương ứng với thốn xích, (bệnh tà) như vậy là âm dương đều hư, nếu bổ dương thì âm kiệt, nếu tả âm thì dương thoát. Và trường hợp đó dùng thuốc ngọt để điều hòa, không dùng thuốc loại chí tễ (đại tả) và cũng không dùng cứu (vì thương âm). Nếu chưa kết quả đã vội tả thì sẽ làm khí của ngũ tạng bại hoại thêm.

- Khí mạch nhân nghinh gấp 1 lần (nhất thịnh) mạch cổ tay là có bệnh ở kinh Thiếu dương đởm, gấp 1 lần và thao động, bệnh ở kinh Thiếu dương tam tiêu. Nếu gấp 2 lần, bệnh ở kinh Thái dương bàng quang, gấp 2 lần mà thao động, bệnh ở kinh Thái dương tiểu trường. Nếu gấp 3 lần, bệnh ở kinh Dương minh vị, gấp 3 lần mà thao đông bệnh ở kinh Dương minh đại trường. Nếu gấp 4 lần, to và nhanh (6 kinh dương thịnh đến các điểm tràn đầy vào phủ) là dật dương.

- Dật dương (dương không giao được với âm ở trong) gọi là ngoại cách (dương bị tách ở ngoài không vào với âm được).

- Khi mạch cổ tay gấp 1 lần (mạch nhân nghinh) là có bệnh ở kinh Quyết âm can, gấp 1 lần và thao động, là bệnh ở kinh Quyết âm tâm bào. Nếu gấp 2 lần, bệnh ở kinh Thiếu âm thận, nếu gấp 2 lần và thao động, bệnh ở kinh Thiếu âm tâm. Nếu gấp 3 lần bệnh ở kinh Thái âm tỳ, nếu gấp 3 lần và thao động, bệnh ở kinh Thái âm phế. Nếu gấp 4 lần, to và nhanh (6 kinh âm thịnh đến cực điểm tràn hết vào tạng) gọi là dật âm. Vì dật âm nên không giao được với dương gọi là nội quan, nghĩa là (biểu lý cách biệt) không thông với nhau, là chứng rất khó chữa. Khi mạch nhân nghinh và mạch thốn của kinh Thái âm phế đều hơn bình thường 4 lần (tứ bội) trở lên (âm dương đều lên đúng cực điểm, âm dương bị tách biệt không giao nhau): Thì gọi là quan cách, có mạch tượng quan cách là gần đến ngày chết (bệnh nặng nguy kịch).

- Khi mạch nhân nghinh gấp 1 lần (nhất thịnh) mạch cổ tay thì tả Thiếu dương đởm và bổ kinh Quyết âm can (quan hệ biểu lý, Đởm thực thì Can hư). Tả 2 (lần, huyệt) bổ 1 (lần, huyệt), một ngày châm 1 lần, phải bắt 2 mạch để xem kết quả. Thái độ cần ung dung, thượng khí (dẫn khí đến đó) hòa khí thì thôi (hư thực được điều hòa thì thôi châm).

- Nếu gấp 2 lần (nhị thịnh) thì tả kinh Thái dương bàng quang và bổ kinh Thiếu âm (biểu thực thì lý hư). Tả 2 (huyệt, lần) 2 ngày châm 1 lần, bắt 2 mạch để kiểm tra, thái độ ung dung, dẫn khí đến đó, khi điều hòa được hư thực rồi thì thôi châm.

- Nếu gấp 3 lần (tam thịnh) thì tả kinh Dương minh và bổ kinh Thái âm Tỳ. Tả 2 (huyệt, lần) bổ 1 (huyệt, lần) 2 ngày châm 1 lần, bắt 2 mạch để kiểm tra, thái độ ung dung, dẫn khí đến đó, khi hư thực được điều hòa thì thôi châm.

- Mạch thốn cổ tay hơn (mạch nhân nghinh) 1 lần (nhất thịnh), tả kinh Quyết âm can, bổ Thiếu dương đởm (Can lý thực thì đởm biểu hư). Bổ 2 (huyệt, lần), ngày châm 1 lần, bắt mạch để kiểm tra, thái độ ung dung, dẫn khí đến đó, khí hư thực được điều hòa thì thôi châm.

- Nếu hơn hai lần (nhị thịnh), tả kinh Thiếu âm thận và bổ kinh Thái dương  bàng quang, bổ 2 (huyệt, lần), 2 ngày châm một lần, bắt mạch để kiểm tra, thái độ ung dung, dẫn khí đến đó, khí hư thực được điều hòa thì thôi châm.

- Nếu hơn 3 lần (tam thịnh) tả kinh Thái âm tỳ, bổ kinh Dương minh vị, bổ 2 (huyệt, lần), tả 1 (huyệt, lần), ngày  châm 2 lần, bắt mạch để kiểm tra, thái độ ung dung, dẫn khí đến đó, khí hư thực được điều hòa thì thôi châm. Ngày châm 2 lần vì 2 kinh Thái âm tỳ, Dương minh vị có cốc khí rất phong phú.

- Cả hai mạch nhân nghinh và cổ tay đều gấp 3 lần (tam bội) trở lên, lại cả âm và dương đều (thịnh đến cực điểm) nên tràn hết ra tạng phủ (dật âm, dật dương). Nếu không khai thông sẽ làm huyết mạch bế tắc (gây nội quan, ngoại cách). Khí không thể hành được ở trong mạch, đi tràn vào trong và làm tổn thương (châm âm của) ngũ tạng. Với bệnh này, nếu cứu (hỏa càng làm tổn thương âm) sẽ gây nên các loại bệnh khác.

- Nguyên tắc châm là khi điều khí và được khí thì ngừng châm, phải bổ âm, tả dương (bổ chính khí - âm) tả bệnh tà từ ngoài vào (dương). Khi chính khí đầy đủ chức năng nội tạng (Can, Thận) kiện toàn, thì tai mắt thông minh. Ngược lại, nếu lại tả âm (chính khí), bổ dương (tà khí) sẽ làm khí huyết suy yếu, không vận hành được bình thường.

- Gọi là Khí chí (đắc khí) và có hiệu quả là tả để làm cho hư (chứng thực dùng tả để làm cho thực trở thành hư), lúc đó thì mạch vẫn to như cũ nhưng đã (mềm) không cứng như trước. Nếu mạch vẫn cứng như cũ, dù người bệnh có nói là đỡ song bệnh vẫn chưa giảm. Phải bổ để làm cho thực (chứng hư dùng phép bổ để cho hư chuyển thành thực). Khi có hiệu quả (bước đầu) thì dù mạch to (nhỏ) như cũ, song phải cứng (thực) hơn. Nếu vẫn như cũ, không cứng thực hơn thì dù người bệnh có nói đỡ, thực tế bệnh vẫn chưa giảm. Cho nên bổ làm cho (chính khí) thực lại, tả làm cho (tà khí) hư đi, dù sau khi châm đủ vẫn chưa giảm nhưng bệnh đã giảm nhẹ. Muốn vậy, phải hiểu rõ bệnh của 12 kinh đã rồi mới tiếp thu được nội dung của thiên "Chung thủy". Cho nên khi âm dương bất tương duy (quan hệ biểu lý giữa âm, dương không thay đổi), hư thực bất tương khuynh (hư thực biểu hiện không rõ, không làm tổn thương nhau, nghĩa là kinh nào có bệnh thì căn cứ vào trạng thái bệnh lý của nó) để lấy huyệt của kinh bị bệnh chữa.

Trong điều trị bằng châm: có 3 cách châm để có cốc khí (đắc khí). Do tà khí vào trong (khí phận) họp lung tung với nhau làm cho âm dương đổi chỗ cho nhau (âm không ở trong được bật ra ngoài, dương đang ở ngoài lại chạy vào trong), tuần hành nghịch thuận của khí huyết tương phản nhau (đang xuôi thành ngược, đang ngược thành xuôi), vị trí phù trầm ở chỗ khác đi (đang phù thành trầm, đang trầm thành phù), không ứng được với 4 mùa, ngoại tà lưu đầy ắp ở trong rồi tràn vào trong tạng phủ, lúc đó phải dùng châm để đuổi tà khí (bằng 3 cách châm nông, vừa và sâu). Nhất thích (mới đầu) châm nông ở biểu để đẩy tà khí ở phần âm ra, rồi tam thích (sâu vào mức độ nhất định) sẽ có đắc khí. Khi cốc khí đến (đắc khí) thì thôi châm.

Cốc khí đến (đắc khí) là châm bổ thì (khí) sẽ đầy (thực) châm tả thì sẽ hư (tà khí đã bị đuổi đi) như vậy, khi cốc khí đến là tà khí đã ra đi một mình rồi, lúc đó tuy âm dương vẫn chưa điều hòa song đã có hy vọng là bệnh sẽ lành. Do đó nói rằng: Khi bổ làm cho (chính khí) thực lên, khi tả làm cho (bệnh tà) hư đi. Tuy đau khổ của người bệnh chưa được giải hết sau khi châm, nhưng như thế bệnh đã có thể giảm.

Âm thịnh và dương hư (mạch thốn thịnh, mạch nhân nghinh hư, âm kinh có tà khí mạnh, dương kinh có chính khí hư) bổ (khí ở kinh) dương trước, tả tà ở (kinh) âm sau để điều hòa âm dương. Âm hư và dương thịnh (mạch thốn hư, mạch nhân nghinh thịnh - Kinh âm có chính khí hư và kinh dương có tà khí thịnh), bổ (chính của kinh) âm trước, rồi tả (tà của kinh) dương sau để điều hòa âm dương.

- Ba kinh (Thiếu âm thận, Quyết âm can, Dương minh vị) có động mạch ở quanh ngón chân cái. Khi châm cần xác định hư thực đã. Nếu hư mà tả thì làm hư thêm, bệnh sẽ nặng. Châm loại bệnh này, khi xem mạch của các kinh đó, nếu thấy gấp thực thì tả (với cách tiến kim rất nhanh), nếu mạch hư và hoãn thì dùng phép bổ. Nếu dùng phép ngược lại (thực lại bổ, hư lại tả) sẽ làm bệnh nặng thêm (vị trí) động mạch của 3 kinh là Dương minh vị ở trên mu chân - Xung dương), Quyết âm can ở giữa - Thái xung, Thiếu âm thận ở dưới - Thái khê.

Ưng du trúng ưng, bối du trúng bối kiên bác bệnh ở ngực lấy huyệt (kinh âm) ở ngực, bệnh ở lưng lấy huyệt (kinh dương) ở lưng, bệnh ở vai, tay lấy huyệt ở cả ngực và lưng (kinh âm hoặc kinh dương tùy vị trí bệnh). Trùng thiệt (ở dưới lưỡi như có một cái lưỡi nhỏ - bệnh ở lưỡi), dùng kim tam lăng (phi châm) chích nặn máu ở trụ lưỡi (thiệt trụ). Tay chỉ co mà không duỗi được là bệnh ở gân (co), chỉ duỗi mà không co được là bệnh ở xương. Bệnh ở xương thì chữa xương (không chữa gân), bệnh ở gân thì chữa gân (không chữa xương).

- (Bổ tả khi châm phải dựa vào mạch khí hư hay thực). Khi châm lúc khí thực (chứng thực) thì châm sâu vào (rút kim rồi), ấn nhẹ mũi kim để tà khí theo lỗ kim ra hết ngoài (tả). Lúc khí hư (hư chứng) thì châm nông để dưỡng mạch (làm khí không hao tổn) rút kim rồi, bịt nhanh lỗ kim để tà khí không vào thân thể (bổ). Khi châm, nếu tà khí đến thì cảm giác gấp căng và nhanh, nếu cốc khí đến (đắc khí) cảm giác sẽ hòa hoãn. Mạch khí thực, thì châm sâu để tiết tà khí. Mạch (khí) hư, châm nông để tinh khí không ra ngoài, để dưỡng mạch của cơ thể, chỉ cho tà khí ra thôi.

- Mạch của các loại đau đều thực (dùng tả) - Từ lưng trở lên, dùng huyệt của kinh Thái âm phế, Dương minh đại tràng (vì thuộc phạm vi hai kinh này), từ lưng trở xuống, dùng huyệt của Thái âm tỳ và Dương minh vị (vì thuộc phạm vi hai kinh này).

- Bệnh ở trên, lấy huyệt ở dưới, bệnh ở dưới lấy huyệt ở trên, bệnh ở đầu lấy huyệt ở chân, bệnh ở lưng lấy huyệt ở khoeo (do có đường kinh đi qua). Trên lâm sàng rất hay dùng: Cứu Bách hội chữa lòi dom, đau đỉnh đầu dùng Thái xung, đau lưng dùng Ủy trung. Bệnh bắt đầu ở đầu thì đầu nặng, bắt đầu ở tay thì tay nặng, bắt đầu ở chân thì chân nặng. Khi chữa bệnh trước hết phải châm ở nơi bệnh bắt đầu.

- Khí mùa Xuân ở lông (vì khí mới sinh ra nên bệnh ở phần nông nhất của da). Khí mùa Hạ ở da (vì nhiệt, dương khí thật thịnh, nên ở phần da). Khí mùa Thu ở giữa các cơ (vì khí mát, thu liễm nên bệnh ở giữa các cơ). Khí mùa Đông ở gân xương (vì khí lạnh, tàng lại nên bệnh ở gân xương). Chữa các loại bệnh (có liên quan đến 4 mùa) ở trên mức độ châm nông hay sâu, phải dựa vào sự chuyển động của 4 mùa và vị trí bệnh (nông hay sâu). Song cần lưu ý, nếu người bệnh béo (muốn vào đến nơi bị bệnh) thì phải dùng cách châm sâu của mùa Thu - Đông, nếu người bệnh gầy thì phải dùng cách châm nông của mùa Xuân - Hè.

Bệnh có đau thuộc âm (vì thường do hàn vào sâu trong gân xương ngưng tụ ở đó), đau dùng tay xoa không đỡ thuộc âm (vì bệnh tà cũng ở sâu) phải châm sâu. Bệnh ở trên thuộc dương (vì dương chủ thăng), bệnh ở dưới thuộc âm (vì âm chủ giáng), bệnh có ngứa thuộc dương (vì ngứa ở ngoài da) phải châm nông.

 - Bệnh bắt đầu từ (kinh) âm, chữa (kính) âm trước (chữa gốc) rồi chữa (kính) dương sau (chữa ngọn). Bệnh bắt đầu từ (kính) dương, chữa (kính) dương trước rồi chữa kính âm sau.

- Chữa "nhiệt huyết", lưu kim (lâu) làm nhiệt huyết trở thành hàn. Chữa huyết hàn, lưu kim (lâu) làm hàn huyết trở thành nhiệt huyết.

- Chữa nhiệt quyết lấy (bổ) 2 lần kinh âm, lấy (tả) 1 lần kinh dương (để nâng âm khí lên và đuổi dương tà). Chữa hàn quyết, lấy (bổ) 2 lần kinh dương, lấy (tả) 1 lần kinh âm (để nâng dương khí và đuổi âm tà). Lấy 2 lần kinh âm là châm kinh âm 2 lần, lấy 1 lần kinh dương là châm kinh dương 1 lần.

- Bệnh lâu ngày, tà khí thường vào sâu, chữa nó phải châm sâu và lưu kim lâu (để tà khí ra dần cho hết), cách 1 ngày châm 1 lần cho đến khi khỏi. Do kinh khí 2 bên phải trái thông nhau nên phải điều hòa 2 bên phải trái, và dùng tả chích nặn máu để trừ uất kết ở huyết mạch. Đạo lý của phép tả chích nặn máu để trừ uất kết ở huyết mạch. Đạo lý của phép châm tất phải như vậy.

- Trong phép châm, cần biết trạng thái thịnh suy của nguyên khí và hình thể của bệnh nhân. Nếu thân thể, cơ bắp không thoải mái (bình thường), (nguyên) khí thiếu, mạch dao động thì đó là thao quyết (nghịch), cách châm để chữa thao quyết là mậu thích (bệnh bên phải chữa bên trái và ngược lại). Như vậy có thể thu tinh khí bị tán, và làm tan tà khí đang tích tụ.

- Thầy thuốc phải ở nơi yên tĩnh, tĩnh tâm để biết sự vãng lại của thần khí, cửa phải đóng kín để hồn phách không bị phân tán, ý với thần phải là một, tinh khí phải ở đúng chỗ, không nghe người khác (bên ngoài) để giữ tinh, hợp với thần làm một, và mũi kim phải làm theo chí. Hoặc châm nông và lưu kim, hoặc châm thật nhẹ (nổi ở) bên ngoài để điều hành thần của người bệnh và châm đến đắc khí mới thôi. Nam nội nữ ngoại (nam là dương, dương ở ngoài phải đưa vào trong, nữ là âm, âm ở trong phải được đưa ra ngoài để điều hòa âm dương). Không để chính khí xuất ra, cũng không cho tà khí (theo châm) nhập vào. Như vậy là đắc khí.

Cấm kỵ của châm: Mới vào giao hợp không châm, châm xong chưa lâu không vào giao hợp. Không châm khi say rượu, đã châm rồi không được say. Không châm khi giận dữ, châm rồi không được giận dữ. Không châm lúc mệt mỏi, châm rồi không làm quá mệt. Không châm lúc no, châm rồi không ăn quá no. Không châm lúc đói, châm rồi không để đói quá. Không châm lúc khát, châm rồi không để khát quá. Không châm lúc kinh hãi quá, đợi lúc yên tĩnh mới châm. Nếu đi xe đến, để nằm nghỉ một lúc rồi châm, thời gian nghỉ tương đương thời gian ăn một bữa cơm. Nếu đi bộ đến để nghỉ ngơi rồi châm, thời gian nghỉ ngơi tương đương thời gian đi 10 lý.

- Mười hai điều cấm ở trên đều làm mạch loạn, khí tán, dinh vệ tuần hành thất thường, kinh khí không tuần hoàn đúng thứ tự. Nếu lúc đó vẫn châm thì có thể làm bệnh ở dương (nông) chuyển vào âm (nội tạng), bệnh ở âm (nội tạng) lại ra ngoài dương (làm cho cả trong ngoài đều có bệnh), làm tà khí có điều kiện phát triển. Thầy kém không quan tâm đến điều kiện cấm châm, cứ châm bừa sẽ làm thân thể bị hao tổn, não tủy bị tiêu, tân dịch không hóa được, ngũ vị không còn (thể lực suy yếu không thể dùng ngũ cốc để bổ dưỡng làm chân khí tiêu vong) gọi là mất khí.

- Khi mạch Thái dương kiệt thì mắt trợn ngược, thân vặn ưỡn, chân tay co hoặc duỗi, mặt bệch, hãn tuyệt vã mồ hôi hột toàn thân, khí sắp kiệt. Khi có hãn tuyệt thì sẽ chết.

- Kinh mạch Thiếu dương tuyệt thì điếc, các khớp rã rời, mạch ở mắt tuyệt (khí thông giữa hệ mạch mắt và não đã tuyệt). Khí mạch ở mắt tuyệt thì một ngày rưỡi sau sẽ chết. Khi sắp chết sắc mặt từ xanh chuyển sang bệch rồi chết.

- Khi mạch Dương minh tuyệt thì mồm mắt động (giật), hay sợ hãi giật mình, nói nhảm sắc mặt vàng. Tuy mạch của hai kinh Dương ở chân, tay có thịnh nhưng không hành được (do vị khí tuyệt), nên sẽ chết.

- Khi mạch Thiếu âm tuyệt thì mặt đen, lợi co thành, răng dài ra và bẩn, bụng chướng bế tắc (khí cơ bế tắc), trên dưới không thông và sẽ chết.

- Khi mạch Quyết âm tuyệt thì ngực nóng, họng khô, đái nhiều, tâm phiền (bồn chồn), nặng thì lưỡi rụt, hòn dái co lên bụng và sẽ chết.

- Khi mạch Thái âm tuyệt thì bụng chướng tắc, không thở được, hay ợ hơi, hay nôn, nôn thì khí nghịch lên làm mặt đỏ, nếu khí không nghịch lên thì trên dưới lại không thông, do đó mặt sẽ đen lại, da lông khô héo và chết.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 05, 2017, 09:41:56 AM
Quyển thứ ba

10. Khí mạch


(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nơi bắt đầu và kêt thúc của 12 đường kinh, đường đi của chúng, triệu chứng của "bệnh thị động" và "bệnh sở sinh", mạch tượng, triệu chứng của trạng thái hư thực của mỗi kinh và nguyên tắc điều trị đặc trưng của 5 kinh bị khí tuyệt, tên 15 lạc, đường đi, triệu chứng hư thực của chúng. Nói lên tác dụng quan trọng của kinh mạch trong việc quyết định sinh tử, xử lý bệnh tật, điều hòa hư thực.

Lôi Công: Nguyên tắc của châm chữa bệnh là phải hiểu kinh mạch bắt đầu từ đâu, dinh khí tuần hành thế nào, độ lớn nhỏ, lượng của chúng nhiều ít ra sao. Tất cả đều có chuẩn. Kinh mạch bên trong lần lượt vào ngũ tạng, bên ngoài phân biệt vào lục phủ để thúc đẩy hoạt động của cơ thể. Mong được nghe cái lý của nó.

Hoàng đế: Người ta sinh ra được mới đầu là tinh (2 tinh, âm dương hợp thành), tinh sinh não tủy, (rồi thân thể) xương là cái khung, mạch là đường đi của khí huyết, gân để giữ xương khớp, thịt là tường vách (để bảo vệ các tổ chức ở trên), da chắc dai và lông tóc mọc dài. Ngũ cốc vào vị (biến hóa thành chất tinh vi để nuôi dưỡng cơ thể) mạch thông và khí huyết vận hành (trong mạch).

Lôi Công: Kinh mạch bắt đầu sinh ra như thế nào?

Hoàng đế: Kinh mạch có tác dụng quyết định sống chết, nơi sinh ra bệnh tật, nơi điều hòa hư thực, do đó (kinh mạch) không thể không thông (cũng có ý nói: Người thầy thuốc không thể không thông).

Mạch thủ Thái âm phế, bắt đầu ở trung tiêu xuống liên lạc với Đại trường, vòng vị khẩu (tâm vị, môn vị) đi lên cơ hoành thuộc (về) Phế, Theo phế hệ đi ngang và ra ngoài ở dưới nách, đi xuôi mặt trong cánh tay, đi trước kinh Thiếu âm tâm (Quyết âm tâm bào) xuống đến khuỷu tay, dọc mặt trong cẳng tay đến mổm (đầu dưới) xương, vào thốn khẩu (chỗ động mạch), vào Ngư tế (mô cái), dọc bờ Ngư tế đi ra ở đầu ngón cái, nhánh của nó tách từ dưới cổ tay đến thẳng bờ trong (mé ngón cái) ngón trỏ và ra đầu ngón trỏ (để nối với kinh Dương minh đại trường).

- Bệnh của kinh do ngoại tà gây nên (thị động): Phế chướng đầy, suyễn, ho, đau ở khuyết bồn (hố trên đòn), nếu nặng thì hai tay bắt chéo, ôm vai ép vào ngực, mi mắt sụp (còn có giải thích khác là phiền loạn), tý quyết (bệnh quyết ở cánh tay). Bệnh do phế sinh ra (sở sinh bệnh): Ho, khí thượng lên, suyễn, khát, tim bồn chồn, ngực đầy, mặt trước trong cánh tay đau, quyết lạnh, lòng bàn tay nóng (chứng thực) khí thịnh thì có thừa. Vai lưng trên đau, trúng (cảm) phong ra mồ hôi, đái ít, số lần nhiều (chứng hư) khí hư, ú vai lưng trên đau, lạnh, hụt hơi, khó thở, mầu nước đái hay thay đổi. Với chứng bệnh trên nếu thịnh thì tả, nếu hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì châm lưu kim, nếu lõm xuống (hạ hãm) thì cứu. Nếu không hư không thịnh thì lấy huyệt của kinh đó. Bệnh của đường kinh nếu là chứng thực thì có mạch cổ tay lớn gấp 3 lần mạch nhân nghinh, nếu là chứng hư thì có mạch cổ tay nhỏ gấp 3 lần mạch nhân nghinh.

- Mạch thủ Dương minh đại trường, bắt đầu ở ngón trỏ phía ngón cái, theo rìa ngón tay ra Hợp cốc ở giữa hai xương, len vào giữa hai gân dọc bờ trên cẳng tay vào bờ ngoài của khuỷu, lên bờ trước ngoài cánh tay, lên vai, ra ở phía trước ngung cốt (mỏm vai - Kiên ngung) lên và ra ở đốt sống nơi hội các kinh dương (Đại chùy), xuống vào Khuyết bồn (hố trên đòn) liên lạc với phế, xuống cơ hoành (thuộc) về đại trường. Nhánh của nó từ (hố trên đòn). Khuyết bồn lên cổ, xuyên má, vào trong răng ở hàm dưới, vòng quanh môi, giao ở Nhân trung, bên phải sang trái, rồi lên kẹp ở hai bên lỗ mũi (Nghinh hương).

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Răng đau, cổ sưng do (đại trường) chủ tân dịch sinh ra bệnh: Mắt vàng, mồm khô, chảy máu mũi, hầu tý (hầu sưng, nói thở khó) vùng trước vai cánh tay đau, ngón cái ngón trỏ đau không sử dụng được. Bệnh khí thừa thì nơi mạch đi qua có nóng, sưng nề, bệnh hư (kinh khí hư) thì lạnh, rét run, khó nắm lại. Với bệnh trên nếu thịnh thì tả, nếu hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không thịnh không hư thì lấy huyệt trên kinh đó. (Kinh) thịnh thì mạch nhân nghinh nhỏ hơn mạch cổ tay.

Mạch túc Dương minh vị bắt đầu từ chỗ lõm ở sống mũi đi cùng kinh Thái dương bàng quang dọc theo phía ngoài mũi, vào trong hàm trên, vòng ra đi kẹp cạnh mép, vòng môi xuống giao ở Thừa tương, lùi lại đi ở bờ dưới hàm, ra ở Đại nghinh, theo Giáp xa lên trước tai, qua huyệt Khách chủ nhân, lên chân tóc trên góc trán. Nhánh của nó, từ trước Đại nghinh xuống Nhân nghinh, dọc yết hầu xuống Khuyết bồn xuống cơ hoành, thuộc (về) vị, liên lạc với tỳ. Nhánh thẳng của nó, từ Khuyết bồn xuống phía trong vú, xuống đi cạnh rốn đi vào vùng Khí nhai (bẹn). Nhánh nữa từ vị khẩu đi ở trong bụng xuống đến Khí nhai (bẹn), hợp với nhánh thẳng, đi xuống qua Bễ quan, đến Phục thỏ (cơ đùi thẳng), xuống gối xương bánh chè, dọc bờ ngoài xương chày, xuống đến mu bàn chân, đến bờ trong ngón chân thứ hai. Nhánh nữa từ dưới gối 3 tấc tách ra, đi xuống bờ ngoài ngón chân giữa. Nhánh nữa từ mu bàn chân (huyệt Xung dương) vào giữa ngón cái và đến đầu ngón (nối với kinh Thái âm tỳ).

Bệnh của kinh do ngoại tà (t hị động): Rét run như bị nước lạnh, hay rên, hắt xì hơi, trán đen. Nếu có cơn bệnh thì sợ nhìn người và lửa, sợ hãi khi nghe tiếng (đồ dùng bằng gỗ) tim đập không yên, thích đóng cửa kín ở một mình trong buống. (Nhiệt dương) cực thịnh thì trèo cao hát vang, bỏ quần áo chạy nhông, bụng sôi, bụng chướng gọi là cán quyết (cán là cẳng chân). Bệnh do (vị) chủ huyết, bệnh "sở sinh" (do vị tiêu hóa thức ăn sinh ra dinh huyết) có: Sốt rét phát cuồng (sốt rét có triệu chứng tâm thần kinh), bệnh ôn nóng nhiều, ra mồ hôi, chảy máu cam, méo mồm, lở mép, sưng cổ, sưng tắc hầu, bụng có nước, khớp gối sưng đau, các chỗ vú, bẹn trước đùi, Phục thỏ (cơ thẳng đùi), bờ dài cẳng chân, mu chân đều đau, ngón chân giữa không cử động được. Nếu khí thịnh thì phần trước chân nóng, nếu nhiệt có dư ở vị thì ăn nhiều tiêu nhanh, đái vàng, nếu khí không đủ thì phần trước thân lạnh rét run, nếu vị hàn thì đầy chướng. Với bệnh nhân trên nếu là chứng thịnh thì tả, chứng hư thì bổ, chứng nhiệt thì châm nhanh, chứng hàn thì lưu kim, chứng lõm xuống (hạ hãm) thì cứu,  nếu không thịnh không hư thì lấy huyệt trên kinh đó. (Kinh) thịnh thì mạch nhân nghinh lớn gấp 3 lần mạch cổ tay, (kinh) hư thì mạch nhân nghinh nhỏ hơn mạch cổ tay.

Mạch túc Thái âm tỳ, bắt đầu từ ngón chân cái, dọc bờ trong ngón chân chỗ bạch nhục tế (tiếp giáp da gan và các da mu bàn chân) qua sau khớp bàn chân, lên bờ trước mắt cá trong, lên phía trong bắp chân theo dọc sau xương chày, bắt chéo ra trước quyết âm, lên bờ trước trong gối và đùi, vào bụng thuộc (về) tỳ, liên lạc với vị, lên cơ hoành, đi bên cạnh hầu họng lên cuống lưỡi, phân bố ở dưới lưỡi. Nhánh của nó, tách ra từ ở vị, qua cơ hoành tưới vào tâm (để nối tiếp với mạch thiếu âm tâm).

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Cuống lưỡi cứng, ăn thì nôn, đau dạ dầy, chướng bụng, hay ợ hơi, đại tiện, trung tiện được thì dễ chịu, như suy, toàn thân nặng nề. Bệnh do tỳ sinh ra (sở sinh bệnh): Đầu cuống lưỡi, thân thể không vận động được, ăn không được, tâm phiền, đau cấp bụng trên, ỉa lỏng hoặc lỵ, tiểu tiện bí, vàng da, không nằm được, nếu miễn cưỡng phải đứng thì mặt trong gối đùi phù, lạnh giá, ngón chân cái không cử động được. Với bệnh trên, nếu là thực thì tả, chứng hư thì bổ, chứng nhiệt thì châm nhanh, chứng hàn thì lưu kim, chứng lõm xuống (hạ hãm) thì cứu, không thịnh không hư thì lấy huyệt trên kinh đó. (Kinh) thịnh thì mạch cổ tay lớn gấp 3 lần mạch nhân nghinh, nếu hư mạch cổ tay nhỏ hơn mạch nhân nghinh.

Mạch thủ Thiếu âm tâm bắt đầu từ trong tim đi ra thuộc tâm hệ (lạc mạch của tâm) xuống cơ hoành, liên lạc với tiểu trường. Nhánh của nó, từ hệ lạc mạch của tâm, đi lên cạnh họng, lên lạc mạch của mắt (mục hệ). Nhánh thẳng của nó, từ hệ lạc mạch của tâm lên phế, xuống ra ở dưới nách, dọc theo bờ sau mặt trong cánh tay đi sau Thái âm phế và Quyết âm tâm bào, xuống mặt trong khuỷu, dọc bờ sau mặt trong cẳng tay, đến xương cao (đậu) ở cổ tay, vào bờ sau (lòng) bàn tay dọc mặt trong ngón út, ra đầu ngón út.

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Họng khô, tim đau, khát uống nước, gọi là tý (cánh tay) quyết (do mạch khí vì quyết nghịch nên đi ngược lên). Bệnh do tâm sinh ra (sở sinh bệnh): Mắt vàng, đau cạnh sườn, mặt trong sau cẳng cánh tay đau, quyết lạnh, lòng bàn tay nóng. Với bệnh đó nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không hư không thịnh, thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh thì mạch cổ tay lớn gấp hai lần mạch nhân nghinh, (kinh) hư, mạch cổ tay nhỏ hơn mạch nhân nghinh.

Mạch thủ Thái dương tiểu trường, bắt đầu từ ngón tay út, dọc bờ ngoài ngón tay, lên cổ tay, ra mỏm thân trụ, thẳng dọc bờ dưới xương cẳng tay, ra ở bờ trong khuỷu giữa hai gân, dọc lên bờ sau ngoài cánh tay, ra ở khe sau khớp vai, ngoằn nghèo ở gai xương bả, giao ở trên vai, vào hố trên đòn dọc cổ lên má đến đuôi mắt, rồi vòng vào tai. Nhánh của nó, tách từ má đến dưới hố mắt rồi mũi, lên đầu mắt, rồi chếch xuống xương má.

Bệnh ở kinh do ngoại tà (thị động): Họng đau, má sưng, cổ gáy cứng, vai đau rút, tay đau như gãy. Bệnh do tiểu trường chủ dịch sinh ra (sở sinh bệnh): Tai điếc, mắt vàng, má sưng, cổ, hàm, vai, cánh tay, khuỷu, bờ ngoài mặt sau cánh tay đau. Với bệnh của nó, nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì châm chậm, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không thịnh không hư thì lấy huyệt ở kinh đó. (Kinh) thịnh thì mạch nhân nghinh lớn gấp hai lần cổ tay, (khí) hư, mạch nhân nghinh bé hơn mạch cổ tay.

Mạch túc Thái dương bàng quang, bắt đầu ở đầu mắt, lên trán, giao ở đỉnh đầu. Nhánh của nó từ đỉnh đầu đi đến bờ trên rìa tai. Nhánh thẳng của nó, từ đỉnh đầu vào liên tục vơi não, vòng xuống đi ra ở dưới gáy, dọc bờ xương bả vai, dọc cột sống đến thắt lưng, vào dọc cơ cạnh cột sống, liên lạc với thận thuộc (về) bàng quang. Nhánh của nó từ thắt lưng xuống cột sống, xuyên mông vào khoeo. Nhánh của nó từ hai bên xương bả vai phải, trái, tách ra đi xuống sát phía trong xương vai dọc cột sống, xuống mấu chuyển lớn (bễ khu) đi dọc xuống ở phía ngoài xương đùi. Từ bờ sau xuống hợp ở khoeo, cũng xuống dưới xuyên vào bắp chân, ra ở phía sau mắt cá ngoài, dọc kinh cốt cho đến bờ ngoài ngón út.

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Đầu đau do khí thượng xung, mắt đau như lòi ra, gáy đau như bị vặn, cột sống, thắt lưng đau như gãy, khớp háng không gấp được, cân mạch ở khoeo co kết lại không vận động được theo ý muốn, bắp chân đau như xé, đó là chứng quyết, ở mắt cá (khí từ mắt cá ngoài quyết nghịch lên theo kinh Thái dương bàng quang). Bệnh do bàng quang chủ cân sinh ra (sở sinh bệnh): (dương khí tĩnh thì nuôi thần, dương khí nhu thì nuôi cân, thái dương là dương chủ khí, nếu dương khí của bàng quang không dưỡng cân được thì có thể sinh ra chứng bệnh): Trĩ, sốt rét, cuồng, điên, đầu thóp gáy đau, mắt vàng chảy nước mắt, chảy máu mũi, gáy, lưng, thắt lưng, xương cùng, khoeo, bắp chân, bàn chân đều đau, ngón chân không cử động được. Với bệnh đó nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không hư không thịnh, thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh thì mạch nhân nghinh lớn gấp hai lần mạch ở cổ tay, (kinh) hư mạch nhân nghinh nhỏ hơn mạch cổ tay.

Mạch Thiếu âm thận bắt đầu từ ngón chân út, chạy chéo ngang bàn chân (qua Dũng tuyền) ra ở dưới xương thuyền (Nhiên cốc), dọc theo mắt cá trong, lánh vào gân (gót), rồi lên mặt trong bắp chân, ra bờ trong khoeo, lên bờ sau mặt trong đùi, xyên vào cột sống, thuộc (về) thận, liên lạc với bàng quang. Nhánh thẳng của nó, từ thận lên xuyên lên qua can, cơ hoành vào trong phế, dọc theo hầu họng lên, kẹp hai bên cuống lưỡi. Nhánh của nó từ phế ra liên lạc với tâm, rồi tưới vào trong ngực (đản trung), để nối với Quyết âm tâm bào.

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Đói không muốn ăn, mặt đen như sơn, ho nhổ có máu, thở khó tiếng khò khè, ngồi không yên muốn đứng dậy, mắt mờ mờ nhìn không rõ, tim như bị treo lên và như có cảm giác đói cồn cào, Nếu khí hư thì hay sợ, tim đập thình thịch như người ta sắp đến bắt mình, đó là chứng quyết của xương (cốt quyết) (thận chủ xương, mạch khí của kinh thận biến động gây nên). Bệnh do thận sinh ra (sở sinh bệnh): Mồm nóng, lưỡi khô, họng sưng, khí nghịch, họng hầu khô đau, tâm phiền, tim đau, vàng da, lỵ, phía sau mặt trong cột sống, đùi (nơi kinh đi) đau, (chân) teo mềm và quyết lạnh (nuy quyết), thích nằm, gan chân nóng. Với bệnh đó nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu không hư không thịnh thì lấy huyệt theo kinh. Nếu cứu phải gắng cưỡng ăn thịt tươi (sinh nhục), nơi thắt lưng (không thắt chặt), tóc phải chải, bước đi cần vững vàng và chống gậy tương đối to. (Kinh) thịnh, mạch cổ tay lớn gấp đôi mạch nhân nghinh, (kinh) hư, mạch cổ tay nhỏ hơn mạch nhân nghinh.

Mạch thủ quyết âm tâm bào lạc, bắt đầu từ trong ngực, thuộc (về) tâm bào lạc, xuống cơ hoành, lần lượt liên lạc với tam tiêu, nhánh của nó theo ngực ra sườn chỗ dưới nếp nách 3 (tấc), vòng lên hố nách, dọc mặt trong cánh tay đi giữa thái âm, thiếu âm, vào giữa (trong) khuỷu, xuống cẳng tay đi giữa hai gân, vào gan tay, dọc phía ngón tay út ngón thứ tư, đến đầu ngón.

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Lòng bàn tay nóng, cánh tay khuỷu co quắp, nách sưng, bệnh nặng thì ngực sườn đau tức, tim đập thình thịch, mặt đỏ, mắt vàng, cười mãi không thôi. Bệnh do tâm bào chủ mạch sinh ra (sở sinh bệnh): Tâm phiền, đau vùng tâm, lòng bàn tay nóng. Với bệnh trên, nếu thịnh thì tả, nếu nhiệt thì rút kim nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không  thịnh  không hư thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh thì mạch  ở cổ tay lớn gấp một lần mạch nhân nghinh.

(Lời bàn - Trong thiên "Bản du" không có kinh Quyết âm tâm bào lạc, ở đây lại có - có thể thiên "Bản du" thiếu mất một đoạn).

Mạch Thủ thiếu dương tam tiêu bắt đầu từ ngón tay thứ tư (vô danh) đi lên giữa hai ngón tay, dọc mu bàn tay, cổ tay, ra ở giữa 2 xương ở mặt ngoài cẳng tay, lên xuyên khuỷu tay, dọc mặt ngoài cánh tay lên vai, sau khi giao với kinh thiếu dương ở chân vào hố trên đòn (Khuyết bồn), bổ (phân bố) ở Đản trung, phân tán ở Tâm bào, xuống cơ hoành để lần lượt thuộc (về) tam tiêu (thượng, trung, hạ tiêu). Nhánh của nó, từ đản trung lên hố trên đòn (Khuyết bồn), lên gáy, sau tai thẳng lên ở góc trên tai, gấp khúc xuống má đến dưới hố mắt. Nhánh nữa của nó, từ sau tai chui vào trong  tai rồi ra trước tai, đi qua trước huyệt Khách chủ nhân (của kinh Thiếu dương đởm), giao với đường nhánh ở trên má, đến đuôi mắt (để nối tiếp với kinh Thiếu dương đởm).

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Tai điếc, tai ù, hầu họng sưng nghẹn đau -  Bệnh do tam tiêu chủ khí sinh ra (sở sinh bệnh): Ra mồ hôi, đuôi mắt đau, sau tai vai cánh tay khuỷu mặt ngoài cẳng tay đau, ngón út, ngón thứ tư (vô danh) không cử động được. Với bệnh này, nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không hư không thịnh thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh, mạch nhân nghinh lớn gấp một lần mạch cổ tay, (kinh) hư, mạch nhân nghinh  ngược lại nhỏ hơn mạch cổ tay.

Mạch Túc thiếu dương đởm bắt đầu ở đuôi mắt, lên góc trán, xuống đến sau tai, dọc cổ đi trước kinh Thủ thiếu dương, đến vai, bắt chéo ra sau kinh thủ thiếu dương ở tai, vào hố trên đòn. Nhánh của nó từ sau tai vào trong tai, đi ra trước tai, đến sau đuôi mắt. Nhánh của nó tách từ đuôi mắt, xuống Đại nghinh, hợp với thủ thiếu dương, đến phần dưới hố mắt, xuống góc hàm, xuống cổ, hợp ở hố trên đòn (với nhánh trên), đi xuống vào trong ngực, xuyên cơ hoành, liên lạc với can, thuộc (về) đởm, dọc trong cạnh sườn xuống bẹn (Khí nhai), vòng lông mu, đi ngang vào vùng mấu chuyển lớn. Nhánh thẳng của nó, từ hố trên đòn xuống dưới nách, dọc ngực, qua mạng sườn xuống hợp với nhánh trên ở vùng mấu chuyển lớn, xuống dọc phía ngoài khớp háng, ra ở mặt ngoài gối, đi xuống dọc trước phụ cốt (đầu xương móc), thẳng xuống đến tuyệt cốt (chỗ lõm của xương mác trên mắt cá ngoài 3 tấc), xuống ra ở phía trước mắt cá ngoài, dọc trên mu chân, vào ngón 4 ở giữa hai ngón 4, 5. Nhánh của nó tách từ mu chân, vào đến giữa ngón chân cái, dọc mặt trong xương cốt ngón chân ra ở đầu ngón, vòng xuyên móng chân, ra ở chỗ lông chân (để nối với kinh quyết âm can).

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Mồm đắng hay thở dài tim sườn đau, không quay trở được, nặng thì mặt như hơi có bụi phủ, da không bóng nhuận, mặt ngoài chân ngược lại thấy nóng, đó là dương quyết (khí của kinh thiếu dương thượng nghịch do mộc đởm sinh hỏa). Bệnh do đởm chủ cốt sinh ra (sở sinh bệnh) (Đởm có vị khổ - đắng, khổ đi vào xương, do đó đởm chủ cốt sinh ra bệnh): Đau đầu, đau hàm, đau đuôi mắt, hố trên đòn sưng đau, nách sưng ổ gà, mã đao ở cổ (lao hạch), ra mồ hôi, rét run, sốt rét, đau ở dọc kinh, ngực sườn, háng, gối, xương chày, xương mác (Tuyệt cốt) phía trước mắt cá ngoài và các khớp, ngón chân thứ tư khó cử động. Với bệnh này, nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không thịnh không hư thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh, mạch nhân nghinh lớn gấp một lần mạch cổ tay, (kinh) hư, mạch nhân nghinh nhỏ hơn mạch cổ tay.

Mạch Túc quyết âm can, bắt đầu từ chòm lông ngón chân cái, dọc theo bờ cao mu chân, cách mắt cá trong 1 tấc, lên trên mắt cá 8 tấc, bắt chéo ra sau mắt thái âm, lên mặt trong khoeo chân, dọc mặt trong đùi, vào lông mu, đi quanh bộ phận sinh dục ngoài, đến bụng dưới, đi song song với kinh vị, thuộc (về) can liên lạc với đởm, đi lên xuyên cơ hoành, phân bố ở cạnh sườn, đi dọc sau hầu họng rồi vào vòm họng, nối với hệ mạch của mắt, lên trán (vùng não) và hội với mạch đốc ở đỉnh đầu (Bách hội). Nhánh của nó, từ hệ mạch ở mắt xuống phía trong má, vòng quanh môi...Nhánh của nó, từ can tách ra 1 nhánh xuyên cơ hoành và tưới vào phế.

Bệnh của kinh do ngoại tà (thị động): Họng đau, không cúi ngửa được, ở nam thoát vị bìu, ở phụ nữ thiếu phúc thũng (thoát vị bẹn), nặng thì họng khô, mặt như đầy bụi, mất sắc. Bệnh do can (sở sinh bệnh): Ngực đầy, nôn, khí nghịch, ỉa phân sống, hồ sán (tinh hoàn lên bụng), đái dầm hoặc bí đái. Với bệnh trên, nếu thịnh thì tả, hư thì bổ, nếu nhiệt thì châm nhanh, nếu hàn thì lưu kim, nếu lõm xuống thì cứu, nếu không thịnh không hư thì lấy huyệt theo kinh. (Kinh) thịnh, mạch cổ tay lớn gấp 1 lần mạch nhân nghinh, (kinh) hư, thì mạch cổ tay nhỏ hơn mạch nhân nghinh.

Mạch khí của kinh thủ thái âm phế tuyệt, thì da lông khô (do không được nuôi dưỡng). Thái âm phế (có chức năng) hành khí, làm ấm da lông. Nếu phế khí không vinh (đủ), (không thể vận chuyển dinh dưỡng) thì da lông sẽ bị khô. Da lông khô thì da, khớp bị thiếu tân dịch. Tân dịch ở da thiếu thì móng khô, lông gẫy rụng, lông gẫy rụng là lông đã chết trước. Nếu bệnh tình gặp vào ngày "bính" sẽ thành nặng, gặp vào ngày "đinh" sẽ chết (vì bính đinh thuộc hỏa, phế thuộc kim), hỏa khắc kim vậy.

Mạch khí kinh Thủ thiếu âm mà tuyệt thì mạch không thông, mạch không thông thì huyết không chảy, huyết không chảy thì tóc không bóng, sắc mặt không nhuận. Nếu sắc mặt đen như sơn gỗ, là huyết đã chết trước. Nếu gặp ngày "nhâm" sẽ nặng lên, gặp ngày "quý" sẽ chết (vì nhâm quý thuộc thủy, tâm thuộc hỏa), thủy khắc hỏa.

Mạch khí kinh Túc thái âm tỳ mà tuyệt thì mạch không nuôi dưỡng được cơ nhục. Môi lưỡi là gốc của cơ nhục. Mạch không vinh (vận chuyển phân bố dinh dưỡng) thì cơ nhục sẽ mềm nhẽo. Cơ nhục mềm nhẽo thì lưỡi teo, nhân trung đầy (da ở nhân trung khẩn cấp), nhân trung đầy thì môi phản (vêu ra) môi phản là thịt đã chết trước. Nếu gặp ngày "giáp" sẽ nặng lên, gặp ngày "ất" sẽ chết (vì giáp ất thuộc mộc, tỳ thuộc thổ), mộc khắc thổ vậy.

Mạch khí của kinh Túc thiếu âm thận mà tuyệt, thì xương khô. Mạch thiếu âm là mạch của mùa đông (thạch), nó phục sâu và nhuận xương tủy. Xương không nhuận thì cơ không có chỗ bám. Cốt nhục mà không tương thân thì thịt mềm nhẽo, thịt mềm nhẽo thì răng dài (do lợi teo) ra, bựa nhiều, tóc không bóng. Tóc không bóng là xương đã chết trước. Nếu gặp ngày "mậu" sẽ nặng, gặp ngày "kỷ" sẽ chết (vì mậu kỷ thuộc thổ, thận thuộc thủy), thổ khắc thủy vậy.

Mạch khí của kinh Túc quyết âm can tuyệt, thì cân tuyệt (không còn năng lực hoạt động). Kinh quyết âm là mạch can, can là hợp của cân. Cân tụ ở âm khí (bộ phận sinh dục ngoài) và (thông qua kinh mạch) liên lạc với gốc lưỡi. Nếu mạch không được nuôi dưỡng thì (can huyết hư) làm gân co quắp, gân co quắp làm lưỡi và tinh hoàn chun lại. Nếu môi xanh tái, lưỡi rụt, tinh hoàn co lên là cân đã chết. Nếu gặp ngày "canh" sẽ nặng, gặp ngày "tân" sẽ chết (Vì canh tân thuộc kim, Can thuộc mộc), kim khắc mộc vậy.

Mạch khí của 5 âm (kinh âm - tạng) đều kiệt, thì hệ mạch của mắt chuyển, chuyển thì mắt vận (đầu váng mắt hoa), mắt vận (động) là chí đã chết trước, chí mà chết trước thì 1,5 ngày sau sẽ chết.

Mạch khí của 6 dương (Kinh dương - Phủ) mà tuyệt, thì âm và dương phân ly, phân ly thì thấu lý phát tiết (lỗ chân lông, da không khỏe) vã mồ hôi hột (tuyệt hãn - đó là chứng nguy cấp), nếu buổi sáng có hiện tượng đó thì chiều nhất định chết, nếu chiều có chứng đó thì sớm mai nhất định chết.

Mười hai kinh mạch, ẩn phục ở trong, đi giữa các cơ, ở sâu nên không nhìn thấy. Phần mạch có thể nhìn thấy là đoạn thái âm chân đi qua mắt cá ngoài (nên hiểu là thái âm tay đi qua mỏm châm quay) vì chỗ này là xương không có cơ che chở. Những mạch nổi có thể nhìn thấy đều là mao mạch. Trong các lạc của 6 kinh dương, rõ nhất là đại lạc của thủ dương minh, thiếu dương, bắt đầu ở giữa 5 ngón tay, lên hợp ở khuỷu.

Người uống rượu mới đầu vệ khí đi ở da, làm dầy lạc mạch trước và lạc mạch thịnh trước nhất. Cho nên khi vệ khí đã bình (đầy tràn) làm dinh khí cũng đầy và kinh mạch rất thịnh (khí huyết rất nhiều). Khi mạch đột nhiên động (thịnh) (trong trường hợp không uống rượu) lạ thường, là tà khí đã xâm nhập và lưu ở trong kinh mạch từ gốc đến ngọn. Nếu không có động thì (tà khí còn ở biểu lạc và sinh ra) sốt. Nếu lạc mạch không (chắc chắn) liên (cố) thì bị hãm xuống (tà khí truyền sâu vào kinh mạch, do lúc đó kinh khí trong mạch) như rỗng không, không giống với chỗ khác. Ta có thể dựa vào đó để tìm kinh mạch nào đang động.

Lôi Công: Tôi không biết làm sao cho rõ vấn đề trên.

Hoàng đế: Vì các lạc mạch đều không đi qua khoảng giữa các khớp lớn, mà đi theo tuyệt đạo (đường khác mà kinh mạch không đi), liên lạc với nhau, rồi lại hợp ở da, làm cho (ta nhìn thấy) sự hội tụ của chúng ở bên ngoài. Vì vậy, nếu chích lạc mạch (có bệnh) thì phải chích đúng chỗ kết của nó, nơi có máu ứ nhiều nhất. Tuy không có chỗ kết đó, cũng cần lấy gấp lạc mạch, chích nặn máu để đuổi tà khí ra ngoài. Nếu để huyết ứ lưu ở đó, có thể thành chứng tý. Khi xem xét lạc mạch, nếu thấy mạch xanh là hàn và đau, đỏ là có nhiệt. Nếu vị hàn thì lạc ở (mô cái) thường xanh, vị nhiệt thì lạc ngư tế (mô cái) đỏ. Nếu nó đột nhiên có mầu đen là bệnh tý mãn tính. Nếu có các mầu đỏ, đen, xanh, là khí có hàn nhiệt. Nếu lạc mầu xanh, ngắn, là khí ít. Châm chữa hàn nhiệt đều chích huyết lạc ở nông (vì bệnh ở nông), cách ngày châm 1 lần, cho đến khi lạc ra hết huyết ứ (ác huyết) rồi sẽ điều hòa lại trạng thái hư thực. Nếu lạc nhỏ mà ngắn, là khí ít, nếu khí quá ít (bệnh nặng) mà lại tà sẽ gây ngực khó chịu (muộn), ngực khó chịu quá sẽ có thể ngã, không nói được. Khi ngực khó chịu thì cho ngồi dậy ngay.

Biệt (nhánh) của Thủ thái âm là Liệt khuyết. Bắt đầu từ phân gian (giữa gân và xương) ở trên cổ tay, đi song song với kinh thủ thái (Là thiếu mới đúng) âm, thẳng xuống lòng bàn tay và phân tán ở mô cái. Bệnh của nó nếu thực thì nóng ở lòng bàn tay, và vùng mỏm xương (quay) nếu hư thì há mồm hắt hơi, đái nhiều lần, đái són. Lấy Liệt khuyết ở sau cổ tay 0,5 tấc để chữa (hiện dùng 1,5 tấc). Tách ra liên lạc với kinh Thủ dương minh.

Biệt (nhánh) của Thủ thiếu âm là Thông lý. Tách ra từ sau cổ tay 1,5 tấc đi lên theo với kinh chính vào trong tim, rồi lên cuống lưỡi, thuộc (về) hệ mạch của mắt. Nếu thực thì có chi cách (ngực, cơ hoành khó chịu), nếu hư thì không nói được. Lấy huyệt Thông lý sau lòng bàn tay 1,5 tấc để chữa. Tách ra đi đến kinh Thủ thái dương.

Biệt (nhánh) của tâm chủ (quyết âm) là Nội quan, tách từ trên cổ tay 2 tấc ra ở giữa 2 gân, dọc kinh đi lên, vào tâm bào lạc. Hệ mạch ở tâm thực thì đau tim (trong Giáp ất kinh: đầu cứng thay bằng tâm phiền).

Biệt (nhánh) của Thủ thái dương là Chi chính, tách từ trên cổ tay 5 tấc, tưới vào kinh Thủ thiếu âm, nhánh của nó, đi lên khuỷu, liên lạc với Kiên ngung. Nếu thực thì khớp lỏng lẻo, khuỷu không động đậy, hư thì mọc mụn cơm, nhỏ thì như nốt ghẻ ở ngón tay. Lấy chỗ tách ra (Chi chính) để chữa.

Biệt (nhánh) của Thủ dương minh là Thiên lịch, từ trên cổ tay 3 tấc tách ra đi vào Thái âm. Nhánh của nó, đi lên dọc cánh tay, đến Kiên ngung lên góc hàm, vào chân răng. Nhánh của nó vào tai, hợp lại với tông mạch (mạch chính ở vùng này). Nếu thực thì răng sâu, điếc, hư thì răng lạnh, tý cách (cơ hoành bị tý). Lấy chỗ tách ra Thiên lịch để chữa.

Biệt (nhánh) của Thủ thiếu dương là Ngoại quan, tách từ ở trên cổ tay 2 tấc, ra ngoài, vòng cánh tay tưới vào ngực, hơn ở tâm bào. Bệnh thực thì khuỷu tay co, hư thì (duỗi) không co được. Lấy chỗ tách ra Ngoại quan để chữa.

Biệt (nhánh) của Túc thái dương là Phi dương, từ trên mắt cá ngoài 7 tấc, tách ra đi vào Thiếu âm. Nếu thực thì ngạt mũi, đau đầu lưng, hư thì chẩy máu mũi. Lấy chỗ tách ra (Phi dương) để chữa.

Biệt (nhánh) của Túc thiếu dương là Quang minh, từ trên mắt cá ngoài 5 tấc tách ra đi vào Quyết âm, xuống liên lạc với mu chân. Nếu thực thì quyết lạnh, hư thì teo cơ đi lại khó, do chân yếu ngồi không đứng lên được. Lấy chỗ tách ra để chữa (Quang minh).

Biệt (nhánh) của Túc dương minh là Phong long. Từ trên mắt cá ngoài 8 tấc tách ra đi vào Thái âm, nhánh của nó dọc bờ ngoài xương chày, lên trên liên lạc với đầu gáy, hợp với kinh khí của các kinh ở vùng đó, xuống liên lạc với hầu họng. Bệnh do khí nghịch thì đau hầu (hầu tý) đột nhiên mất tiếng. Nếu thực thì cuồng điên, hư thì chân không co được, hĩnh (cẳng chân - xương chày) teo khô. Lấy chỗ tách ra (Phong long) để chữa.

Biệt (nhánh) của Túc thái âm là Công tôn. Từ sau khớp bàn ngón chân cái 1 tấc tách ra đi vào dương minh. Nhánh của nó vào liên lạc với trương vị. Quyết khí thượng nghịch (khí lạnh nghịch lên) thì thổ tả, thực thì đau như cắt ở trong ruột, hư thì cổ chướng. Lấy chỗ tách ra (Công tôn) để chữa.

Biệt (nhánh) của Túc thiếu âm là Đại chung, vòng ở gân gót sau mắt cá trong tách ra đi vào Thái dương. Nhánh của nó, cùng kinh thiếu âm đi lên khoảng dưới tâm bào, hướng ra ngoài xuyên cột sống thắt lưng. Bệnh của nó khí nghịch thì phiền muộn, thực thì đái bí, hư thì đau thắt lưng. Lấy chỗ tách ra (Đại chung) để chữa.

Biệt (nhánh) của Túc quyết âm là Lãi câu. Từ trên mắt cá trong 5 tấc, tách ra đi vào thiếu dương. Nhánh của nó dọc xương chày lên tinh hoàn, kết ở dương vật. Bệnh của nó khí nghịch thì tinh hoàn cứng, đột nhiên đau thoát vị. Nếu thực thì dương vật cương dài, hư thì vùng sinh dục ngoài rất ngứa. Lấy chỗ tách ra (Lãi câu) để chữa.

Biệt (nhánh) của mạch nhâm là Vỹ ế (Cưu vỹ), từ dưới mũi kiếm phân tán ra bụng. Nếu thực thì da bụng đau, hư thì ngứa. Lấy nơi tách ra (Cưu vỹ) để chữa.

Biệt (nhánh) của mạch đốc là Trường cường. Kẹp xương cùng đi dọc lên gáy phân tán ở trên đầu, xuống hai bên bả vai, ở đó tách ra đi đến thái dương, xuyên vào xương cùng. Nếu thực thì cứng cột sống, hư thì nửa đầu nặng, ngửng cao đầu thì quay cuồng. Nếu dọc cột sống có bệnh tà (tà khí) thì lấy chỗ tách ra (trường cường) để chữa.

Đại lạc của Tỳ là Đại bao, tách ra ở dưới Uyên dịch 3 tấc, phân bố ở ngực sườn. Nếu thực thì mình đau như dần, hư thì mọi khớp rã rời. Nếu mạch này như một mạng lưới máu ứ thì lấy huyệt đại lạc của tỳ (Đại bao) để chữa.

Trên đây là 15 lạc, nếu thực thì phải nhìn thấy, hư thì lõm xuống. Không nhìn thì thấy cần tìm các huyệt ở trên và dưới (để xác đinh). Do kinh mạch của mỗi người không giống nhau, nên chỗ tách ra của lạc mạch không giống nhau.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 24, 2017, 02:40:00 PM
11. Kinh nhánh (Kinh biệt)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Giới thiệu đường đi của 12 kinh nhánh. Kinh nhánh là hệ thống cấu tạo bởi các nhánh tách ra từ 12 kinh mạch, đường đi của chúng ở sâu và dài, từ tứ chi vào nội tạng và sau đó ra đầu cổ. Hệ thống này ở trong phạm vi 12 kinh mạch, ở giữa sự phối ngẫu của các kinh âm dương có quan hệ biểu lý, nghĩa là thủ túc Thiếu âm hợp với thủ túc Thái dương, túc Quyết âm hợp với túc Thiếu dương, thủ túc Thái âm hợp với thủ túc Dương minh, thủ Tâm bào hợp với thủ Thiếu dương gọi là 6 hợp. Xuất, nhập, ly, hợp làm đường nối thông mọi sự liên hệ ở trên đường đi, đó là tác dụng của các nhánh của kinh chính, nên gọi tẳt là kinh nhánh (kinh biệt).

Hoàng đế: Thân thể con người hợp với thiên đạo (Quy luật của tự nhiên), ở trong có ngũ tạng, để ứng với 5 âm (giốc, chủy, cung, thương, vũ), ngũ sắc (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), năm thời (Xuân, Hạ, cuối Hạ, Thu, Đông), năm vị (chua, đắng, ngọt, cay, mặn), năm phương (Đông, Nam, Trung ương, Tây, Bắc); ở ngoài có 6 phủ ứng với 6 luật (là công cụ để định âm thanh - các loại sáo, 6 luật có: Hoàng trung, Thái tộc, Cô tẩy, Nhụy tân, Di tắc, Vô sạ. Ở âm có 6 lữ: Đại lữ, Hiệp chung, Trung lữ, Lâm chung, Nam lữ, Ứng chung. Âm phát ra từ 12 loại nhạc cụ này có âm, có dương ứng với 12 kinh mạch). 6 luật kiến các kinh âm dương, (xây dựng nên 3 kinh âm 3 kinh dương ở tay chân). 12 kinh mạch này hợp với 12 tháng, 12 thần (thìn - giờ cổ, mỗi giờ bằng 2 giờ hiện nay), 12 tiết, 12 kinh thủy, 12 thời. 12 kinh mạch là sự tương ứng của 5 tạng 6 phủ với thiên đạo (quy luật của tự nhiên).

Bị chú: 12 thìn: Từ thiên văn cổ, Đại hỏa, Triết mộc, Tinh kỷ, Huyền hiêu...Tên này đặt theo tên sao để đo chỗ mặt trời mặt trăng giao hội, và định tiết khí trong năm. Cũng có thể hiểu là Tý, Sửu, Dần, Mão Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, hợi.

12 tiết có hai ý:

1) Mỗi chân tay có 3 tiết, cộng 12 tiết (ở người).

2) Mỗi năm có 24 tiết khí. Mỗi tháng có 1 tiết và 1 khí. Như tháng giêng tiết Lập xuân, khí Vũ thủy, tháng 2 tiết Kinh chập, khí Xuân phân, tháng 3 tiết Thanh minh, khí Cốc vũ, tháng 4 tiết Lập hạ, khí Tiểu mãn, tháng 5 tiết Mang chủng, khí Hạ chí, tháng 6 tiết Tiểu thử, khí Đại thử, tháng 7 tiết Lập thu, khí Thử xử, tháng 8 tiết Bạch lộ, khí Thu phân, tháng 9 tiết Hàn lộ, khí Sương giáng, tháng 10 tiết Lập đông, khí Tiểu tuyết, tháng 11 tiết Đại tuyết, khí Đông chí, tháng 12 tiết Tiểu hàn, khí Đại hàn. 12 kinh thủy (12 loại sông ngòi): Thanh thủy, Vị thủy, Hải thủy, Hồ thủy, Nhữ thủy, Thằng thủy, Hoài thủy, Tháp thủy, Giang thủy, Hà thủy, Tế thủy, Chương thủy, so sánh với sự lưu thông củ 12 đường kinh.

12 thời trong một ngày có 12 đơn vị thời gian

Dạ bán - (Nửa đêm 23 - 01g)
Kê minh - (gà gáy 1 - 3g)
Bình đán - (bình minh 3 - 5g)
Nhật xuất - (mặt trời mọc 5 - 7g)
Thực thời - (giờ ăn cơm 7 - 9g)
Ngung trung - (đứng bóng 9 - 11g)
Nhật trung - (giữa ngày 11 - 13g)
Nhật điệt - (xế chiều 13 - 15g)
Bộ thời - (chiều 15 - 17g)
Nhật nhập - (mặt trời lặn 17 - 19g)
Hoàng hôn - (19 - 21g)
Nhân định - (giờ ngủ 21 - 23g)

Ở trạng thái sinh lý, 12 kinh mạch có tác dụng với sự sống của con người, ở trạng thái bệnh lý là cơ sở cho bệnh sinh ra, chuyển biến, về mặt chữa bệnh là cơ sở để chuẩn đoán và chữa bệnh. Người bắt đầu học phải nắm được lý luận của nó, người nghiên cứu phải hiểu những tinh hoa của nó. Người thầy thuốc thường cho nó là dễ nắm, và coi thường, người thầy thuốc giỏi lại cho nó là khó mà tinh thông được các vấn đề cơ bản, tinh hoa của nó.

Xin hỏi tình hình ly hợp, ra vào của các kinh mạch như thế nào?

Kỳ Bá: Đây là vấn đề người thường dễ bỏ qua, người giỏi mới chú ý đến. Cụ thể như sau:

- Kinh túc Thái dương đi đến khoeo chân (tương đương Ủy trung), tách ra một đường đi lên đến dưới xương cụt 5 tấc (Thừa phù) tách một nhánh vào hậu môn, thuộc (về) Bàng quang, phân tán ở thận, theo dọc cột sống đi lên rồi phân tán ở tim, đường thứ hai của nó đi thẳng từ xương cùng dọc lên vùng gáy, rồi đổ về kinh chính Thái dương thành một kinh.

- Kinh túc Thiếu âm đi đến khoeo, tách ra 1 nhánh đi theo kinh Thái dương rồi hợp với kinh này lên đến thận, ở đốt lưng 14 (thắt lưng 2) đi ra thuộc về mạch đới. Nhánh thẳng của kinh lên thẳng đến gốc lưỡi chạy vòng ra vùng gáy, hợp với kinh Thái dương (túc) để thành hợp thứ nhất. Đó là quan hệ kinh âm dương tương hợp, các nhánh của kinh âm đều là các kinh dương chính (vì nhánh của kinh âm đổ vào kinh dương có quan hệ biểu lý).

- Kinh túc Thiếu dương đi tách từ kinh chính ra ở háng (Khí xung) vòng vùng mấu chuyển lớn vào lông mu hợp với Quyết âm. Nhánh của nó vào sườn, đi trong ngực thuộc (về) đởm. Phân tán ở Can, rồi xuyên lên kẹp ở bên họng, ra ở giữa vùng hàm, mang tai, phân tán ở vùng mặt, liên lạc với hệ mạch ở mắt, hợp với kinh Thiếu dương (chính) ở đuôi mắt. Kinh nhánh Quyết âm chân tách từ kinh chính ở mu chân lên đến lông mu, hợp với kinh túc Thiếu dương, rồi cùng kinh nhánh của Thiếu dương đi lên. Đây là hợp thứ hai.

- Kinh nhánh túc Dương minh tách từ kinh chính ở vùng háng, vào bụng thuộc Vị, phân tán ở Tỳ, lên thông với Tâm  dọc theo họng và ra ở mồm, lên sống mũi, liên lạc với hệ mạch ở mắt và hợp với kinh Dương minh (chính). Kinh nhánh Thái âm chân tách từ kinh chính ở háng, hợp với kinh Dương minh rồi cùng với kinh Dương minh đi lên kết ở họng, thông vào lưỡi. Đây là hợp thứ ba.

- Kinh thủ Thái dương tay đi từ ngón tay xuống đến vai tách ra từ kinh nhánh đi vào nách, vào Tâm, liên hệ với Tiểu  trường. Kinh nhánh thủ Thiếu âm tách từ kinh chính ở Uyên dịch giữa hai gân thuộc (về) Tâm, đi lên vào họng hầu ra ở mặt, hợp (với kinh thủ Thái dương tay) ở khóe trong mắt. Đây là hợp thứ 4.

- Kinh nhánh Thiếu dương tay, tách từ kinh chính ở đỉnh đầu, vào hố trên đòn đi xuống Tam tiêu, rồi tẩu tán ở trong ngực. Kinh nhánh Tâm bào tách từ kinh chính ở dưới nách 3 tấc và vào trong ngực, lần lượt đi vào Tam tiêu, rồi ra đi dọc lên họng, ra ở sau tai, hợp với kinh thủ Thiếu dương ở dưới xương chũm (hoàn cốt). Đó là hợp thứ 5.

- Kinh nhánh thủ Dương minh tách từ kinh chính ở Kiên ngung đi vào Trụ cốt (Đại chùy) đi xuống Đại trường, thuộc Phế, lên hầu, ra ở hố trên đòn để hợp với kinh Dương minh. Kinh nhánh Thái âm tay, tách từ kinh chính ở huyệt Uyên dịch, trước kinh Thiếu âm (Tâm) đi vào Phế, phân tán ở thái dương, lên ra ở hố trên đòn, dọc họng, hợp với kinh Dương minh. Đó là hợp thứ 6.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 01, 2017, 02:23:12 PM
12. Kinh thủy

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nêu lên 12 loại sông ngòi đương thời: Thanh, Vị, Hải, Hồ, Thằng, Hoài, Tháp, Giang, Hà, Tế, Chương. Tình trạng của mỗi loại sông ngòi đều không giống nhau và được dùng để so sánh với tình trạng tuần hoàn của khí huyết 12 kinh. Nó biểu hiện mối quan hệ tương ứng giữa con người và thiên nhiên, lấy sự nông sâu gần xa của mỗi loại sông ngòi để làm chuẩn cho việc châm nông sâu và thời gian lưu kim dài ngắn của châm. Ngoài ra còn phải dựa vào tuổi già trẻ, thân thể to nhỏ, thể lực mạnh yếu để châm.

Hoàng đế: 12 kinh mạch, ngoài hợp với 12 kinh thủy, trong hợp với 5 tạng 6 phủ. 12 Kinh thủy có lớn nhỏ, nông sâu, rộng hẹp, gần xa khác nhau, 5 tạng 6 phủ cũng có cao thấp, lớn nhỏ, tiếp thu tinh hoa của thủy cốc nhiều ít khác nhau. Vậy chúng tương ứng với nhau như thế nào? Kinh thủy tiếp thu nước để chảy, ngũ tạng tàng thần khí hồn phách, 6 phủ thu nạp thủy cốc để hành (hấp thụ tinh hoa của thủy cốc), vận hóa thành tinh khí để phân bố toàn thân, kinh mạch là nơi tiếp nhận huyết để nuôi dưỡng toàn thân. Hợp các mặt đó để điều trị thì có tác dụng gì? Và mức độ châm nông sâu, số mồi ngải cứu nhiều ít như thế nào cho vừa?

Kỳ Bá: Trời cao khó đo, đất rộng khó lường, đó là những vấn đề khó giải đáp. Người sống trong trời đất ở trong 6 hợp (trên trời, dưới đất, trước, sau, phải, trái) chịu ảnh hưởng của sự thay đổi thiên nhiên như thế nào; giống như trời cao khó đo, đất rộng khó lường, khó mà tính ra được.

Nếu lấy một người cao 8 thước có da có thịt (sự nông sâu rộng hẹp của nó), có thể dùng thước để đo, dùng tay để sờ và tính toán ra, khi chết có thể mổ ra để xem độ vững bền dễ vỡ của tạng, độ to nhỏ đựng thức ăn nhiều hay ít của phủ, độ dài ngắn của mạch, sự nhiều ít của khí, độ trong đục của huyết, sự nhiều huyết ít khí hoặc ít huyết nhiều khí, hoặc nhiều khí nhiều huyết hoặc ít khí ít huyết của 12 kinh. Tất cả đều có số cụ thể. Khi chữa bệnh cần châm cứu để điều hòa kinh khí của đường kinh. Mỗi trường hợp đều có chỗ thích hợp riêng của nó.

Bị chú: ("Tố vấn huyết khí hình chí" viết: Thái dương nhiều huyết ít khí; Thiếu dương ít huyết nhiều khí; Dương minh nhiều khí nhiều huyết; Thiếu âm ít huyết nhiều khí; Quyết âm nhiều huyết ít khí; Thái âm nhiều khí ít huyết).

Hoàng đế: Nghe thì rất thích song chưa rõ, mong được sáng tỏ.

Kỳ Bá: Đó là do người phối hợp với các hiện tượng thiên nhiên, ứng với quy luật âm dương cần xem xét kỹ. Túc thái dương bên ngoài hợp với Thanh thủy bên trong thuộc về Bàng quang để thông đường nước. Túc thiếu dương bên ngoài hợp với Vị thủy, bên trong thuộc về Đởm. Túc dương minh bên ngoài hợp với Hải thủy, bên trong thuộc về Vị. Túc thái âm bên ngoài hợp với Hồ thủy, bên trong thuộc về Tỳ. Túc thiếu âm bên ngoài hợp với Nhữ thủy, bên trong thuộc về Thận. Túc quyết âm bên ngoài hợp với Thằng thủy, bên trong thuộc về Can. Thủ thái dương bên ngoài hợp với Hoài thủy, bên trong thuộc về Tiểu trường, nơi đường nước ra ngoài. Thủ thiếu dương bên ngoài hợp với Lũy thủy, bên trong thuộc về Tam tiêu. Thủ dương minh bên ngoài hợp với Giang thủy, bên trong thuộc về Đại trường. Thủ thái âm bên ngoài hợp với Hà thủy, bên trong thuộc về Phế. Thủ thiếu âm bên ngoài hợp với Tế thủy, bên trong thuộc về Tâm. Thủ tâm bào bên ngoài hợp với Chương thủy, bên trong thuộc về Tâm bào. Tất cả 5 tạng, 6 phủ, 12 kinh thủy bên ngoài đều có nguồn, bên trong có cơ quan làm cho trong người tương thông, như vòng kín không có đầu mối, kinh của người cũng thế.

Trời là dương, đất là âm, từ thắt lưng trở lên là trời, từ thắt lưng trở xuống là đất. Hải (bể) đến Bắc là âm (Theo bát quái: Đông trái, Tây phải, Nam trên Bắc dưới - Hải và Bắc chỉ 2 kinh Đởm, Bàng quang dưới kinh Vị. Ba kinh Vị, Đởm, Bàng quang, đều từ đầu xuống chân, từ thắt lưng xuống. Nếu ưỡn người thì Vị ở trên, Đởm, Bàng quang ở dưới, cho nên Hải đến Bắc là âm). Hồ đến Bắc là âm ở trong âm (Nước Hồ là kinh Tỳ, Hồ đến Bắc là kinh Tỳ trở xuống dưới là 2 kinh Can, Thận. Âm trong âm là mặt trong (-) của đùi (-). Kinh Tỳ ở trước hai kinh Can, Thận, nếu ưỡn ngửa người, kinh Tỳ ở trên hai kinh kia), cho nên nói Hồ đến Bắc (Hồ trở xuống) là âm trong âm. Chương đến Nam là dương (Chương thủy - kinh Tâm bào. Chương đến Nam là nói kinh Phế ở trên kinh Tâm bào. Nếu nằm ngửa kinh Phế ở trên kinh Tâm bào, cho nên Chương đến Nam là dương). Từ Hà lên Bắc đến Chương là dương trung chi âm (âm trong dương). (Hà thủy - kinh Phế, Hà (kinh Phế) lên Bắc (xuống dưới) đến Chương (kinh Tâm bào) - dương trung (chi trên) chi âm (mặt trong), nếu nằm ngửa dưới kinh Phế là kinh Tâm bào cho nên viết Hà lên Bắc đến Chương là âm trong dương). Tháp đến Nam đến Giang là thái dương trong dương (Tháp thủy là kinh Tam tiêu, thái dương trong dương - mặt ngoài chi trên, Giang là kinh Đại trường, kinh Tam tiêu và kinh Đại trường đều ở mặt ngoài cánh tay và kinh Đại trường ở trên kinh Tam tiêu). Đây chỉ là một tượng trưng của sự tương hợp của âm dương nhằm nói lên con người gắn với trời đất.

Hoàng đế: Tình hình gần xa nông sâu, nước, huyết, nhiều ít của 12 kinh mạch tương ứng với 12 kinh thủy rất khác nhau, vậy vận dụng vào châm như thế nào?

Kỳ Bá: Kinh Túc dương minh là bể của 5 tạng 6 phủ, mạch to, huyết nhiều, khí thịnh, nhiệt mạnh, châm nó phải sâu và lưu kim mới đuổi được tà khí ra - Túc dương minh châm sâu 6 phân lưu 10 hơi thở. Túc Thái dương sâu 5 phân, lưu 7 hơi thở. Túc thiếu dương châm 4 phân, lưu 5 hơi thở. Túc thái âm sâu 3 phân, lưu 4 hơi thở. Túc Thiếu âm sâu 2 phân lưu 3 hơi thở.

Túc quyết âm sâu 1 phân, lưu 2 hơi thở. Vì kinh dương, âm ở tay, gần (kinh Phế, Tâm) đường của khí, khí lại đến nhanh, nên châm không sâu quá 2 phân và lưu không quá 1 hơi thở. Phải xem xét tình hình già trẻ, to nhỏ, béo gầy, để xử lý khi châm. Đây là theo quy luật biến hóa của tự nhiên - cứu cũng vậy. Nếu cứu quá mức sẽ bị "ác hỏa" là xương khô, mạch sáp. Châm quá mức làm khí thoát.

Hoàng đế: Làm thế nào đo được sự to nhỏ của mạch, ít nhiều của huyết - mỏng dầy của da, chất nhẽo của cơ, to nhỏ của khoeo?

Kỳ Bá: Cái gì có thể đo được thì lấy chuẩn là người trung bình, thịt không teo, khí huyết không suy. Nếu người bị đo lại gầy khẳng khiu thì lấy gì làm chuẩn cho châm? Phải xem xét kỹ, bắt mạch. Xác định vị trí huyệt theo kinh, sờ da, nắn cơ để xem xét cụ thể, rồi căn cứ vào nóng lạnh (của da) thịnh suy (của khí huyết) để điều hòa lại. Như vậy gọi là căn cứ vào tình hình bệnh nhân để có biện pháp thích đáng (để có hiệu quả tốt), và gọi là con đường chính đáng vậy.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 05, 2017, 04:43:14 PM
Quyển thứ bốn

13. Kinh cân


(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Đó là hệ thông gân cơ thuộc 12 kinh chính. Bắt đầu từ ngón móng các chi, dọc tứ chi lên cổ gáy bám tận ở đầu mặt và không có bám vào tạng phủ. Chứng hậu của nó chủ yếu là hàn, nhiệt, và cơ co rút, đau, chuột rút v.v...Thiên này nói rõ về đặc điểm về đường đi, triệu chứng và điều trị của 12 kinh cân, thường dùng phiến châm để chữa, lấy đau làm huyệt và châm đến khi có hiệu quả thì thôi.

1. Kinh cân Túc thái dương bắt đầu ở ngón chân út, lên kết ở mắt cá ngoài (Bộc tham), chếch lên kết ở gối đi xuống ở ngoài bàn chân, kết ở gót, theo gót lên kết ở khoeo. Nhánh của nó kết ở phía ngoài bắp chân, lên bờ trong khoeo, cùng nhánh ở giữa khoeo lên kết ở mông, lên kẹp dọc cột sống lên gáy. Nhánh của nó tách ra kết ở gốc lưỡi. Nhánh thẳng của nó kết ở xương chẩm trên đầu, xuống mặt, kết ở mũi. Nhánh của nó bám quanh hố mắt, xuống kết ở xương gò má. Nhánh của nó từ bờ ngoài sau nách kết ở Kiên ngung. Nhánh của nó vào dưới nách, lên ra ở hố trên đòn, chếch lên ra ở xương má.

Bệnh của nó: Ngón út co, gót sưng đau, khoeo co rút, sống lưng ưỡn cong, gân gáy co cấp, vai không cử động được, nách đau vặn đến hố trên đòn, không thể cử động sang phải sang trái. Chữa dùng phiến châm (Hỏa châm) châm thật nhanh, châm đến khỏi thì thôi, lấy chỗ đau làm huyệt. Được gọi là chứng tý của tháng Trọng xuân (tháng 2).

2. Kinh cân Túc thiếu dương bắt đầu ở ngón chân thứ 4 lên kết ở mắt cá ngoài, dọc theo bờ ngoài xương chày, kết ở bờ ngoài gối. Nhánh của nó từ ngoài xương mác, đi lên đến vùng háng, nhánh trước kết ở phía trên Phục thỏ, nhánh sau kết ở vùng cùng cụt - Nhánh thẳng của nó lên chỗ lõm mềm dưới sườn và mạng mỡ, lại lên đến bờ trước nách đến phía ngực gần vú, lên kết ở Khuyết bồn, nhánh đi thẳng lên, ra ở nách, qua Khuyết bồn, ra trước thái dương, vòng sau tai, lên góc trán, giao ở đỉnh đi xuống hàm, lên kết ở xương má, trong đó một nhánh kết ở đuôi mắt, là ngoại duy của mắt.

Bệnh của nó: Ngón chân thứ 4 co quắp, kéo theo chuột rút ờ bờ ngoài gối. Khớp gối không co duỗi được, gân ở khoeo co gấp, phía trước kéo theo vùng háng, phía sau kéo theo vùng cùng cụt, lên nữa làm mạng mỡ dưới sườn đau, lên kéo đến gân ở Khuyết bồn, ngực vú cổ đều co lại. Gân từ bên trái sang bên phải bị co rút thì mắt phải không mở được, do gân này lên đến góc trán phải, đi cùng với hai mạch âm dương kiều. Gân bên trái sang bên phải, làm cho chân bên phải không vận động được, gọi là gân giao nhau. Cách chữa dùng phiến châm, thủ pháp thật nhanh, châm nhiều lần đến khi có hiệu quả thì thôi, lấy chỗ đau làm huyệt, gọi là Mạnh xuân tý (Mạnh xuân là tháng 1, Mạnh xuân tý là chứnh tý phát vào tháng 1 ở Thiếu dương chân).

3. Kinh cân Túc dương minh bắt đầu ở 3 ngón chân giữa, kết ở mu chân, đi chếch ra ngoài lên phụ cốt (lồi củ), kết ở bờ ngoài gối, thẳng lên kết ở bễ khu (mấu chuyển lớn) đi lên cạnh sườn, vào trong bám vào cột sống. Nhánh thẳng của nó, lên dọc xương chày, kết ở gối. Nhánh của nó kết ở ngoài phụ cốt (đầu xương mác) hợp với Thiếu dương. Nhánh thẳng của nó dọc lên trước đùi (Phục thỏ) kết ở vùng háng, tụ ở bộ phận sinh dục ngoài, lên bụng phân ra đến khuyết bồn lại kết lại, lên cổ, kẹp ở hai bên mép, hợp ở xương gò má xuống kết ở mũi, lên hợp ở thái dương. Thái dương là màng lưới trên của mắt, Dương minh là màng lưới dưới của mắt, nhánh của nó từ má ra kết ở trước tai.

Bệnh của nó: Chuột rút từ ngón chân giữa đến cẳng chân, co ở chân mày và cứng, Phục thỏ (cơ trước đùi) chuột rút, phía trước háng sưng, thoát vị bìu, co cơ bụng kéo cả vùng hố trên đòn và má, đột nhiên méo mồm. Nếu bệnh cấp thì mắt không nhắm được, nếu nhiệt thì cân mềm, mắt không mở được. Cơ mặt bị hàn thì thì co lại kéo má mồm méo xệch, nếu bị nhiệt thì cân mềm nhẽo, không co được nên méo mặt. Chữa bằng dùng mã cao (mỡ ngựa = can bình nhu nhuận, có thể dưỡng cân chữa tý) dán chỗ bị hàn co; lấy rượu trắng và quế bột đắp lên ở bên liệt, lấy tang câu (cành dâu có móc) móc nó rồi lấy than củi dâu để ở hố dưới đất, hố nông sâu vừa đủ người ngồi trên thấy ấm là được. Một mặt lấy cao (mỡ ngựa) làm nóng phía má bị co, uống rượu ngon ăn thịt rán ngon - người không uống được rượu cũng phải uống và xoa bóp 3 lần bên bệnh, có thể khỏi. Dùng kim đốt lên chữa bệnh ở kinh cân, thủ pháp nhanh, đến khi thấy có hiệu quả thì thôi. Lấy điểm đau làm huyệt. Chứng đó gọi là Quý xuân tý (Quý xuân là tháng 3, Quý xuân tý là chứng tý ở Túc dương minh phát vào tháng 3).

4. Kinh cân Túc thái âm bắt đầu từ cạnh trong ngón chân cái, lên kết ở mắt cá trong, nhánh thẳng của nó lên phụ cốt (lồi củ) phía trong gối (Âm lăng tuyền) lên mặt trong đùi, kết ở háng, tụ ở vùng sinh dục ngoài, lên bụng kết ở rốn, dọc trong bụng, kết ở sườn, tán ra ở ngực, nhánh phía trong của nó bám vào cột sống.

Bệnh của nó: Ngón chân cái đến mắt cá trong đau, chuột rút đau, phụ cốt (lồi củ) mặt trong gối đau, mặt trong đùi kéo đến háng đau, sinh dục ngoài đau xoắn, lan lên làm rốn, hai sườn đau, làm cả trong ngực và cột sống đau. Chữa nó phải dùng kim đốt lên châm nhanh, nhiều lần đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt gọi là Mạnh thu tý (Túc thái âm ứng với khí tháng 8 trung thu, tức Trọng thu chứ không phải Mạnh thu. Có thể nhầm với điều Túc thiếu âm vì nó ứng với Mạnh thu) (Cảnh Nhạc).

5. Kinh cân Túc thiếu âm bắt đầu từ dưới ngón chân út cùng đi với kinh cân Túc thái âm, đi chếch dưới mắt cá trong, kết ở gót, hợp với kinh cân Thái dương và lên kết ở phía dưới trong phụ cốt (lồi củ), đi cùng kinh cân Thái âm, lên mặt trong đùi, kết ở sinh dục ngoài, dọc trong cột sống đi kẹp từ xương cùng lên gáy kết ở xương chẩm, hợp với kinh cân Thái dương.

Bệnh của nó: Gan chân chuột rút, và những chỗ kết của nó đau và chuột rút. Bệnh ở kinh đó có động kinh, co quắp, co giật. Nếu ở ngoài (lưng) thì không cúi được, nếu ở trong thì không ngửa được. Chữa: Dùng kim đốt lên châm nhanh, đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt, ở trong thì dán cao làm nóng xoa bóp đạo dẫn, uống thuốc (thư cân dưỡng huyết). Nếu có soắn vặn người, cơn soắn vặn ngày một nhiều thì không chữa được, gọi là "Trọng thu tý" (Trọng thu tý có lẽ nhầm, đáng là Mạnh thu tý, vì Túc thiếu âm là kinh sinh âm ứng với khí tháng 7) (Cảnh Nhạc).

6. Kinh âm Túc quyết âm bắt đầu từ trên ngón chân cái, lên kết ở dưới mắt cá trong, dọc cẳng chân, lên kết ở dưới mắt cá trong phụ cốt (lồi củ), lên dọc mặt đùi kết ở sinh dục ngoài liên lạc với các cân ở đây.

Bệnh của nó: Từ ngón cái đến trước mắt cá trong đau, nội phụ (mặt trong lồi củ) đau, mặt trong đùi đau và chuột rút, sinh dục ngoài liệt, bị nội thương (do trác táng) thì không cương được, bị lạnh thì co chun lại, bị nhiệt thì dương vật dài ra không co lại, chữa nó cần thanh âm khí (kinh khí của bản kinh) hành thủy - Chữa chuột rút bằng kim đốt lên châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy một điểm đau làm huyệt, gọi là Quý thu tý (Quý thu = tháng 9, Quý thu tý là chứng tý ở Túc quyết âm phát vào tháng 9).

7. Kinh cân Thủ thái dương bắt đầu từ trên ngón tay út, kết ở cổ tay lên dọc bờ trong cánh tay, kết ở mặt trong sau mỏm khuỷu, bật vào đó thì cảm giác lan đến tận ngón út, lên kết ở dưới nách. Nhánh của nó đi vào sau bờ nách lên vòng xương bả, dọc cổ ra trước thái dương (túc), kết ở hoàn cốt (xương chũm) sau tai. Nhánh của nó vào trong tai. Nhánh thẳng ra ở trên tai, xuống kết ở hàm, lên thuộc về đuôi mắt.

Bệnh của nó: Đau từ ngón út lên mặt trong sau mỏm khuỷu, dọc mặt trong cánh tay và dưới nách, dưới nách đau, bờ sau nách đau, đau vòng bả vai lên cổ, làm tai ù đau lan ra hàm, phải nhắm mắt một lúc mới nhìn rõ, cơ cổ co rút, có thể làm cho gân nhẽo, cổ sưng (chứng tỏ đang có) sốt rét ở cổ. Nếu có sưng, dùng kim nhọn sắc để chữa. Đường chính lên góc hàm, qua trước tai, lên đuôi mắt, lên trán kết ở góc trán. Chỗ đau là chỗ cân đi qua và có chuột rút. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt, gọi là Trọng hạ tý (Trọng hạ tý tháng 5, Trọng hạ tý là chứng tý ở Thủ thái dương phát vào tháng 5).

8. Kinh cân Thủ thiếu dương bắt đầu từ ngón thứ 4, kết ở cổ tay, đi ở giữa cẳng tay lên kết ở khuỷu lên vòng ở bờ ngoài cánh tay, lên vai, đi ở cổ, hợp với Thủ thái dương. Nhánh của nó, từ góc hàm vào gốc lưỡi. Nhánh của nó lên góc hàm, qua trước tai, đến đuôi mắt, lên trán, kết ở góc trán.

Bệnh của nó: Sẽ có chuột rút trên đường đi của kinh hoặc rút lưỡi. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt. Gọi là Quý hạ tý (Quý hạ là tháng 6, Quý hạ tý là chứng tý Thủ thiếu dương phát vào tháng 6).

9. Kinh cân Thủ dương minh bắt đầu từ ngón trỏ, lên kết ở cổ tay, dọc cánh tay, lên kết bờ ngoài khuỷu, lên cẳng tay kết ở mỏm vai. Nhánh của nó vòng bả vai, kẹp cột sống. Nhánh thẳng của nó từ Kiên ngung (mỏm) lên cổ. Nhánh của nó lên má, kết ở gò má. Nhánh thẳng của nó, lên ra ở trước Thủ thái dương, lên góc trán trái liên lạc với đầu, lại xuống hàm phải.

Bệnh của nó: Nơi kinh đi qua đau và chuột rút, vai không giơ được, cổ không quay để nhìn bên phải, trái được. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt, gọi là Mạnh hạ tý (Mạnh hạ là tháng 4, Mạnh hạ tý là chứng tý Thủ dương minh phát vào tháng 4).

10. Kinh cân Thủ thái âm bắt đầu từ ngón cái, dọc ngón tay lên kết ở sau Ngư tế, đi ở bờ ngoài thốn khẩu lên ở cẳng tay, kết ở giữa khuỷu, lên bờ trong cánh tay, vào nách ra ở khuyết bồn, xuống kết ở trong ngực, phân tán và xuyên tâm vị của dạ dầy rồi hợp lại và đến mạng mỡ.

Bệnh của nó: Đau, chuột rút nơi kinh đi qua, nếu đau nhiều có thể thành chứng "tức bôn" co thắt ở mạng mỡ (lườn) nôn máu. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt, gọi là Trọng đông tý (Trọng đông là tháng 11. Trọng đông tý là chứng tý Thủ thái âm phát vào tháng 11).

11. Kinh cân Thủ tâm chủ bắt đầu từ ngón giữa, đi cùng kinh cân Thái âm, kết ở mặt trong khuỷu tay, lên mặt trong cánh tay, kết ở dưới nách, đi xuống phân tán ở phía trước, phía sau và kẹp ở sườn. Nhánh của nó vào nách, phân tán trong ngực, kết ở tâm vị.

Bệnh của nó: Chuột rút nơi kinh đi qua, đau ngực, tức bôn. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt, gọi là Mạnh đông tý (Mạnh đông là tháng 10, Mạnh đông tý là chứng tý Thủ tâm chủ, phát vào tháng 10).

12. Kinh cân Thủ thiếu âm bắt đầu từ bờ trong ngón út, kết ở xương nhọn (đậu) lên kết ở bờ trong khuỷu, lên vào nách, giao với thái âm, đi kẹp cạnh vú, kết ở trong ngực, dọc phần trên tâm vị, xuống liên lạc với rốn.

Bệnh của nó: Khi bên trong co rút (thì vùng dưới tâm cứng) sờ thấy gọi là "Phục lương", ở dưới là một lưới làm khuỷu co lại, có gân đau và chuột rút nơi kinh đi qua. Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt. Nếu có "Phục lương" (cứng đau dưới vùng tim), thổ máu mủ thì chết. Bệnh của kinh cân, khi bị lạnh thì cân co lưng ưỡn, bị nhiệt thì cơ nhẽo không co được, âm suy không cương được. Dương (lưng thuộc dương) bị cấp (chuột rút) thì lưng ưỡn, âm (bụng thuộc âm) bị cấp (chuột rút) thì người co không thẳng được. Dùng kim đốt lên (tức hải châm) chỉ chữa cho chứng bị hàn làm chuột rút thôi, chứng do nhiệt thì cơ nhẽo không co được, nên không dùng nó chữa cho chứng do nhiệt. Gọi là Quý đông tý (Quý đông là tháng 12, Quý đông tý là chứng tý Thủ thiếu âm phát vào tháng 12).

Kinh Túc dương minh, Thủ thái âm, nếu bị cấp (gân co rút) thì có méo mặt lệch mắt (đầu đuôi mắt co rút) nhìn vật không rõ v.v... Chữa nó dùng kim đốt lên, châm nhanh đến khi có hiệu quả, lấy điểm đau làm huyệt như trên.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 08, 2017, 11:04:31 AM
14. Độ dài của xương - Cốt độ

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Trên một người cao 75 tấc, người ta phân các đoạn xương dài ngắn, rộng hẹp khác nhau bằng cùng một tấc phân tiêu chuẩn nhất định. Nó vừa có tác dụng đo độ dài của kinh mạch, vừa có tác dụng tìm huyệt theo kinh.

Hoàng đế: Tính độ dài ngắn của kinh mạch theo tiêu chuẩn nào?

Kỳ Bá: trước hết phải đo được sự lớn bé, rộng hẹp, dài ngắn của xương khớp rồi dựa vào đó để đo độ dài của kinh mạch.

Hoàng đế: Ở người cao 7 thước 5 tấc (75 tấc), độ dài của các xương khớp thân thể ra sao?

Kỳ Bá: Vòng đầu (qua lông mày, xương chẩm): 2 thước 6 tấc. Vòng ngực (qua vú): 4 thước 5 tấc. Vòng thắt lưng (qua rốn): 4 thước 2 tấc. Chân tóc trước trán đến chân tóc gáy: 1 thước 2 tấc, chân tóc đến cằm: 1 thước. Nên dùng phép triết chung (để tính). Cũng có người: Chân tóc gáy đến chân tóc trán, chân tóc trán đến cằm đều 1 thước 1 tấc.

Yết hầu đến chỗ lõm trên xương ức: 4 tấc. Chỗ lõm trên xương ức đến bờ trên mũi kiếm (bờ dưới xương ức): 9 tấc, nếu dài hơn là phế to, nếu ngắn hơn là phế nhỏ. Từ bờ dưới xương ức đến thiên khu (ngang rốn): 8 tấc. Nếu dài hơn là vị to, nếu ngắn hơn là vị nhỏ. Thiên khu (rốn) đến xương mu: 6 tấc 5 phân, dài hơn là hồi tràng to dài, ngắn hơn là hẹp, ngắn. Xương mu dài 6 tấc 5 phân. Bờ trên xương mu đến bờ trên lồi củ (trong xương đùi) 1 thước 8 tấc, bờ trên lồi củ trong (xương đùi) đến bờ dưới lồi củ trong (xương chầy): 3 tấc 5 phân. Bờ dưới lồ củ trong (xương chày) đến mắt cá trong: 1 thước 3 tấc. Mắt cá trong đến mặt đất: 3 tấc. Giữa khoeo đến bờ trên xương gót: 1 thước 6 tấc. Bờ trên xương gót đến mặt đất: 3 tấc. Nếu vòng xương to thì thái quá, nếu vòng xương nhỏ thì bất cập.

Góc trán đến trụ cốt (gốc của xương cổ, chỗ nhô lên của xương cổ ngang bờ trên hai xương bả): 1 thước. Phân nách không nhìn thấy (đầu nếp nách trước) đến đầu nếp nách sau: 4 tấc. (Hố) nách đến bờ sườn: 1 thước 2 tấc. Bờ sườn đến bờ trên mấu chuyển lớn: 6 tấc. Bờ trên mấu chuyển lớn đến khe ngoài khớp gối: 1 thước 9 tấc. Khe ngoài khớp gối đến mắt cá ngoài: 1 thước 6 tấc. Mắt cá ngoài đến Kinh cốt (huyệt Kinh cốt): 3 tấc. Từ kinh cốt (bờ sau đầu sau xương bàn chân) đến mặt đất: 1 tấc.

2 hoàn cốt (mỏm trâm chũm sau tai) cách nhau 9 tấc. Hai nhĩ môn (huyệt) cách nhau 1 thước 2 tấc. Hai gò má cách nhau 7 tấc. Hai đầu vú cách nhau 9 tấc 5 phân. Hai bờ trong nếp bẹn cách nhau 6 tấc 5 phân.

Bàn chân dài 1 thước 2 tấc, rộng 4,5 tấc. Vai đến khuỷu: 1 thước 7 tấc, khuỷu đến cổ tay: 1 thước 2 tấc 5 phân, cổ tay đến khớp bàn ngón tay: 4 tấc, khớp bàn ngón tay đến đầu ngón: 4 tấc 5 phân.

Chân tóc gáy đến Đại chùy 2 tấc 5 phân (Giáp ất kinh: 3 tấc), đốt lưng 1 đến xương cùng có 21 đốt dài 3 thước. Đốt lưng trên mỗi đốt dài 1 tấc 4 phân 1 ly, không kể số lẻ nữa, 7 đốt lưng trên đến đốt lưng 1 là 9 tấc 8 phân 7 ly. Đó là độ dài trung bình các xương của mọi người, và là cơ sở để xác định độ dài của kinh mạch. Những kinh mạch nhìn thấy trên người, loại nổi và chắc, hoặc nhìn rõ và to là có nhiều huyết, loại nhỏ và chìm là có nhiều khí.

Bị chú: "Thần ứng kinh" và "Loại kinh đồ dực" tính thêm: 7 đốt ở giữa mỗi đốt 1 tấc 6 phân 1 ly, cộng 1 thước 1 tấc 2 phân 7 ly (14 đốt là 9 thước 8 phân 7 ly + 1 thước 1 tấc 2 phân 7 ly = 2 thước 1 tấc 1 phân 4 ly), 7 đốt ở dưới mỗi đốt 1 tấc 2 phân 6 ly cộng 8 tấc 8 phân 2 ly. Tổng cộng 21 đốt là 2 thước 9 tấc 9 phân 6 ly).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 09, 2017, 05:05:18 PM
15. Năm mươi chu kỳ (Ngũ thập dinh)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Giới thiệu thời gian, độ dài, số chu kỳ kinh khí vận hành trong cơ thể có kết hợp với trạng thái vận hành của thiên thể. Mỗi ngày đêm vận hành 50 chu kỳ, cộng 13.500 hơi thở, mỗi hơi thở đi 6 tác, toàn độ dài mà khí đã đi là 810 trượng. Sự vận này tương ứng với thiên thể  đi 28 sá (sao), trong thời gian 100 khắc (theo đồng hồ nước cổ).

Hoàng đế: Năm mươi chu kỳ là thế nào?

Kỳ Bá: Vòng vận hành của thiên thể là 28 sá, cự ly mỗi sá (sao) là 36 phân. Kinh khí của người vận hành trong một ngày đêm tương đương với thiên thể vận chuyển trong một ngày là 1008 phân (28 . 36 + 1008 phân). Kinh mạch của người trên dưới, phải trái, trước sau là 28 mạch (12 kinh. 2 + Nhâm +Dốc + Âm kiểu + Dương kiểu) đi một vòng toàn thân + 16 trượng 2 thước, ứng với một ngày đêm thiên thể đi 28 sá và đồng hồ nước điểm 100 khắc. Ở người trong thời gian thở ra mạch đập 2 lần, khí hành 3 tấc, trong thời gian hít vào mạch đập 2 lần, khí hành 3 tấc - như vật một hơi thở khí hành 6 tấc. 10 hơi thở khí hành 60 tấc, mặt trời hành 2 phân (27 hơi, khí hành 1 trượng 6 thước 2 tấc. Một ngày đêm 50 chu kỳ là 1008 phân. Như vậy một chu kỳ là 1008 : 50 = 20 phân 1 ly 6 hào, thời gian khí hành được 16 trượng 2 thước. Vòng nhỏ là 1/10 chu kỳ, tương đương mặt trời hành 2 phân (16 trượng 2 thước : 10 = 1 trượng 6 thước 2 tấc, 20 phân 1 ly 6 hào :10 + 2 phân...).

270 hơi thở khí hành 16 trượng 2 thước, khí hành (trên dưới) giao (lưu với nhau, trong ngoài thông với nhau ở trong mạch). Thời gian vận chuyển được một chu kỳ toàn thân là 2 khắc đồng hồ nước, mặt trời hành 25 phân (Giáp ất kinh ghi là 20 phân - có lẽ đúng hơn vì 1008 phân : 50 chu kỳ + 20 phân) 540 hơi thở, khí hành 2 chu kỳ với thời gian 4 khắc, mặt trời hành 40 phân. 2700 hơi thở, khí hành 10 chu kỳ toàn thân, với 20 khắc, mặt trời hành 5 sao 20 phân (mỗi sao 36 phân, 5 . 36 + 20 + 200 phân).

13.500 hơi thở, khí hành 50 chu kỳ với 100 khắc, mặt trời hành 28 sao (28 . 36 phân = 1008 phân), khi giọt nước cuối cùng của đồng hồ giỏ xuống thì khí cũng vừa đi tròn 50 chu kỳ toàn thân. Cái gọi là giao thông, ý nói là cùng vận hành theo đúng con số. 50 chu kỳ đáp ứng tuổi thọ của trời đất với tổng số đường đi là 810 trượng.

Phụ giải:

1. 1 sá là 36 phân. 28 sá là 28 . 36 = 1008 phân.

2. Mỗi ngày đêm mặt trời đi 1008 phân - Tính theo 50 chu kỳ sẽ là 1008 : 50 = 20 phân 16. 10 chu kỳ 201 phân 6 ly = 5 sá 21 phân 6 ly.

3. Đồng hồ nước chia ngày đêm ra 100 khắc, mỗi khắc 60 phân, vậy 100 khắc . 60 = 6000 phân - tương đương với hiện tại 24h . 60m . 60s = 86400 giây. Vậy 1 phân (cổ) bằng 86400/6000 = 14,4 giây, 1 khắc là 86400/100 = 864 giây = 14 phút 24 giây. 2 khắc là 28m 48s.

4. khí hành 1 chu kỳ với 270 hơi thở được 16 trượng 2 thước, cần 2 khắc (864 . 2 = 1728 giây). Mỗi hơi thở sẽ là 1728/270 = 6 sec 4 vậy là hơi thở chậm sâu.

5. 28 sao là:

Phương Đông có: Giác, Khương, Chi, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Phương Bắc có: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Phương Tây có: Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chủy, Sâm.

Phương Nam có: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

(https://i.imgur.com/7bi6YsK.jpg)


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 12, 2017, 05:57:33 PM
16. Dinh khí

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nguồn gốc của dinh khí là tinh khí, là tinh hoa của chất ăn uống hóa thành, đường tuần hoàn của nó về cơ bản như của 12 kinh. Bắt đầu từ kinh Thái âm phế, đến Đại trường, Vị, Tỳ, Tâm, Tiểu trường, Bàng quang, Thận, Tâm bào lạc, Tam tiêu, Đởm , Can, từ Can lên Phế. Nhánh của nó lên mạch Đốc, Nhâm rồi lại xuống phế. Từ Phế tiếp tục như cũ.

Hoàng đế: Con đường của dinh khí có gốc là nạp (tiếp thu) cốc (thức ăn). Thức ăn (cốc) vào vị (được tiêu hóa hấp thu), truyền (các chất dinh dưỡng ) lên phế, chảy tràn vào trong (tạng phủ), phân bổ ra ngoài (chi thể), phần tinh đi ở trong kinh mạch ở sâu, tuần hoàn không ngừng hết vòng này đến vòng khác như cương kỷ (vận hành) của trời đất vậy.

Khí từ Thái âm chảy vào thủ Dương minh, lên đổ vào Túc dương minh, chảy xuống mu chân đến ngón chân cái hợp với Túc thái âm ngược lên háng chảy lên Tỳ, từ Tỳ đổ vào Tâm, theo Thủ thiếu âm ra ở nách, xuống tay đổ vào ngón út, hợp với thủ Thái dương, đi lên đến nách, lên bờ dưới trong hố mắt, đổ vào khóe mắt trong, lên đỉnh đầu, xuống gáy hợp với túc Thái dương, dọc cột sống xuống mông, xuống đổ vào đầu ngón chân út, dọc gan chân đổ vào túc Thiếu âm, lên đổ vào Thận, từ Thận đổ vào Tâm bào, phân bố ở trong ngực, chảy theo mạch Tâm bào ra nách, xuống tay, ra ở giữa hai gân, vào gan tay, ra ở đầu ngón tay giữa, quay lại đổ vào đầu ngón tay đeo nhẫn, hợp với thủ Thiếu dương; lên đổ vào đản trung, phân tán ở Tam tiêu, từ Tam tiêu đổ vào Đởm, ra ở cạnh sườn đổ vào Túc thiếu dương, đi xuống đến mu chân, từ mu chân đến ngón chân cái, hợp với Túc Quyết âm, lên đến can, từ can đổ lên phế, lên dọc yết hầu, vào vòm họng, tận cùng ở súc môn (lỗ mũi ngoài). Nhánh của nó lên trán dọc đỉnh đầu, xuống gáy, dọc cột sống xuống xương cùng là mạch đốc; liên lạc với âm khí (sinh dục ngoài), lên qua lông mu vào trong rốn, dọc trong bụng lên khuyết bồn (có thể là) thiên xuống đổ vào phế, ra ở Thái âm. Đó là đường tuần hành của dinh khí, có thuận có nghịch vậy.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 21, 2017, 10:14:37 AM
17. Độ dài của kinh mạch (Mạch độ)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về độ dài của kinh mạch (12 kinh chính x 2 bên = 24 kinh, 2 mạch kiểu, 2 mạch nhâm, đốc = 28 mạch) cộng 16 trượng 2 thước. Nói rõ khí của 5 tạng thông ra 7 khiếu ở phần trên, nếu khí 5 tạng điều hòa thì cảm giác đều bình thường. Nếu khí âm dương quá thịnh, sẽ hình thành quan cách gây nên chết yểu. Nói rõ tình hình tuần hoàn của Âm kiểu từ chân lên đầu và tác dụng nuôi dưỡng mắt của nó.

Hoàng đế: Mong được nghe độ dài của kinh mạch.

Kỳ Bá: 6 kinh dương tay, từ tay đến đầu dài 5 thước, cộng 3 trượng. 6 kinh âm tay. từ trong ngực ra tay dài 3,5 thước, cộng 2 trượng 1 thước. 6 kinh dương chân, từ đầu đến chân dài 8 thước, cộng 4 trượng 8 thước. 6 kinh âm chân, từ chân đến ngực dài 6 thước 5 tấc, cộng 3 trượng 9 thước. Mạch kiểu từ chân đến mắt dài 7,5 thước, cộng 1 trượng 5 thước. Mạch nhâm, mạch đốc, mỗi mạch dài 4,5 thước, cộng 9 thước. Tổng cộng 16 trượng 2 thước, đó là đường đi của khí (đáng lẽ 2 bên Âm kiểu, Dương kiểu là 4 mạch ở đây chỉ có 2. Do cách tính cổ "nam, tính dương kiểu là mạch, âm kiểu là lạc, nữ tính âm kiểu là mạch, dương kiểu là lạc", do đó 4 mà tính 2).

Kinh mạch ở trong, nhánh của nó đi ngang là lạc - nhánh của lạc là Tôn (cháu) lạc. Lạc mạch thịnh, ứ huyết, cần trừ nhanh bằng chích ra máu. Nếu (tà) khí thịnh (xâm phạm ở ngoài) dùng phép tả, hư (chính khí) thì uống thuốc để bổ.

Tinh khí của 5 Tạng thường từ trong thông lên 7 khiếu - Phế thông với mũi, Phế hòa thì mùi biết thơm, thối (ngửi tốt).

Tâm khí thông với lưỡi, tâm hòa thì biết ngũ vị (nếm tốt); Can khí thông với mắt, Can hòa thì biết ngũ sắc (nhìn tốt); Tỳ khí thông với mồm, Tỳ hòa thì mồm biết ngũ cốc; Thân khí thông với tai, thận hòa thì tai nghe ngũ âm tốt. 5 tạng không hòa thi 7 khiếu không thông. 6 phủ không hòa thì ứ lại thành nhọt độc. Nếu tà ở phủ thì mạch dương không hòa, mạch dương không hòa thì khí lưu trệ, khí lưu trệ gây nên dương khí thịnh. Dương khí thịnh quá thì âm không lợi, mạch âm không lợi thì huyết lưu trệ gây nên âm khí thịnh. Âm khí thịnh quá thì dương khí không thể (đi) nuôi dưỡng (trong ngoài và giao với âm khí) được, gọi là quan. Dương khí thịnh quá, thì âm khí không thể (đi) nuôi dưỡng (trong ngoài và giao với dương khí) được, thì gọi là cách. Âm dương đều thịnh không thể (giao tiếp nhau - biểu lý cách ly) âm dương không nuôi dưỡng lẫn nhau được gọi là quan cách. Nếu có quan cách thì sẽ chết sớm hơn tuổi có thể sống.

Hoàng đế: Mạch kiểu bắt đầu và kết thúc ở đâu, khí của mạch nào vận hành và nuôi dưỡng nó?

Kỳ Bá: Mạch âm kiểu là nhánh của (túc) thiếu âm, bắt đầu từ sau xương nhiên cốt (xương thuyền) đi lên trên mắt cá trong, thẳng lên mặt trong đùi, vào âm (bụng dưới), dọc ngực, vào hố trên đòn, lên ra ở trước huyệt nhân nghinh, vào xương gò má thuộc (về) khóe mắt trong hợp với Thái dương (túc), Dương kiểu rồi lên nữa. Khí của âm dương kiểu cùng đi vòng để nhu nhuận mắt, nếu không được khí nuôi dưỡng thì mắt không nhắm được (nếu âm khí không đủ, dương khí thiên thắng thì mắt không nhắm được, nếu âm khí thịnh thì mắt nhắm lại).

Hoàng đế: Tại sao khí của mạch âm chỉ đi ở 5 tạng mà không nuôi dưỡng 6 phủ?

Kỳ Bá: Khí không thể không vận hành, nó như dòng sông phải chảy, mặt trăng mặt trời phải vận động không ngừng, nên mạch âm đi nuôi dưỡng tạng của nó, mạch dương đi nuôi dưỡng phủ của nó, như vòng tròn khép kín không biết bắt đầu từ đâu, hết chu kỳ nọ tiếp đến chu kỳ kia, khí của nó đầy tràn ra để tưới cho tạng phủ ở trong và nhu nhuận tấu lý ở ngoài.

Hoàng đế: Mạch kiểu có âm dương (ở trên nói mạch kiểu dài 1 trượng 5 thước), vậy đó là độ dài của mạch âm kiểu hay dương kiểu?

Kỳ Bá: Cách tính là: Nếu là nam, con số ấy là của dương kiểu, nếu là nữ là của âm kiểu. Mạch được tính là kinh, mạch không được tính là lạc (do đó tuy là 4 mạch kiểu, nhưng khi tính cụ thể thì chỉ có thể được tính 2 mạch thôi, còn 2 mạch nữa tính là lạc tùy theo người đó là nam hay nữ).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 21, 2017, 05:34:31 PM
18. Chỗ sinh ra và nơi hội lại của dinh vệ (Dinh vệ sinh hội luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Dinh và vệ cùng nguồn gốc, chất trong là dinh, chất đục là vệ, đều là tinh khí của thức ăn hóa thành - Dinh có tác dụng nuôi dưỡng bên trong cơ thể. Vệ có tác dụng bảo vệ phần ngoài cơ thể. Nơi sinh ra, phân bố và tác dụng của dinh vệ có liên hệ mật thiết với Tam tiêu.

Hoàng đế: Tinh khí của con người ở đâu đến? âm và dương hội ở đâu? Dinh là khí nào? Vệ là khí nào? Dinh từ đâu mà ra? Vệ hội như thế nào? Già trẻ khí (thịnh suy) khác nhau (ngày) dương, (đêm) âm, vị trí (tuần hành của khí) cũng khác nhau. Chúng hội nhau ở đâu?

Kỳ Bá: Người tiếp thu tinh khí từ thức ăn. Thức ăn vào vị (tiêu hóa hấp thu chất dinh dưỡng) truyền lên phế, và 5 tạng 6 phủ đều (tiếp) thụ được khí. Khí trong là dinh, khí đục là vệ. Dinh chảy ở trong mạch, vệ chảy ở ngoài mạch, dinh tuần hoàn không ngừng, sau 50 chu kỳ thì đại hội một lần (tức một ngày đêm). Âm dương xuyên thông với nhau như vòng tròn kín (không có nơi bắt đầu, nơi kết thúc). Vệ khí tuần hoàn ban đêm ở phần âm 25 độ, ban ngày ở phần dương 25 độ (cộng 50 độ). Khi vệ khí hành ở phần dương thì khởi (thức dậy), ở phần âm thì chỉ (ngủ). (Khi vệ khí hành ở dương), lúc giữa trưa dương khí thịnh nhất gọi là trùng dương, (khi hành ở kinh âm) lúc nửa đêm âm khí thịnh nhất được gọi là trùng âm. (dinh khí đi ở trong mạch - cùng tông khí - bắt đầu từ kinh Thái âm phế rồi trở về kinh Thái âm phế), nên Thái âm là ở trong. (Vệ khí đi ở ngoài mạch, bắt đầu từ kinh Thái dương bàng quang và trở lại kinh Thái dương bàng quang), nên gọi là Thái dương ở ngoài, trong một ngày đêm mỗi phần âm dương đi 25 độ (Âm: Từ kinh Thận đến Tâm, đến Phế, đến Can, đến Tỳ, đến Thận) (Dương: từ Thái dương bàng quang đến Thái dương tiểu trường, đến Thiếu dương đởm, đến Thái dương tam tiêu, đến Dương minh vị, đến Dương minh đại trường, và đi ở ngoài mạch không đi trong mạch). Nửa đêm thì âm cực thịnh, sau đó âm suy dần đến bình minh thì âm tận và dương khởi lên. Giữa trưa thì dương cực thịnh, về chiều thì dương suy, đến hoàng hôn thì dương tận và âm khởi lên. Nửa đêm thì (dương khí vệ khí) đại hội, lúc đó đã ngủ ngon, gọi là âm hợp, bình minh ngày hôm sau âm tận và dương nhận lấy khí (khởi). Cứ tiếp tục không ngừng theo với cương kỷ của trời đất.

Hoàng đế: Khí gì khiến người già nửa đêm ngủ không say? và khí gì khiến thiếu niên trai trẻ ban ngày ngủ không say?

Kỳ Bá: Người trai tráng có khí huyết thịnh, cơ nhục hoạt động, đường khí thông, tuần hành của dinh vệ rất bình thường, nên ban ngày tinh (thần) đầy đủ và đêm ngủ ngon. Người già có khí huyết suy, bắp thịt khô gầy, đường khí sáp trệ, chức năng của năm tạng chống nhau (không điều hòa), dinh khí suy (ít) và vệ khí thường phải từ ngoài vào trong (để bổ xung: Dinh khí, làm cho vệ khí không điều hòa) nên ngày thì tinh (thần) không đủ, đêm thì ngủ không ngon.

Hoàng đế: Dinh khí và vệ khí từ đâu đến?

Kỳ Bá: Dinh khí xuất từ trung tiêu, vệ khí xuất từ hạ tiêu (Nhiều tác giả ghi là vệ khí xuất ở thượng tiêu - Nội kinh thái tố, Thiên kim phương, Ngoại đài - có lẽ xuất ở thượng tiêu hợp lý hơn vì nó trùng với các đoạn nói về tác dụng của vệ khí ở thiên quyết khí, ngũ vị, đều nói xuất ở thượng tiêu).

Hoàng đế: Chỗ xuất ra của Tam tiêu?

Kỳ Bá: Thượng tiêu xuất ở miệng trên dạ dầy (thượng quản - vị thượng khẩu) đi lên họng, xuyên cơ hoành và phân bố ở trong ngực, ra nách, theo đường kinh (thủ) Thái âm, quay sang kinh (thủ) Dương minh, lên đến lưỡi, rồi xuống giao với kinh Túc dương minh và thường cùng dinh khí đi ở phần dương 25 độ, ở phần âm 25 độ. Sau 50 độ thì đại hội ở kinh Thủ thái âm. (Thượng tiêu là nơi tông khí hội tụ lại - dinh khí vận hành toàn thân được nhờ sự thúc đẩy của tông khí. Cho nên ở thượng tiêu tông khí thường cùng dinh khí đi ở dương 25 độ).

Hoàng đế: Khi người ăn thức ăn nóng vào vị, thức ăn chưa kịp tiêu hóa và hấp thụ thành khí (tinh) đã ra mồ hôi rồi, hoặc ra ở mặt, hoặc ở lưng, hoặc ở 1/2 thân và cũng ra không theo đường của vệ khí, tại sao vậy?

Kỳ Bá: Đó là do phần ngoài bị thương phong (biểu hư) nên tấu lý khai, khi nhiệt ở chân lông chưng phát và mồ hôi tiết ra. Khi vệ khí tuần hoàn đến đó, tất nhiên không thể theo đường đi của nó nữa và cũng ra ngoài, vì vệ khí tính chất lanh lợi nhanh nhẹn (thấy thấu lý khai thì ra luôn). Đó là hiện tượng khác thường gọi là lậu tiết.

Hoàng đế: Muốn biết chỗ xuất của trung tiêu?

Kỳ Bá: Trung tiêu khởi từ trung quản xuất ở (vị khẩu) sau thượng tiêu. Trung tiêu thu nạp cốc khí (thức ăn uống, tinh khí qua giai đoạn tiêu hóa) tiết cạn bã, chưng cất tân dịch, biến chúng thành các chất tinh vi lên đổ vào mạch Phế để hóa thành huyết đi nuôi dưỡng toàn thân (duy trì sự sống), không cái gì quý bằng, và chỉ nó tuần hành trong kinh mạch gọi là dinh khí.

Hoàng đế: Nói huyết và khí (mồ hôi) cùng loại khác tên là thế nào?

Kỳ Bá: Vì dinh vệ là tinh khí (của thức ăn biến thành), huyết là thần khí (của thức ăn qua tác dụng khí hóa của trung tiêu mà thành). Vì vậy huyết và khí (mồ hôi) khác tên song cùng loại. Vì thế nếu huyết tổn thương quá thì không có mồ hôi, ra nhiều mồ hôi thì không có huyết. Cho nên người có hai cái chết (do mất máu nhiều - thoát âm và mất mồ hôi nhiều - vệ khí thoát, thoát dương), nhưng không có hai cuộc sống (sống chỉ có dương và sống chỉ có âm).

Hoàng đế: Muốn biết chỗ xuất của hạ tiêu?

Kỳ Bá: Hạ tiêu là cặn bã tách ở hồi tràng (thủy dịch), rồi xuống bàng quang bằng cách thấm vào dần dần. Vì vậy các (chất dinh dưỡng của) thức ăn uống thường cùng tích ở trong vị (qua tiêu hóa, hấp thụ tinh hoa rồi) thành cặn bã, được đẩy xuống đại trường mà thành (một trong những hoạt động chủ yếu của ) hạ tiêu. (Thủy dịch phải qua quá trình) thấm lọc từ từ để phân ra thanh trọc, trọc sẽ theo đường hạ tiêu xuống bàng quang.

Hoàng đế: Người uống rượu thì rượu cùng vị cùng thức ăn, song thức ăn chưa tiêu hóa mà nước tiểu đã có là sao?

Kỳ Bá: Vì rượu là loại gạo lên men mà ra, khí của nó mạnh mẽ, tính chất của nó là trong, không phải là đục (trọc) nên rượu được uống sau ăn, vẫn thành nước đái ra trước thức ăn.

Hoàng đế: Đúng (khí) thượng tiêu nổi ở trên, như sương sa (man mát tưới toàn thân). Tính vị của thức ăn do chức năng tiêu hóa và hấp thụ của trung tiêu chảy theo với khí để nuôi dưỡng toàn thân như bọt nước (không nổi không chìm); (thủy dịch và cặn bã do chức năng) hạ tiêu (bài tiết) như ngòi rãnh vậy. Tam tiêu là như vậy.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 23, 2017, 09:41:43 AM
19. Khí hậu bốn mùa (Tứ thời khí)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về việc chọn huyệt để châm cho phù hợp với 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nếu vì thời tiết thay đổi mà sinh ra bệnh tình khác nhau thì phải dùng huyệt khác nhau và có cách châm khác nhau.

Hoàng đế: Khí hậu 4 mùa khác nhau sẽ sinh ra các bệnh khác nhau. Vậy làm thế nào để định được nguyên tắc châm cứu?

Kỳ Bá: Khí hậu của 4 mùa có ảnh hưởng đến những nơi nhất định trong con người, nguyên tắc điều trị bằng châm cứu được định bằng việc chọn được các huyệt đắc khí (có liên quan đến khí hậu và bệnh tật). Châm vào mùa Xuân chọn huyệt ở kinh mạch, huyết mạch, tức là ở giữa các cơ, bệnh nặng thì châm sâu, bệnh nhẹ thì châm nông. Vào mùa Hạ thì chọn (huyệt ở) kinh thịnh (kinh dương) và tôn lạc, châm hoặc đến giữa da cơ, hoặc châm qua da để đuổi tà khí. Vào mùa Thu thì châm các huyệt du của các kinh, nếu bệnh tà ở 6 phủ thì lấy huyệt hợp (của kinh dương). Vào mùa Đông thì lấy các huyệt tỉnh (bệnh của kinh âm), huỳnh (bệnh ở kinh dương), châm sâu và lưu kim lâu.

- Với bệnh ôn ngược (sốt rét) không có mồ hôi có thể lấy 59 huyệt chính chữa bệnh nhiệt. Bị bệnh phong thủy (viêm cầu thận cấp) có phù, có thể lấy 57 huyệt chính để chữa và nếu ở da có huyết lạc có thể chích các lạc đó (xem ở nhiệt bệnh luận và Tố Vấn thủy nhiệt huyết luận).

- Với bệnh ỉa chảy (do Tỳ hư), bổ Tam âm (giao), bổ Âm lăng tuyền, đều lưu kim lâu đến khi cảm giác nóng ở kim mới thôi.

- Với chứng chuột rút ở (phần dương), lấy huyệt ở kinh dương để chữa, chuột rút ở phần âm, lấy huyệt ở kinh âm để chữa. Dùng phép tốt thích (thiêu châm).

- Với bệnh phù thũng, lấy huyệt dưới hoàn cốt (Hoàn khiêu) 3 tấc (Phong thị) châm bằng phi châm, rồi dùng kim có ống để châm, châm đi châm lại để nước chảy ra hết, cơ nhục sẽ cứng cáp lại. Trong khi rút nước nếu chảy chậm, người bệnh sẽ thấy phiền muộn khó chịu, còn nếu chảy nhanh thì bệnh nhân lại yên tĩnh. Cách ngày làm một lần cho đến khi hết nước thì thôi. Còn cần dùng thuốc thông tắc để phòng bị phù lại. Trong khi châm cứu chỉ đơn thuần phối hợp với thuốc này. Trước và sau khi uống thuốc không được ăn uống, trước và sau khi ăn uống không được uống thuốc, không ăn các thứ thương Tỳ trong 135 ngày.

- Với chứng trước tý chữa không hết, cửu hàn (hàn lưu lâu) không tan, lấy ngay huyệt (hợp) Túc tam lý (của kinh Dương minh). Xương là cán (trụ cột) của thân, Tiểu trường, Đại trường rối loạn không đại tiện được, thì lấy huyệt Tam lý, thịnh thì tả, hư thì bổ.

- Với bệnh lệ phong (bệnh phong) phải châm ở nơi sưng. Châm xong dùng kim nhọn chích và nặn ác khí (huyết ứ) đến khi hết sưng thì thôi. Phải ăn thức ăn thích hợp với bệnh, không ăn lung tung (Lệ phong là dinh vệ gây nhiễu ở phủ, khí của chúng không thanh làm cho sống mũi bị xẹp, da loét. Bệnh này do phong hàn lưu chốt ở mạch).

- Chứng hay sôi bụng, khí sung lên ngực, gây suyễn không đứng lâu được là do bệnh tà ở Đại trường. Cần châm huyệt nguyên Cao hoang (Khí hải), Túc tam lý và Thượng cự hư (của Dương minh).

- Chứng bụng dưới đau lan đến hòn dái, đến cột sống thắt lưng, đau xung lên tâm, đó là bệnh tà ở Tiểu trường - vì Tiểu trường có liên hệ đến hòn dái, thuộc về cột sống, xuyên qua Can Phế liên lạc với tâm hệ. Khí thuân thì huyết nghịch xung lên Trường vị (chứng) can, tan ra ở hoang, kết tụ ở rốn, vì thế thường dùng huyệt nguyên của hoang (Khí hải) để tán tà, thích Thái âm (thủ) để đoạt tà khí, châm Quyết âm (túc) để hạ tà khí (tả Can thực) châm Hạ cự hư để trừ tà (ở Tiểu trường) và lấy huyệt ở kinh để điều khí (chữa chứng ở kinh).

- Chứng hay nôn, nôn chất đắng, hay thở dài, trong tâm lo lắng không yên, sợ người ta đến bắt mình, là do tà ở Đởm (hoành) nghịch sang Vị. Mật tiết ra thì miệng đắng, vị khí nghịch thì nôn chất đắng gọi là nôn mật. Châm huyệt Túc tam lý để giáng khí nghịch ở Vị (chữa nôn). Vị khí nghịch thì chích nặn máu huyết lạc của Thiếu dương để chữa đởm nghịch (phạm Vị) đồng thời điều hòa lại trong trạng thái hư thực để trừ bệnh tà.

- Chứng ăn uống không được, cơ hoành bị tắc là do tà ở vị quản. Nếu tà ở thượng quản thì châm (Thượng quản) để giáng khí nghịch, nếu tà ở hạ quản thì (cứu Hạ quản) để tán hàn trệ.

- Chứng bụng dưới đau sưng, không đái được, là do tà ở Tam tiêu (chủ yếu ở Bàng quang), muốn chữa (chế ước) phải châm đại lạc của kinh Thái dương (huyệt hợp dưới của Tam tiêu - huyệt Ủy dương "Tà khí tạng phủ bệnh hình"). Quan sát lạc mạch của Thái dương (túc) và lạc nhỏ của Quyết âm (túc), nếu có huyết ứ, huyết kết thì tả (chích nặn máu). Nếu bụng dưới sưng đau lên vị quản thì châm huyệt Tam lý.

- Xem khí sắc, xét bệnh từ đâu mà có (có sách nói: nhìn mắt) để biết tinh thần - tán loạn hay phục hồi. Xem sắc mắt là để ước đoán trạng thái tồn vong của bệnh. Muốn biết bệnh tình bên trong và hình thể bên ngoài có thống nhất hay không, và sự động tĩnh của mạch bệnh nhân phải xem mạch ở cổ tay và nhân nghinh. Mạch mà cứng, thịnh, hoạt là bệnh (tà) đang tiến triển, mạch mềm là bệnh (tà) đang thoái. Nếu bệnh ở các kinh và mạch thực, trong 3 ngày bệnh sẽ khỏi. Trong xem mạch, bắt mạch cổ tay để biết phần âm, mạch nhân nghinh để biết phần dương (mạch ở cổ tay thuộc kinh Phế - chủ âm, ở nhân nghinh thuộc kinh Vị - chủ dương).

Phụ: tứ thời khí

Bị chú: 59 huyệt

Tố Vấn thủy nhiệt huyệt (61): ở đầu có 5 hàng, mỗi hàng 5 huyệt (để giải khí nhiệt nghịch của dương), cộng 25 huyệt.

- (Trương Chí Thông: Hàng giữa của mạch Đốc có: Thượng tinh, Tín hội, Tiền đỉnh, Bách hội, Hậu đỉnh. Hai hàng bên của Thái dương Bàng quang có: Ngũ xứ, Thừa quang, Thông thiên, Lạc khước, Ngọc chẩm. Hai hàng bên ngoài nữa của Thiếu dương đởm có: Đầu lâm khấp, Mục song, Chính dinh, Thừa linh, Não không).

Thiên thủy nhiệt huyệt: 8 huyệt: Đại trữ, Ủng du, Khuyết bồn, Bối du (để tả khí nhiệt ở trong ngực), 8 huyệt: Khí nhai, Túc tam lý, Thượng cự hư, Hạ liêm (để tả khí nhiệt ở trong vị), 8 huyệt: Vân môn, Ngung cốt, Ủy trung, Tủy không (Hoành cốt) (để tả khí nhiệt ở tứ chi), 10 huyệt du của ngũ tạng (để tả khí nhiệt ở ngũ tạng) (Trương Chí Thông: 10 huyệt du là Phế du, Tâm du, Phủ du, Tỳ du, Thận du).

57 huyệt

Tố Vấn, Cốt không luận (60): huyệt thủy do có 57 huyệt, trên xương cùng có 5 hàng huyệt, mỗi hàng 5 huyệt. Trên huyệt Phục thỏ có 2 hàng, mỗi hàng 5 huyệt (Hai bên phải trái mỗi bên có 1 hàng, mỗi hàng 5 huyệt). Trên mắt cá mỗi bên có 1 hàng, mỗi hàng có 5 huyệt: Tố vấn Thủy nhiệt huyệt (61) gọi 5 hàng huyệt ở trên xương cùng là Thận du - huyệt du thuộc Thận, gọi 2 hàng huyệt ở trên Phục thỏ là Thận nhai - đường đi của Thận, gọi một hàng huyệt ở trên mắt cá chân là Thái xung. Do cách đặt vấn đề của hai thiên trên khác nhau, nên tên huyệt đưa ra rất khác nhau. Xin nêu như sau: Tên huyệt của 5 hàng đầu (vùng 1) là: Tích trung, Huyền khu, Mệnh môn, Yêu du, Trường cường (mạch Đốc), Đại trường du, Tiểu trường du, Bàng quang du, Trung lữ du, Bạch hoàn du, Vị thương, Hoàng môn, Chí thất, Cao hoang, Trật biên (kinh Bàng quang) - (Mã Nguyên Đài, Vương Băng).

Tên huyệt ở hai hàng nằm trên huyệt Phục thỏ (vùng 2) là (có 2 danh mục) Trung chú, Tứ mãn, Khí huyệt, Đại hách, Hoành cốt (kinh Thận), Ngoại lăng, Đại cự, Thủy đạo, Quy lai, Khí nhai (kinh Vị) (Mã nguyên Đài - Vương Băng). Song Trương Chí Thông chỉ ghi: Âm cốc, Trúc tân, Giao tín, Phục lưu, Tam âm giao.

Tên huyệt 2 hàng nằm trên mắt cá (vùng 3) là: (có 3 danh mục) Thái xung, Phục lưu, Âm cốc, Chiếu hải, Giao tín, Trúc tân (Mã Nguyên Đài). Đại chung, Phục lưu, Âm cốc, Chiếu hải, Giải khê, Nhiên cốc, Dũng tuyền (Trương Chí Thông).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 25, 2017, 03:06:56 PM
Quyển thứ 5

20. Tà khí của năm tạng (Ngũ tà)


(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Thảo luận triệu chứng của 5 loại tà khí gây bệnh cho 5 tạng và cách châm.

- Tà ở Phế gây những chứng: Da đau (sợ lạnh), sốt, khí nghịch gây suyễn, ra mồ hôi, ho gây động vai lưng, lấy huyệt ở vùng ngoài của ngực (Vân môn, Trung phủ và cách đốt lưng 3 - Phế du). Nếu ấn nhanh vào đó, có cảm giác dễ chịu thì châm. Còn lấy thêm huyệt ở hố trên đòn (Khuyết bồn) để đuổi tà ở Phế.

Tà ở Can gây những chứng phía trong hai bên sườn đau. Trung tiêu hàn, ác huyết ở trong, đi thì khớp đau, bàn chân hay sưng. Lấy huyệt Hành gian để chữa đau cạnh sườn, bổ Tam lý để ôn tán Vị hàn, chích huyết lạc để khử huyết ứ, lấy mạch xanh gần rìa vành tai (huyệt Khế mạch) để trị đau do co rút.

Tà ở Tỳ gây những chứng bắp thịt đau, dương khí thừa, âm khí thiếu (trong Vị có nhiệt, Vị âm hao tổn), Vị nhiệt hay đói. Dương khí thiếu âm khí thừa (Tỳ dương thiếu, âm hàn thiên thắng), thành chứng hàn trung gây ruột kêu (sôi bụng). Âm dương đều hữu dư (hàn nhiệt đều thắng) hoặc đều không đủ (chính khí suy) thì tuy có chứng hàn hoặc nhiệt, song đều lấy Túc tam lý (kinh Vị) để điều hòa (nhiệt thì tả, hư thì bổ).

Tà ở Thận gây những chứng đau xương, âm tý. Âm tý có các chứng đau không có chỗ nhất định nên (tìm) ấn rất khó, bụng dưới trướng, thắt lưng đau, ỉa khó, lưng vai cổ gáy đau, có lúc đầu váng mắt hoa. Lấy huyệt Dũng tuyền, Côn lôn để chữa, nếu thấy có huyết (ứ) thì chích nặn máu cho hết.

Tà ở Tâm gây những chứng đau Tim, hay u buồn, có lúc đầu váng mắt hoa và ngất. Căn cứ vào trạng thái hư thực để chọn huyệt du (Thần môn) của kinh để điều hòa lại (thực thì tả hư thì bổ).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 25, 2017, 03:34:07 PM
21. Bệnh hàn nhiệt (Hàn nhiệt bệnh)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên các chứng bệnh được phân loại theo hàn nhiệt và các phép chữa chúng, nhưng nguyên nhân gây nên dương (khí) âm (khí) thiên thắng, chứng nhiệt quyết, hàn quyết, chứng hư chứng thực của các loại bệnh trên, nguyên tắc điều trị và những quy định về lấy huyệt trong 4 mùa, các bộ phận chủ yếu ở phần biểu có liên quan với 5 tạng, và phương pháp chữa ra mồ hôi bằng cách tác động vào các kinh âm dương có quan hệ biểu lý.

- Tà gây bệnh hàn nhiệt ở da có chứng da đau không thể đè lên chiếu, lông tóc khô, mũi rất khô, không có mồ hôi. Chữa nó cần lấy huyệt lạc của 3 kinh dương (Thái dương chủ bì mao, lấy lạc của Túc thái dương - Phi dương) để tả biểu nhiệt. Bổ Thủ thái âm (Phế khí) (có thể lấy cả Liệt khuyết) (Mã Nguyên Đài - Ngư tế, Thái uyên (Trương Cảnh Nhạc) để chữa cả hai kinh dương và âm).

- (Tà gây) bệnh hàn nhiệt ở cơ, có chứng cơ đau, da lông khô, không có mồ hôi. Chữa nó cần lấy 3 kinh dương ở dưới (Linh Khu dịch thích: Lấy lạc của Túc thái dương - Phi dương) để trừ huyết ứ rồi bổ 2 túc thái âm để làm ra mồ hôi). (Có thể lấy cả Đại đô - huỳnh, Thái bạch - du) (Trương Cảnh Nhạc).

- (Tà gây) bệnh nhiệt ở xương, trong người không yên, mồ hôi chảy ra không ngừng, khi răng còn chưa khô cần lấy huyệt lạc (Đại chung) của Túc thiếu âm. Khi răng đã rất khô (âm đã kiệt) thì chết (bệnh nặng khó chữa). Chẩn đoán và chữa cốc quyết cũng như thế.

- Bệnh cốc tý có các khớp không hoạt động được và đau, mồ hôi chảy nhiều, tâm phiền. Chữa nó thì lấy huyệt ở 3 kinh dương và dùng phép châm bổ.

- Thân thể bị thương, chảy nhiều máu rồi trúng phong hàn, hoặc ngã từ trên cao xuống làm chân tay không cử động được là bệnh thể họa. Chữa nó cần lấy huyệt Quan nguyên ở dưới rốn 3 tấc, tức là điểm giao của 3 kinh Dương minh, Thái âm, Mạch nhâm.

- Bệnh quyết tý (chứng quyết nghịch lại có chứng tý) do khí quyết nghịch từ chân lên đến bụng. Chữa nó cần lấy huyệt lạc của hai kinh âm dương có liên hệ biểu lý để chữa. Lúc đó cần phân biệt rõ bệnh thuộc âm hay thuộc dương. Nếu ở âm thì bổ (để dương khí sinh ra từ trong âm), nếu ở dương thì tả (khí quyết nghịch để nó đi lên được).

- Động mạch (cảnh) ở hai bên cổ là nhân nghinh. Nhân nghinh thuộc Túc dương minh ở trước cơ cổ. Còn ở sau cơ cổ là huyệt Phù đột của Thủ dương minh. Sau đó là huyệt Thiên dung của Thủ thiếu dương. Sau nữa là huyệt Thiên trụ của Túc thái dương. Động mạch ở nách là huyệt Thiên phủ của Thủ thái âm.

- Dương nghênh (dương là nghịch lên kinh dương) gây nên đau đầu, ngực đầy khó thở, cần lấy huyệt Nhân nghinh để chữa. Đột nhiên bị mất tiếng, họng lưỡi cứng cần châm huyệt Phù đột và chích nặn máu dây chằng dưới lưỡi. Đột nhiên bị điếc là do kinh khí mông lung không thông, gây tai điếc mắt mờ, cần châm huyệt Thiên dung. Đột ngột co giật, động kinh, đầu váng mắt hoa, không đứng vững cần châm huyệt Thiên trụ. Đột ngột sốt cao làm cho khí cơ bên trong nghịch lên (hỏa tà ở trong) Phế Can đánh nhau, máu chảy ra mũi mồm, cần lấy huyệt Thiên phủ. Trên đây là thiên dũ ngũ bộ (5 huyệt ở phần thiên mà Thiên dung ở giữa).

- Nơi Thủ dương minh lên má vào răng là Đại nghinh. Khi răng hàm dưới sâu thì lấy kinh ở tay, dùng huyệt Hợp cốc, nếu sợ uống nước lạnh thì bổ, nếu không sợ uống nước lạnh thì tả. Nơi Túc thái dương vào má vào răng là túc Giác tôn (thực ra thái dương không vào má (Địa thương, Cự liêu - Mã Nguyên Đài).

- Nơi Túc thái dương đi kẹp bên mũi vào mắt là Huyền lư (Dương minh giao hội với Túc thiếu dương ở Huyền lư) thuộc về mồm, vào hệ mạch ở mắt. Tùy nơi bị bệnh lấy huyệt (để chữa). Và tả cái thừa, bổ cái thiếu, nếu làm trái lại sẽ làm bệnh nặng thêm. Nơi Túc thái dương qua gáy vào não, về mắt là hệ mắt. Đầu mắt đau lấy hai huyệt ở giữa hai gân ở gáy (Ngọc chẩm - Trương Cảnh Nhạc). Vào não rồi gia với Âm kiểu, Dương kiểu, âm dương giao nhau, dương vào âm, âm ra dương và giao nhau ở đuôi mắt (thật ra là giao nhau ở đầu mắt - Tình minh, có lẽ nhầm). Dương khí thịnh thì mắt mở thao láo, âm khí thịnh thì mắt nhắm.

- Ở nhiệt quyết lấy Túc thái âm (bổ), thiếu dương (tả), và lưu kim. Ở hàn quyết lấy Túc dương minh (bổ), thiếu âm (tả) và lưu kim.

- Chứng lưỡi dài ra, dãi dầm dề, ngực phiền muộn, lấy Túc thiếu âm. Chứng rét cơn hàm răng lập cập, không ra mồ hôi, bụng chướng tâm phiền, lấy Thủ thái âm bổ (do nguyên khí không đủ). Châm chứng hư, xoay kim theo chiều thuận của mạch khí, châm chứng thực xoay kim theo chiều nghịch của mạch khí.

- Vào mùa Xuân thường châm lạc mạch, vào mùa Hạ châm vào giữa cơ thấu lý, vào mùa Thu châm ở khí khẩu, vào mùa Đông châm ở kinh. Nghĩa là châm huyệt phải theo mùa. Châm vào lạc mạch có tác dụng chữa bệnh ở da, châm vào giữa thấu lý và cơ chữa bệnh ở cơ, châm ở khí khẩu chữa bệnh ở cân mạch, châm ở kinh chữa bệnh ở xương tủy.

- Thân có 5 bộ phận đaị diện cho ngũ tạng: Một là Phục thỏ (đùi), hai là bắp chân, ba là lưng (mạch Đốc), bốn là huyệt du ở lưng 5 tạng, 5 là gáy. Nếu 5 nơi đó có ung nhọt thì chết (khó chữa).

- Nếu bệnh bắt đầu ở tay, thì lấy huyệt ở Thủ dương minh thái âm trước, để làm ra mồ hôi đã. Nếu bệnh bắt đầu từ kinh chân thì lấy Túc dương minh trước, để làm ra mồ hôi. Châm Thủ thái âm, Túc dương minh đều có thể làm ra mồ hôi. Lúc này nếu lấy kinh âm mà mồ hôi lại ra quá nhiều thì phải dùng kinh dương để làm ngưng mồ hôi. Nếu lấy kinh dương mà mồ hôi ra quá nhiều thì phải dùng kinh âm để làm ngưng ra mồ hôi (vì âm Tỳ, dương Vị có quan hệ biểu lý).

- Cái nguy hại của của châm là: Châm đúng chỗ bệnh, lưu kim (mà không rút) sẽ làm tinh khí tiết (hao tổn); châm chưa đúng chỗ bệnh đã rút kim thì làm tà khí ngưng tụ (không bị đuổi ra). Tinh khí hao tổn thì bệnh nặng lên, thân thể càng suy kiệt, tà khí ngưng tụ (không bị đuổi ra) sẽ gây ung nhọt ở da.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 28, 2017, 09:54:44 AM
22. Điên cuồng

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên nhân, triệu chứng, phương pháp điều trị bằng châm cứu chứng điên cuồng, bằng những kinh huyệt cần thiết, tiên lượng bệnh cũng như nêu ra những nguyên nhân gây cuồng như âu sầu, đói khát, quá kinh sợ, chính khí suy, vui quá.

- Phía bên ngoài của mắt là ngoại tý (đuôi mẳt), phía bên mũi là nội tý (đầu mắt), mí mắt trên thuộc ngoại tý, mí mắt dưới thuộc nội tý.

- Bệnh điên lúc mới phát, bệnh nhân mới đầu không vui, đầu đau nặng, mắt ngược lên đỏ ngầu. Bệnh phát triển nặng lên thì tâm phiền không yên.

- Lúc xem bệnh phải xem nhan (nhan = đình = mặt). Chữa nó châm Thủ thái dương, Thủ dương minh, Thủ thái âm (Chi chính, Ôn lưu, Thiên lịch, Thái uyên, Liệt khuyết) và phép nặn máu. Khi mầu huyết trở lại bình thường thì thôi châm.

- Bệnh điên lúc mới phát mà có méo mồm, rên la, thở suyễn, tim đập (thì khi chữa) cần xem Thủ dương minh, Thái dương, nếu cường bên trái thì châm bên phải, cường bên phải thì châm bên trái (miệng méo về bên phải, châm bên trái, méo về bên trái châm bên phải), cho đến khi mầu huyết trở lại bình thường. (Thủ thái dương là biểu của tâm, Thủ dương minh là biểu của Phế, dùng hai kinh này chữa chứng mồm rên la, suyễn, tim đập, là vừa chữa biểu vừa chữa lý).

- Bệnh điên lúc mới phát, mà người cứng như gỗ, làm đau sống lưng. Chữa nó, châm Túc dương minh, Túc thái dương, Túc thái âm, Thủ thái dương, đến khi mầu huyết trở lại bình thường thì thôi (Huyệt: Ủy dương, Phi dương, Bộc tham, Kim môn, Tam lý, Giải khê, Ẩn bạch, Công tôn, Thiên lịch, Ôn lưu).

- Chữa bệnh điên, thầy thuốc cần ở cùng người bệnh, để quan sát người bệnh và lấy huyệt cho đúng lúc cơn bệnh, nếu là thái quá thì phải tả, máu tả ra đựng trong bầu đựng rượu. Khi bệnh phát lại máu sẽ động. Khi không động nữa thì cứu xương cùng (Trường cường) 20 mồi.

- Ở bệnh cốt điên (điên đã vào xương) tà khí đã gây úng trệ tại các huyệt ở má, răng làm cho da thịt sưng lên, gầy dơ xương, ra mồ hôi, phiền muộn, nôn nhiều đờm dãi, (Thận) khí tiết ra ở phần dưới. Bệnh này không chữa được.

- Ở bệnh cân điên (điên đã vào gân) người bệnh thân thể mỏi mệt, gân co quắp, mạch to. Nên châm Đại chùy, chữ của kinh thái dương. Nếu nôn nhiều đờm dãi, (Thận) khí tiết ra ở dưới thì không chữa được.

- Ở bệnh mạch điên (điên đã vào mạch), bệnh nhân đột nhiên ngất mạch tứ chi  trướng và mềm. Nếu mạch đầy, thì châm nặn máu, nếu mạch không đầy thì cứu huyệt ở gáy của kinh thái dương (Thiên trụ), cứu đới mạch (kinh thiếu dương), ở lưng châm các huyệt du của kinh. Châm vào giữa các bó cơ. Nếu nôn được đờm dãi trắng, thận khí tiết ra ở dưới thì không chữa được.

- Cơn điên phát ra cấp như cuồng (dương khí quá thịnh và âm khí kiệt) thì không chữa được.

- Bệnh cuồng lúc mới sinh ra, mới đầu người bệnh bi quan, hay quên, dễ cáu giận, hay sợ hãi, do quá âu sầu và đói. Chữa nó lấy Thủ thái âm, dương minh (Thái uyên, Liệt khuyết - Thiên lịch, Ôn lưu), châm xuất huyết đến khi mầu huyết trở lại bình thường, rồi lấy Túc thái âm, dương minh (Ẩn bạch, Công tôn - Tam lý, Giải khê).

- Bệnh cuồng lúc mới phát có biểu hiện ít nằm, không đói, tự cho là ghê gớm, tự cho là thông minh, tự cho là cao quý nhất, hay đánh chửi người, ngày đêm không nghỉ. Chữa nó châm Thủ dương minh, thái dương, thái âm (Thiên lịch, Ôn lưu - Chi chính, Tiểu hải - Liệt khuyết, Thái uyên) - dưới lưỡi (Liêm tuyền), Thủ thiếu âm (Thần môn, Thiếu xung). Nếu bệnh thịnh thì lấy tất cả các huyệt, nếu bệnh không thịnh thì không châm.

- Các chứng nói cuồng nhảm, dễ kinh sợ, hay cười, thích ca nhạc, hành vi cuồng loạn không ngừng, đều do kinh khủng quá độ. Chữa nó, châm Thủ thái dương để thanh tâm khí, Dương minh, Thái âm (để trợ thần khí) (Thiên lịch, Ôn lưu - Chi chính, Tiểu hải - Thái uyên, Liệt khuyết).

- Bệnh cuồng có ảo giác về nhìn, về nghe, hay kêu gào là do khí thiểu gây nên. Châm Thủ thái dương, Thái âm, Dương minh (để thành cuồng vọng). Túc thái âm, đầu và hai bên má (để bổ).

- Bệnh cuồng có ăn nhiều, hay thấy quỷ thần, hay cười tủm tỉm không thành tiếng là do đại hỷ gây nên, lấy Túc thái dương (trợ thần khí), Thái âm, Dương minh (dưỡng tâm tình), sau lấy Thái bạch, Công tôn - Ủy dương, Phi dương, Bộc tham, Kim môn - Tam lý, Giải khê - Thái uyên, Liệt khuyết - Chi chính, Tiểu hải - Thiên lịch, Ôn lưu.

- Chữa bệnh cuồng mới phát có các chứng nêu ở trên, trước tiên lấy hai huyệt Khúc tuyền ở hai bên động mạch, nếu thịnh thì châm nặn máu, bệnh mới có thể khỏi, nếu chưa khỏi châm như trên và cứu 20 mồi ở xương cụt (Trường cường).

- Bị phong nghịch (ngoại phong, khí nghịch lên) thì tứ chi phù nề nhanh, thân run cầm cập, lúc cơn rét thì có thở dốc, khi đói rét thì phiền táo, khi no thì hay biến động không yên. Chữa nó lấy hai kinh biểu lý, Thủ thái âm, Dương minh, và Túc thiếu âm, Dương minh. Nếu có bị lạnh thì lấy huyệt huỳnh, nếu xương bị lạnh thì lấy các huyệt tỉnh kinh (của 4 kinh trên).

- Chứng của bệnh quyết nghịch có chân lạnh đột ngột, ngực khó chịu như muốn vỡ ra, ruột quặn đau như bị dao đâm, tâm phiền không muốn ăn, mạch đại hoặc tiểu đều sáp. Nếu thân ấm lấy Túc thiếu âm, nếu thân lạnh lấy Túc dương minh. Lạnh thì bổ, ấm thì tả (Dũng tuyền, Nhiên cốc, Lệ đoài, Nội đình, Giải khê, Phong long).

- Khí nghịch có bụng đầy trướng, sôi bụng, ngực đầy không thở được, lấy dưới ngực hai dẻ sườn (Cảnh nhạc - Mã Nguyên Đài = Chương môn, Kỳ môn). Khi ho thì động tay vào huyệt du ở dưới lưng, ấn vào dễ chịu là huyệt (Phế du, Cách du - Cảnh Nhạc).

- Bên trong bế không đái được (đa khí hóa của hạ tiêu bị rối loạn), châm Túc thiếu âm, Thái dương (tả nghịch khí, thông tiểu tiện) (Dũng tuyền, Trúc tân - Ủy dương, Phi dương, Bộc tham, Kim môn) và trên xương cùng (Yêu du - Linh khu dịch thích: Trường cường), dùng kim dài để châm. Nếu khí nghịch (thượng xung) thì lấy Thái âm, Dương minh, Quyết âm (Ẩn bạch, Công tôn - Tam lý, Giải khê - Chương môn, Kỳ môn). Nếu nặng thì lấy Thiếu âm, Dương minh, chỗ mạch đập của kinh Thái khê, Xung dương).

- Nếu khí thiếu, thân rét run, nói đứt quãng, xương đau, thân thể nặng nề, lười không muốn cử động thì bổ Túc thiếu âm.

- Nếu hơi thở ngắn, đoản khí, lúc vận động càng khó thở thì bổ Túc thiếu âm. Nếu có huyết lạc, có thể chích nặn máu.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 30, 2017, 09:20:11 AM
23. Bệnh nhiệt (Nhiệt bệnh)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Các vấn đề về triệu chứng, chẩn đoán, điều trị, tiên lượng của bệnh nhiệt, cách châm các bệnh nhiệt và các ca bệnh nhiệt cấm châm được giải thích rõ trong chương này, nhất là các bệnh về da lông, cơ, huyết mạch, gân xương, cách châm theo ngũ hành - và 59 huyệt hay dùng.

- Bệnh thiên khô là 1/2 người liệt và đau, nói bình thường, thần chí không loạn (bình thường), bệnh ở giữa da cơ, châm bằng kim to để bổ hư, tả thực nhằm phục hồi sức khỏe.

- Bệnh phì (do phong hàn) nếu có thân không đau, chân tay không thu được (liệt mềm), ý thức hơi lộn xộn, tiếng nói nhỏ thì có thể chữa được (bệnh ở nông). Nếu nặng thì không nói được, lúc này khó chữa. Nếu bệnh bắt đầu ở phần dương, rồi mới vào phần âm, thì lúc đầu lấy kinh dương, sau đó lấy kinh âm và dùng cách châm nông.

- Ở bệnh nhiệt ngày thứ 3, có mạch ở cổ tay tĩnh, mạch nhân nghinh táo, thì lấy 59 huyệt của các kinh dương, châm để tả nhiệt, làm ra mồ hôi, song phải châm bổ kinh âm để bổ âm bị thiếu. Nếu nhiệt nặng mà cả mạch âm dương đều yên tĩnh thì không nên châm, nếu còn có thể châm được, thì phải châm nhanh, tuy không ra mồ hôi cũng có thể tiết nhiệt. Nói không nên châm vì đó là chứng chết (mạch chứng tương phản).

- Ở bệnh nhiệt ngày thứ 7, 8 có mạch cổ tay động, suyễn và khí đoản thì châm nhanh, mồ hôi ra, châm nông huyệt ở ngón cái (Thiếu thương).

- Ở bệnh nhiệt ngày thứ 7, 8 có mạch vi tiểu (khí huyết kém), đái máu, mồm khô, sau 1 ngày rưỡi sẽ chết, nếu là mạch đại (tạng khí kiệt), sau một ngày sẽ chết.

- Ở bệnh nhiệt đã ra mồ hôi mà mạch còn táo, suyễn và sốt lại (nhập lý) thì không châm ở da (vì làm thương tổn thêm khí). Nếu suyễn nặng thì có thể chết.

- Ở bệnh nhiệt ngày thứ 7, 8 mà mạch không táo, hoặc có táo nhưng không tán mà sắc, sau 3 ngày nữa sẽ có mồ hôi thì ngày thứ 4 có thể chết, tuy không có mồ hôi cũng không được châm ở da (để giải biểu - vì chính khí đã suy, châm cũng vô ích).

- Ở bệnh nhiệt mà bắt đầu da đau, mũi tắc, mặt nặng (bệnh thuộc Phế nhiệt) thì lấy cách châm nông ở da bằng loại kim thứ nhất (sàm châm), chọn trong số 59 huyệt. Nếu ở mũi có chẩn nhỏ thì châm ở da (tả) (Phế chủ bì mao, khai khiếu ở mũi), có thể châm ở kinh Phế. Nếu không có hiệu quả thì châm (bổ) kinh thuộc hỏa tức kinh Tâm (Hỏa vượng sẽ làm kim suy).

- Ở bệnh nhiệt mà bắt đầu có thân thể mỏi mệt không linh hoạt và sốt, tâm phiền, môi mồm họng khô (do tà khí vào huyết mạch), lấy chữa da làm chính (nên là lấy huyết mạch là chính - tả). Dùng loại kim thứ nhât (sàm châm), chọn trong số 59 huyệt để châm. Nếu da căng trướng, mồm khô, ra mồ hôi lạnh, vẫn chữa huyết mạch làm chính, tức là chữa kinh Tâm. Nếu không có hiệu quả, châm bổ thêm kinh thủy tức kinh Thận (thủy vượng sẽ làm hỏa suy).

- Ở bệnh nhiệt mà họng khô uống nhiều, hay sợ, nằm không dậy được (do tà vào cơ), lấy chữa cơ làm chính (tả), dùng loại kim thứ 6 (viên lợi châm), chọn trong 59 huyệt (những huyệt có quan hệ với cơ), nếu khóe mắt có mầu xanh (mộc khắc thổ, vẫn châm cơ là chính (vì Tỳ chủ cơ) nên phải châm kinh Tỳ. Nếu không có hiệu quả, châm bổ thêm kinh mộc, tức kinh Can (mộc vượng sẽ làm thổ suy).

- Ở bệnh nhân có mặt xanh, não đau, tay chân buồn phiền (do tà vào cân), lấy chữa cân làm chính (tả), dùng lọai kim thứ 4 (phong châm) để chữa tay chân quyết nghịch. Nếu chân yếu không đi được, chảy nước mắt, vẫn chữa cân là chính, (Can chủ cân) nên châm kinh Can. Nếu không có hiệu quả châm (bổ) thêm kinh Kim, tức kinh Phế (kim vượng mộc sẽ suy).

- Ở bệnh nhiệt thường có co giật, chân tay co giật như cuồng (do tà vào Tâm), lấy chữa huyết mạch làm chính, có thể dùng loại kim thứ 4 (phong châm) tả gấp phần (nhiệt tà) hữu dư. Nếu bệnh điên (cuồng thuộc dương, điên thuộc âm, ở đây dương cực âm hư, cuồng chuyển thành điên), có lông tóc rụng, vẫn chữa huyết mạch là chính (vì Tâm chủ huyết mạch)- phải chữa kinh Tâm.. Nếu không có hiệu quả thì châm (bổ) thêm kinh thủy, tức kinh Thận (bổ Thận thủy để chế Tâm hỏa).

- Ở bệnh nhân có xương đau, người nặng nề, tai điếc (thần khí nghịch), hay nhắm mắt thì lấy chữa xương làm chính, dùng loại kim thứ 4 (phong châm) và chọn trong số 59 huyệt (chữa bệnh nhiệt và các huyệt chữa bệnh Thận) để châm xương (tả). Nếu bệnh nhân không muốn ăn (Thận khí thực), nghiến răng (nhiệt thực), tai xanh, ta vẫn chữa xương là chính (Thận chủ xương) nên phải châm kinh Thận. Nếu không có hiệu quả châm (bổ) thêm kinh thổ, tức kinh Tỳ (Tỳ thổ khắc Thận thủy).

- Có bệnh nhiệt mà không biết đau ở đâu (tà ở ngoài vào) tai điếc, chân tay liệt mềm, mồm khô (Thận nhiệt), khí dương thịnh thì sốt cao, lúc âm thịnh thì rất lạnh (dương nhiệt đánh với tà ở phần âm), là nhiệt đã vào tủy xương (nhiệt tà đánh với âm). Đó là chứng chết.

-  Bệnh nhiệt có đau đầu, thái dương và mắt căng, mạch đau, hay chảy máu cam là do nhiệt tà giao với Can, nhiệt quyết nghịch lên đầu, chữa nó dùng loại kim thứ 3 (để châm), và phải căn cứ vào trạng thái hư thực, nếu thực thì tả, nếu hư thì bổ, nó gây chứng hàn nhiệt trĩ.

- Bệnh nhiệt mà người nặng nề (tả ở Tỳ), dùng lọa kim thứ 4 (phong châm) để châm huyệt du của Tỳ, Vị (Thái bạch, Hãm cốc), và các huyệt ở kẽ chân (Bát phong, Trương Chí Thông: Lệ đoài, Ẩn bạch), còn lấy huyệt lạc của kinh Vị (Phong long) để sơ tiết tà ở Tỳ, Vị.

- Ở bệnh nhiệt đau cấp hai bên rốn, sườn ngực đầy (tà khí ở Tỳ, Thận) thì lấy huyệt Dũng tuyền và Âm lăng tuyền, dùng loại kim số 4 (phong châm) có thể châm Liêm tuyền (Thái âm, Thiếu âm - đều đến cổ họng).

- Ở bệnh nhiệt có ra mồ hôi, mạch thuận, vẫn dùng phép hãn (để khử nhiệt), châm huyệt Ngư tế, Thái uyên, Đại đô, Thái bạch (huyệt huỳnh và huyệt du của 2 kinh Thái âm). Tả thì giải được nhiệt tà, bổ thì làm ra mồ hôi. Nếu mồ hôi ra quá nhiều thì châm mạch ngang trên mắt cá trong thì cầm (Phục lưu - LK dịch thích: Tam âm giao).

- Bệnh nhiệt có mồ hôi, tà khí rút mà mạch táo thịnh là mạch âm cực (là chứng cô dương, không có âm) sẽ chết. Nếu ra mồ hôi mà mạch yên tĩnh (chính khí phục hồi) thì sống.

- Bệnh nhiệt mạch táo thịnh mà không ra mồ hôi, đó là mạch dương cực (âm kiệt không biến thành mồ hôi) sẽ chết. Nếu mạch thịnh táo, ra mồ hôi rồi, mạch yên tĩnh thì sống.

Có 9 loại bệnh nhiệt không thể dùng châm:

1. Không ra mồ hôi, gò má đỏ, nấc nghịch, sẽ chết (Tỳ bại).

2. Ỉa chảy mà bụng Trướng nặng sẽ chết (Tỳ bại).

3. Mắt mờ (tinh khí kiệt) nhiệt không dứt sẽ chết.

4. Người già, trẻ em có nhiệt mà bụng trướng sẽ chết.

5. Không ra mồ hôi, nôn máu (âm hư bị tổn thương) sẽ chết.

6. Lưỡi loét nhiệt không hết sẽ chết (ba âm bị thương).

7. Ho, chảy máu cam, không có mồ hôi hoặc ra mồ hôi không đến chân, sẽ chết (âm kiệt).

8. Tủy nhiệt sẽ chết (Thận khí nhiệt).

9. Nhiệt và co giật sẽ chết, hoặc thắt lưng ưỡn, chân tay co giật, hàm cắn chặt (nhiệt cực sinh phong, tổn thương âm huyết).

9 chứng trên không được dùng châm.

- 59 huyệt chữa chứng nhiệt phía trong và ngoài: 2 bàn tay mỗi bên 3 là 12 (Thiếu trạch, Quan xung, Thương dương, Thiếu thương, Trung xung, Thiếu xung). Khe ngón tay mỗi bên 4 là 8 (Bát tà), khe ngón chân mỗi bên 4 là 8 (Bát phong). (Cảnh Nhạc - 8 huyệt ở tay: Hậu khê, Trung chữ, Tam gian, Thiếu phủ. 8 huyệt ở chân: Thúc cốt, Lâm khấp, Hãm cốc, Thái bạch). Trên chân tóc 1 tấc từ giữa ngang ra 3 phân, mỗi bên có 3 là 6 (Ngũ xứ, Thừa quang, Thông thiên). Trên chân tóc 3 tấc, 2 bên mỗi bên 5 là 10 (Lâm khấp, Mục song, Chính doanh - Thừa linh, Não không). Trước sau tai hai bên, dưới miệng, giữa gáy mỗi chỗ 1 là 6 (Thính hội, Hoàn cốt, Thừa tương, Á môn. Đỉnh đầu (Bách hội), Thóp (Tín hội), trên chân tóc (Thần đình). Liêm tuyền, Phong trì, Thiên trụ, Phong phủ. Cộng 59 huyệt.

- Nếu khí nghịch đầy ngực, gây suyễn thì lấy đầu ngón cái kinh Túc thái âm (Ẩn bạch), cách móng 1 lá hẹ, hàn thì lưu kim, nhiệt thì châm nhanh, đến khi khí giáng xuống thì thôi (bệnh ở trên châm ở dưới).

- Ở bệnh thoát vị Tâm (Tâm sán do Tâm khí tích uất gây nên), có đau đột ngột, châm huyệt lạc của kinh Túc thái âm, quyết âm và nặn máu.

- Hầu tý, lưỡi rụt, mồm khô, Tâm phiền, Tâm đau, mặt trong cánh tay đau, không giơ tay lên đầu được, lấy huyệt Quan xung ở dưới móng tay một lá hẹ để chữa.

- Chữa phong kính có thân uốn vặn, trước hết lấy huyệt giữa khoeo (Ủy trung) và huyệt lạc của Túc thái dương (Phi dương), chích nặn máu. Nếu trung (tiêu) có hàn lấy huyệt Tam lý, nếu bí tiểu tiện nên lấy huyệt Âm kiều (Chiếu hải), chòm lông ngón cái (Đại đôn) và huyệt lạc ở đó chích xuất huyết.

- Mắt đỏ đau bắt đầu từ đầu mắt (hội của Thái dương, Âm kiều, Dương kiều) lấy Âm kiều (Chiếu hải) để chữa.

- Ở nam bị cổ độc (sán hà), ở nữ nôn mửa, thai nghén, thân, thắt lưng rất khó chịu như rời rã, không muốn ăn, trước hết lấy Dũng tuyền, nếu huyết lạc ở mu chân thịnh, cũng có thể chích nặn máu.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 01, 2017, 09:48:13 AM
24. Bệnh quyết (Quyết bệnh)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Quyết là khí nghịch - Phần này nói về 5 loại đau đầu do quyết, 6 loại bệnh Tim do quyết, gồm triệu chứng, điều trị, tiên lượng.

- Đau đầu do quyết, mặt nặng, tâm phiền, lấy Túc dương minh, thái âm.

- Đau đầu do quyết, làm mạch ở đầu đau từng cơn, bi quan, hay khóc. Nếu mạch ở đầu thịnh, châm nặn máu để tả hết huyết ứ, rồi sau mới điều hòa Túc quyết âm (kinh Can hội ở đỉnh đầu).

- Đau đầu do quyết, có đầu nặng và đau thì tả (khí nghịch) ở 25 huyệt trên 5 hàng mạch ở đầu, nhưng trước hết phải tả (nhiệt) ở kinh Thủ thiếu âm rồi đến kinh Túc thiếu âm để bổ thủy (25 huyệt là: mạch đốc 5 huyệt - Thượng tinh, Tín hội, Tiền đình, Bách hội, Hậu đỉnh. 10 huyệt của hai hàng kinh Bàng quang - Ngũ xứ, Thừa quang, Thông thiên, Lạc khước, Ngọc chẩm. 10 huyệt của 2 hàng kinh Đởm - Lâm khấp, Mục song, Chính doanh, Thừa linh, Não không).

- Đau đầu do quyết làm trí nhớ giảm, sờ không thấy chỗ đau rõ ràng thì lấy mạch đập (Dương minh) 2 bên đầu mặt (để tả tà khí) sau đó lấy Túc thái âm (để bổ Tỳ khí).

- Đau đầu do quyết làm đầu đau nặng, mạch lạc ở trước và sau tai đầy ắp và nóng, tả nhiệt bằng châm, nặn máu huyết đó, sau đó châm Túc thiếu dương.

- Chân đầu thống (do phong hàn qua các kinh dương ở đầu vào não) có đầu rất đau, óc rất đau (tà vào não) chân tay lạnh toát quá gối, khuỷu (âm tà vào tủy hải) bệnh khó chữa và chết.

- Có bệnh đau đầu song không thể lấy huyệt du để chữa được. Như đau do bị đánh ngã, ngã từ cao xuống, huyết ứ tắc ở trong, nếu đau của cơ bị thương chưa hết, thì chỉ có thể châm ở chỗ đầu đau, không lấy huyệt ở xa chỗ đau để chữa được (vì đau ở đấy không phải do khí nghịch gây nên).

- Đau đầu mà không thể châm được là vì ác chứng của bệnh tý nặng. Song nếu ngày nào cũng lên cơn đau, châm có thể giảm nhẹ, nhưng không chữa khỏi được.

- Đau 1/2 đầu do lạnh, lấy Thủ thiếu dương, Dương minh trước, rồi lấy Túc thiếu dương, Dương minh để chữa (do hàn vào hai kinh trên).

- Quyết Tâm thống (Tim đau do quyết) có đau lan ra lưng, thỉnh thoảng co rút ở trước, sau như là đau khi sờ vào Tim, chạy từ sau ra trước, làm cho người gù lại, đó là Thận Tâm thống, lấy Kinh cốt, Côn lôn để chữa trước, nếu cơn đau không dứt, lấy Nhiên cốc để chữa (tả thực nhiệt ở Bàng quang, Thận).

- Tim đau do quyết gây bụng trướng, ngực đầy (do Vị khí nghịch), Tâm đau nặng (lên tâm), là do Vị Tâm thống, châm Đại đô, Thái bạch (kinh Tỳ) (để đưa khí nghịch của Vị ra ngoài).

- Tim đau do quyết gây đau như chùy đánh, đâm vào Tim làm Tim rất đau, là do tý Tâm thống, châm Nhiên cốc, Thái khê (kinh Thận) (để tả thấp khí, hàn khí, tụ ở Thận thừa lên Tâm).

- Tim đau do quyết có sắc bệnh như chết và cả ngày không thể thở dài được, là do Can Tâm thống, châm Hành gian, Thái xung để chữa.

- Tim đau do quyết có nằm hoặc nghỉ thì Tim đau nhẹ, nếu động thì Tim đau tăng song sắc không đổi, là do Phế Tâm thống. Châm Ngư tế, Thái uyên (để tả Phế khí nghịch) - Chân Tâm thống (tà vào Tâm), có chân tay lạnh đến gối khuỷu trở lên, Tim rất đau, ban ngày phát thì đêm chết, ban đêm phát thì sớm hôm sau chết (vì Tâm không thể bị tà khí vào).

- Có lúc Tim đau không thể châm được là vì trong (Tim) có tích tụ hoặc huyết ứ, không thể chữa bằng châm huyệt được.

- Khi trong ruột có khối do trùng (trùng hà) và giun, thì đều không thể dùng hào châm để chữa. Tâm trường thống gây cơn đau mạnh không chịu nổi, hoặc bụng có hòn hoặc đau xuyên lên xuống ra vào, lúc đau lúc không, bụng nóng, hay khát, chảy dãi đều do giun cả. Chữa bằng cách ngón tay chụm lại sờ nắn chỗ đau, nếu thấy giun thì giữ lại, lấy kim to châm, giữ cho đến khi giun không động nữa mới rút kim. Nói chung, cơn đau bụng do giun không chịu nổi và khối cục từ trung công lên thượng tiêu.

- Tai điếc không nghe thấy lấy Thính cung, tai ù lấy động mạch trước tai (Nhĩ môn). Tai đau mà không thể châm được là do trong tai có mủ hoặc dáy tai nhiều quá nút mất lỗ tai, làm cho không nghe được. Tai điếc có thể châm mé ngoài móng ngón tay thứ 4 (Quan xung), lấy kinh Thiếu dương tay trước (Quan xung), lấy kinh chân sau (Khiếu âm). Tai ù lấy huyệt tay bên trái và ngược lại. lấy kinh Quyết âm tay trước (Trung xung), lấy kinh chân sau (Đại đôn)..

- Chi dưới từ bàn chân đến háng không động được, để bệnh nhân nằm nghiêng, châm huyệt Hoàn khiêu bằng kim tròn sắc (viên lợi châm), không dùng kim to để châm được.

- Bệnh (do khí nghịch đổ vào kinh lạc làm) ỉa máu (là do Can không nạp huyết) dùng huyệt Khúc tuyền.

- Phong tý làm hao người, bệnh diễn biến ngày một xấu, chân lạnh như ngâm vào băng, có lúc lại nóng như ngâm vào nước nóng, đùi cẳng chân hao mòn, tâm phiền đau đầu, lúc nôn. lúc bồn chồn, vừa hết đầu váng mắt hoa thì ra mồ hôi, lâu ngày thành mắt hoa quay cuồng, bi ai hoặc vui, hoặc sợ hãi, ngắn hơi, không vui, không sống nổi đến 3 năm thì chết (âm dương bị bệnh).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 01, 2017, 10:55:39 AM
25. Gốc của bệnh (Bệnh bản)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên tắc chữa bệnh, tiêu bản, hoãn cấp. Bệnh mắc trước là bản, mắc sau là tiêu, nguyên nhân là bản, triệu chứng là tiêu. Hoặc chữa bản là chính, hoặc bệnh của bản nhưng chữa tiêu của nó, hoặc chữa tiêu là chính hoặc bệnh ở tiêu mà chữa bản của nó. Khi bệnh diễn biến phức tạp, song vẫn nằm trong trị tiêu bản.

- Bị bệnh trước, khí huyết nghịch sau, thì (bệnh là bản và) chữa bản. Khí huyết nghịch trước rồi có bệnh sau thì (khí huyết là bản)  chữa bản. Bị hàn trước rồi mới sinh bệnh thì (hàn là bản) chữa bản. Bị bệnh trước rồi mới có chứng hàn thì (bệnh là bản và) chữa bản. Bị nhiệt trước rồi mới sinh bệnh thì (nhiệt là bản) chữa bản.

- Ỉa chảy rồi mới có bênh khác (ỉa chảy là bản) chữa bản, ắt phải điều hòa Tỳ Vị trước, rồi mới chữa các bệnh khác. Bị bệnh trước, rồi sau có chứng đầy ở trong (ngực đầy, bụng trướng - tà khí thịnh) thì chữa tiêu trước. Bị bệnh rồi sau mới có chứng ỉa chảy thì (bệnh là bản) chữa bản. Bị đầy ở trong (ngực đầy, bụng trướng) trước, rồi mới có tâm phiền, thì (đầy ở trong là bản) chữa bản. Có lúc do bản khí gây bệnh. Sau khi có bệnh nếu có ỉa đái không lợi thì (chứng sau là tiêu) và chữa tiêu trước. Khi ỉa đái tốt rồi thì chữa đến bản.

- Bị bệnh (tà khí) hữu dư, tà khí là bản, chứng là tiêu, chữa bản trước chữa tiêu sau. Bị bệnh (chính khí) bất túc, là từ tiêu (chính) đến bản (tà), chữa tiêu trước chữa bản sau. Thầy thuốc cần quan sát kỹ trạng thái nặng nhẹ (sâu nông) của bệnh để điều hòa lại, bệnh nhẹ thì vừa chữa bản vừa chữa tiêu (phù chính khu tà). Bệnh nặng thì (tùy hoãn cấp) hoặc chữa bản, hoặc chữa tiêu.

- Nếu ỉa đái không lợi rồi sau mới có bệnh thì ỉa đái không lợi là bản, chữa trước.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 01, 2017, 05:22:55 PM
26. Tạp bệnh

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nêu một số bệnh và cách chữa bệnh bằng châm cứu - như bệnh do kinh khí quyết nghịch, các bệnh Tâm thống, đau họng, sốt rét, đau răng, tai điếc, chảy máu cam, đau trán, đau gáy, đau lưng, đau gối, bụng trướng, ỉa đái không thông.

- Kinh khí quyết nghịch gây đau ở 2 bên cột sống lan đến gáy, đầu nặng như chì, mắt mờ, thắt lưng cứng. Chích nặn máu huyệt lạc ở khoeo (quanh Ủy trung) của Túc thái dương để chữa (đau theo kinh Thái dương).

- Kinh khí quyết nghịch gây ngực đầy mặt nề, môi bệu chảy dãi, đột nhiên nói khó, nặng thì không nói được, lấy Túc dương minh chân để chữa (bệnh ở kinh Dương minh).

- Khí quyết nghịch lên họng hầu làm không nói được, chân tay lạnh, ỉa khó, lấy Túc thiếu âm chân để châm (bệnh ở kinh Thiếu âm).

- Kinh khí quyết nghịch làm sôi bụng, nếu hàn khí lưu trệ thì bụng kêu ọc ọc, ỉa đái khó, lấy Túc thái âm để chữa (Thái bạch - huyệt du) (bệnh ở kinh Thái âm).

- Họng khô mồm nóng và dính như keo (nước bọt đặc), lấy Túc thiếu âm (để tán nghịch khí ở Thiếu âm, làm thông thủy âm, thủy âm lên tế Tâm hỏa).

- Đầu gối đau (tà vào kinh lạc), lấy Độc tỵ, dùng viên lợi châm (kim sắc tròn) để châm, cách một thời gian lại châm tiếp, dùng kim to như sợi lông trâu, châm sẽ không lo.

- Hầu tý không nói được (nặng đờm hỏa xung lên, họng bí tắc), lấy Túc dương minh để chữa, nếu nói được (nhẹ) thì lấy Thủ dương minh để chữa.

- Sốt rét không khát, sốt cách nhật, lấy Túc dương minh (tả khí ở sâu, ở trong âm không ra được - sốt rét, khát, mỗi ngày đều lên cơn (tà khí ở trên) lấy Thủ dương minh để chữa.

- Đau răng không sợ uống lạnh (thực nhiệt), lấy Túc dương minh, sợ uống lạnh (hư hàn), lấy Thủ dương minh để chữa.

- Điếc mà không đau, lấy Túc thiếu dương (bổ), điếc mà đau, lấy Thủ dương minh (tả) để chữa (đường nhánh của của Thủ dương minh đi vào tai. Trương Chí Thông "Dương minh" nên sửa là Thiếu dương).

- Chảy máu cam không ngừng, có máu cục chảy ra, lấy Túc thái dương. Nếu máu cục không chảy ra thì lấy Thủ thái dương. Nếu vẫn chảy máu thì lấy huyệt dưới xương uyển cốt (Thông lý) (Tâm, Tiểu trường có quan hệ biểu lý), nếu vẫn không ngừng chảy thì chích nặn máu huyệt Ủy trung.

- Đau lưng mà có cảm giác lưng trên lạnh thì lấy Túc thái dương, Dương minh. Còn đau mà có cảm giác lưng trên nóng thì lấy Túc thái dương, Túc quyết âm. Đau lưng không cúi ngửa được lấy Túc thiếu dương (Thái dương mới đúng).

- Nhiệt ở trung tiêu gây suyễn, lấy Túc thiếu âm (dùng thủy chế hỏa), chích nặn máu huyết lạc ở khoeo (tả hỏa).

- Hay cáu gắt, không muốn ăn, ít nói, chích Túc thái âm (để sơ thông Tỳ khí). Cáu gắt mà nói nhiều (do khí nghịch), châm Túc thiếu dương (để sơ thông khí của Can).

- Vùng má và thái dương đau, chích Thủ dương minh (Thương dương), và chích nặn máu chỗ mạch thịnh ở đó (huyệt Giáp xa) (để tả tà khí).

- Gáy đau không cúi ngửa được, châm Túc thái dương (kinh có liên quan đến cúi ngửa), gáy đau không quay phải trái được, châm Thủ thái dương (kinh có liên quan đến quay cổ).

- Bụng dưới đầy to (do khí Túc quyết âm quyết nghịch) lan lên Vị, đến Tâm, toàn thân như rung động lúc lạnh lúc nóng, đái khó, lấy Túc thái âm chân (để làm thông quyết nghịch).

- Tim đau gây đau ở cột sống lưng, muốn nôn (do Thận khí nghịch lên trên gây ra), lấy Túc thiếu âm (để sơ thông khí nghịch).

- Tim đau, bụng trướng sáp trệ, ỉa không thông lợi (do Tỳ khí nghịch dồn lên gây ra), lấy Túc thái âm (để sơ thông khí nghịch).

- Tim đau lan đến lưng (Thiếu âm vào lưng) làm cho không thở được (Thiếu dương vào đản trung), châm Túc thiếu âm, nếu chưa khỏi lấy Thủ thiếu dương.

- Tim đau gây bụng dưới đầy, nơi kinh Can đi vào âm bộ, trên dưới đau nhưng không có vị trí rõ, ỉa đái khó, châm Túc quyết âm.

- Tim đau, khí đoản, khó thở, châm Thủ thái âm (để thông Phế khí đang bị nghịch).

- Tim đau châm ở đốt sống 9 (Cân súc), mới đầu ấn day huyệt rồi châm, châm rồi lại day ấn có thể hết đau. Nếu đau  không hết, lấy huyệt ở đốt trên (số tám) và đốt dưới (số 10), châm đắc khí thì hết đau.

- Vùng má, thái dương đau lấy đoạn ở góc hàm có động mạch của Túc dương minh (Giáp sa), sau khi nặn máu thì hết đau. Nếu không hết đau, ấn huyệt Nhân nghinh của kinh sẽ hết đau.

- Khí nghịch lên trên, châm chỗ lõm ở cơ ngực và động mạch ở dưới (chỗ lõm cơ ngực = Ốc ế (Cảnh Nhạc), Ưng song (Mã Nguyên Đài), động mạch ở ngực dưới: Đản trung (Mã Nguyên Đài), Trung phủ (Cảnh Nhạc), song đều không phải ở ngực dưới. Có phải là Kỳ môn không?).

- Bụng đau châm động mạch ở hai bên rốn (Thiên khu), châm xong ấn chỗ đó thì hết đau. Nếu không hết, châm khí nhai (nếp bẹn - Khí xung), châm xong cũng xoa bóp, sẽ hết đau.

- Bệnh nuy quyết (liệt mềm và lạnh giá) chữa bằng cách trói chân tay lại, khi bệnh nhân thấy bực bội thì cởi trói ngay, mỗi ngày làm hai lần.

- Nếu chân tay bị tê thì chữa 10 ngày sẽ có hiệu quả, nhưng không được dừng, phải tiếp tục đến khi khỏi mới thôi (trói chân tay để dẫn khí làm cho khí thông).

- Nấc, dùng cách kích thích trong lỗ mũi gây hắt hơi, hắt hơi được thì hết nấc (thông được Phế khí); hoặc nín thở, đón hơi nấc lên và dẫn nó xuống thì sẽ hết nấc (để thông Phế khí); hoặc sự đột ngột cũng hêt nấc (do khí của Can Tâm bị tán, khí nghịch của Vị cũng ra theo).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2017, 08:54:00 AM
27. Chu tý

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên sự khác nhau của Chu tý và chứng tý. Đau của nó theo mạch đi từ trên xuống dưới, hoặc từ dưới lên trên, nhưng không có chuyển từ phải sang trái và ngược lại, có thể đau di chuyển toàn thân. Cũng nêu lên cách chữa theo vị trí đau.

Hoàng đế: Ở bệnh chu tý, tà di chuyển theo huyết mạch lên xuống, gây đau tương ứng ở trên dưới, phải trái, toàn thân chỗ nào tà cũng đến được. Không sót một kẽ hở nào. Loại đau đó do tà khí ở trong mạch hay ở giữa các cơ gây nên? Tại sao lại như vậy? Đau di chuyển rất nhanh, làm không kịp châm chỗ đau, khi đau tập trung một chỗ chưa kịp chữa nó đã hết đau. Muốn nghe về lý, nguyên nhân của vấn đề.

Kỳ Bá: Đó là chứng tý không phải là Chu tý. Chứng tý là đau ở nhiều nơi khác nhau, lúc phát lúc hết, lúc yên lúc nổi lên, đau bên phải ảnh hưởng đến bên trái, đau bên trái ảnh hưởng đến bên phải, nhưng không đi toàn thân. Nó vừa có đau đã hết đau. Chữa nó cần đâm vào chỗ đau, dù hết đau rồi, vẫn châm chỗ đó để phòng tái phát.

Hoàng đế: Đúng. Mong được nghe về Chu tý.

Kỳ Bá: Chu tý là bệnh do tà khí ở trong huyết mạch, theo huyết mạch mà đi lên đi xuống mà không đi sang phải trái, nhưng toàn thân chỗ nào cũng có thể đau. Chữa nó như sau:

+ Nếu đau từ trên xuống dưới, châm dưới trước để chữa tiêu, rồi châm trên để chữa bản.

+ Nếu đau từ dưới lên trên, châm trên trước để chữa tiêu, rồi châm dưới để chữa bản.

Hoàng đế: Đau của Chu tý sinh ra như thế nào, vì ai mà có tên đó?

Kỳ Bá: Khi phong hàn thấp xâm nhập vào phần nhục (cơ ở nông rồi vào cơ ở sâu) làm tân dịch thành bọt nước. Bot gặp lạnh thì ngưng lại ở giữa các cơ làm tách các cơ ra, do cơ bị tách ra nên đau, có nóng thì đau giảm (tán hàn), sau khi hết đau cơ thể có khí quyết nghịch, gây chứng tý ở chỗ khác, chứng tý sinh ra là như vậy đó.

Hoàng đế: Ta đã rõ. Là vì bệnh tà chưa vào đến tạng phủ, nhưng ở ngoài da thì lại có tà khí, nó chỉ lưu lại ở giữa các cơ, làm cho chân khí không lưu hành toàn thân được (khí bế lại gây đau), nên gọi là Chu tý. Nguyên tắc châm để chữa tý là sờ 6 kinh ở chân, xem chúng hư thực ra sao, có huyết ở đại lạc không và do hư nên mạch lõm xuống, để điều hòa chúng có thể dùng cứu để thông khí huyết. Nếu do co thắt gây đau, cần dẫn khí cho nó vận hành thông suốt.

Hiểu được cái ý, nắm được sự việc, nắm được lý (tác dụng) của 9 loại kim thì có thể chữa được bệnh của 12 kinh âm dương.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2017, 10:01:25 AM
28. Hỏi miệng (Khẩu vấn)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về 12 loại tà khí lạ vào các khiếu gây 12 loại bệnh với nguyên nhân, triệu chứng, phép chữa riêng. Tà khí lạ là bệnh tà khác thường, tài liệu cổ rất ít ghi lại mà chỉ hỏi miệng để ghi lại.

Hoàng đế: Muốn nghe về tư liệu khẩu truyền?

Kỳ Bá: Các bệnh sinh ra thường do mưa, gió, rét, nắng, âm dương, vui, giận, ăn uống, sinh hoạt, quá sợ, quá lo làm khí huyết phân ly, âm dương phá bại (không cân bằng, không điều hòa). Kinh lạc quyết tuyệt (kinh khí quyết nghịch kinh lạc tắc tuyệt), đường kinh mạch không thông, âm dương tương nghịch, vệ khí lưu trệ lại, kinh mạch rỗng, hư, khí huyết không thể tuần hoàn theo thứ tự trong cơ thể, các hoạt động đều mất bình thường, những bệnh này không luận ở kinh, mà ở nơi nào đó.

Hoàng đế: khí nào làm người ta ngáp?

Kỳ Bá: Vệ khí ngày đi ở phần dương, đêm vào phần âm. Âm thì (tĩnh) là đêm, người ngủ. Dương thăng âm giáng, nên khí âm tích ở dưới, khí dương chưa vào âm hết, vẫn phát huy tác dụng thăng lên dẫn khí lên, khí âm có tác dụng giáng dẫn khí xuống, âm dương lôi kéo nhau lên xuống gây ngáp. Nói chung, khí dương tận, khí âm thịnh (lúc đêm) nên mắt nhắm, ngủ, khí âm tận khí dương thịnh (ban ngày) nên mở mắt, tỉnh. Nếu ngáp nhiều thì tả Túc thiếu âm (Chiếu hải), bổ Túc thái dương (Thân mạch).

Hoàng đế: khí nào làm người ta nấc?

Kỳ Bá: Thức ăn vào Vị (được tiêu hóa để sinh ra các chất tinh vi), lên Phế (và phân bổ cho toàn thân). Nếu Vị có hàn thì cốc khí mới vào sẽ bị ngưng trệ lại ở Vị không lên Phế được, hàn có trước và cốc khí mới vào gặp nhau sinh loạn, tà khí và Vị khí đánh nhau, 2 khí sẽ cùng nghịch lên, ra khỏi Vị (lên cơ hoành) thành nấc. Cần bổ Thủ thái âm, tả Túc thiếu âm để bổ Phế, giáng hàn tà.

Hoàng đế: Khí nào làm người ta nghẹn ngào lúc khóc?

Kỳ Bá: Khí âm thịnh khí dương hư, khí âm mạnh cấp, khí dương hoãn, khí âm thịnh, khí dương kiệt làm ra chứng nghẹn ngào (sụt sịt), chữa nó cần bổ Túc thái dương, tả Túc thiếu âm để chữa (Thân mạch - Chiếu hải).

Hoàng đế: Khí nào làm người ta rét run?

Kỳ Bá: Khí hàn ở da, âm khí thịnh, dương khí hư làm cho rét run. Cần ôn bổ các kinh dương (Cảnh Nhạc: Các huyệt nguyên của kinh dương - Hợp cốc, Xung dương, Uyển cốt, Kinh cốt, Dương trì, Khâu khư, và các huyệt hợp của kinh dương: Khúc trì, Túc tam lý, Thiếu hải, Ủy trung, Thiên tỉnh, Dương lăng tuyền) để chữa.

Hoàng đế: Khí nào làm người ta ợ hơi?

Kỳ Bá: Khí hàn ở Vị làm khí quyết nghịch từ dưới lên trên rồi lại ra Tỳ Vị thành ợ hơi. Cần bổ Túc thái âm, Dương minh, có người lại bổ gốc lông mày (huyệt Toản trúc) để chữa.

Hoàng đế: Khí nào làm người ta hắt hơi?

Kỳ Bá: Khí dương bình hòa thuận lợi, đầy ở trong Tâm (lên Phế rồi) lên mũi gây hắt hơi. Bổ huyêt huỳnh ở gốc lông mày (Toản trúc) của Túc thái dương, có người nói huyệt này ở trên lông mày.

Hoàng đế: Khí gì làm đầu thân mềm không vận động được?

Kỳ Bá: Vì vị không thực thì các mạch đều hư, các mạch hư thì cân mạch rã rời, cân mạch rã rời (vì không được nuôi dưỡng) thì nếu động phòng, nguyên khí không thể phục hồi, gây nên đầu thân rũ xuống. Cần bổ giữa các cơ (của bộ phận bị bệnh).

Hoàng đế: Khí gì làm cho người ta khi buồn khóc chảy nước mắt?

Kỳ Bá: Tâm là chủ của 5 tạng 6 phủ. Mắt là nơi hội tụ của tông mạch (nơi tụ tập tinh khí của 5 tạng 6 phủ), đường đi lên của dịch. Mồm mũi là cửa ngõ của khí. Khi buồn phiền âu sầu thì Tâm sẽ động, Tâm động thì 5 tạng 6 phủ cũng không yên, làm cho tông mạch cảm (động), Tâm mạch cảm (động) thì đường dịch sẽ khác, đường dịch mà khác thì nước mắt chảy ra, dịch là để tưới các khiếu, cho nên đường đi lên của dịch mà khai thì nước mắt chảy, nếu chảy không ngừng thì dịch cạn, dịch cạn thì tinh không tưới thấm cho khiếu được, tinh không lên mắt được thì không nhìn được cho nên gọi là đoạt kinh. Chữa bằng cách bổ huyệt Thiên trụ (của kinh Bàng quang).

Hoàng đế: Khí gì làm cho người ta thở dài?

Kỳ Bá: Âu sầu tư lự thì hệ mạch của Tâm cấp. Cấp thì đường khí bị bó lại, bị bó lại thì đường khí thông không lợi, gây thở dài cho khí tỏa ra. Bổ Thiếu âm tâm, Quyết âm tâm bào, Thiếu dương đởm (để thông khí ở thượng tiêu, sơ khí ở mộc) và lưu kim.

Hoàng đế: Khí gì làm cho người ta chảy dãi?

Kỳ Bá: Thức ăn vào Vị, trong Vị có nhiệt thì giun quẫy , giun quẫy thì khí của Vị hoãn, hoãn thì liêm tuyền khai nên chảy nước bọt. Cần bổ Túc thiếu âm (để tráng thủy lợi hỏa - Cảnh Nhạc; để thông liêm tuyền làm nước bọt chảy xuống dưới - Mã Nguyên Đài).

Hoàng đế: Khí gì làm cho người ta tai ù?

Kỳ Bá: Tai là nơi tụ hội của tông mạch. Nếu Vị rỗng hư thì tông mạch hư, hư thì (khí dương không tăng mà) chảy (giáng) xuống gây khí mạch kiệt, nên tai ù, cần bổ huyệt Thượng quan, và huyệt Thiếu thương (Thượng quan là hội của của các kinh thủ túc thiếu dương, Túc dương minh. Tuy là thuộc Túc thiếu dương nhưng dù tai ù do kinh nào trong 3 kinh trên đều dùng huyệt này và bổ tả theo trạng thái người bệnh).

Hoàng đế: Khí gì làm cho người ta cắn phải lưỡi mình?

Kỳ Bá: Khí quyết nghịch đi lên trên, khí mạch đi theo đều đến các vị trí của mình, khí Thiếu âm (đến cuống lưỡi, nếu) nghịch thì cắn phải lưỡi, khí Thiếu dương (đến tai má, nếu) nghịch thì cắn phải má, khí Dương minh (đến môi, nếu) nghịch thì cắn phải môi. Châm bổ kinh của chỗ bị bệnh để chữa.

- 12 tà khí trên là những tà khí lạ đi vào các khiếu. Chỗ nào tà khí ở được là chỗ đó chính khí suy. Nếu khí ở thượng tiêu không đủ thì não sẽ không đầy, tai sẽ ù không ngừng, đầu nặng và nghiêng (do không đỡ được) mắt sẽ quay cuồng. Nếu trung khí không đủ thì ỉa đái sẽ thay đổi, bụng sôi liên tục. Nếu khí ở hạ tiêu không đủ thì chân yếu teo quyết lãnh, Tâm phiền ngực đầy. Cần bổ huyệt ở mắt cá ngoài (Côn lôn) và lưu kim (huyệt Côn lôn là nơi phát nguyên của tân dịch, thông với trên).

Hoàng đế: Bệnh do tà khí lạ gây nên thì chữa ra sao?

Kỳ Bá: Thận khí không đủ là nguyên nhân của ngáp, lấy Túc thái âm, Túc thái dương để chữa. Phế khí mất điều hòa là nguyên nhân của nấc cụt, lấy Thủ thái âm, Túc thiếu âm để chữa. Sụt sịt là do khí âm thịnh, khí dương tuyệt, dương không dựa vào âm, cần bổ Túc thái âm, tả Túc thiếu âm. Rét run phải bổ các kinh dương. Ợ hơi bổ Túc thái âm, Dương minh. Hắt hơi bổ Túc thái dương Toản trúc. Đầu thân mềm nhũn, bổ phần cơ nơi bị bệnh. Khóc chảy nước mắt bổ Thiên trụ. Thở dài bổ Thủ thiếu âm, Quyết âm, Túc thiếu dương lưu kim. Chảy dãi bổ Túc thiếu âm. Tai ù bổ Thượng quan, Thiếu thương. Tự cắn phải lưỡi, bổ đường kinh qua nơi bị cắn. Mắt hơi quay cuồng, đầu nghiêng, bổ (Côn lôn) dưới mắt cá ngoài, lưu kim. Chân tay teo lạnh giá, Tâm phiền, châm (Thái xung hoặc Thái bạch) trên khe chân cái 2 tấc, lưu kim, hoặc Côn lôn lưu kim.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2017, 04:28:34 PM
Quyển thứ sáu

29. Thầy truyền lại (Sư truyền)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Thầy truyền lại một số kinh nghiệm quý về vấn chẩn và vọng chẩn.

Hoàng đế: Thuận là thế nào?

Kỳ Bá: Nhập quốc hỏi phong tục, nhập gia hỏi nề nếp, lên Nhà thờ phải hỏi lễ tiết, gặp người bệnh phải hỏi ra những điều nghịch thuận của người ta để có biện pháp thích hợp nhất.

Hoàng đế: Những biện pháp thích hợp nhất đó là gỉ?

Kỳ Bá: Trong người nhiệt, ăn nhiều tiêu nhanh, dùng hàn là thích hợp. Trong người hàn, dùng nhiệt là thích hợp. Vị nhiệt thì tiêu hóa nhanh làm cho Tâm bồn chồn không yên, có cảm giác đói hay ăn, nếu da phía trên rốn nóng, trường nhiệt, sẽ ỉa phân vàng và nát. Nếu da dưới rốn lạnh, vị hàn thì bụng chướng, trường hàn thì sôi bụng ỉa chảy. Vị nhiệt, trường hàn thì chóng đói, bụng dưới đau chướng.

Hoàng đế: Trong Vị có nhiệt, muốn ăn thức ăn lạnh, ruột có hàn muốn ăn nóng, hai trạng thái ngược nhau, việc thích nghi phải như thế nào? Vả lại, những người quyền quý thường kiêu kỳ, ăn uống sang trọng, nói chung không có cách nào làm họ tuân thủ y lệnh, nếu bắt họ phải theo mình, như vậy là ngược với cái chí của họ, nếu theo họ thì bệnh sẽ nặng lên. Vậy giải quyết thế nào?

Kỳ Bá: Thường tình không ai không sợ chết, không ai không muốn sống, thầy thuốc thiện chí nói rõ cái hư hại, cũng như những điều tốt của họ, hướng dẫn cho họ những biện pháp thích hợp, giúp họ giải được lo âu nhất của họ, như vậy dù không biết phép dưỡng sinh lẽ nào họ không nghe lời khuyên của thầy thuốc.

Hoàng đế: Chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Về mùa Xuân Hạ chữa tiêu trước, chữa bản sau, mùa Thu Đông chữa bản trước, chữa tiêu sau (Xuân Hạ sinh phát ra ngoài, Thu Đông liễm vào trong).

Hoàng đế: Thích nghi trường hợp nghịch lại, phải làm sao?

Kỳ Bá: Biện pháp thích hợp là khuyên ăn mặc cho vừa đủ ấm mát. Nếu lạnh thì không để rét căm căm, nếu nóng thì đừng để ra mồ hôi. Về ăn uống, không nên ăn quá nóng, không nên ăn quá lạnh. Nếu hàn và nhiệt vừa thích hợp thì nguyên khí có thể giữ được mà không suy và cũng không bị tà khí tấn công và xâm phạm.

Hoàng đế: Thiên bản tạng nói rõ lấy thân hình, xương khớp, cơ nhục để xét độ to nhỏ của các tạng phủ. Đối với vương công đại nhân lâm triều, ngồi ở chỗ của họ, ai có thể sờ mó để biết cụ thể.

Kỳ Bá: Hình thể xương khớp chân tay là phần bảo vệ bên ngoài của tạng phủ (nhìn bên ngoài có thể thấy sự thịnh, suy của tinh khí nội tạng), không dễ nhận thấy như khi quan sát sắc mặt.

Hoàng đế: Khí của 5 tạng (thịnh hay suy) có thể quan sát được ở mặt. Điều đó đã biết. Còn qua các khớp tứ chi để biết tạng phủ là như thế nào?

Kỳ Bá: Trong 5 tạng 6 phủ, Phế tạng là cao nhất, qua chỗ lõm ở dưới vai, dưới họng, có thể thấy hình trạng của Phế. Trong 5 tạng 6 phủ, Tâm là chủ, khuyết bồn (hố trên đòn) là đường mạch khí lên xuống, nếu khoảng cách giữa hai đầu xương đòn lớn và dựa vào hình thái của mũi kiếm xương ức (có thể ước lượng Tim ở cao thấp và chắc hay dễ vỡ).

- Can (chí dũng) như ông tướng chống ngọai xâm. Muốn biết Can khỏe yếu chỉ cần xem mắt lớn hay nhỏ.

- Tỳ bổ sung lực lượng bên ngoài, vận chuyển biến hóa các chất tinh vi của thức ăn đến các bộ phận để nuôi dưỡng, chỉ cần biết lưỡi thích hay chán các vị, có thể hiểu bệnh của Tỳ lành hay dữ.

- Thận có chức năng nghe bên ngoài, do khai khiếu ở tai nên nghe rõ âm thanh ở xa. Qua sự thích nghe hay chán nghe có thể đánh giá được tính tình và sự mạnh yếu của Thận.

Trong 6 phủ, Vị là bể của thức ăn uống, nếu người có xương to, cổ to, ngực rộng thì Vị có thể chứa nhiều thức ăn uống (nếu ngược lại thì Vị nhỏ). Đường mũi dài (thuộc Phế) có thể biểu hiện được Đại trường. Môi dày (thuộc Tỳ), nhân trung dài có thể dùng để ước lượng Tiểu trường. Quầng dưới mắt to, là Đởm ngang (khỏe). Lỗ mũi có thể dùng đo sự thông lợi của Bàng quang. Sống mũi gồ ở giữa, là khí hóa của Tam tiêu tốt.

Nếu cả thượng trung hạ đều bình quân, là nội tạng yên ổn bình hòa và chức năng của chúng tốt. Thượng trung hạ chỉ toàn thân hoặc mặt đều chia làm ba đoạn. Đầu lưng chân là ba đoạn của thân - chân tóc đến ấn đường trán là đoạn trên, gốc mũi đến chóp mũi là đoạn giữa, nhân trung đến địa các (cằm) là đoạn dưới (3 đoạn của mặt).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2017, 05:35:17 PM
30. Phân loại khí (Khí quyết)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự hình thành và công dụng của tinh khí, tân dịch, huyết mạch, và đặc điểm của chúng khi ở trạng thái không đủ. Nêu rõ nguồn gốc của chúng, đều là tinh vi của thức ăn và đều do khí hậu thiên - chân khí hóa thành. Quyết có nghĩa là phân, một khí phân thành sáu loại.

Hoàng đế: Người có tinh, khí, tân, dịch, huyết, mạch, tuy có gốc là cùng một khí, song lại chia làm 6 loại. Tại sao?

Kỳ Bá: Lưỡng thần tương tác (nam nữ giao hợp), có thai thành hình, (vật chất) sinh ra trước thân thể nên gọi là tinh.

Hoàng đế: Khí là gì?

Kỳ Bá: Thượng tiêu đưa tinh vi của thức ăn uống đi toàn thân để ôn dưỡng da, bổ sung cho thân thể, nhuận lông tóc, chất tinh vi đó như sương sa gọi là khí.

Hoàng đế: Tân là gì?

Kỳ Bá: Mồ hôi chẩy dầm dề khi tấu lý phát tiết gọi là Tân.

Hoàng đế: Dịch là gì?

Kỳ Bá: Thức ăn vào vị, sinh ra khí huyết, làm khí đầy ắp, tràn trề ra để tưới vào xương, làm cho khớp trơn, để vào trong nuôi nhuận não tủy, làm nhuận da là dịch.

Hoàng đế: Huyết là gì?

Kỳ Bá: Trung tiêu tiếp thu thức ăn uống, hấp thu tinh vi của nó, qua tác dụng khí hóa biến tinh vi thành mầu đỏ là huyết.

Hoàng đế: Mạch là gì?

Kỳ Bá: Như ống dẫn để dinh khí tuần hành không cho đi lung tung gọi là mạch.

Hoàng đế: 6 khí này (tinh, khí, tân, dịch, huyết, mạch) có lúc thừa, có lúc thiếu. Vậy khí nhiều hay ít, não tủy hư hay thực, huyết mạch thanh hay trọc, làm thế nào để biết được?

Kỳ Bá: Tinh thoát thì ù tai; Khí thoát thì mờ mắt; Tân thoát thì tấu lý khai, ra mồ hôi nhiều; Dịch thoát thì xương co duỗi khó, sắc mặt khô không nhuận, nước não tủy ít nên sức não yếu, bắp chân nhức mỏi, tai ù từng cơn. Huyết thoát thì sắc trắng bệch, (khô) không nhuận, mạch rỗng hư.

Hoàng đế: Tình hình thịnh suy của 6 khí này như thế nào?

Kỳ Bá: Trong 6 khí, mỗi khí đều có vị trí và tạng phủ của nó (Khí nuôi da, Tân phát ra ở tấu lý, Dịch nhuận khớp, nuôi não. Mạch đi vào tạng phủ và toàn thân; Thần chủ tinh, Phế chủ khí, Tỳ chủ tân dịch, Can chủ huyết, Tâm chủ mạch). Trong lúc đúng hoặc không đúng thời tiết, trong khi sáu khí này tương sinh bình thường, hoặc thái quá hay bất cập, thường lấy cái chuẩn là tính chất tạng phủ có quan hệ với chúng. Do chúng có cùng nguồn gốc là thức ăn uống, và thức ăn đã được tiêu hóa hấp thụ vận chuyển ở tỳ vị, cho nên vị được gọi là bể của thức ăn uống, là nguồn gốc của 6 khí (Thủy cốc chi hải).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2017, 09:12:55 AM
31. Trường vị

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về độ dài, rộng, tròn, đường kính, cân nặng, dung tích của các bộ phận mồm, môi, răng, lưỡi, tiểu thiệt, họng, dạ dầy, tiểu trường, hồi trường, đại trường. Lấy miêu tả trường vị làm chủ.

Hoàng đế: Tình hình của 6 phủ trong quá trình tiến hóa ra sao? Độ dài, ngắn, lớn, nhỏ chứa thức ăn nhiều ít của trường vị ra sao?

Kỳ Bá: Thức ăn từ lúc vào đến lúc ra qua các đoạn nông, sâu, gần, xa, dài, ngắn, như sau: từ môi đến răng dài 9 phân, miệng rộng 2,5 tấc, răng đến tiểu thiệt sâu 3,5 tấc, dung lượng 5 hợp, lưỡi nặng 10 lạng, dài 7 tấc, rộng 2,5 tấc. Từ họng đến vị dài 1 thước 6 tấc, to 1 thước 5 tấc, dung lượng 3 đến 5 thăng. Tiểu trường (tá tràng, hỗng tràng), phía sau bám vào cột sống từ trái vòng về, và xếp tròn từng lớp, đầu dưới của nó đổ vào hồi tràng. Phía ngoài bám vào trên rốn, vòng xếp 16 khúc, vòng to đến 2 tấc 5, đường kính 8 phân 1/3, dài 3 trượng 3 thước.

- Hồi tràng (tương đương hiện nay hồi tràng và đoạn trên kết tràng), từ rốn chuyển sang trái vòng xuống, vòng gấp 16 khúc, vòng to 4 tấc, đường kính 1 tấc 1/3, dài 2 trượng 1 thước. Quảng trường (tương đương hiện nay trực tràng và đại tràng xích ma) ở gần cột sống, tiếp thu cặn bã từ hồi tràng xuống, vòng sang trái, gấp khúc ở trên cột sống xuống đến vùng cột sống xuống đến vùng cụt, chu vi dài 8 tấc, đường kính 1 tác 2/3, dài 2 thước 8 tấc.

- Toàn bộ từ mồm đến hậu môn dài 6 trượng, 4 tấc, 4 phân, vòng gấp 32 khúc.

Tóm tắt:

Từ họng đến vị (thực quản) 1 thước 6 tấc.

Tiểu trường (tá tràng, hỗng tràng) 3 trượng 3 thước + Hồi tràng (hồi tràng và đoạn trên kết trong)

Tổng hai phần trên = 5 trượng

6 thước/                   2 trượng 1 thước.

8 tấc / Quảng trường (trực tràng, đại tràng xích ma) 2 thước 8 tấc.

Cộng 3 đoạn cuối:

Tỷ lệ:

Thực quản/toàn bộ đoạn trên:   1,6/56,8 = 1/36

Giải phẫu hiện đại (Spalteholz): 25/925 = 1/37

Thực quản 25cm; tiểu trường 750cm; kết trường 175cm = 925cm .


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2017, 09:49:09 AM
32. Người khỏe nhịn ăn (Bình nhân tuyệt cốc)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về tác dụng tiêu hóa hấp thu của trường vị là nguồn gốc bổ sung dinh dưỡng để duy trì sự sống - Trong trường vị có một số lượng nhỏ thức ăn. Nếu hàng ngày không ăn uống, sau 7 ngày trường vị sẽ rỗng, không còn dinh dưỡng nữa và chết.

Hoàng đế: Tại sao người ta 7 ngày không ăn uống có thể chết?

Kỳ Bá: Dạ dày to 1 thước 5 tấc, đường kính 5 tấc, dài 2 thước 6 tấc, thu nạp thức ăn 3 đấu 5 thăng, trong đó thường có lưu 2 đấu thức ăn, 1 đấu 5 nước. (Sau khi thức ăn được tiêu hóa hấp thụ) thượng tiêu đem phân bổ các chất tinh vi, khí này mạnh mẽ hoạt lợi và đi khắp toàn thân, hạ tiêu thì tưới xuống các ruột.

- Tiểu trường (tá tràng, hỗng tràng) (vòng) to 5,2 tấc, đường kính 8 phân 1/3, dài 3 trượng 2 thước, thu nạp được 2 đấu 4 thăng thức ăn, 6 thăng 3 hợp 2/3 nước.

- Hồi tràng (hồi tràng, đoạn trên kết tràng) (vòng) to 4 tấc, đường kính 1 1/3 tấc, dài 2 trượng 1 thước, thu nạp 1 đấu thức ăn, 7,5 thăng nước.

- Quảng trường (trực tràng, đại tràng xích ma (vòng) to 8 tấc, đường kính 2 2/3 tấc, dài 2 thước 8 tấc, thu nạp 9 thăng, 3 hợp 1/8 thức ăn (cặn bã).

- Trường vị dài 5 trượng, 8 thước, 4 tấc, thu nạp 9 đấu 2 thăng, 1 hợp 2/3 thức ăn uống. Người khỏe không phải lúc nào cũng có số lượng như vậy, vì nếu dạ dầy đầy thì ruột rỗng, ruột đầy thì dạ dầy rỗng.

Trạng thái đầy vơi của trường vị làm cho khí lên xuống (điều hòa), ngũ tạng yên, huyết mạch hóa thông lợi, tinh thần ổn định, do đó thần là tinh khí của thức ăn vậy. Vì vậy tuy trường vị có thể đựng 2 đấu thức ăn, 1 đấu 5 thăng nước, nhưng ở người khỏe ngày ỉa 2 lần, mỗi lần 2,5 thăng, ngày 5 thăng, 7 ngày 3 đấu 5 thăng như vậy đã hết thức ăn uống trong trường vị. Cho nên người ta 7 ngày không ăn uống thì chết do tinh khí tân dịch của thức ăn uống đã hết.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2017, 03:07:00 PM
33. Luận về biển (Hải luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Hải là biển, nơi hội tụ của các sông. Cũng dùng từ "Hải" để hình dung một sự tụ họp mạnh mẽ "Biển ở trong người". Ở đây nói lên 4 nơi tụ tập nhiều nhất của cơ thể: Vị, Mạch xung, Đản trung, não, nguồn gốc của thần, tinh, khí, huyết, nơi tụ hội của dinh, vệ, khí, huyết, 12 kinh mạch. Triệu chứng, phép châm khi dùng hư hoặc thực.

Hoàng đế: Cách châm không tách rời dinh vệ khí huyết. 12 kinh mạch bên trong thuộc về tạng phủ, bên ngoài nối với chi khớp, vậy kinh mạch có hợp với 4 biển không?

Kỳ Bá: Con người có 4 biển và 12 kinh thủy (đại biểu cho 12 kinh mạch). 12 kinh thủy đều đổ ra biển, có biển đông, tây, nam, bắc gọi là 4 biển.

Hoàng đế: 4 biển ứng vào người như thế nào?

Kỳ Bá: Người có Tủy hải, Huyết hải, Khí hải và Thủy cốc chi hải (biển của thức ăn uống). Bốn biển trên của người  ứng với 4 biển Đông, Tây, Nam, Bắc vậy.

Hoàng đế: Muốn biết sự tương ứng giữa bốn biển của người với bốn biển của trời đất.

Kỳ Bá: Cần nắm âm dương (của kinh mạch), biểu lý (của cơ thể), vị trí các huyệt (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp), như vậy có thể xác định được bốn biển (nơi tụ hội của tủy, huyết, khí, thức ăn uống).

Hoàng đế: Làm thế nào để xác định?

Kỳ Bá: Vị là biển của thức ăn uống, nơi khí huyết đổ vào, ở trên là Khí nhai (Khí xung), ở dưới là Tam lý. Mạch xung là biển của 12 kinh, nơi khí huyết đổ vào (ở trên) là Đại trữ, ở dưới là Thượng cự hư và Hạ cự hư. Đản trung là biển của khí, nơi khí huyết đổ vào là phía trên, dưới trụ cốt (Á môn, Đại trùy) (trụ cốt là Thiên trụ - Cảnh Nhạc), phía trước là Nhân nghinh. Não là biển của Tủy, nơi khí huyết đổ vào ở trên là Bách hội dưới là Phong phủ.

Hoàng đế: 4 biển của cơ thể có lợi gì? Có hại gì? Sinh trưởng như thế nào? Suy bại như thế nào?

Kỳ Bá: (Công năng của) 4 biển, nếu thuận thì sinh, nếu nghịch thì bại, nếu biết cách điều hòa thì có lợi, không biết thì có hại.

Hoàng đế: (Công năng của) 4 biển như thế nào là thuận, như thế nào là nghịch?

Kỳ Bá: Khí hải có thừa (tà khí thịnh), thì khí đầy ở trong ngực, bồn chồn khó thở (khí nghịch lên và) mặt đỏ. Khí hải không đủ (chính khí hư) thì khí thiếu, không đủ để nói (nói nhỏ yếu). Huyết hải có thừa thường cảm thấy thân thể to lớn, uất ở trong nhưng nói chung khó nhìn thấy bệnh. Biển của thức ăn uống có thừa thì bụng đầy chướng, nếu thiếu thì dù đói cũng không ăn được. Biển của tủy có thừa thì chân tay mạnh, nhanh, nhiều sức, nếu thiếu thì đầu có chuyển động, tai ù, cẳng chân đau mỏi, đầu váng mắt hoa không nhìn thấy, mệt mỏi muốn nằm.

Hoàng đế: Sau khi biết nghịch thuận (mắc bệnh) rồi thì chữa thế nào?

Kỳ Bá: Cần kiểm tra các huyệt (có quan hệ với 4 biển) để điều hòa lại trạng thái hư thực, không nên phạm sai lầm (là không nắm rõ hư thực). Nếu chữa đúng phép thì bệnh có thể khỏi, nếu chữa ngược phép sai thì sẽ thất bại.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 04, 2017, 08:56:23 AM
Thiên 34. Ngũ loạn (Năm cái loạn)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về 5 cái loạn của khí: Loạn ở tâm, ở phế, ở trường vị, ở tay chân, ở đầu. Loạn này là do khí của kinh mạch loạn, âm dương tương phản, dinh vệ bất hòa, thanh trọc hỗn tạp ảnh hưởng nhau gây nên. Cũng nói về cách chữa, cách lấy huyệt để chữa các chứng này.

Hoàng Đế: 12 kinh mạch chia ra bằng ngũ hành, phân ra thành tứ thời.  Chúng mất như thế nào để thành loạn? Chúng được như thế nào để được trị?

Kỳ Bá đáp: Ngũ hành có trình tự của chúng (Khí hậu) bốn mùa thay đổi (theo quy luật âm dương hàn nhiệt). Công năng của kinh mạch tạng phủ trong người tương thuận (hợp với trình tự của ngũ hành và quy luật biến hóa của khí hậu bốn mùa) là trị (an hòa), nếu tương nghịch là (náo) loạn (không an).

Hoàng Đế hỏi: Thế nào gọi là sống tương thuận?

Kỳ Bá: 12 kinh mạch là để ứng với 12 tháng, 12 tháng chia làm bốn mùa. Bốn mùa gồm xuân hạ thu đông có các khí khác nhau, dinh vệ tương tùy (khí vận hành điều hòa với nhau) âm dương đã điều hòa, thanh (thăng), trọc (giáng) theo quy luật không cản trở nhau, đó là (kinh mạch tạng phủ) thuận mà được trị.

Hoàng Đế: Thế nào là nghịch và loạn?

Kỳ Bá : Khi thanh khí (giáng xuống) ở Âm, trọc khí (thăng lê) ở Dương, doanh khí (thuộc âm) đi thuận mạch, vệ khí (thuộc dương) đi ngược (tuần hoàn bình thường của nó), làm cho thanh và trọc cùng cản trở và ảnh hưởng lẫn nhau, gây loạn ở trong ngực gọi là đại muộn (bồn chồn). Nếu khí loạn ở Tâm, thì Tâm phiền, trầm lặng không nói, nằm che đầu, yên tĩnh. Nếu khí loạn ở Phế, khi thở phải nghển cổ, cúi đầu và thở kêu lục cục, thở ra phải ép ngực. Nếu loạn ở Trường Vị thì thượng thổ hạ tả. Nếu loạn tay chân và cẳng chân thì tứ chi quyết lãnh. Nếu loạn ở đầu thì khí quyết nghịch lên, đầu sẽ nặng, chóng mặt và ngã ngất.

Hoàng Đế: Châm chữa năm cái loạn này có quy luật gì không?

Kỳ Bá đáp: Bệnh phát sinh có diễn biến quy luật của nó, và thầy thuốc cũng phải chữa bệnh theo quy luật. Ai hiểu rõ quy luật của bệnh và có cách trị thích hợp thì dễ đem lại kết quả, đó có thể gọi là phép báu để giữ gìn sức khỏe.

Hoàng Đế: Vậy con đường ấy (nguyên tắc điều trị) là gì?

Kỳ Bá: khí loạn ở Tâm lấy huyệt Du của kinh thủ Thiếu âm và thủ quyết âm (Thần môn, Đại lăng). Khí loạn ở Phế, lấy huyệt du của túc thiếu âm và huỳnh của thủ thái âm (Thái khê, Ngư tế). Khí loạn ở Trường Vị, lấy túc Thái âm, Dương minh, nếu không có hiệu quả lấy Túc tam lý. Khí loạn ở đầu lấy Thiên Trụ, Đại Trữ, nếu không kết quả, lấy huyệt huỳnh du của túc thái dương (Thông cốc, Thúc cốt). Khí loạn ở tay chân, chích nặn máu tại chỗ trước, rồi các huyệt huỳnh du, của thủ túc dương minh, thiếu dương (Nhị gian, Tam gian, Dịch môn, Trung chữ - Nội đình, Hãm cốc - Hiệp khê, Lâm khấp).

Hoàng Đế hỏi: Bổ tả phải thế nào?

Kỳ Bá đáp: Tiến kim và rút kim từ từ để đạo (dẫn) khí (phục hồi trạng thái bình thường là đạo khí). Hình thức bổ tả là vô hình (không cố định), và đều nhằm mục đích bảo dưỡng tinh khí làm chính, gọi là "đồng tinh". Bổ tả ở đây không phải là để giải quyết cái thừa cái thiếu, mà chỉ là để dẫn đạo khí, hồi phục lại trạng thái khí loạn tương nghịch mà thôi (Đấy là tiêu chuẩn và quy tắc chữa bệnh).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 04, 2017, 09:10:15 AM
35. Luận về chướng (Chướng luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên nhân, triệu chứng, bệnh cơ, chẩn đoán, điều trị bệnh chướng và các loại bệnh chướng như mạch chướng, phu chướng, phế chướng, can chướng, tỳ chướng, vị chướng, đởm chướng.

Hoàng đế: Bệnh chướng phản ánh ra mạch thốn khẩu như thế nào?

Kỳ Bá: Bệnh chướng có mạch to, rắn và sáp (trệ).

Hoàng đế: Làm thế nào biết bệnh chướng của tạng phủ được?

Kỳ Bá: Mạch âm thuộc tạng, dương thuộc phủ.

Hoàng đế: Khí (cơ bị trở trệ) sẽ gây bệnh chướng, vậy nó trệ trong huyết mạch hay ở tạng phủ?

Kỳ Bá: Có thể trệ ở trong cả 3 (huyết mạch, tạng, phủ) nhưng đấy không phải là chỗ của chướng.

Hoàng đế: Vậy chỗ bệnh của chướng ở đâu?

Kỳ Bá: Bệnh chướng đều ở ngoài tạng phủ, dọc ngực sườn, làm da chướng lên. Đấy là chỗ của bệnh của chướng.

Hoàng đế: Tạng phủ nằm ở trong bụng, ngực như của quý cất trong hộp. Mỗi cái có một chỗ ở riêng, tuy ở cùng một vùng nhưng lại có tên khác nhau, khí của chúng (hoạt động) cũng khác nhau, tại sao vậy?

Kỳ Bá: Bụng, ngực là nhà của tạng phủ. Đản trung là cung thành của Tâm bào, vị là kho thức ăn, hầu họng, tiểu trường nơi đưa truyền (đưa, phân thanh trọc, từ trên đi xuống). Vị có 5 cửa (họng, bí môn (tâm vị), u môn (môn vị), lan môn, phách môn) như các hộ trong một xóm vậy. Liêm tuyền ngọc anh là đường đi của tân dịch. Do đó ngũ tạng lục phủ mỗi anh có một ranh giới, và bệnh của chúng có hình trạng riêng. Dinh khí tuần hoàn trong mạch, vệ khí nghịch sẽ thành mạch chướng (chướng ở mạch). Nếu vệ khí nhập vào huyết mạch cùng đi ở giữa các bó cơ sẽ sinh ra bệnh phu chướng (chướng ở da), chữa các bệnh chướng trên đều dùng cách tả Tam lý. Nếu chướng ở gần (cạn, nông) tả 1 lần, nếu ở xa (sâu) tả 3 lần, lúc này không cần phân biệt hư thực mà là tả nhanh, như vậy là thích hợp nhất.

Hoàng đế: Triệu chứng của bệnh chướng?

Kỳ Bá:

- Tâm chướng có Tâm phiền, khí ngắn, nằm không (ngủ) yên.

- Phế chướng có hư đầy ho và suyễn.

- Can chướng có dưới sườn đầy, đau, lan đến bụng dưới.

- Tỳ chướng dễ có nấc, chân tay phiền muộn, người nặng, nề trệ, không mặc được quần áo, nằm không (ngủ) yên.

- Thận chướng có bụng đầy lan ra lưng rất khổ sở, thắt lưng, hông đùi đau.

- Vị chướng có bụng đầy, đau bụng trên, như người thấy mùi thum thủm khó chịu, ảnh hưởng đến ăn uống, ỉa khó.

- Đại trường chướng, có bụng sôi, đau và kêu óc ách, mùa đông mà cảm hàn thì ỉa chảy sống phân.

- Tiểu trường chướng có bụng dưới căng chướng, lan ra thắt lưng và đau.

- Bàng quang chướng có bụng dưới đầy và bí đái.

- Tam tiêu chướng có khí dày ở trong da, ấn da thấy sốp sốp không cứng.

- Đởm chướng có dưới sườn đau chướng, mồm đắng hay thở dài.

(Trên đây chỉ là triệu chứng ở bụng ngực khi khí huyết bị trì trệ gây nên).  

- Các loại bệnh chướng trên, có nguyên tắc chữa bệnh như nhau, chỉ cần biết quan hệ thuận nghịch (của sự vận hành của khí huyết), nắm số lần châm là có thể chữa khỏi bệnh. Nếu hư lại tả, thực lại bổ thì (làm hao tán) thần (làm nó) phải rời chỗ ở, làm bệnh tà vào sâu, chính khí hao tán, và chân khí không thể ổn định (để duy trì sự sống). Thầy thuốc kém sẽ do đó gây nên hậu quả xấu, dễ làm bệnh nhân yểu mệnh. Nếu bổ đúng hư tả đúng thực thì thần về chỗ ở của nó, tấu lý ở da không sơ hở nữa. Người làm được như vậy là thầy giỏi (Cần nhớ ở trên đã nói là châm nhanh huyệt Tam lý).

Hoàng đế: Bệnh chướng từ đâu ra? Nguyên nhân là gì?

Kỳ Bá: Vệ khí tuần hoàn trong người thường cùng đi với huyết mạch ở giữa các cơ, song nó đi có nghịch có thuận, âm dương tương tùy, (về dương) cùng với dinh âm tuần hoàn với nhau, như vậy sẽ hòa được với trời (hiện tượng mặt trời mặt trăng di chuyển trong thiên nhiên). Khí của ngũ tạng cũng vận chuyển (từ tạng này sang tạng kia) theo trình tự 4 mùa (sáng, trưa, chiều, tối, xuân, hạ, thu, đông) để tiêu hóa thức ăn uống. Nếu (âm dương không điều hòa) khí quyết ở dưới, làm dinh vệ lưu trệ, khí hàn nghịch lên, chân khí tà khí đánh nhau và hai khí đánh nhau sẽ gây bệnh chướng. Trong trường hợp này, đó là sự kết hợp (giữa kinh mạch và tạng phủ) với chân khí (vệ khí) cả 3 hợp lại mà thành.    

Hoàng đế: Bệnh chướng không phân biệt hư thực, trong (nguyên tắc) chữa bênh đều dùng phép tả , bệnh ở gần (nông) thì châm tả 1 lần, ở xa (sâu) thì châm tả 3 lần, nếu châm tả 3 lần vẫn không kết quả thì vấn đề ở đâu?

Kỳ Bá: Khi nói đến châm 1 lần, 3 lần là nói đến cả phải chú ý châm sâu vào giữa các bó cơ và nhất định phải trúng huyệt. Nếu không trúng huyệt, thì tà khí sẽ bế ở trong, châm không đúng vào giữa các bó cơ thì tà khí cũng không bị đuổi đi, ngược lại nó nghịch lên, làm cho vệ khí (và tà khí đánh nhau) loạn lên, âm dương đuổi nhau. Khi chữa bệnh chướng đáng tả mà không tả thì không đuổi được tà khí. Nếu châm 3 lần chưa kết quả cần đổi huyệt và châm lại đến khi tà khí bị đuổi mới thôi. Nếu vẫn chưa có kết quả lại châm lại, vẫn có khả năng chữa khỏi bệnh. Mặt khác khi chữa bệnh chướng, cần xem mạch, nếu cần tả thì tả, cần bổ thì bổ. Có phép chữa đúng thì sẽ có hiệu quả như gõ trống sẽ kêu vậy.        


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 04, 2017, 04:01:07 PM
36. Năm bế của tân dịch (Ngũ lung tân dịch biệt)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Luận về sự khác nhau của tân và dịch. Tân dịch qua đường tam tiêu phân bổ ra toàn thân. Phần có tác dụng ôn nhuận cơ, nuôi dưỡng da là tân, phần có tác dụng nhu nhuận gân khớp, có chảy nhưng không đi là dịch. Mùa đông lạnh mặc áo mỏng thành nước tiểu và khí, trời nóng mặc áo dầy thì ra mồ hôi, bi ai thì chảy nước mắt mũi...cũng nói đến nguyên nhân và triệu chứng tuần hoàn của nước bị tắc - không xuống đến bàng quang, chỉ đình lại ở hạ tiêu thành thủy chướng. Tân dịch còn hóa thành nước bọt, nước đái, mồ hôi, nước mắt, tủy...

Hoàng đế: Thức ăn uống vào mồm, chuyển vào trường vị, dịch của nó chia thành 5 loại. Trời lạnh mặc áo mỏng thì thành nước đái và khí, trời nóng mặc áo dầy thì thành mồ hôi, bi ai khí cùng đi lên thì khóc ra nước mắt, trung tiêu nhiệt gây vị hoãn (khí nghịch) thì thành nước bọt. Ở trong mà tà khí nghịch thì khí dương sẽ tắc, thủy khí sẽ không hành và thành thủy chướng. Tại sao như vậy thì đã biết, còn từ đâu sinh ra thì chưa biết.

Kỳ Bá: Thức ăn uống đều vào mồm, có 5 vị, và đều vào biển của chúng (4 biển) (để nuôi dưỡng toàn thân). Tân dịch (do tinh vi của chất ăn uống hóa thành) mỗi cái đi đường riêng của nó. Phần tinh khí phát từ tam tiêu để làm ấm cơ, nuôi dưỡng da, đó là tân, phần chỉ chảy mà không đi (lưu bất hành) đó là dịch.

- Trời nóng mặc áo dầy thì thấu lý mở ra và ra mồ hôi, lúc đó nếu hàn thừa cơ xâm nhập vào lưu ở giữa các cơ thì tân dịch sẽ tụ lại thành bụi bọt và sẽ gây đau.

- Trời lạnh mặc áo mỏng thì thấu lý đóng, thấp khí không hành, nước chảy xuống bàng quang thành nước tiểu và khí.

- Trong 5 tạng 6 phủ, Tâm là chủ, làm cho tai biết nghe, mắt biết nhìn, Phế (điều tiết khí toàn thân) như tể tướng vậy, Can (chủ mưu sự quyết đoán) như tướng trí dũng của Tâm, Tỳ (vận hóa dinh dưỡng để nuôi cơ thể) bảo vệ toàn thân, Thận tưới tinh ra khiếu ngoài của nó. Tân dịch của tạng phủ đều tưới lên mắt.

- Tâm (là chủ) nếu bi ai thì khí của tạng phủ đều lên Tâm, gây nên hệ mạch của Tâm khẩn cấp, hệ mạch của Tâm cấp thì Phế nở to, Phế nở to thì thủy dịch theo khí nghịch tràn lên trên. Do hệ mạch của Tâm và Phế không thường xuyên nở to và khẩn cấp, khí hành lúc lên lúc xuống, nên (khí thủy dịch theo khí tràn lên thì sẽ) ho, chảy nước mắt.

- Trung tiêu nhiệt thì thì thức ăn trong vị dễ tiêu, thức ăn tiêu hóa rồi thì giun ở ruột sẽ lên xuống. Khi ăn xong, trường vị sẽ đầy, (vị đầy thì trường rỗng, vị rỗng thì trường đầy) làm vị hoãn, vị hoãn thì khí nghịch lên nước bọt sẽ theo đó ra ngoài.

- Tân dịch của thức ăn uống, hòa hợp với nhau quánh lại thành cao, trong thấm vào ống xương để bổ dưỡng cho não tủy và chảy xuống phía trong đùi.

- Âm dương bất hòa làm dịch chảy ra và chảy xuống âm khiếu, tủy dịch cũng giảm và nếu chảy quá mức sẽ (làm chân âm) hư tổn, (chân âm) hư tổn sẽ xuất hiện lưng, thắt lưng đau và cẳng chân ê ẩm.

- Đường khí của âm dương không thông, huyết hải, khí hải, tủy hải, thủy cốc hải cũng tắc (không thông), tam tiêu không tiết được, tân dịch không thể được (sinh) hóa ra, thức ăn (chưa tiêu hóa) cùng chạy vào trường vị, (cặn bã) tách vào hồi tràng, (thủy dịch) ngưng ở hạ tiêu không xuống bàng quang được làm hạ tiêu chướng đầy, nước chảy tràn ra tứ phía gây nên thủy chướng. Đó là trạng thái thuận (bình thường) và nghịch (trái thường) của tân dịch và 5 dịch của nó.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 04, 2017, 05:01:31 PM
37. Biểu hiện của khí và sắc trạch của ngũ tạng (Ngũ duyệt, ngũ sử)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về quan hệ tương ứng trong ngoài của 5 tạng, 5 sắc, và 5 biểu hiện bệnh lý của khí của chúng, và phản ảnh ra ở minh đường là quan trọng nhất.

Hoàng đế: Phương pháp châm phải xét cho được ngũ quan, ngũ duyệt nhằm thấy ngũ khí. Ngũ khí là sứ giả của ngũ tạng, nó phối hợp với ngũ thời. Ngũ sứ xuất hiện thế nào??

Kỳ Bá: Ngũ quan là biểu hiện ra ngoài của ngũ tạng, và phối hợp với 5 thời tiết.

Hoàng đế: Ngũ quan phải xuất hiện thế nào thì là bình thường?

Kỳ Bá: Mạch (tượng của ngũ tạng) phản ảnh ở cổ tay, (khí) sắc của ngũ tạng phản ảnh ở minh đường (vùng mũi, chóp mũi). Sự xuất hiện của 5 sắc có thể tương ứng với 5 thời tiết và có sắc bình thường riêng. Nếu kinh (tà) khí từ kinh lạc vào nội tạng thì phải chữa bệnh ở lý.

Hoàng đế: Có phải 5 sắc chỉ phản ảnh ở Minh đường chóp (vùng) mũi?

Kỳ Bá: (Ở người bình thường) 5 quan đã được xác định (bằng gương mặt). Vùng giữa chân tóc và giữa lông mày (khuyết đình) căng đầy sẽ làm nổi rõ minh đường (vùng chóp mũi). Nếu minh đường to rộng, khoảng cách má tai (phồn tế) rộng, 4 bể của tai vuông vắn (phương bích) hàm dưới cao dầy (cao cơ), như bờ thành bảo vệ minh đường. Mặt khác, nếu ngũ sắc của mặt bình thường, (thổ cơ) bằng phẳng, rộng rãi, thì người đó có thể sống 100 tuổi. Chữa cho những người ấy, dùng châm dễ có hiệu quả. VÌ họ khí huyết đầy đủ, cơ bắp săn chắc, nên thích ứng với châm.

Hoàng đế: Muốn biết về ngũ quan (quan hệ ngũ quan, ngũ tạng)?

Kỳ Bá: Mũi là quan của Phế (thở), mắt của Can (nhìn), mồm môi của Tỳ (thu nạp thức ăn uống), lưỡi của Tâm (nếm), tai của Thận (nghe).

Hoàng đế: Từ (khí sắc của) 5 quan có thể thấy được gì?

Kỳ Bá: Có thấy (bệnh lý) 5 tạng. Phế có bệnh thì suyễn khó thở, lỗ mũi phồng lên. Cần có bệnh thì khóe mắt mầu xanh. Tỳ có bệnh thì môi vàng. Tâm có bệnh thì lwoix rụt gòa má đỏ. Thận có bệnh thì quyền (gò má) nhàn (trán) đen.

Hoàng đế: Có người 5 mạch 5 sắc bình thường, khí sắc bình thường mà đột nhiên bị nguy kịch, tại sao?

Kỳ Bá: 5 quan không phân biệt được (âm, sắc, mùi, vị) (tạng khí đã suy), thiên đình (từ chân tóc trán đến giữa hai lông mày) không căng (dương khí mỏng manh), vùng minh đường (chóp mũi) nhỏ hẹp (Tỳ, Phế suy), khoảng gò má - tai không rõ rệt, 4 phía của mặt thấp bé, hàm dưới bằng, lõm xuống, dái tai và mỏm tai vểnh ra ngoài (tiên thiên Thận mỏng manh). Tuy không có bệnh nhưng là yểu tướng, nếu có bệnh dễ bị nguy kịch.

Hoàng đế: Ngũ sắc nổi lên ở Minh đường có thể nói lên trạng thái khí của 5 tạng, nhưng chúng có vị trí nhất định ở trên, dưới, phải, trái của Minh đường không?

Kỳ Bá: Tạng phủ có vị trí nhất định ở trong (bụng ngực), cho nên sắc trạch ở trên, dưới, phải, trái của minh đường, sự tương ứng của bên trong với bên ngoài cũng có vị trí nhất định (thiên đình (nhân) là đầu mặt, phần trên khoảng giữa hai lông mày là hầu họng, phần giữa khoảng giữa hai lông mày là Phế, phần dưới của nó là Tâm, thẳng dưới Tâm là Can, bên trái của Can là Đởm, dưới là Tỳ, chỏm mũi là Vị - xem thiên ngũ sắc).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 05, 2017, 10:35:31 AM
38. Nghịch thuận gầy béo (Nghịch thuận phì sấu)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về các cách châm thích hợp với người béo, người gầy, người vừa phải, trung niên, trẻ em mới đẻ. Người béo và người chắc thường là khí trì, huyết trệ, cần châm sâu và lưu kim, người gầy thường huyết thanh khí hoạt cần châm nông và châm nhanh, người trung bình thường khí huyết hòa thuận, dùng cách chữa thông thường, trẻ em da cơ mỏng, huyết yểu khí yếu, dùng kim nhỏ châm nông, thao tác nhanh. Làm như vậy là thuận, ngược lại là nghịch. Nói về quan hệ giữa hướng đi của 12 kinh và hướng lên xuống của khí huyết.

Hoàng đế: Phép châm có được là nhờ vào học tập tốt hay nhờ vào thẩm sát vạn vật?

Kỳ Bá: Nguyên tắc (đạo lý) của châm cứu là phải phù hợp thiên, địa với nhân. Nhờ đó, có các phép điều trị rõ ràng chính xác, có tiêu chuẩn số độ, quy định, cách kiểm tra, để truyền lại cho đời sau...

- Những đạo lý đó là đạo lý của tự nhiên.

Hoàng đế: Tự nhiên là thế nào?

Kỳ Bá: Muốn dẫn nước ở sông sâu không cần dùng công sức mà dùng thế để dẫn nước thì có thể dẫn hết nước được, dựa vào mạch nước đào sâu thêm là nước xung lên và thông được mạch nước. Điều đó nói lên, trong cơ thể có hoạt có sáp, huyết có thanh có trọc, tuần hoàn của khí huyết có nghịch có thuận (nếu biết thuận theo thế của tự nhiên thì sự việc đã hoàn thành được một nửa).

Hoàng đế: Đối với người đen người trắng, người gầy, người béo, người trẻ, người già, số lần châm, mức độ nông, sâu có tiêu chuẩn gì không?

Kỳ Bá: Người tráng niên to khỏe, khí huyết đầy đủ, da săn chắc, kín đáo, nay bị tà gây bệnh, châm cho người này thì châm sâu và lưu kim.

- Người béo (tráng niên) có vai gáy nách rộng, cơ mỏng da dầy và sắc đen, môi dầy như trễ xuống và (thâm) huyết đen và đục (Linh khu dịch thích là: Sắc mặt đen như sơn và dày đục), khí sáp và trì. Những người này thường tham lam, luôn muốn chiếm cho mình. Châm cho họ vừa châm sâu, lưu kim lâu, vừa châm nhiều kim và làm nhiều lần.

Hoàng đế: Châm cho người gầy thì làm thế nào?

Kỳ Bá: Người này có da mặt sắc thiểu, thịt mỏng như da không có thịt, môi mỏng nói tiếng nhỏ nhẹ, huyết thanh khí hoạt (huyết hành nhẹ nông, khí đi hoạt lợi) dễ bị hư thoát, dễ bị hao tổn huyết dịch. Châm cho người ấy phải châm nông và rút kim nhanh.

Hoàng đế: Châm cho người trung bình thì làm thế nào?

Kỳ Bá: Xem mầu da trắng hay đen để điều hòa lại (sắc trắng thường yếu, dùng cách châm cho người gầy, sắc đen thường khỏe chắc, dùng cách châm cho người béo). Người đôn hậu đoan chính thì khí huyết điều hòa (không sáp không hoạt), châm cho người đó thì dùng cách châm thông thường.

Hoàng đế: Châm cho người thanh niên khỏe, xương chắc thì làm thế nào?  

Kỳ Bá: Xem hoạt động của họ, nếu xương cơ chắc, khớp hoãn, đường bệ, đôn phác, không hiếu động, bình ổn, là có khí trệ huyết thực, cần phải châm sâu và lưu kim, châm nhiều kim và nhiều lần. Nếu động tác lanh lẹ là khí hoạt huyết trong, cần dùng cách châm nông và rút kim nhanh.

Hoàng đế: Châm cho anh nhi (trẻ rất nhỏ) thì làm thế nào?

Kỳ Bá: Anh nhi (trẻ rất nhỏ) có cơ thể yếu khí yếu huyết thiểu, châm cho cháu cần dùng kim nhỏ, châm nông rút nhanh, có thể ngày châm 2 lần.

Hoàng đế: Muốn dẫn nước ở nông sâu, không cần mất nhiều công mà chỉ cần dựa vào thế nước để dẫn nó, còn châm cứu thì áp dụng ví dụ đó như thế nào?

Kỳ Bá: Người có huyết trong và khí đục (có lẽ là khí hoạt) (thì cảm giác nhạy), nếu tả gấp thì sẽ gây khí hao kiệt (giống như nước chảy xiết thì sẽ chảy đi hết).

Hoàng đế: Dựa vào mạch nước đào sâu thêm để nước phun lên phải mất công sức, áp dụng ví dụ đó vào châm như thế nào?

Kỳ Bá: Người có khí đục huyết sáp (cảm giác sẽ trì trệ), cần châm tả nhanh mới có thể làm kinh mạch thông (như là nước ở dưới suối phun lên).

Hoàng đế: Đường đi nghịch thuận của kinh mạch như thế nào?

Kỳ Bá: 3 kinh âm tay từ tạng ra đến tay; 3 kinh dương tay từ tay lên đầu; 3 kinh dương chân đi từ đầu đến chân; 3 kinh âm chân đi từ chân lên bụng.

Hoàng đế: Các kinh âm đều đi từ chân lên bụng, sao chỉ có Túc thiếu âm đi xuống?

Kỳ Bá: Đó (không phải là kinh thiếu âm chân mà) là (nhánh của) mạch xung. Mạch xung là biển của (tinh huyết) 5 tạng 6 phủ (12 kinh); 5 tạng 6 phủ đều bẩm thụ khí của nó (được nó nuôi dưỡng). Mạch đi lên của nó xuất ra ở vòm họng và tưới tinh khí cho các kinh dương. Mạch đi xuống của nó đổ vào đại lạc của thiếu âm chân, xuất ra ở khí nhai (khí xung) trong xương chày xuống sau mắt cá trong và tách ra. Nhánh đi xuống đi cùng chiều với thiếu âm (chân) thấm vào 3 kinh âm. Nhánh đi ở trước đi chìm ở trong bàn chân, đi dọc xuống vào mu chân đến khe ngón cái, thấm vào các lạc và làm ấm cơ.

- Nếu nhánh của mạch xung bị kết uất (do bị tà khí) thì mạch mu chân không đập, không đập thì quyết, quyết thì lạnh.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết rõ (quan hệ thuận nghịch của nó)?

Kỳ Bá: Dùng ngũ quan để quan sát, rồi sờ mạch ở mu chân, nếu không có bệnh lý khác thường thì mạch phải đập, sau đó có thể xác định (không đập) là nghịch, (đập là) thuận của sự tuần hành của khí.

Hoàng đế: Đây là vấn đề khó đối với người thầy thuốc, tuy rằng nó sáng tỏ như mặt trăng, mặt trời và rất tinh vi. Nếu không nắm được, khó lòng trình bày được


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 06, 2017, 03:39:17 PM
39. Luận về huyết lạc (Huyết lạc luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên huyết lạc là trạng thái lạc mạch bị ứ huyết. Cách chữa nó phải chích nặn máu, những lý do dẫn đến các trạng thái đó và phương pháp quan sát huyết lạc.

Hoàng đế: Thế nào là tà khí lạ (vào phần biểu mà) không vào phần kinh?

Kỳ Bá: Đó là những tà khí lưu trệ trong huyết lạc (Tố Vấn, mậu thích - tà khách ở bì phu, vào ở tôn lạc, lưu ở đó, làm chúng tắc lại nên không thể vào kinh, chỉ tràn trề ra đại lạc, và sinh bệnh lạ).

Hoàng đế: Chích nặn máu mà ngã ngất là tại sao? Chích nặn máu mà máu phụt mạnh ra là tại sao? Máu ra ít, thẫm và đục là tại sao? Máu ra thanh (loãng) và 1/2 là nước dịch là tại sao? Rút kim rồi mà sưng lên là tại sao? Máu ra hoặc nhiều hoặc ít mà sắc mặt bệch ra là tại sao? Rút kim rồi sắc mặt như cũ mà có phiền muộn (bồn chồn) là tại sao? Máu ra nhiều mà không ảnh hưởng xấu là tại sao?

Kỳ Bá: Khí của mạch thịnh mà huyết hư, châm có thể làm cho khí thoát, khí thoát thì ngất. Khí huyết đều thịnh và âm khí trong mạch nhiều thì huyết hành sẽ hoạt lợi và như vậy nếu chích vào lạc máu sẽ phun ra. Nếu dương khí tích tụ lại ở giữa da, lưu trệ ở đó lâu mà không tả đi được thì máu chích ra sẽ đen và đục, do đó không phụt ra. Vừa uống song, nước ngấm vào lạc chưa qua biến hóa, hợp hòa với huyết dịch, cho nên máu chích ra có một phần là thủy dịch. Nếu không phải do vừa uống nước thì là do trong người có nước lâu ngày thành phù thũng. Khí âm (của ngũ tạng) tích ở phần dương (ở da) khí của nó xuất ra từ lạc mạch, cho nên khi chích (lạc) chưa ra máu, khí đã ra trước huyết (âm trệ ở dương không dễ tán ra được) - nên (châm xong) sưng tại chỗ. Khí âm dương (vệ, khí, dinh, huyết) khi mới tương đắc chưa kịp hòa hợp mà đã bị tả lúc này có thể làm âm dương (khí huyết) đều thoát, biểu lý (dinh vệ) ly biệt nên sắc thoát và bệch. Chích lạc máu ra nhiều, sắc mặt không đổi mà tâm phiền là do chích lạc làm cho kinh hư, kinh mạch thuộc âm (nối với tạng) mà hư sẽ gây âm thoát, nên tâm phiền.

Âm dương tương đắc sẽ hợp thành chứng tý (ngoại tà hợp với trong gây chứng tý), đó là ở trong tà khí bị úng trệ và tràn ngập kinh mạch, ở ngoài thì đổ vào lạc mạch. Trong trường hợp đó âm dương đều có thừa (tà khí) nên tuy máu chích ra nhiều (tà khí theo đó ra ngoài) xong cũng không gây (kinh mạch) hư.

Hoàng đế: Là thế nào để quan sát (huyết lạc)?

Kỳ Bá: Huyết mạch (nếu có ứ huyết thì sẽ) thịnh, cứng ngang ra và đỏ lên, hoặc ở trên, hoặc ở dưới, không có chỗ nhất định, nếu nhỏ thì như cái kim, nếu lớn thì như gân, đó là cái mốc để tả (nặn máu) một cách rất an toàn. Cho nên không được châm sai với chuẩn, nếu sai là ngược với phép châm (chuẩn là kinh mạch xuất từ kinh đến mạch lạc rồi tôn lạc, làm ngược lại là từ tôn lạc, đến mạch lạc, đến kinh).

Hoàng đế: Châm rồi, kim bám chặt vào cơ, làm thế nào?

Kỳ Bá: Do kim sau khi châm vào, tiếp xúc với nhiệt khí làm cho kim nóng lên (kích thích cơ) làm cơ (co) bám chặt lấy kim, gây mút kim không vê kim được.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 06, 2017, 04:55:05 PM
40. Âm dương trong đục (Âm dương thanh trọc)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về tác dụng và tính chất của khí trong và khí đục. Trong tưới vào âm (tạng), trọc tưới vào dương (phủ), trong cái trong có đục, trong cái đục có trong. Nếu trong và đục hỗn tạp, thay đổi vị trí trên dưới sẽ gây bệnh do khí loạn. Nêu rõ cách châm tương ứng với tính chất thanh trọc (trong đục).

Hoàng đế: 12 kinh mạch ứng với 12 con sông của thiên nhiên, 5 sắc của các sông không giống nhau, trong đục cũng sẽ khác nhau, còn khí huyết của người là một loại, làm thế nào để phân biệt?

Kỳ Bá: Khí huyết của người, nếu như có thể hợp thành một thì thiên hạ cũng sẽ hợp nhất, vậy làm gì có (người làm) loạn, trong thân thể con người có khí loạn, trong xã hội cũng có người làm loạn, hai cái loạn ấy hợp làm một vậy.

Hoàng đế: Muốn biết về khí trong và khí đục trong người?

Kỳ Bá: (Người hấp thu) khí của thức ăn uống là khí đục (trọc) khí (hít thở) của trời là khí (thanh) trong. Khí trong (của không khí) tưới vào âm (tạng). Khí đục (của thứ ăn uống) thấm tưới vào dương (phủ). Khí trong biến hóa từ khí đục (của thức ăn), thăng lên ra ở hầu họng. Khí đục có ở trong khí trong (của khí trời) giáng xuống và chảy xuống dưới. Nếu khí trong và khí đục tương can (hai khí tác động lẫn nhau) gọi là khí loạn.

Hoàng đế: Khí trong đổ vào âm, khí đục đổ vào dương, trong khí đục có khí trong, trong khí trong có khí đục, làm thế nào phân biệt khí trong và khí đục.

Kỳ Bá: Hoạt động của khí ở trong người có khác nhau: Khí trong đổ lên Phế, khí đục đi xuống đổ vào Vị. Khí trong (trong khí đục) của Vị dẫn lên đổ ở mồm, khí đục (trong khí trong) của Phế, đi xuống đổ vào kinh và tích lại ở biển của khí.

Hoàng đế: Trong (6 phủ) dương khí đều đục cả, nhưng khí nào đục nhất?

Kỳ Bá: Thái dương tiểu trường tay (có tác dụng phân biệt trong và đục) mình nó tiếp thu khí đục của dương (Vị); Thái âm phế (chủ thiên, có tác dụng trị tiết) mình nó tiếp thu khí trong của âm (5 tạng), khí trong của nó thăng lên đi vào khiếu rỗng, khí đục của nó đi xuống xuyên thông vào các kinh. Các (tạng) âm đều (tiếp thu) khí trong, nhưng riêng Thái âm tỳ (chủ địa, chủ vận hóa) mình nó nhận khí đục (ở Vị, gọi là khí đục trong khí trong).

Hoàng đế: Làm thế nào để (chữa) điều hòa khí trong khí đục?

Kỳ Bá: Khí trong rất hoạt lợi, khí đục rất sáp trệ, đó là tình hình bình thường của khí trong và khí đục, cho nên châm bệnh ở âm (tạng, lý) cần châm sâu và lưu kim, châm bệnh ở dương (phù biểu) cần châm nông và rút kim nhanh. Nếu khí đục, khí trong tương can (đánh nhau; trên dưới đổi chỗ là khí loạn) thì (căn cứ vào mức độ xuất nhập nông sâu lý biểu để tìm cách) châm thích hợp nhằm điều hòa lại cơ thể.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 07, 2017, 09:48:49 AM
Quyển thứ bảy

41. Hệ âm dương nhật nguyệt (Âm dương hệ nhật nguyệt)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Trời là dương, đất là âm, nhật là dương, nguyệt là âm. Thắt lưng trở lên là trời, thuộc dương, ứng với mặt trời; thắt lưng trở xuống là đất, thuộc âm ứng với mặt trăng. Lấy trên làm dương, dưới làm âm, phối hợp 10 kinh ở 2 tay với 10 thiên can, 12 kinh ở 2 chân với 12 địa chi. Ở hai mùa Đông Xuân khí của người ở bên trái, hai mùa Thu Hạ, khí của người ở bên phải. Lúc châm không nên chỉ châm ở một bên, dựa vào mặt trời, mặt trăng, không châm kinh mạch tương ứng vơi 10 can 12 chi để tránh làm tổn thương chính khí.

Hoàng đế: Trời là dương, đất là âm, mặt trời là dương, mặt đất là âm. Vấn đề này hợp vào người như thế nào?

Kỳ Bá: Thắt lưng trở lên là trời, thắt lưng trở xuống là đất, phần gọi là trời thuộc Dương, gọi là đất thuộc Âm. (Hai chân ở dưới, 12 kinh chân ứng với 12 địa chi (tý, sửu, dần , mão, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi, gọi là nguyệt phận). Do nguyệt (mặt trăng) sinh ra từ thủy thuộc Âm. (Hai tay ở trên) 10 ngón tay ứng với 10 ngày (thiên can - ngày trong một tuần: Giáp, Ât, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý) (1 tháng âm lịch chia 3 tuần). Nhật thuộc hỏa nên ở trên, là Dương.  

(Phương pháp Tí ngọ lưu chú được xây dựng trên cơ sở này).

Hoàng đế: (12 nguyệt, 10 nhật) hợp với kinh mạch như thế nào?

Kỳ Bá: Dần là khí dương, lúc khí dương của năm bắt đầu sinh ra (dương bắt đầu sinh ra từ trái rồi mới sang phải), chủ Túc thiếu dương trái. Mùi là tháng 6 chủ Túc thiếu dương phải. Mão là tháng 2 chủ Túc thái dương trái. Ngọ là tháng 5 chủ Túc thái dương phải. Thìn là tháng 3, chủ Túc dương minh trái. Tỵ là tháng 4 chủ Túc dương minh phải (Như vậy tháng 1, 2, 5, 6, thuộc Thiếu dương, Thái dương, còn ở giữa tháng 3, 4 là Dương minh). Hai kinh dương (thiếu, thái dương) hợp ở phía trước (Hai dương hợp thành minh là dương khí phát triển đến mức cao nhất) gọi là Dương minh. Thân là tháng 7, lúc khí âm bắt đầu sinh (âm bắt đầu từ phải sang trái) chủ Túc thiếu âm phải. Sửu là tháng chạp, chủ Túc thiếu âm trái. Dậu là tháng 8, chủ Túc thái âm phải. Tý là tháng 11, chủ Túc thái âm trái. Tuất là tháng 9, chủ Túc quyết âm phải. Hợi là tháng 10, chủ Túc quyết âm trái (như vậy tháng 7, 8 là âm sơ sinh, tháng 11, 12 là dương sơ sinh), tháng 9, 10 là âm tận (quyết là tận), gọi là quyết âm.

(Không châm kinh ứng hợp với tháng, vì có thể làm tổn thương chính khí. Ví dụ tháng chạp (12) không châm Túc thiếu âm trái. Các kinh khác cũng tính như vậy).

Phụ giải: Hàng năm từ ngày Đông chí tháng 11 âm lịch, ngày bắt đầu dài dần, đêm bắt đầu ngắn dần, gọi là dương tiến, âm lùi. Từ ngày Hạ chí tháng 5, ngày bắt đầu ngắn dần, đêm dài dần, gọi là âm tiến, dương lùi. Nghĩa là từ mùa Đông, qua Xuân sang Hạ âm cực phải sinh dương, là lúc dương khí từ suy chuyển dần thành thịnh, từ mùa Hạ qua Thu sang Đông, dương cực phải sinh âm, là lúc âm khí chuyển từ suy sang thịnh dần. Kết hợp với sự chuyển dịch của dương từ trái sang phải và của âm từ phải sang trái, lấy Đông Xuân kết hợp với kinh chân trái, tháng 10 Quyết âm chân trái, tháng 11 Thái âm chân trái, tháng 12 Thiếu âm chân trái, nghĩa là khí âm từ quyết, sang thái, sang thiếu (suy dần). Đến Xuân dương khí tăng dần, tháng 1 Thiếu dương chân trái, tháng 2 Thái dương chân trái, tháng 3 Dương minh chân trái, nghĩa là khí dương tăng dần từ thiếu, sang thái đến minh. Mùa Hạ sang Thu khí âm tăng dần, khí dương giảm dần, nên phối hợp với kinh chân phải, tháng 4 Dương minh chân phải, tháng 5 Thái dương chân phải, tháng 6 Thiếu dương chân phải, nghĩa là khí dương từ Minh qua Thái đến Thiếu, giảm dần. Tháng 7 Thiếu âm chân phải, tháng 8 Thái âm chân phải, tháng 9 Quyết âm chân phải, nghĩa là khí âm từ Thiếu qua Thái sang Quyết, tăng dần.

Người xưa dùng con số để tính:

Tháng 1 (Thiếu dương chân trái) + tháng 6 (Thiếu dương chân phải) = 7

Tháng 2 + tháng 5 (Thái dương trái phải) = 7

Tháng 3 + tháng 4 (Dương minh trái phải) = 7

Tháng 7 + tháng 12 (Thiếu âm phải trái) = 19

Tháng 8 + tháng 11 (Thái âm phải trái) = 19

Tháng 9 + tháng 10 (Quyết âm phải trái) = 19

3 cặp sau nếu trừ đi 12 (chi) cũng là 7

Bảng tóm tắt cho dễ nhớ

(https://i.imgur.com/TkUTlTI.jpg)

- (Thiên Can phù hợp với 10 ngày trong tuần) Giáp chủ Thiếu dương tay trái, Kỷ chủ Thiếu dương tay phải, Ất chủ Thái dương tay trái, Mậu chủ Thái dương tay phải, Bính chủ Dương minh tay trái, Đinh chủ Dương minh tay phải (Bính Đinh đều thuộc hỏa). Ngày mà hai hỏa hợp là Dương minh. Canh chủ Thiếu âm tay phải, Quý chủ Thiếu âm tay trái, Tân chủ Thái âm tay phải, Nhâm chủ Thái âm tay trái.

Phụ giải: Giáp, Ất thuộc mộc - mùa Xuân; Bính, Đinh thuộc hỏa - mùa Hạ; Mậu, Kỷ thuộc thổ - trưởng Hạ; đó là 6 tháng đầu năm thuộc dương. Canh, Tân thuộc kim - mùa Thu; Nhâm, Quý thuộc thủy - mùa Đông; đây là 6 tháng cuối năm thuộc âm. Từ Xuân sang Hạ, dương khí đuổi nguyệt chuyển sang thịnh, hợp với 10 ngày trong tuần như nhau: 6 Can, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ hợp với kinh dương tay. Từ Thu sang Đông, là khí âm đuổi nguyệt chuyển sang thịnh, nên 4 Can, Canh, Tân, Nhâm, Quý hợp với kinh âm tay. Sự phối hợp này không giống như thiên can phối hợp với tạng phủ (Giáp mộc đởm, Ất mộc can) mà là phối hợp giữa kinh với sự tiến thoái của âm dương. Và cũng có thể dùng con số để nói lên quan hệ âm dương thịnh suy tiến thoái. Giáp số 1, Ất 2, Bính 3, Đinh 4, Mậu 5, Kỷ 6. Ví dụ: Giáp 1 - Thiếu dương tay trái, Ất 2 - Thái dương tay trái, Bính 3 - Dương minh tay trái, Kỷ 6 - Thiếu dương tay phải, Mậu 5 Thái dương tay phải, Đinh 4 - Dương minh tay phải. Hai bên phải trái cộng lại đều là 7. Nói lên 1 đến 3 là dương tăng dần, 4 đến 6 dương giảm dần. Canh số 7, Tân 8, Nhâm 9, Quý 10, thuộc âm nên phối hợp với kinh âm tay, Canh 7 Thiếu âm tay phải, Quý 10 Thiếu âm tay trái, 10 + 7 = 17, Tân 8 Thái âm tay phải, Nhâm 9 Thái âm tay trái, 8 + 9 = 17. Nếu 17 - 10 (Can) = 7, tương ứng với số 7 có ở phần Giáp Kỷ.

Tại sao ở tay không có kinh Quyết âm? vì kinh âm nói về năm, năm có 6 khí, tay có nhiều tuần, tuần theo ngũ hành. Quyết âm tay là Tâm bào vì tạng chính là Tâm, nên không nói đến Tâm bào quyết âm nữa (cảnh Nhạc).

Biểu tóm tắt:

(https://i.imgur.com/GeEYSIt.jpg)

Căn cứ kinh nghiệm của người xưa, không nên châm vào kinh mạch ứng hợp với ngày thiên can, vì có thể làm tổn thương chính khí. Ví dụ: Ngày Nhâm (9) không châm kinh Thái âm tay trái...

- (Trong các kinh, kinh chân là âm, âm cực sinh dương) nên kinh chân là Thiếu dương ở trong âm. Kinh chân âm là thái âm ở trong âm. (Kinh tay là dương, dương cực sinh âm) nên kinh dương tay là thái dương ở trong dương. Kinh âm tay là thiếu âm ở trong dương (với thân thể thì) thắt lưng trở lên là dương, thắt lưng trở xuống là âm.

- Về 5 tạng của các kinh thì Tâm (hỏa) là Thái dương (hỏa) ở trong dương (ở trong ngực, là dương, hỏa là dương), Phế (kim - kim là mùa Thu, lúc khí âm bắt đầu lên - Thiếu âm, nên Phế thuộc âm, nhưng vị trí trong ngực là dương nên âm ở vị trí dương), là Thiếu âm ở trong dương. Can (là mộc) là Thiếu dương ở trong âm, Can - mộc - mùa Xuân, khí dương bắt đầu lên (Thiếu dương), vị trí ở trong bụng (âm). Tỳ (là thổ) là chí âm ở trong âm, thổ là trung ương nên gọi là chí âm, Tỳ ở trong bụng (âm). Thận (là thủy) là Thái âm ở trong âm, thủy - mùa Đông, âm nhiều (Thái âm), Thận ở trong bụng (âm).

Hoàng đế: (Quy luật âm dương thịnh suy thì như thế) vận dụng để chữa bệnh như thế nào?

Kỳ Bá: Dương khí bắt đầu từ bên trái, nên mùa Xuân tháng 1, 2, 3 chính khí ở chân trái (Thiếu dương, Thái dương, Dương minh) không nên châm 3 kinh ấy (vì dễ làm tổn thương chính khí). (Khí âm bắt đầu từ bên phải) nên mùa Thu tháng 7, 8, 9 chính khí ở chân phải (Thiếu âm, Thái âm, Quyết âm) không nên châm 3 kinh ấy (vì làm tổn thương chính khí). Tháng 4, 5, 6 mùa Hạ (dương khí bắt đầu giảm) chính khí ở chân phải (Dương minh, Thái dương, Thiếu dương) không nên châm 3 kinh ấy. Tháng 10, 11, 12 mùa Đông chính khí ở chân trái (Quyết âm, Thái âm, Thiếu âm - giảm dần) không nên châm 3 kinh ấy.

Hoàng đế: Về ngũ hành thì: Giáp Ất mộc - mùa Xuân. Mùa Xuân sắc xanh - chủ Can - kinh Quyết âm chân. Nhưng ngày Giáp đại biểu thiếu dương tay trái (mà không đại biểu Quyết âm Can), không có sự tương hợp giữa ngũ hành với quy luật bình thường 4 mùa, tại sao?

Kỳ Bá: (Ngày Giáp đại biểu thiếu dương chân trái là) nói theo quy luật thịnh suy của Âm Dương chứ không theo trình tự ngũ hành và 4 mùa. Vì âm dương có tên mà vô hình (có tính tương đối, phạm trù rất rộng, có thể đại biểu các hiện tượng và sự vật đối lập, thống nhất vũ trụ). Dùng quy luật âm dương để diễn giải thì 1 có thể đếm đến 10, phân ra có thể thành 100, tán ra thành 1.0000, suy ra thành vạn (chứ không phải chỉ là Âm Dương).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 09, 2017, 09:26:29 AM
42. Phương thức truyền bệnh (Bệnh truyền)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Sau khi ngoại tà vào tạng phủ, theo quan hệ ngũ hành tương khắc, có thể truyền từ tạng phủ này sang tạng phủ kia, nếu cứ truyền mãi thì chết. Trường hợp này châm cứu không có tác dụng. Song nếu không truyền theo trật tự trên mà chỉ truyền trong 2 tạng thôi thì có thể dùng châm để chữa được.

Hoàng đế: Phương pháp chữa bệnh ngoài châm còn đạo dẫn, hành khí, xoa bóp, cứu chườm, chích, hỏa châm, uống thuốc vv...Trong điều trị dùng một phương pháp là đủ hay phải dùng tổng hợp nhiều phương pháp?

Kỳ Bá: Các phương pháp chữa bệnh ở trên, là của mọi người và để chữa cho nhiều người mắc nhiều chứng bệnh khác nhau, chứ không phải dùng cả để chữa bệnh cho một người (nên cần nắm cả các phương pháp). (Xoa bóp là để điều thông khí huyết, nhu hòa cân cốt).

Hoàng đế: Như vậy là nếu tuân thủ quy luật phép tắc tổng quát thì tránh được sai lầm. Yếu lĩnh của âm dương, đạo lý của hư thực, chính khí không cố và tinh thần di dịch, bệnh nào có thể chữa vv... đều đã rõ. Song sự biến hóa bên trong của bệnh, sự truyền biến của tà khí, sự suy kiệt dần của chính khí làm các chứng này nặng lên không cứu được thì giải thích thế nào?...

Kỳ Bá: Nắm được quy luật âm dương thì như đang mê được giải, đang say tỉnh lại (hiểu rõ vấn đề). Ngoại tà vào thân thể, không gây tiếng động, không có dấu tích (tai mắt khó phát hiện ra nếu không quan sát tỉ mỉ thì như nhắm mắt đi trong đêm tối vậy. Ngoại tà vào thân thể từ nông vào sâu), nếu thấy tóc lông rụng gẫy, tấu lý khai là chính khí không vững và tà khí có thể lan ra toàn thân rồi truyền và lưu thông trong huyết mạch, nếu tà khí lại vào (sâu trong) tạng gây đau bụng, chính khí của hạ tiêu nghịch loạn có thể gây chết người. Khó mà cứu được.

Hoàng đế: Tà khí vào tạng truyền biến như thế nào?

Kỳ Bá:

- Bệnh bắt đầu từ Tâm sau 1 ngày có thể vào Phế (Tâm hỏa khắc Phế kim), lại sau 3 ngày có thể vào Can (Phế kim khắc Can mộc), lại sau 5 ngày vào Tỳ (Can mộc khắc Tỳ thổ), lại 3 ngày nữa nếu không khỏi (phần lớn) là chết. Mùa Đông chết vào lúc nửa đêm, mùa hè chết vào lúc giữa trưa (mùa đông thuộc thủy, nửa đêm là lúc âm thịnh nhất, thủy có thể khắc hỏa - Vì bệnh bắt đầu từ Tâm hỏa nên lúc nửa đêm mùa Đông thủy khắc hỏa và chết. Mùa Hạ thuộc hỏa, giữa trưa hỏa thịnh nhất, bệnh bắt đầu từ Tâm, nên giữa trưa mùa Hạ Tâm hỏa quá thịnh mà chết).

- Bệnh bắt đầu từ Phế, sau 3 ngày có thể vào Can, lại sau 1 ngày vào Tỳ, lại sau 5 ngày vào Vị (Tỳ Vị biểu lý), lại sau 10 ngày nữa nếu không khỏi thì chết. Mùa Đông chết vào lúc mặt trời lặn, mùa hè chết vào lúc mặt trời mọc. Mặt trời lặn giờ thân, dậu thuộc kim (3 - 7 giờ chiều). Mặt trời mọc giờ dần mão, thuộc mộc (3 - 7 giờ sáng). Bệnh Phế thuộc kim, mùa Đông hoàng hôn giờ kim, kim suy bệnh sẽ chết. Mùa Hè bình minh giờ mộc vượng, mộc vũ lại kim nên chết, hoặc mộc vượng sinh hỏa, kim đã kiệt, hỏa khắc kim nên chết.

- Bệnh bắt đầu từ Can, sau 3 ngày truyền vào Tỳ, sau 5 ngày vào Vị, lại 3 ngày nữa vào Thận, nếu 3 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết vào chết vào lúc mặt trời lặn, mùa Hè chết vào lúc ăn cơm sáng (giờ mão 5 - 7 giờ). Mặt trời lặn giờ thân dậu thuộc kim (3 - 7 giờ chiều), kim vượng mộc suy - kim khắc mộc thì chết. Giờ ăn sáng 5 - 7 giờ sáng, giờ mão thuộc mộc, can mộc suy không thể gánh nổi thời bệnh mộc nên chết.

- Bệnh phát từ Tỳ, sau 1 ngày đến Vị, 2 ngày nữa đến Thận, 3 ngày nữa đến (kinh Thái dương và kinh cân thái dương) cột sống bàng quang, 10 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết lúc đi ngủ sau hoàng hôn, mùa hè chết lúc cơm tối (lúc đi ngủ sau hoàng hôn là giờ tuất 7 - 9 giờ tối. Mùa Đông giờ này đã đi ngủ, còn mùa hè giờ này ăn cơm tối. Giờ tuất thuộc thổ, đáng thổ phải vượng lúc đó nhưng do ốm không vượng được Tỳ càng suy kiệt nên chết.

- Bệnh phát ở Vị trước, 5 ngày sau vào Thận, 3 ngày nữa vào (kinh mạch và kinh cân) cột sống bàng quang, 5 ngày nữa lên Tâm, 2 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết lúc nửa đêm, mùa hè chết lúc "Nhật điệt" (giờ mùi 13 -15 giờ). (Nửa đêm giờ tý thuộc thổ, thổ không thắng được thủy nên chết lúc nửa đêm. Mùa hè giờ mùi thuộc thổ, lúc đó thổ khí suy không vượng được nên chết.

- Bệnh phát ở Thận trước, 3 ngày sau vào đến (kinh mạch và kinh cân) cột sống bàng quang, lại 3 ngày nữa lên Tâm, lại 3 ngày nữa đến Tiểu trường, 3 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết vào lúc bình minh (5 giờ), mùa hè chết vào lúc hoàng hôn (giờ tuất 19 - 21 giờ). (Bình minh mùa Đông là cuối giờ dần (5 giờ). Mộc có thể phạt thủy nên bệnh Thận thì chết giờ ấy. Ở mùa hè, giờ tuất thủy khí suy, không vượng được nên càng kiệt và chết.

- Bệnh phát ở bàng quang, sau 5 ngày vào Thận, sau 1 ngày vào Tiểu trường, sau 1 ngày nữa vào Tâm, sau 2 ngày nữa không khỏi thì chết. Mùa Đông chết lúc gà gáy, mùa hè chết lúc sau ngọ, gà gáy là giờ sửu (1 - 3 giờ), sau ngọ là giờ mùi (13 - 15 giờ). Giờ sửu là âm cực, giờ mùi là giờ mà thủy sợ, bàng quang là phủ của thủy, hai giờ đó là lúc thủy cực thịnh và cực suy, đều chết.

- Các bệnh trên truyền theo một quy luật nhất định, theo quy luật đó có thể dự kiến giờ, ngày chết, nên không thể dùng châm để chữa. Nếu truyền cách 1 tạng hoặc 2, 3, 4 tạng (truyền cho nhau) thì có thể châm được (vì cách 1 tạng là quan hệ mẫu tử, bệnh nhẹ có thể châm - còn truyền theo tuần tự ngũ hành tương khắc như ở những đoạn trên thì bệnh nặng, khó chữa, không châm.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 09, 2017, 02:08:47 PM
43. Dâm tà phát mộng

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự phát sinh của các loại mộng có liên quan tới chức năng, thuộc tính và tình trạng hư thực của tạng phủ. Do tà khí quấy nhiễu nội tạng làm hồn bay phách lạc, ngủ không yên nên mộng. Nên có thể dựa vào mộng để phân biệt trạng thái hư thực của tạng phủ, để làm căn cứ tìm huyệt theo kinh với phép châm tạng khí thịnh thì tả, hư thì bổ, để có thể làm cho hết mộng.

Hoàng đế: Dâm tà phân tán tràn ngập trong cơ thể (sinh mộng) như thế nào?

Kỳ Bá: Chính tà [ngoại tà và thanh sắc dục vọng ảnh hưởng (kích thích) Tâm] từ ngoài vào cơ thể, chưa có chỗ dựa nhất định đã nhiễu nội tạng, chạy lung tung khắp nơi không có chỗ cố định, cùng đi với dinh vệ, và cùng hồn phách chạy đi khắp nơi làm cho ngủ không say và mộng. Nếu tà khí nhiễu ở phủ, thì (dương khí) ở ngoài sẽ thừa, và (âm khí) ở trong sẽ thiếu. Nếu tà khí nhiễu ở tạng thì (âm khí) ở trong sẽ thừa, và (dương khí) ở ngoài sẽ thiếu.

Hoàng đế: (Âm dương của tạng phủ) thừa và thiếu biểu hiện ở trong mộng như thế nào?

Kỳ Bá: Khí âm mà thịnh thì trong mộng thấy lội nước to và khiếp sợ. Khí dương thịnh thì thấy lửa to làm nóng rát. Cả khí âm dương đều thịnh thì mộng thấy giết nhau. Nếu 1/2 người trên (tà khí) thịnh thì mộng thấy bay lên, 1/2 người dưới thịnh thì mông thấy tụt xuống dưới. Nếu đói thì mộng thấy được ăn, nếu no thì mộng thấy mang đồ vật biếu người. Can khí thịnh thì mông thấy giận dữ, Phế khí thịnh thì mộng thấy khủng khiếp, khóc và bay lên. Tâm khí thịnh thì mộng thấy hay cười hoặc lo lắng sợ hãi. Tỳ khí thịnh thì mộng thấy ca nhạc, người nặng nề không muốn cử động. Khí thận thịnh thì mộng thấy cột sống lưng và thắt lưng rời ra. Đấy là 12 trạng thái thịnh của mộng, châm tả thì hết mộng.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 09, 2017, 02:40:10 PM
44. Khi khí thuận, một ngày chia làm 4 thời (Thuận khí nhất nhật phân tứ thời)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về ảnh hưởng của khí hậu 4 mùa (Xuân, Hạ, Thư, Đông) đối với cơ thể. Trong 1 ngày cũng có 4 thời như trong 1 năm. Buổi sáng như mùa Xuân, chính khí tăng làm tà khí giảm, bệnh nhẹ đi, buổi trưa như mùa Hạ, chính khí vượng nhất, bệnh tà càng giảm, người bệnh yên tĩnh. Buổi chiều hoàng hôn là mùa Thu, chính khí bắt đầu thu liễm, tà khí dần dần hoành hành bệnh nặng dần lên, nửa đêm như mùa Đông chính khí tàng ở trong tạng, tà khí độc chiếm thân thể, bệnh càng nặng nữa. Diễn biến của 4 mùa và sự thịnh suy của âm dương hầu như hoàn toàn thống nhất. Cũng giải thích nguyên nhân sự tương ứng và không tương ứng giữa bệnh tật với 4 mùa và giới thiệu nguyên tắc châm ứng với 4 mùa.

Hoàng đế: Nguyên nhân gây bệnh thường là táo, thấp, hàn, thử, phong, vũ, âm, dương, hỉ, nộ, ẩm thực, giao hợp, tà khí tác động vào nội tạng gây nên, bệnh đã có tên, ta đã rõ. Song diễn biến của bệnh phần lớn là lúc mới ngủ dậy thì dễ chịu, ban ngày thì yên tĩnh, lặn mặt trời thì nặng dần, ban đêm nặng lên nữa, tại sao vậy?

Kỳ Bá: Đó là do ảnh hưởng của sự thịnh suy của âm dương trong khí hậu của 4 mùa gây nên.

Hoàng đế: Ảnh hưởng của khí hậu 4 mùa với cơ thể như thế nào?

Kỳ Bá: Quy luật của tự nhiên là mùa Xuân thì sinh ra, mùa Hạ thì trưởng thành, mùa Thu thì thu lại, mùa Đông thì tàng trữ, người cũng ứng với khí hậu đó. Một ngày chia làm 4 thời, thì sớm là Xuân, giữa ngày là Hạ, mặt trời lặn là Thu, nửa đêm là Đông. Buổi sớm chính khí của người sinh ra, bệnh tà giảm, nên buổi sớm dễ chịu; giữa ngày chính khí trưởng thành, thắng tà khí, nên bệnh nhân yên tĩnh; mặt trời lặn chính khí bắt đầu suy, tà khí bắt đầu sinh nên bệnh tăng; nửa đêm chính khí vào trong tạng, tà khí độc chiếm toàn thân nên bệnh nặng.

Hoàng đế: Có những lúc diễn biến của bệnh ngược lại với trên, tại sao vậy?

Kỳ Bá: Diễn biến của bệnh có lúc không tương ứng với 4 thời, đó là 1 tạng bị bệnh, theo quan hệ ngũ hành, tạng này bị ngày giờ (theo ngũ hành) tương khắc ảnh hưởng nên bệnh nặng lên. (Tỳ thổ bị mộc khắc, Bệnh Tỳ sợ ngày Giáp, Ất và giờ Dần Mão - vì đều là mộc), Phế kim bi hỏa khắc, bệnh Phế sợ ngày Bính, Đinh và giờ Tị, Ngọ - vì đều là hỏa, Thận thủy bị thổ khắc, bệnh thận sợ ngày Mậu, Kỷ hoặc giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi - vì đều thuộc thổ. Tâm hỏa bị thủy khắc, bệnh Tâm sợ ngày Nhâm, Quý, hoặc giờ Hợi, Tý - vì đều thuộc thủy. Nếu tạng này đủ sức khắc ngày giờ theo ngũ hành thì bệnh sẽ nhẹ dần (Phế kim thắng được giờ Dần Mão thuộc mộc, Thận thủy thắng được giờ Tỵ Ngọ thuộc hỏa, Tâm hỏa thắng được giờ Thân Dậu thuộc kim, Tỳ thổ thắng được giờ Hợi Tý thuộc thủy).

Hoàng đế: Vậy chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Thuận theo sự thịnh suy của 4 thời, hư thực của âm dương để bổ tả. Có thể dự kiến được kết quả chữa bệnh. Thuận theo quy luật là thầy thuốc giỏi, nghịch với quy luật là kém.

- (Bệnh Tỳ nếu không thắng nổi khí mộc buổi sớm thì bổ Tỳ tả Can, bệnh Phế nếu không thắng nổi khí hỏa buổi trưa thì bổ Phế tả Tâm. Bệnh Can nếu không thắng nổi khí kim lúc mặt trời lặn thì bổ Can tả Phế, bệnh Tâm nếu không thắng nổi khí kim thủy của đêm thì bổ Tâm tả Thận).

Hoàng đế: Châm có 5 biến và có 5 huyệt (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp) làm chủ. Giải thích thế nào?

Kỳ Bá: Người có 5 tạng, mỗi tạng có sắc, vị, thời, âm, ngày, ngũ biến tương ứng. Mỗi biến đều có 5 huyệt (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp) phối hợp. Do đó có 25 huyệt du (5 biến x 5 hợp) và ứng với 5 thời tiết trong năm.

Hoàng đế: 5 biến là gì?

Kỳ Bá: Can mộc (thiếu dương ở trong âm) là tạng (dương) giống đực, sắc xanh, mùa Xuân, âm giốc, vị chua, ngày Giáp Ất. Tâm hỏa (thái dương trong dương) là tạng (dương) giống đực, màu đỏ, mùa hè, ngày Bính Đinh, âm chủy, vị đắng. Tỳ thổ (chí âm trong âm) là tạng (âm) giống cái, sắc vàng, cuối hè, ngày Mậu, Kỷ, âm cung, vị ngọt. Phế kim (thiếu âm ở trong dương) là tạng (âm) giống cái, sắc trắng, âm thương, mùa Thu, ngày Canh, Tân, vị cay. Thận thủy (thái âm ở trong âm) là tạng (âm) giống cái, sắc đen, mùa Đông, ngày Nhâm, Quý, âm vũ, vị mặn. Đó là 5 biến.

Hoàng đế: Năm huyệt du phân bổ vào 5 biến như thế nào?

Kỳ Bá: Khí của 5 tạng chủ (bế tàng vào) mùa Đông, mùa Đông châm huyệt tỉnh. Khí của 5 sắc sinh ra từ mùa Xuân, mùa Xuân châm huyệt huỳnh. Khí của 5 thời chủ (trưởng thành trong) mùa Hạ, mùa Hạ châm huyệt du. Khí của 5 âm chủ (biến hóa phần thịnh trong) cuối Hạ, cuối Hạ châm huyệt kinh. Khí của 5 vị chủ (thu liễm vào) mùa Thu, mùa Thu châm huyệt hợp. Đó là sự phân bố 5 huyệt du vào 5 biến. (Ngũ tạng chủ tàng, Đông là mùa bế tàng, tỉnh là đầu nguồn của nước như nhất dương sơ sinh vào mùa Đông, cho nên nếu có bệnh ở nội tạng và ứng với khí bế tàng của mùa Đông, có thể châm huyệt tỉnh - hay nói khác đi, huyệt tỉnh có tác dụng khai bế thông khiếu. Ngũ sắc lộng lẫy ứng với mùa Xuân vạn tía ngàn hồng, huyệt huỳnh là dòng nước nhỏ, tiếp với đầu nguồn, khí của nó còn yếu giống như mùa Xuân, khí dương lên dần nên đem 5 sắc, huyệt huỳnh của mùa Xuân gắn với nhau, và cho rằng: Bệnh biểu hiện ra ở khí sắc tương ứng với khí phát sinh ở mùa Xuân, cần châm huyệt huỳnh, nói khác đi huyệt huỳnh có tác dụng tả nhiệt và điều huyết...Các huyệt khác căn cứ vào khí của mạch từ nhỏ đến lớn, tỉnh đến huỳnh, đến du, kinh, hợp và ứng với mùa Hạ, cuối Hạ Thu...).

Hoàng đế: (5 huyệt du ứng với 5 thời), các huyệt nguyên của 6 phủ phối hợp với cái gì?

Kỳ Bá: Chỉ 6 phủ có huyệt nguyên và không ứng với 5 thời, mà dùng nó để chữa bệnh của bản thân kinh dương có huyệt nguyên đó bị bệnh. 6 kinh dương mỗi kinh có 5 huyệt du và 1 huyệt nguyên, cộng 36 huyệt.

Hoàng đế: Thế nào goi là (5) tạng chủ Đông, (5) thời chủ Hạ, (5) sắc chủ Xuân, (5) âm chủ cuối Hạ, (5) vị chủ Thu?

Kỳ Bá: Bệnh ở (5) tạng (ứng với khí bế tàng của mùa Đông), lấy các huyệt tỉnh ở kinh để chữa. Bệnh bắt đầu hiện ra ở khí sắc (ứng với sự phát sinh của mùa Xuân) thì dùng các huyệt huỳnh ở kinh để chữa. Bệnh lúc nhẹ lúc nặng, lúc phát lúc hết (ứng với khí mạch thịnh của mùa Hạ và biến hóa của thời tiết), lấy các huyệt du để chữa. Bệnh biểu hiện ra ở âm thanh (do quy luật biến hóa của 5 âm rất đa dạng như khí hóa của cuối Hạ, lấy các huyệt hợp để chữa (vì hợp là nơi khí mạch đổ vào, như sau khi 5 vị của mùa Thu đã thành thục rồi đều qua miệng để vào người). Vì vậy gọi là vị chủ hợp. Đó là (cách chữa) ngũ biến.

Biểu tóm tắt ngũ biến ngũ tạng - ứng với 25 huyệt

(https://s20.postimg.org/xmub94hn1/5bien.jpg)


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 10, 2017, 04:12:12 PM
45. Từ biểu hiện ở ngoài suy đoán bệnh của nội tạng (Ngoại sủy)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về đạo lý của châm cứu và sự quan sát bệnh tật đều không tách khỏi quy luật âm dương, nên có thể từ biểu hiện ở ngoài để suy đoán bệnh của nội tạng. Nó chính xác như dùi đánh vào trống là có tiếng trống, mặt trời mặt trăng chiếu vào vật thì phải có bóng vậy.

Hoàng đế: Tên và cách dùng 9 loại kim, từ số 1 đến số 9 có ý nghĩa sâu xa nhưng đạo lý chủ yếu của chúng ta chưa hiểu rõ. 9 loại kim nhỏ thì ở trong không thể có thứ nhỏ hơn, to thì bên ngoài không có cái gì to hơn, sâu thì không gì sâu hơn, cao thì không có gì cao hơn. Tuy có hoảng hốt song có tác dụng lớn, phạm vi ứng dụng rất rộng. Điều đó có quan hệ mật thiết với quy luật biến hóa của tự nhiên, người và khí hậu 4 mùa. Có thể quy nạp những vấn đề trên vào một (tổng cương) không ? (Sự tương ứng của 9 loại kim như sau: 1 với trời, 2 với đất, 3 với người, 4 với 4 mùa, 5 với 5 âm, 6 với 6 luật, 7 với 7 vì sao, 8 với 8 phong, 9 với 9 dã).

Kỳ Bá: Không phải chỉ châm đạo có tổng cương mà trị nước cũng phải làm như vậy. Trị nước, nếu không có một cương lĩnh tổng quát thì làm sao có cơ sở thống nhất để sử lý chỉ đạo được tất cả các loại việc nhỏ, to, nông, sâu rất phức tạp được. Sau đây là ví dụ: Như mặt trăng mặt trời chiếu vạn vật, được phản ánh bằng bóng của vật, dùng mặt nước và gương để soi thì phải thấy hình ảnh trong đó, dùng dùi đánh trống thì phải có tiếng trống. Khi hình bóng, tiếng có thay đổi, tức là bản thân các vật đó có biến động tương ứng. Nắm được vấn đề đó thì có thể hiểu rõ hiệu quả của châm.

Hoàng đế: Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu đến đâu thì sáng tỏ đến đó, vì thế nên vĩnh viễn không mất (tính tương đối của ) âm dương. Kết hợp (âm dương với lâm sàng) để quan sát toàn diện bệnh nhân bắt mạch để biết, để nhìn sự biểu hiện ra ngoài của bệnh. Như hình ảnh của vật ở mặt nước, mặt gương không mất vậy (thanh âm mầu sắc cũng là phản ảnh của tạng phủ). Nếu 5 sắc không đẹp, 5 âm không rõ, là 5 tạng có biến động. Đó là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa bên trong và bên ngoài, giống như dùi đánh vào trống thì có tiếng trống, hình ảnh giống in vật thể vậy. Nên tóm lại, đối với vật ở xa, có thể suy đoán ở bên ngoài để biết bệnh ở bên trong, vật gần có thể suy đoán từ bên trong để biết chứng bên ngoài (vật xa chủ bên ngoài, vật gần chủ bên trong). Đó là tổng quát, mọi vật phát triển đến cực độ đều không thoát ly khỏi quy luật biến hóa của âm dương, trong phạm vi trời đất mọi việc đều trong phạm vi của âm dương.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 11, 2017, 10:15:45 AM
46. Năm loại bệnh tý (Ngũ biến)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói lên sự hình thành của bệnh là do bên ngoài tác động vào, chủ yếu là do cơ thể suy yếu gây nên.

Hoàng đế: Giai đoạn đầu của các bệnh thường là do phong, vũ, hàn, thử, từ lỗ chân lông của da vào thấu lý, hoặc lại bị đẩy ra, hoặc lại lưu vào đó, hoặc lại thành phong thũng ra mồ hôi, hoặc thành tiêu khát, hoặc nóng rét qua lại, hoặc thành tý, hoặc tích tụ. Tà khí do khí hậu khác thường làm thành vào thân thể, tràn trong người hình thành nhiều loại bệnh. Tại sao vậy? tại sao cùng mắc bệnh, mà có sinh bệnh này, có sinh bệnh khác, có phải phong tà tác động vào người có khác nhau?

Thiếu Du: Phong trong tự nhiên công bình chính trực không thiên tư ai cả, và thổi khắp chỗ. Ai bị nó tác động có thể bị bệnh, nếu kịp thời phòng tránh nó thì nó không thể làm tổn thương người, mà là do người phạm vào nó.

Hoàng đế: Cùng 1 lúc bị phong, cùng bị bệnh, nhưng bệnh lại khác nhau, tại sao?

Thiếu Du: Giống như người thợ mộc dùng rìu sắc để chặt gỗ, cây gỗ có hai mặt âm dương, có rắn chắc và mềm yếu khác nhau. Với mặt rắn, rìu khó chặt vào được gỗ, với mặt mềm rìu chặt vào thì bị bửa ra, nếu vừa bổ mặt dương, vừa bổ mặt âm, không những không bổ được, có khi lại mẻ rìu. Trong một cây gỗ phần rắn chắc thì cứng khó bổ, phần mềm yếu thì dễ bổ nó. Các cây gỗ khác nhau thì chất lại càng khác nhau nữa. Vỏ ngoài mỏng, dày, nhựa cây nhiều ít cũng khác nhau. Có loại cây ra hoa lộc sớm, nếu gặp sương mùa Xuân hoặc gió ác liệt, thì hoa rơi lộc héo; nếu bị nắng hoặc hạn lâu, thì loại cây có vỏ mỏng, thân mềm, nhựa cây ít thì lá sẽ héo; nếu ở phần âm lâu (không có ánh mặt trời) hoặc bị mưa dầm không ngớt, thì loại cây gỗ có vỏ mỏng, nhựa cây nhiều sẽ bị thối vỏ và nhựa cây chảy dầm dề; nếu bị gió cấp, thì loại cây cứng dễ gãy sẽ bị bật rễ, rụng lá. 5 loại tình huống khác nhau gây nên những biến đổi khác nhau. Ở con người cũng vậy.

Hoàng đế: Người ứng với cây như thế nào?

Thiếu Du: Ở cây, bộ phận dễ bị tổn thương nhất là cành cây. Nếu cành cứng và chắc thì khó bị tổn thương. Người hay bị bệnh vì xương khớp, da, thấu lý không chắc, không khỏe. Vì những nơi đó  là nơi bệnh tà vào và lưu lại trong người và hay bị bệnh nhất.

Hoàng đế: Từ hiện tượng nào để xét người dễ bị mồ hôi ra liên tục khi bị phong tà quyết nghịch?

Thiếu Du: Dễ bị bệnh do phong tà là người có cơ nhục không săn chắc, thấu lý sơ hở. Cơ nhục không săn chắc là: Các bắp cơ (ở vai, khuỷu, hông, gối) không nổi cuộn, chắc, và da không có nếp gấp. Nếp da của họ khô, nên da không thể kín chắc, thấu lý sẽ sơ hở (và dễ bị chứng phong quyết). Đó là chỉ người không có nếp da rõ ràng.

Hoàng đế: Với người bị tiêu khát, làm thế nào để biết họ bị bệnh đó?

Thiếu Du: Những người có 5 tạng đều mềm yếu dễ bị tiêu khát. Người có 5 tạng mềm yếu tất phải có khí cương cường (mạnh), có khí cương cường thì dễ bị giận dữ, và như vậy ngũ tạng đã suy yếu càng dễ bị tổn thương.

Hoàng đế: Đặc điểm của ngũ tạng suy yếu và khí cương cường là gì?

Thiếu Du: Những người có da mỏng, mắt sâu, không chớp mắt, nhìn dựng lông mày, trừng trừng, nhìn thẳng vào người ta. Tâm của họ rất cương, cương thì hay giận, giận thì khí nghịch lên, khí nghịch lên thì huyết tích ở trong ngực, do khí huyết nghịch trệ, làm cho (nếp) da rộng thêm, có đầy thêm, huyết mạch không hành (tích lưu lại) chuyển thành (uất) nhiệt, nhiệt thì da cơ bị tiêu, nên bị tiêu đơn. Đấy là nói về người có tính (thô) bạo cương (cường) và cơ nhục yếu.

Hoàng đế: Từ hiện tượng nào để biết người hay bị hàn nhiệt?

Thiếu Du: Người xương nhỏ, cơ yếu hay bị bệnh hàn nhiệt.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết xương to hay nhỏ, cơ săn chắc hay yếu mềm và sắc không giống nhau?

Thiếu Du: Xương gò má là gốc của xương. Xương gò má to thì xương to, nhỏ thì xương nhỏ. Da mỏng và cơ săn cuộn (ở vai, khuỷu, hông, gối) cánh tay sức yếu. Khí sắc ở cằm không đủ, không giống ở trán (thiên đình), mà giống như khí trọc âm (địa các) phủ lên vậy, đó là chứng của nó. Người cánh tay mỏng, mông mỏng là tủy không đầy, nên dễ mắc bệnh hàn nhiệt.

Hoàng đế: Từ hiện tượng nào để biết người hay bị bệnh tý?

Thiếu Du: Người nếp da thô, cơ không chắc săn thì dễ bị chứng tý.

Hoàng đế: Chứng tý có phát nhất định ở trên hay ở dưới không?

Thiếu Du: Cần xem trạng thái cụ thể ở trên và ở dưới để biết chỗ nào có bệnh.

Hoàng đế: Từ hiện tượng nào để biết người hay bị tích tụ ở trong ruột?

Thiếu Du: Người có da mỏng không nhuận, cơ không săn chắc mà mềm nhẽo. Như vậy thì trường vị ác (xấu), xấu thì tà khí lưu lại ở đó, tích tụ lại làm tổn thương vùng giữa Tỳ Vị, hàn ôn không có thứ tự nào (Linh khu dịch thích: Ăn uống nóng, lạnh không điều độ),  thì tà khí chỉ cần hơi vào là đã có thể tích lại và bệnh tích tụ trong trường vị đã hình thành.

Hoàng đế: Quan hệ giữa bệnh và thời tiết ra sao?

Thiếu Du:  Trước hết lập can chi của năm đó, rồi tìm quan hệ phối hợp của Ngũ vận lục khí và thời tiết. Khách khí lưu chuyển từng năm đặt trên chủ khí cố định, nếu sức của khách khí thắng chủ khí (trên thắng dưới) thì bệnh phát nhẹ và hòa hoãn, dễ có khởi sắc (tốt). Nếu sức của chủ khí thắng khách khí (dưới thắng trên) thì bệnh nặng dễ nguy cấp. Tuy không không phải là thời tiết bị (suy khắc mà) lõm xuống (suy khắc hãm hạ) song nếu năm đó có xung (lúc khí thông) thì tất có bệnh. Đó là do thể xác và năm vận có quan hệ ngũ hành tương khắc tạo nên (nhân tố gây) bệnh, đó cũng là  quy luật của 5 loại bệnh lý. (Cảnh Nhạc nói: Thủy hỏa tương xung, hỏa phải sợ thủy, kim mộc tương xung, mộc phải sợ kim, nếu hỏa thắng thì thủy sinh bệnh, mộc thắng thì kim sinh bệnh. Người mệnh kim bị bệnh năm Đinh, Nhâm, mệnh mộc bị bệnh năm Giáp, Kỷ, đó là bắt đầu của 5 biến đổi bệnh lý).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 12, 2017, 09:38:04 AM
47. Bản tạng

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự to nhỏ, hình thái, tính chất, độ dài ngắn, vị trí cao thấp, độ chắc ròn, dày mỏng, hoãn, cấp, độ thẳng, cấp .... của 5 tạng 6 phủ; quan hệ biểu lý của tạng phủ với nhau, quan hệ tạng phủ với các tổ chức da, mạch, cân, nhục, lông, thấu lý; căn cứ để xác định trạng thái khỏe mạnh và bệnh tật của tạng phủ.

Hoàng đế: Tinh thần, khí huyết, của người nuôi sinh mệnh đi khắp cơ thể là vật chất căn bản để duy trì sự sống. Kinh mạch là nơi khí huyết vận hành để nuôi dưỡng âm dương, nhuận gân cốt, làm trơn khớp. Vệ khí làm ấm và nuôi cơ nhục, bồi đắp cho da, thấu lý, quản lý sự đóng mở của lỗ chân lông. Ý chí thống lĩnh tinh thần, thâu tóm hồn phách, làm con người thích ứng với (khí hậu) nóng lạnh (của thiên nhiên), (bên trong thì) điều hòa hoạt động của cảm xúc giận hờn, vui mừng. Vì vậy nếu huyết mà hòa thì kinh mạch lưu thông để nuôi dưỡng âm dương, làm khỏe gân cốt, làm khớp lanh lẹ. Vệ khí mà hòa thì cơ nhục hoạt động sẽ hoạt lợi, da sẽ điều hòa mềm mại, thấu lý sẽ nhỏ và kín đáo. Ý chí mà hòa thì tinh thần trung thực, hồn phách không tán (loạn), cảm xúc giận hờn không có và ngũ tạng được yên không bị tà khí xâm phạm. (Thời tiết) nóng lạnh mà điều hòa thì sự tiêu hóa thức ăn uống củ 6 phủ điều hòa, và phong tý không phát ra. Ngũ tạng là nơi tàng tinh thần, huyết khí, hồn phách. Lục phủ là nơi tiêu hóa thức ăn uống và vận hành tân dịch đi toàn thân. Những cái đó đều là người tiếp thu của thiên nhiên, người nào cũng vậy dù người đó sang hay hèn, thông minh hay ngu đần, hiền triết hay dân thường, nhưng trong đó có người hưởng hết tuổi trời không bị bệnh do nội nhân, hay ngoại nhân, sống 100 tuổi không suy yếu, tuy xông pha nơi gió, mưa, nắng, rét cũng không bị bệnh; có người ngược lại tuy ở nhà cao cửa rộng rất tốt, lại không có lo nghĩ kinh sợ gì, nhưng lại không tránh khỏi bị bệnh. Tại sao vậy?

Kỳ Bá: Ngũ tạng có quan hệ mật thiết với trời đất, phù hợp với âm dương và vận động theo 4 mùa, biến hóa theo ngũ tiết (trình tự của ngũ hành). 5 tạng có to nhỏ, chắc ròn, vị trí ở cao thấp, đoan chính và  thiên lệch khác nhau. Sáu phủ cũng có to nhỏ, ngắn dài, dày mỏng, thẳng gấp, hoãn cấp khác nhau. Song đều gồm 25 (loại biến hóa) và có sự khác nhau, có thiện, có ác, có lành, có dữ. Xin giải thích như sau:

- Tâm mà nhỏ thì yên ổn, tà khí không làm tổn thương được, nhưng dễ bị nỗi ưu (ưu tư) làm nhiễm loạn. Tâm to thì không bị ưu tư bên trong làm tổn thương, nhưng dễ bị ngoại cảm làm tổn thương. Tâm ở cao thì làm đầy Phế gây bồn chồn và hay quên, khó dùng lời nói để khai thông. Tâm ở thấp thì tàng ngoại (Tâm dương tàng ở trong nay ra ở ngoài) dễ bị hàn làm tổ thương, dễ bị lời nói dọa nạt. Tâm kiên (cứng) thì thần khí tàng ở trong yên ổn kiên cố. Tâm suy yếu thì dễ bị tiêu khát và bệnh nhiệt ở trung tiêu. Tâm đoan chính thì hòa lợi, khó bị (cả tà khí và lời nói) làm tổn thương. Tâm thiên lệch thì tâm tính bất nhất, thần khí dễ tán loạn khó mà giữ nó được ở trong tâm và khó quản lý được nó.

- Phế mà nhỏ (đờm) ẩm ít và không mắc bệnh hen suyễn có lục cục ở trong họng. Phế to thì (đờm) ẩm nhiều sẽ bị hung tý (đau thắt ngực), hầu tý (đau họng) khí nghịch. Phế ở cao thì khí nghịch lên, thở thì co vai rụt cổ và ho. Phế ở thấp thì ở ngay tâm vị, dạ dày ép Phế dễ đau ở dưới sườn (do huyết mạch không thông). Phế kiên (chắc) thì không có các bệnh khí nghịch, ho. Phế mềm yếu thì dễ bị tiêu khát. Phế đoan chính thì hòa lợi khó bị bệnh. Phế thiên lệch thì ngực đau bên lệch.

- Can nhỏ thì tạng yếu và không có bệnh ở dưới sườn. Can to thì ép Vị làm cho họng cũng bị ép, họng bị ép thì ngực hoành phiền muộn và đau ở dưới sườn. Can ở cao thì nhánh đi lên trên bị bức bách gây sườn phiền muộn và hơi thở xung lên trên tức là: Bệnh tức bôn. Can bị thấp thì ép Vị, vùng dưới sườn rỗng, dưới sườn rỗng thì dễ bị tà khí tấn công. Can kiên (cứng) thì tạng yên khó bị tổn thương. Can mềm yếu thì dễ bị tiêu khát, dễ bị thương. Can đoan chính thì hòa lợi khó bị tổn thương. Can thiên lệch thì dưới sườn đau.

- Tỳ nhỏ thì tạng yên khó bị tà khí làm tổn thương. Tỳ to thì ở chỗ mềm dưới sườn đầy lên và đau, không thể đi nhanh được. Tỳ ở cao, thì chỗ mềm ở dưới sườn co kéo bờ sườn (xương sườn 11) gây đau. Tỳ ở thấp thì nó thuộc về Đại trường và được đặt ở trên Đại trường, nên nó dễ bị tà khí làm tổn thương. Tỳ kiên thì thì tạng yên khó bị thương. Tạng mềm yếu thì dễ sinh bệnh tiêu khát, dễ bị tà khí làm tổn thương, Tỳ đoan chính sẽ hòa lợi, khó bị khí làm tổn thương. Tỳ thiên lệch thì dễ sinh bệnh đầy, bệnh chướng.

- Thận nhỏ, thì tạng yên khó bị tà khí làm tổn thương. Thận to dễ bị đau thắt lưng, không cúi ngửa được, dễ bị tà khí làm tổn thương. Thận ở cao thì cột sống lưng đau, không cúi ngửa được. Thận ở thấp thì thắt lưng cùng cụt đau, không cúi ngửa được và có bệnh "hồ sán". Thận kiên thì không bị bệnh thắt lưng, lưng đau. Thận mềm yếu thì dễ bị tiêu khát, dễ bị tà khí làm tổn thương. Thận đoan chính thì hòa lợi, không bị tà khí làm tổn thương. Thận thiên lệch thì thường đau  thắt lưng cùng cụt.

* Đó là 25 biến (đổi của 5 tạng - 5 tạng to nhỏ, cao thấp, kiên, yếu mềm, đoan chính, thiên lệch) và cũng là các bệnh đau khổ thường gặp của con người.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết tình trạng (to nhỏ, cao thấp, kiên, yếu mềm, đoan chính, thiên lệch) của tạng?

Kỳ Bá: Da hồng, nếp da nhỏ là Tâm nhỏ; nếp da thô là Tâm to, sờ không thấy mũi kiếm là Tâm ở cao; mũi kiếm nhỏ ngắn nhô ra là Tâm ở thấp, mũi kiếm dài là Tâm hạ kiên, mũi kiếm nhỏ, yếu mỏng là Tâm mềm yếu; mũi kiếm thẳng xuống không nhô ra là Tâm đoan chính; mũi kiếm thiên lệch là Tâm thiên lệch.

- Da trắng, nếp da nhỏ là Phế nhỏ; nếp da to là Phế to; vai cao lên ngực nhô ra, hầu họng tương ứng lõm xuống là Phế ở cao; đoạn cách hai nách hẹp, cạnh sườn căng dãn là Phế ở thấp; vai đẹp, ngực đầy chắc là Phế kiên; vai gầy ngực mỏng là Phế mềm yếu, lưng đầy ngực dầy là Phế đoan chính; xương sườn lệch và rời rạc là Phế thiên lệch.

- Da xanh, nếp da nhỏ là Can nhỏ; nếp da to là Can to; ngực rộng xương cạnh sườn bị đẩy ra là Can ở cao; khoảng cách hai sườn hẹp, xương cạnh sườn ẩn phục ở trong là Can thấp; ngực sườn đẹp là Can kiên; xương sườn yếu là Can mềm yếu; ngực bụng cân xứng là Can đoan chính; xương sườn vẹo và nhô sang 1 bên là Can thiên lệch.

- Da vàng, nếp da nhỏ là Tỳ nhỏ; nếp da to là Tỳ to, môi vểnh là Tỳ cao; môi trễ xuống là Tỳ ở thấp; môi kiên là Tỳ kiên; môi to mà không chắc là Tỳ mềm yếu; đôi môi đẹp là Tỳ đoan chính; môi lệch là Tỳ thiên lệch.

- Da đen, nếp da nhỏ là Thận nhỏ; nếp da to là Thận to, tai cao là Thận ở cao; tai sa xuống phía sau là Thận ở thấp; tai chắc là Thận kiên; tai mỏng không chắc là Thận mềm yếu; tai đẹp trước nó là khớp hàm là Thận đoan chính; tai hơi cao là Thận thiên lệch.

* Trên đây là các biến (đổi của 5 tạng), biết cách giữ (theo quy luật chung) thì (dù có ở trạng thái nào cũng vẫn) yên lành, nếu không biết cách giữ gìn thì dễ bị bệnh.

Hoàng đế: Tại sao có những người rất thọ, dù có lo buồn kinh sợ giận hờn, dù bị mưa to, nắng gắt, rét đậm, họ cũng không bị tổn thương, song lại có những người dù ở trong nhà rất tốt và không có ưu tư giận hờn kinh hãi mà vẫn mắc bệnh?

Kỳ Bá: Xin nói lý do để 5 tạng 6 phủ trở thành nơi ẩn náu của tà khí. Khí 5 tạng đều nhỏ thì ít bị bệnh do ngoại tà, nhưng hay quá lo nghĩ thành lao tâm, đại âu sầu. Khi 5 tạng đều to thì do làm việc chậm rãi, nên họ khó bị ưu sầu. Khi 5 tạng đều ở cao thì hành động và biện pháp đều cao. Khi 5 tạng đều ở thấp thì tình nguyện quỵ lụy người khác, khi 5 tạng đều kiên thì vô bệnh. Khi 5 tạng đều mềm thì luôn bị bệnh. Khi 5 tạng đều đoan chính, thì hòa lợi, mọi việc làm đều hợp lòng người. Khi 5 tạng đều thiên lệch thì hay có tà tâm, có hành động ăn cắp và không thể thành người tốt, lời nói của họ thường là phản phúc, không thật.

Hoàng đế: (Xin hỏi) sự ứng của 6 phủ (với các bộ phận trong người)?

Kỳ Bá: Phế hợp với Đại trường, Đại trường ứng với da; Tâm hợp với Tiểu trường, Tiểu trường ứng với mạch; Can hợp với Đởm, Đởm ứng với cân, Tỳ hợp với Vị, Vị ứng với cơ nhục; Thận hợp với Tam tiêu bàng quang, Tam tiêu bàng quang ứng với thấu lý lông. (Bản du: "Thận hợp với Bàng quang, Bàng quang là phủ của tân dịch, Thiếu dương thuộc Thận, Thận nổi ở trên với Phế, nên lấy hai tạng").

Hoàng đế: 6 phủ ứng (với các bộ phận) như thế nào?

Kỳ Bá:

- Phế ứng với da, da dày thì Đại trường dày, da mỏng thì Đại trường mỏng, da hoãn (mềm) thì bụng dưới to, Đại trường to và dài, da cấp (căng) thì Đại trường có khi cấp và nó ngắn, da hoạt (nhuận) thì Đại trường thẳng (thông lợi), da cơ bám chặt vào nhau thì khí của Đại trường uất kết không thông lợi.

- Tâm ứng với mạch, da dày thì mạch dày, mạch dày thì Tiểu trường dày, da mỏng thì mạch mỏng, mạch mỏng thì Tiểu trường mỏng, da hoãn (mềm) thì mạch hoãn, mạch hoãn thì Tiểu trường to và dài, da mỏng và mạch xung nhỏ, thì Tiểu trường nhỏ và ngắn. Nếu nhìn thấy kinh mạch dương quăn queo gấp khúc nhiều là khí của Tiểu trường uất kết.

- Tỳ ứng với cơ nhục, các bắp cơ săn to là vị dầy, các bắp cơ mỏng là Vị mỏng, các bắp cơ bé, mỏng là Vị không kiên, các bắp cơ (mỏng gầy) không tương xứng với thân, thì sa dạ dày, lúc đó miệng dưới của Vị bị hạ tiêu chế ước làm ỉa đái không lợi. Các bắp cơ không kiên thì Vị hoãn, các bắp cơ thiếu các hạt nhỏ thì Vị khí cấp, các bắp cơ có ít nhiều các hạt nhỏ thì Vị khí uất kết, Vị khí uất kết thì làm miệng trên của Vị bị thượng tiêu chế ước làm cho ăn uống không lợi.

- Can ứng với móng, móng dày sắc vàng thì Đởm (túi mật) dày, móng mỏng sắc hồng thì Đởm mỏng, móng kiên sắc xanh thì Đởm cấp, móng nhu nhuận sắc hồng thì Đởm hoãn, móng bình thường sắc trắng không có vân thì Đởm thông lợi, móng ác (dị dạng) sắc đen nhiều vân thì Đởm uất kết.

- Thận ứng với xương, da dày, nếp da sít thì Tam tiêu bàng quang dày, nếp da thô, da mỏng thì Bàng quang tam tiêu mỏng, thấu lý thưa thì tam tiêu và bàng quang hoãn, da cấp (căng) và không có lông thì Bàng quang tam tiêu cấp, lông đẹp và thô thì Bàng quang tam tiêu thông lợi, lông thưa ít thì Bàng quang tam tiêu uất kết.

Hoàng đế: (Tạng phủ) dày mỏng, đẹp xấu đều có hình dáng, xin hỏi nơi bệnh của chúng?

Kỳ Bá: Quan sát những biểu hiện ở ngoài để biết tạng bên trong, và có thể biết nơi có bệnh.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 12, 2017, 03:37:45 PM
Quyển thứ tám

48. Chữa lung tung và chữa theo phép tắc (Cấm phục)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sự sâu sắc của nguyên lý chữa bệnh của châm cứu. Trước hết phải nắm hệ kinh lạc, trên cơ sở đó tìm hiểu sâu thêm, nhất là bắt mạch thốn khẩu (cổ tay) và nhân nghinh (cổ).

 Nêu ra muốn chữa bệnh có kết quả cần phải tuân theo những phép tắc điều trị và tuyệt đối không được chữa lung tung.

 Muốn nắm nguyên tắc chữa bệnh bằng châm, trước hết phải thuộc hệ kinh lạc, vì nó là đường khí huyết vận hành đi toàn thân, phải biết độ dài ngắn, to nhỏ và khí huyết có nhiều hay ít ở trong kinh mạch, bệnh ở trong thì châm kinh thuộc 5 tạng, bệnh ở ngoài thì châm kinh thuộc 6 phủ, phải kiểm tra vệ khí, vì nó là mẹ của các loại bệnh (bách bệnh chi mẫu), cần điều hòa lại trạng thái hư thực của nó (bằng phép bổ tả thích hợp) để làm bệnh ngừng lại, nếu bệnh tà ứ ở huyết lạc, thì tả nặn máu cho hết đi thì bệnh sẽ chuyển yên tĩnh.

Lôi Công: Tôi từ ngày học nghề đã cố gắng học cho thông 60 thiên nói về 9 loại châm...song vẫn chưa nắm hết, nhất là đoạn sau của thiên ngoại suy (từ biểu hiện bên ngoài, suy đoán bệnh của nội tạng) và không rõ nó nói về cái gì. To thì bên ngoài không gì to hơn, nhỏ thì ở trong không gì nhỏ hơn, như vậy thì to nhỏ là vô cực, cao thấp là vô độ, vậy làm thế nào để quy nạp chúng vào một tổng cương được...?

Hoàng đế: Hỏi như vậy rất đúng. Người xưa đã dạy nếu không nghiên cứu sâu, chỉ mong không làm mà hưởng, hoặc không chịu làm để phục vụ người khác thì khó mà có thể truyền thụ cho ai được.

Lôi Công: Tôi xin được thụ giáo...

Hoàng đế: ...

Lôi Công: Điều đó tôi đã rõ, song chưa biết cách nắm và quy nạp chúng.

Hoàng đế: Về dược phương (chẩn đoán và điều trị) có thể nói gọn như sau: Đem các vấn đề cho cả vào một cái túi. Khi túi đã đầy mà không buộc miệng túi lại thì các vấn đề sẽ chảy hêt ra ngoài, nếu những phương pháp chẩn trị không được quy nạp thành cương lĩnh thì chỉ dùng thô mà không dùng tinh được, và trong thực tế sẽ không đem lại kết quả thần diệu được.

Lôi Công: Người nguyện không vươn lên thì không thể có học vấn uyên thâm thêm và kinh nghiệm phong phú được, mà chỉ có thể sử dụng những phương pháp đơn giản để hành nghề thôi.

Hoàng đế: Nếu không có học vấn uyên thâm và không tích lũy được kinh nghiệm phong phú mà chỉ dựa vào điều đã biết để định ra phương pháp đơn giản thì tuy họ tự cho mình là thầy thuốc giỏi, song họ vẫn không thể làm thầy thiên hạ được.

Lôi Công: Xin hỏi về người thầy thuốc giỏi?

Hoàng đế: Người thầy thuốc giỏi, khi bắt mạch cần hiểu rõ mạch cổ tay và nhân nghinh. Mạch cổ tay chủ (các tạng) ở trong, mạch nhân nghinh chủ (các phủ) ở ngoài. Mạch khí của hai nơi (trong, ngoài) tương ứng, cùng vận hành không ngừng (đập như nhau, biểu lý nhất trí) như khi vặn thừng, to nhỏ phải đều nhau...Mùa Xuân Hạ mạch nhân nghinh hơi to (hơn cổ tay), mùa Thu Đông (âm), mạch cổ tay to (hơn mạch nhân nghinh). Mạch như vậy là bình thường và người vô bệnh.

- Mạch nhân nghinh lớn hơn mạch cổ tay 1 lần thì bệnh ở Túc thiếu dương, lớn hơn 1 lần lại thao động thì bệnh ở Thiếu dương tay. Mạch nhân nghinh lớn hơn cổ tay 2 lần thì bệnh ở Thái dương chân, 2 lần mà thao động thì bệnh ở Thái dương tay.

- Mạch nhân nghinh lớn hơn cổ tay 3 lần thì bệnh ở Dương minh chân, 3 lần mà thao động thì bệnh ở Dương minh tay, mạch thịnh là nhiệt, mạch hư là hàn, mạch khẩn là thống tý, mạch đại thì lúc đau lúc hết, lúc nặng lúc nhẹ. Mạnh thịnh thì tả, mạch hư thì bổ, mạch khẩn đau thì châm ở giữa các cơ, mạch đại thì châm huyết lạc và uống thuốc thêm, hạ hãm thì cứu, không hư không thực thì (là bệnh còn ở kinh). Lấy huyệt ở kinh bị bệnh gọi là kinh thích.

* Mạch nhân nghinh lớn hơn cổ tay 4 lần, vừa to vừa sác gọi là dật dương (dương thịnh đến cực độ, không thể giao với âm được) dật dương thì ngoại cách (tách ra ở ngoài), đó là chứng chết không chữa được.

* (Khi chữa bệnh) phải xác định rõ gốc ngọn, quan sát rõ hàn nhiệt để xác định rõ tạng phủ bị bệnh rồi mới chữa.

- Mạch ở cổ tay lớn hơn mạch nhân nghinh 1 lần thì bệnh ở Quyết âm chân, lớn hơn 1 lần mà thao động thì bệnh ở Tâm bào.

- Mạch cổ tay lớn hơn 2 lần thì bệnh ở Thiếu âm chân, lớn hơn 2 lần mà thao động thì bệnh ở Thiếu âm tay.

- Mạch ở cổ tay lớn hơn 3 lần thì bệnh ở Thái âm chân, 3 lần mà thao động thì bệnh ở Thái âm tay.

* Mạch cổ tay thịnh thì đầu chướng, hàn ở trung tiêu ăn không tiêu. Mạch ở cổ tay hư thì nhiệt ở trung tiêu, ỉa chảy, phân sống, thiểu khí, nước đái đổi màu. Mạch ở cổ tay khẩn thì có thống tý. Mạch cổ tay đại thì lúc đau lúc hết. Trong điều trị thì mạch thịnh thì tả, hư thì bổ, khẩn thì châm trước cứu sau, đại thì lấy châm huyết lạc sau đó dùng các phương pháp điều trị để chữa, hạ hãm thì chỉ dùng cứu, hạ hãm là huyết kết ở trong mạch, trong đó có hàn bám vào huyết làm huyết hàn, nên phải cứu, không hư không thực (là bệnh ở kinh) lấy kinh bị bệnh.

- Mạch cổ tay lớn hơn mạch nhân nghinh 4 lần gọi là nội quan (khí âm thịnh, dương không vào để giao với âm được). Nội quan thì mạch to và sác, bệnh chết.

* Khi chữa bệnh phải thẩm sát rõ gốc ngọn của bệnh, hàn ôn để xác định tạng phủ bị bệnh (rồi mới chữa).

Tóm lại: Khi đã thông hiểu (tác dụng sinh lý, bệnh lý của) kinh lạc và huyệt rồi thì có thể truyền thụ cách điều trị bằng châm. Đó là chứng thực chỉ có tả, chứng hư chỉ có bổ, mạch khẩn thì dùng cả cứu và châm và phối hợp cả uống thuốc, hạ hãm (lõm xuống) chỉ có cứu, không hư không thực thì chữa kinh bị bệnh. Nguyên tắc chữa kinh bệnh là ngoài châm hoặc cứu các huyệt trên, kinh bệnh còn có thể dùng thuốc quy vào kinh đó. Mạch cấp tà thịnh thì phải dẫn tà khí đi, mạch to và yếu thì muốn yên tĩnh phải điều dưỡng không nên làm quá sức.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 14, 2017, 09:23:10 AM
49. Năm màu sắc (Ngũ sắc)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về mỗi tạng phủ đều có chỗ phản ánh sắc khí riêng ở mặt. Vị trí của 5 tạng nằm ở dọc mũi từ trán đến chóp mũi, 6 phủ ở hai bên sống mũi. Dựa vào sự thay đổi của màu sắc ở mặt để đoán bệnh tật ở tạng phủ, và căn cứ vào trạng thái phù trầm, khô nhuận, tán tụ của màu sắc để phân biệt tình hình nông sâu, mới cũ và tiên lượng xấu tốt của bệnh.

Lôi Công: (Quan sát) khí sắc ở mặt, có phải chỉ (xem) ở minh đường không? Tên của vị trí đại diện các bộ phận ở mặt.

Hoàng đế: Minh đường là mũi, khuyết là giữa hai lông mày, (thiên) đình là trán, phiền là hai bên má, tế là nhĩ môn, giữa các bộ phận đó phải đoan chính to rộng. Ở xa 10 bước nhìn thấy rõ vuông vắn to đẹp. Diện mạo như vậy sẽ sống 100 tuổi.

Lôi Công: Làm thế nào để phân biệt màu sắc, tạng phủ thể hiện tại ngũ quan?

Hoàng đế: Xương mũi cao và nổi lên, bình mà đoan chính, 5 tạng lần lượt ở giữa, 6 phủ kẹp ở hai bên. Đầu mặt thì ở khuyết đình (giữa hai lông mày và trán), vương cung (tâm) ở chỗ lõm của sống mũi - 5 tạng ở trong ngực bụng yên ổn thì màu sắc bình thường, không có sắc bệnh, màu sắc ở mũi tất trong nhuận. Lẽ nào lại không nhận ra sắc bệnh của 5 quan.

Lôi Công: Sắc bệnh có lúc khó phân biệt, làm thế nào để phân biệt được?

Hoàng đế: 5 sắc phản ánh ra ở các vị trí tương ứng ở mặt. Nếu chỗ đó có màu không chính (đẹp) có biểu hiện lõm xuống xương là có bệnh. Nếu màu sắc có hiện tượng thừa kích (con kích khí mẹ, như vùng Tâm màu vàng, Can màu đỏ, Phế màu đen, Thận màu xanh. Màu của con chiếm vùng của mẹ) thì bệnh tuy nặng nhưng không chết (cần dùng con để tả bệnh của mẹ - Trương Chí Thông).

Lôi Công: Chứng hậu của ngũ sắc là gì?

Hoàng đế: Xanh đen là đau, vàng đỏ là nhiệt, trắng là hàn.

Lôi Công: Làm thế nào để phân biệt bệnh nặng lên và bệnh giảm đi và tà khí suy dần?

Hoàng đế: Cần quan sát kỹ bệnh cả ở trong và cả ở ngoài. Bắt mạch cổ tay nếu hoạt, tiểu, khẩn, trầm thì bệnh sẽ nặng dần, đó là bệnh ở trong (tà thịnh ở phần âm). Nếu mạch nhân nghinh to khẩn, phù, thì bệnh ở ngoài và nặng dần (do tà thịnh ở phần dương). Nếu mạch cổ tay phù hoạt thì bệnh tà  thì bệnh (tà) ngày càng tiến triển, nếu mạch nhân nghinh trầm hoạt thì bệnh ngày một giảm nhẹ. Nếu mạch cổ tay hoạt và trầm thì bệnh (tà) tiến triển dần và bệnh ở trong. Nếu mạch nhân nghinh hoạt thịnh và phù thì bệnh (tà) ngày một tiến triển, và bệnh ở ngoài. Nếu mạch hoặc phù hoặc trầm ở cổ tay và nhân nghinh, to, nhỏ bằng nhau (bệnh không ở âm mà thiên ở dương) thì khó lành. Nếu bệnh ở (ngũ) tạng, mạch trầm và to (là khí âm thịnh) thì bệnh dễ lành, nếu trầm và tiểu (là chân âm kém) là (hiện tượng mạch và chứng tương) nghịch. Nếu bệnh ở phủ, mạch phù và to, thì dễ lành (bệnh dương có mạch dương). Nếu mạch nhân nghinh thịnh (biểu) và kiên (cứng) là ngoại cảm hàn tà, nếu mạch cổ tay (lý) thịnh và kiên (cứng) là bệnh nội thương do ăn uống.

(Mạch cổ tay có thể gọi với các tên: Mạch khẩu, thốn khẩu, khí khẩu)

Lôi Công: Nhìn sắc để biết sự nặng nhẹ như thế nào?

Hoàng đế: Sắc mặt sáng bóng là bệnh nhẹ, ám trệ là bệnh nặng. Sắc bệnh lên dần là bệnh nặng dần, nếu sắc bệnh xuống dần như mây tan dần là bệnh nhẹ dần. 5 sắc (phản ánh trạng thái sinh lý bệnh), có chỗ phản ánh riêng của nó, có phần ngoài (phủ), có phần trong (phủ), có phần trong (tạng). Nếu sắc chuyển từ phần ngoài vào phần trong là bệnh tà từ biểu vào lý, nếu sắc chuyển từ phần trong ra phần ngoài là bệnh tà từ lý ra biểu.

Nếu bệnh phát sinh ở trong (tạng) thì chữa âm (tạng) trước, chữa dương (phủ) thì chữa phần ngoài (biểu) trước, chữa phần trong (lý) sau, nếu chữa ngược lại bệnh sẽ nặng lên. Nếu có mạch hoạt to, lại đại và trường là bệnh từ ngoài đến, có chứng mắt nhìn không chính xác, ý chí chán ghét sự việc, đó là dương khí gặp nhau, khi chữa có thể  (chữa âm hoặc chữa dương) tùy cơ ứng biến mới khỏi được.

Lôi Công: Phong tà là nguyên nhân của 100 bệnh, hàn thấp là nguyên nhân của quyết nghịch. làm thế nào để quan sát sắc mặt mà biết được?

Hoàng đế: Thường nhìn ở khuyết (vùng giữa hai lông mày), nếu sắc bạc (mỏng) trạch (sáng) là bệnh thuộc phong, nếu ấm đục là bệnh tý. Nếu sắc bệnh xuất hiện ở hàm dưới là bệnh quyết (do hàn thấp)...

Lôi Công: Người không có bệnh mà đột nhiên chết, làm thế nào để biết trước?

Hoàng đế: Có đại khí (bệnh tà cực nguy hiểm), xâm phạm vào tạng phủ, tuy không có bệnh mà vẫn đột tử.

Lôi Công: Bệnh có chuyển biến ít nhiều  mà lại chết đột ngột làm thế nào để biết trước?

Hoàng đế:
Ở lưỡng quyền có vùng đỏ to bằng ngón tay cái, tuy bệnh có giảm mà vẫn chết đột ngột. Ở thiên đình (trán) có sóng đen to bằng ngón tay cái, tuy không có bệnh mà vẫn chết đột ngột.

Lôi Công: ... Chết đột ngột có thời gian nhất định không?

Hoàng đế: Có thể nhìn sắc thay đổi ở các vị trí trên mặt.

Thiên đình (trán) là (bệnh ở) đầu mặt, trên khuyết (giữa hai lông mày trở lên) là Phế, hạ cực (chỗ lõm nhất của sống mũi) là Tâm, giữa sống mũi là Can, bên trái Can là Đởm, chóp mũi là Tỳ, chỗ rãnh hai bên chóp mũi là Vị, trung ương (từ rãnh hai chóp mũi đến giữa má) là Đại trường, (Dưới xương gò má) kẹp ở phía ngoài má là Thận, dưới Thận là rốn. phía trên diện vương (chóp mũi) ở giữa mũi và má là Tiểu trường, chóp mũi xuống dưới (nhân trung) là Bàng quang, tử cung. Gò má là vai, sau gò má là cánh tay, dưới cánh tay là bàn tay, phía trên đầu mắt là ngực, vú, thẳng chỗ gần tai lên là lưng, dưới Giáp xa là đùi, chính giữa là gối, dưới gối là cẳng chân, dưới cẳng chân là bàn chân, cạnh mép (vùng nếp nhăn ở 2 bên miệng) là mặt trong đùi, chỗ góc hàm dưới (cự khuất) là xương bánh chè. 5 tạng 6 phủ, chi khớp đều có chỗ trên mặt, qua màu sắc ở các nơi đó dùng chữa âm để hòa dương (với dương thịnh âm suy). Khi nắm rõ tình hình sắc các chỗ trên mặt (các bộ phận trong cơ thể) thì có thể chữa có kết quả (điều hòa hư thực). Nên phân biệt cả âm phải, dương trái cho phù hợp với quy luật âm dương tương đối của tự nhiên. Do sắc của nam nữ chuyển dịch, vị trí không giống nhau, nên phải hiểu quy luật của âm dương để có thể quan sát sức nhuận bóng, hay khô úa rồi mới chữa. Người làm được như vậy mới là thầy thuốc giỏi.

- Sắc trầm đục là (bệnh) ở trong, sắc phù trạch là (bệnh) ở ngoài. Sắc vàng đỏ là (bệnh) phong, xanh đen là đau, trắng là hàn, vàng và nhờn là có mủ, đỏ thẫm là huyết thống, thẫm nữa là co giật, hàn cực là da tê dại. 5 sắc có vị trí của nó, quan sát sự phù trầm của nó để biết bệnh ở nông hay sâu, xem sắc nhuận khô để biết thành bại (tiên lượng xấu tốt), xem sắc phân tán hay tập trung để biết bệnh lâu hay mới, xem sắc ở trên hay ở dưới để biết nơi bị bệnh. Thầy thuốc định thần xem sắc mặt bệnh nhân để biết tình hình bệnh tật trước nay. Nếu xem không ký thì không phân tích được thị phi (nơi có và không có bệnh), nếu chuyên tâm xem sắc mặt, có thể thấy được tình hình bệnh tật trước nay. Sắc (đáng phải) sáng đẹp nay không lộ ra, mà lại có trầm đục là bệnh nặng, nếu không sáng đẹp, không nhuận thì bệnh không nặng. Nếu sắc phân tán không có chỗ nhất định, thì bệnh cũng không có chỗ nhất định, chưa có tụ lại, thì bênh phân tán và có khí thống, chưa tụ lại được.

- Thận (sắc đen) thừa Tâm (ở chỗ lõm giữa hai mắt), là Tâm có bệnh trước, rồi Thận sẽ ứng sau. Các (vị trí khác không có màu) sắc (tương ứng của nó) đều (dùng cách giải thích) như thế

- Nam có sắc bệnh ở diện vương (chóp mũi) là đau bụng dưới, nếu ở dưới (chỗ nhân trung) là đau tinh hoàn, nếu ở đúng giữa nhân trung là đau dương vật, ở phần trên nhân trung là gốc dương vật đau, ở phần dưới là đầu dương vật đau, đều thuộc loại hồ sán thoát vị ở bìu.

- Nữ có bệnh ở diện vương (chóp mũi) là bệnh ở Bàng quang (tử cung), nếu sắc phân tán là đau do khí trệ, nếu bệnh sắc tập trung ở một chỗ là bệnh tích tụ, sắc hình tròn hay vuông ở bên phải hay bên trái đều tương ứng với hình trạng của bệnh. Nếu sắc bệnh tiếp tục đi xuống, bệnh đến vùng xương cùng là dâm trọc, nếu nhuận bẩn như cao, là do bạo ăn nhiều thứ không sạch.

- Sắc bệnh bên trái là bệnh bên trái, sắc bệnh bên phải là bệnh bên phải. Sắc bệnh do tà khí có tụ, có tán mà không đoan chính ở chỗ nào, thì là tạng phủ tương ứng với chỗ đó có bệnh. Các sắc xanh, đen, đỏ, trắng, vàng đều đoan chính,đầy đặn, có thể thấy ở bộ phận khác ngoài bộ phận của mình. (Trong trường hợp bệnh lý), ở bộ phận khác mà có sắc đỏ (Tâm) to như quả dâu da ở chóp mũi (diện vương) là bệnh sẽ thay đổi trong vòng vài ngày. Nếu sắc bệnh sắc nhọn ở trên, là chính khí ở đầu rỗng hư, tà có khuynh hướng phát triển lên, nếu có cạnh phí dưới sắc nhọn, là tà khí có khuynh hướng phát triển xuống dưới, nếu có cạnh sắc nhọn, ở phía trái hoặc phải là bệnh tà có chiều hướng phát triển sang phải.

* Quan hệ giữa sắc và tạng như sau: Xanh là Can, đỏ là Tâm, trắng là Phế, vàng là Tỳ, đen là Thận. Cần hợp với cân, Tâm hợp với mạch, Phế hợp với da, Tỳ hợp với cơ nhục, Thận hợp với xương.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 16, 2017, 09:00:23 AM
50. Bàn về dũng cảm (Luận dũng)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về sắc da của mỗi người không giống nhau và sắc bệnh ở mỗi màu cũng có khác nhau. Có người dũng cảm và nhút nhát, nguyên nhân chính là do chức năng của tạng phủ thịnh hay suy, đặc biệt là 3 tạng Tâm, Can, Đởm, chúng có quan hệ mật thiết với lòng dũng cảm và sự nhút nhát.

Hoàng đế: Có một số người ở cùng một chỗ, hoặc cùng đứng, cùng đi, họ cùng tuổi mặc cùng loại quần áo, đột nhiên cũng bị nắng gắt mưa to, có người lại mắc bệnh có người không, hoặc họ cùng mắc bệnh hoặc cùng không mắc bệnh. Tại sao vậy?

Thiếu Du: Mùa Xuân có thanh phong (gió ấm), mùa Hạ có dương phong (gió nóng), mùa Thu có lương phong (gió mát), mùa Đông có hàn phong (gió rét). Bốn loại gió mùa này gây những bệnh khác nhau.

Hoàng đế: Khi bị cảm gió của 4 mùa khác nhau thì bệnh nhân như thế nào?

Thiếu Du: Người có da vàng mỏng, cơ yếu mềm thì không chịu nổi hư phong của mùa Xuân (mộc khắc thổ), người có da trắng mỏng, cơ yếu mềm thì không chịu nổi gió chướng hư phong của mùa Hạ (hỏa khắc kim), người có da xanh mỏng, cơ yếu mềm thì không chịu nổi hư phong của mùa Đông (thủy khắc hỏa).

Hoàng đế: Còn da màu đen?

Thiếu Du: Người có da đen dày, cơ săn chắc thì không bị gió chướng của bốn mùa làm tổn thương. Còn người có da hay thay đổi, da của họ mỏng, thịt không săn chắc, sắc khí lại thay đổi bất nhất thì khi nào mùa Trưởng hạ đến có hư Phong, họ sẽ bị bệnh. Nếu da dày cơ săn chắc, mà bị hư phong rồi lại bị hàn tà, do cả biểu và lý đều bị tấn công thì có thể bị bệnh (dùng quan hệ ngũ hành để giải thích).

Hoàng đế: Có người chịu được đau, có người không chịu được đau, không phải là điều kiện để phân biệt ai là kẻ gan dạ hoặc kẻ hèn nhát. Vì có dũng sỹ sợ đau nhưng khi gặp khó thì tiến lên, nhưng khi bị đau thì lại co vòi lại. Có người nhút nhát chịu được đau nhưng gặp khó khăn thì lại co vòi lại, nhưng khi khi bị đau vẫn không động đậy. Có những người nhát gan sợ đau, khi thấy khó khăn gặp đau, đều sợ không dám nhìn, líu lưỡi nói không được, mất hơi (thất khí), sợ hãi, biến sắc, chết dở, sống dở. Tại sao lại như vậy?

Thiếu Du: Chịu và không chịu được đau còn do da dày hay mỏng, cơ mềm yếu hay săn chắc, trong lòng thư hoãn hay căng thẳng (hoãn cấp), chứ không phải chỉ do dũng cảm và nhát gan.

Hoàng đế: Tại sao có dũng cảm và nhát gan?

Thiếu Du: Người dũng sỹ mắt sâu lông mày dựng, nhìn có hào quang và trực diện nhìn nếp da có ngang thô, tâm đoan chính trung trực, Can lớn và kiên, Đởm dày và căng ra bốn phía, khi lên cơn giận thì khí thịnh và ngực căng, Can khí vượng lên, Đởm khí tràn ngang ra , mắt mở to như rách ra, ánh mắt tỏa ra, lông tóc dựng lên, mặt xanh bệch. Đấv là nguyên nhân (Tâm, Can, Đởm thịnh) quyết định tính cách của dũng sĩ.

- Người nhát gan mắt to nhưng không giảm (vô thần) Âm Dương mất điều hòa, da dọc, thưa mềm, mũi kiếm, xương ngực ngắn nhỏ, hệ Can hoãn, Đởm không dày mà thẳng đứng, Trường vị gầy nhỏ và thẳng ít gấp uốn khúc, (Can khí) dưới cạnh sườn rỗng, tuy có cơn thịnh nộ, khí vẫn không làm căng ngực, tuy khí của Can Phế thịnh lên, nhưng suy rất nhanh và xuống ngay, không thể giận lâu, đó là nguyên nhân quyết định tính cách của người nhát gan.

Hoàng đế: Người nhát gan khi uống rượu, lên cơn giận không né tránh ai, giống như người dũng cảm, vậy tạng nào có tác dụng để gây nên trạng thái này?

Thiếu Du: Rượu do ngũ cốc tạo thành, là dịch của ngũ cốc đã được tiêu hóa, khí của nó mạnh mẽ. Nếu nó vào vị thì làm vị chướng, khí nghịch lên làm đầy ngực, Can khí thịnh và phù (nổi lên) Đởm nằm ngang ra. Lúc say đó, hành vi dũng cảm như dũng sĩ, nhưng khi hết say, khí suy rồi thì lại thấy hối hận. Như vậy gọi là "tửu bột", chỉ hăng khi bị rượu kích thích mà thôi.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 16, 2017, 11:00:27 AM
51. Huyệt du ở lưng (Bối du)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Hoàng đế: Muốn nghe những huyệt du ở lưng ứng với ngũ tạng?

Kỳ Bá: Các huyệt du đều nằm ở hai bên cột sống. Huyệt Đại trữ ở dưới mỏm trữ cốt (đốt sống lưng 1) ngang ra 1,5 thốn, huyệt Phế du dưới mỏm đốt sống lưng 3 ngang ra, huyệt Tâm du ở dưới mỏm đốt sống lưng 5 ngang ra, huyệt Cách du ở dưới mỏm đốt sống lưng 7 ngang ra, huyệt Can du ở dưới mỏm đốt sống lưng 9 ngang ra,, huyệt Tỳ du ở mỏm đốt sống lưng 11 ngang ra, huyệt Thận du ở mỏm đốt sống lưng 14 (thắt lưng 2)ngang ra. Các huyệt đều ở kẹp hai bên cột sống và hai huyệt cùng tên cách nhau 3 tấc. Cách xác định và kiểm tra vị trí huyệt là ấn vào đó thấy cảm giác đau tức hoặc đang có đau ấn vào thì hết đau. Trong điều trị nên cứu và không nên châm các huyệt này. Nếu tà khí thịnh thì tả, chính khí hư thì bổ. Nếu tả bằng hỏa (cứu) thì thổi mồi ngải cho cháy to làm cho bệnh nhân thấy bỏng rát thì thêm mồi ngải đốt tiếp, phải dập lửa nhanh, để đạt mức có cảm giác bỏng rát song không làm tổn thương da cơ. Nếu bổ bằng hỏa (cứu) thì sau khi đốt mồi ngải cứu rồi, để nó tự cháy, không được thổi để lửa bốc lên.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 16, 2017, 11:08:11 AM
52. Khí bảo vệ (Vệ khí)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về công năng của khí dưỡng và khí bảo vệ (dinh khí, vệ khí), tình hình hoạt động của chúng trong cơ thể , nói rõ chữa bệnh cần căn cứ vào hệ kinh lạc, nắm gốc ngọn hư thực. Lấy điểm gốc, điểm ngọn của 12 kinh, vị trí các huyệt làm căn cứ cho việc bổ tả.

Hoàng đế: Ngũ tạng là nơi tàng tinh thần hồn phách, lục phủ, là nơi nhận và tiêu hóa thức ăn. Khí của thức ăn uống bên trong vào ngũ tạng, bên ngoài ra thân thể, chi, khớp. Khí nổi của nó không tuần hành ở trong đường kinh gọi là khí bảo vệ (vệ khí). Khí tinh của nó tuần hành ở trong đường kinh gọi là khí dinh dưỡng. Hai khí âm dương này (dinh vệ) bám sát nhau, cả ở trong và ở ngoài thông lẫn nhau, tuần hoàn khép kín. Hai khí tuần hoàn và dừng ở các trạm liên tục, như vậy nên không có tận cùng, tuy vậy chúng vẫn có phân ra Âm Dương, đều có gốc, ngọn, hư thực và nơi tách ra. Nếu phân rõ Âm Dương của 12 kinh, thì có thể biết rõ nguyên nhân gây bệnh; biết được hư thực ở chỗ nào, biết được bệnh ở cao hay thấp; biết được chỗ "khí giải" của 6 phủ thì có thể giải được các nút (châm cho thông chỗ kinh bị tắc, sự tương hợp tương thừa của các kinh) nơi cửa ngõ của các đường kinh; biết được trạng thái hư thực của kinh, biểu hiện bằng cứng và mềm, sẽ tìm được nơi bổ tả chính; nếu tìm được gốc ngọn của 6 kinh thì không gì là không nắm được, dù bệnh tình có phức tạp và có thể ứng phó dễ dàng.

Kỳ Bá:

- Gốc của kinh Thái dương chân, ở trên phía ngoài gót chân 5 tấc (huyệt Phụ dương). Ngọn của nó 2 bên lạc phải và trái (Tình minh) của mệnh môn (Ấn đường). Mệnh môn là mắt (Tình minh). Gốc của kinh Thiếu dương chân, ở giữa khiếu âm, ngọn ở trước Song long (Thính cung - huyệt hội của Thái dương và Thiếu dương). Song long là tai. Gốc  của kinh Thiếu âm chân, ở trên mắt cá trong 2 tấc, ở Phục lưu hoặc Giao tín, ngọn của nó ở hai bên đốt sống 14 (Thận du) và hai mạch ở dưới lưỡi (cạnh Liêm tuyền). Gốc của kinh Quyết âm chân, ở trên hành gian 5 tấc (Trung phong), ngọn của nó ở hai bên đốt sống lưng 9 (Can du). Gốc của kinh Dương minh chân, ở Lệ đoài, ngọn ở Nhân nghinh, ở hai bên khiếu trên của họng. Gốc của kinh Thái âm chân ở trước và trên Trung phong 4 tấc (Tam âm giao), tiêu ở hai bên đốt sống 11 (Tỳ du) và gốc lưỡi.

- Gốc của kinh Thái dương tay ở sau mắt cá ngoài (Dưỡng lão), ngọn của nó ở trên mạnh môn 1 tấc (trên Tình minh 1 tấc tức Toản chúc). Gốc của kinh Thiếu dương tay, ở trên kẽ ngón tay út và nhẫn 2 tấc (Trung chữ. Linh khu dịch thích: Dịch môn), ngọn ở sau tai lên đến ngang mỏm tai, và xuống dưới đến đuôi mắt (Ty trúc không). Gốc của kinh Dương minh tay ở xương khuỷu tay (Khúc trì), lên đến biệt dương (Tý nhu), tiêu của nó ở dưới trán hợp với trên tai (Đầu duy). Gốc của kinh Thái âm tay ở ngang mạch cổ tay (Thái uyên), ngọn ở động mạch trong nách (Thiên phủ - Giáp ất kinh - Thiên: bệnh hàn nhiệt - Linh khu). Gốc của kinh Thiếu âm tay, ở mép xương đậu (thần môn), ngọn ở hai bên đốt sống thắt lưng 5 (Tâm du). Gốc của kinh chủ tay. (Quyết âm tay) ở sau nếp cổ tay 2 tấc giữa 2 gân (Nội quan), ngọn ở dưới nách 3 tấc (Thiên trì).

- Chẩn đoán gốc ngọn, ở dưới là gốc, nếu hư thì quyết lại (nguyên dương suy) nếu thực thì nhiệt. Ở trên là ngọn, nếu hư thì huyễn vựng (thanh dương không lên), nếu thịnh thì nhiệt thống (đau). Nếu thực dùng phép tả để cắt đứt nguồn gốc của tà khí thịnh, từ đó không cho bệnh phát triển. Nếu hư dùng phép bổ, dẫn khí, làm cho khí phấn chấn lên.

- Về khí giai của các bộ phận, 8 khí của ngực có giai (đường phổ) của nó. Khí của bụng có giai (đường phố) của nó, khí của đầu có giai (đường phổ) của nó, khí của cẳng chân có giai (đường phổ) của nó. Khí của đầu, chữa ở não (Bách hội). Khí của ngực chữa ở hai bên ngực và các huyệt du của đốt sống lưng; Khí của bụng, chữa ở các huyệt du của đốt sống lưng, thắt lưng và mạch Xung, cùng động mạch ở hai bên rốn (Hoang du, Thiên khu). Khí của cẳng chân chữa ở khí giai (Khí xung), Thừa sơn, và huyêt ở trên dưới mắt cá. Lấy các huyệt đó, dùng hào châm để chữa, thao tác cần ấn day huyệt đó một lúc lâu đợi khí, rồi mới làm thủ thuật châm. Chữa các chứng bệnh sau: Đau đầu huyễn vựng, ngất sỉu, đau bụng, bụng đầy chướng và có tích mới. Nếu đau có di động (tức chưa có một tích huyệt cố định) thì dễ khỏi. Nếu tích mà không đau (tích đã lâu) thì khó chữa.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 17, 2017, 09:24:05 AM
53. Luận về đau (Luận thống)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về người có xương khỏe, gân mềm, cơ hoãn, da dầy chịu đau tốt, dễ tiếp thu phương pháp chữa bằng châm cứu. Nếu có cơ săn, da mỏng thì chị đau kém, khó tiếp thu phương pháp chữa bằng châm cứu. Người có Vị (dạ dày) hậu, sắc đen, xương to, người béo thì chịu tốt độc tính của thuốc, người gày Vị yếu, chịu kém độc tính của thuốc.

Hoàng đế: Gân xương mạnh và yếu, cơ nhục cứng và nhẽo, da dày và mỏng, tấu lý thưa và dày, đối với kích thích đau của châm cứu có gì khác nhau không? Trường vị hậu bạc (dày mỏng), cứng nhẽo khác nhau, đối với độc tính của thuốc có gì khác nhau không?

Thiếu Du: Nói chung xương khỏe, gân mềm, cơ hoãn, da dày, thì chịu đau tốt và có thể chịu tốt kích thích đau của châm cứu.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết họ chịu đau tốt?

Thiếu Du: Người khỏe, da đen, xương khỏe có thể chịu kích thích lửa của cứu. Người cơ săn, da mỏng, không chịu được kích thích đau của châm, cũng không chịu được kích thích đau của lửa cứu.

Hoàng đế: Bệnh của người ta, hoặc cùng bị bệnh một lúc, hoặc có dễ chữa, hoặc có khó chữa tại sao?

Thiếu Du: Người có da nhiệt thì dễ chữa, người có da hàn thì khó chữa.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết người ta có thể chịu được độc tính của thuốc?

Thiếu Du: Vị (dạ dày) hậu, da đen, xương to và béo thì chịu được độc tính của thuốc tốt. Người gày, Vị bạc (yếu) thì chịu đựng độc tính của thuốc kém.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 17, 2017, 09:50:41 AM
54. Tuổi trời (Thiên niên)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Khí huyết thịnh hay suy, tạng phủ mạnh hay yếu, có quan hệ mật thiết đến tuổi thọ. Sông 100 năm mới là hết tuổi trời. Làm thế nào để chống già nua, giữ sức khỏe để hưởng thọ là vấn đề được nêu trong thiên này.

Hoàng đế: Con người sinh ra thì lấy gì làm cơ sở? Dựa vào cái gì để xây dựng phần ngoài của nó, mất cái gì thì chết, có cái gì thì sống?

Kỳ Bá: Trong khi thai nghén, lấy khí huyết của mẹ làm cơ sở, lấy nguyên dương của bố để làm phần ngoài thân thể (Âm ở trong Dương ở ngoài), mất thần thì chết, có thần thì sống.

Hoàng đế: Thế nào gọi là thần?

Kỳ Bá: (Thần là biểu hiện của sự sống) khí huyết điều hòa, dinh vệ tuần hoàn thông suốt, ngũ tạng hình thành, thần khí tàng ở Tâm, hồn phách đầy đủ (hoạt động tinh thần - gần với thần là hồn, gần với tinh là phách) thì sẽ thành người.

Hoàng đế: Tuổi thọ của người ta khác nhau, người yếu không thọ, người chết đột ngột, người có bệnh mãn tính, tại sao?

Kỳ Bá: Người có 5 tạng kiên cố, huyết mạch điều hòa, khí huyết trong cơ nhục tuần hoàn thông suốt, da săn chắc, dinh khí, vệ khí tuần hoàn bình thường, thở nhẹ đều hòa hoãn, khí vận hành trong người tốt, 6 phủ tiêu hóa ngũ cốc tốt, tân dịch phân bố đều đặn đi toàn thân, mọi hoạt động trong người đều tốt có thể sống lâu.

Hoàng đế: Tại sao lại có người sống đến 100 tuổi?

Kỳ Bá: Người có nhân trung sâu dài và lỗ mũi sâu dài, hàm dưới và 4 bể của mặt cao đầy đặn (mặt vuông), dinh vệ khí huyết điều hòa và thông suốt, 3 phần trên, giữa, dưới của mặt đều cao mà không lõm xuống, xương cao to, thân thể đầy đặn, thì có thể sống đến 100 tuổi.

Hoàng đế: Tình hình diễn biến thịnh suy của khí từ mới đẻ đến khi chết như thế nào?

Kỳ Bá: Đến 10 tuổi, 5 tạng mới bắt đầu kiện toàn, khí huyết thông suốt, lúc đó kinh khí ở dưới (mới sinh) nên thích chạy nhảy. Đến 20 tuổi, khí huyết đã thịnh, cơ nhục đang phát triển, nên đi đứng vững chãi, mạnh mẽ, thích chạy. Đến 30 tuổi, 5 tạng đã hoàn toàn kiện toàn, cơ nhục săn chắc, huyết thịnh mạch đầy, đi đứng đĩnh đạc hơn, không thích chạy nhảy nữa. Đến 40 tuổi, 5 tạng, 6 phủ, kinh mạch đều đến mức thịnh nhất, thấu lý đã bắt đầu thưa, sắc mặt dung nhan có bề giảm sút, tóc đã bắt đầu hoa râm, kinh khí bình ổn và cực đầy không thể hơn nữa, nên đã thích ngồi. Đến 50 tuổi, Can khí đã bắt đầu suy, lá gan đã mỏng đi, mật tiết ít đi, bắt đầu nhìn mờ không rõ. Đến 60 tuổi, Tâm khí đã bắt đầu suy, thường hay bi ai lo nghĩ, khí huyết tuần hoàn uể oải nên thích nằm. Đến 70 tuổi Tỳ khí hư, da khô. Đến 80 tuổi Phế khí hư, hồn đã kiệt, nên nói hay lẫn. Đến 90 tuổi, cả 5 tạng đều hư, thần khí không còn, chỉ còn thể xác, và chết.

Hoàng đế: Tại sao người ta không sống đến 100 tuổi mà chết sớm?

Kỳ Bá: Do 5 tạng của họ đều không vững chắc, nhân trung và lỗ mũi ngắn, lỗ mũi hếch ra ngoài, thở khó, hen, thở gấp. Cằm và 4 bên của mặt thấp mỏng, trong mạch ít máu, cơ không săn chắc, bị trúng phong hàn nhiều lần, khí huyết hư, suy, thiểu, mạch không thông, ngoại tà dễ tấn công, do chân khí kém nên bị loạn, tà khí vào càng sâu, nên chỉ sống được 1/2 chừng thì chết.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 17, 2017, 04:59:35 PM
55. Nghịch thuận

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Ở người ta khí vận hành có nghịch có thuận, mạch có thịnh có hư cho nên phép châm phải khác nhau, có người chữa được châm, có người không được châm, có người cần châm.

Hoàng đế: Khí vận hành có nghịch có thuận, mạch có thịnh có suy, châm có các cách châm, nên hiểu thế nào?

Bá Cao: Khí vận hành có thuận có nghịch là ứng với trời đất, Âm Dương, tứ thời, ngũ hành, lấy sự thịnh suy của mạch làm cơ sở để chuẩn đoán khí huyết hư, thực, đủ, yếu. Từ đó xác định phép châm ở từng người, hoặc chưa được châm, hoặc không được châm, hoặc cần phải châm.

Hoàng đế: Khi nào chưa nên châm?

Bá Cao: Khi sốt cao đang thịnh, khi mồ hôi ra không dứt, khi mạch đập loạn, khi mạch và chứng tương phản, thì chưa được châm.

Hoàng đế: Khi nào có thể châm?

Bá Cao: Người thầy thuốc giỏi thì châm khi bệnh chưa rõ rệt, thứ đến là châm khi tà khí đã suy. Người thầy thuốc kém thì châm khi bệnh tà đang rất mạnh (mà cơ thể suy yếu), hoặc chỉ thấy hiện tượng tà khí thịnh (mà không phân tích tình hình ngũ tạng), đã vội châm, hoặc châm khi chứng và mạch tương phản. Cho nên nói là: Khi tà khí đang cực thịnh thì chưa nên châm (vì lúc đó chính khí đã bị suy, nếu châm thì càng suy), đợi khi tà khí suy hãy châm (để đuổi nốt tà khí) thì sẽ thành công lớn. Cho nên nói: Thầy thuốc giỏi chữa khi chưa có bệnh, không chữa khi đã có bệnh (Bình: Cách sử trí như vậy đã thật tốt chưa? Tại sao không đánh khi tà khí đang thịnh, nó đang phá hoại mạch? Theo tôi nên đánh cả lúc đó mới đúng, tất nhiên phải chiếu cố đến chính khí).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 18, 2017, 03:50:15 PM
56. Ngũ vị

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung:  Nói về 5 vị (thức ăn) sau khi vào dạ dày được tiêu hóa rồi sẽ đi vào các tạng có  liên quan theo quy luật ngũ hành tương khắc, cũng nói lên tương kỵ giữa vị và tạng.

Hoàng đế: Thức ăn có 5 vị, chúng phân biệt đi vào các tạng phủ như thế nào?

Bá Cao: Vị là biển của 5 tạng 6 phủ. Thức ăn vào Vị được tiêu hóa rồi đưa các chất bổ đi 5 tạng 6 phủ. Mỗi vị của ngũ vị đi vào tạng có quan hệ với nó. Chua vào Can trước, đắng vào Tâm trước, ngọt vào Tỳ trước, cay vào Phế trước, mặn vào Thận trước. Cốc khí hóa thành tân dịch tuần hoàn trong cơ thể, hóa thành dinh khí, vệ khí cũng tuần hoàn rất tốt (và phát huy tác dụng), còn lại hóa thành cặn bã và truyền dần xuống dưới để tống ra ngoài.

Hoàng đế: Tình hình tuần hoàn của dinh khí, vệ khí như thế nào?

Bá Cao: Bắt đầu thức ăn vào dạ dày được tiêu hóa thành các chất tinh vi rồi thì vị đi ra hai tiêu (thượng tiêu, trung tiêu), để tưới cho ngũ tạng, và đi làm hai đường, cũng là hai đường tuần hoàn của dinh khí và vệ khí. Đồng thời còn đại khí, tập trung mà không hành (tuần hoàn) tích lại ở trong ngực được gọi là khí hải, khí đó đi ra từ Phế, dọc theo hầu họng để thở, thở ra thì ra, hít vào thì vào. Tinh khí của cả trời và đất là nguồn gốc chính để duy trì sự sống bình thường (tình hình tiêu hao của chúng nói chung như sau: Tông khí, dinh vệ và cặn bã) ba thứ bị tiêu hao và ra ngoài, một thứ (tinh khí của trời đất) vào để nuôi dưỡng cơ thể. Nếu không có thức ăn thì 1/2 ngày khí sẽ suy và 1 ngày khí sẽ thiểu.

Hoàng đế: Xin nói về ngũ vị của thức ăn?

Bá Cao: Ngũ cốc có vị ngọt, vừng vị chua, đậu to vị mặn, lúa mạch vị đắng, tiểu mễ vị cay. Ngũ quả có: Táo vị ngọt, lê vị chua, hạt dẻ vị mặn, hạnh vị đắng, cà vị cay. Ngũ loại rau có: Quỳ vị ngọt, hẹ vị chua, lá dâu vị mặn, tỏi dại vị đắng, hành vị cay. Ngũ sắc có: Màu vàng thường ngọt, màu xanh thường chua, màu đen thường mặn, màu đỏ thường đắng, màu trắng thường cay. Trong năm màu đó mỗi màu có một vị thích ứng. Năm thích ứng là sự kết hợp giữa 5 sắc với 5 vị, như: Bệnh ở Tỳ, nên ăn cơm gạo tẻ thịt bò, táo, rau quỳ (ngọt). Bệnh ở Tâm nên ăn lúa mạch, thịt dê, hành, tỏi dại (đắng). Bệnh ở Thận nên ăn giá đậu vàng, thịt lợn, hạt dẻ, lá dâu (mặn). Bệnh ở Can nên ăn vừng, thịt chó, lê, rau hẹ (chua). Bệnh ở Phế nên ăn tiểu mễ, thịt gà, cà, hành (cay).

- Bệnh ở Can kiêng ăn cay, bệnh ở Tâm kiêng ăn mặn,  bệnh ở Tỳ kiêng ăn chua,  bệnh ở Thận kiêng ăn ngọt,  bệnh ở Phế kiêng ăn đắng.

- Can màu xanh, nên ăn ngọt, cơm gạo tẻ, thịt bò, táo, rau quỳ, đều có vị ngọt. Tâm màu đỏ nên ăn chua, thịt chó, vừng, lê, hẹ (cửu) đều có vị chua. Tỳ màu vàng, nên ăn mặn, đậu to, thịt lợn, hạt dẻ, lá dâu, đều có vị mặn. Phế màu trắng, nên ăn đắng, lúa mạch, thịt dê, hành, tỏi dại, đều có vị đắng. Thận màu đen, nên ăn cay, tiểu mễ, thịt gà, đào, hành, đều có vị cay.

Bảng tóm tắt cho dễ dùng

(https://i.imgur.com/ifawV8Q.jpg)

Bình: Nếu theo hành khắc nó thì sẽ là 5 điều nên: Xanh, Can Phế ăn chua. Đỏ Tâm Thận nên ăn đắng. Vàng Tỳ Can nên ăn ngọt. Trắng Phế Tâm nên ăn cay. Đen Thận Tỳ nên ăn mặn


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 18, 2017, 05:31:08 PM
Quyển thứ chín

57.Thủy chứng

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nêu về thủy chứng, các thủy chướng như Da chướng, Cổ chướng, Trường tân, Thạch hà, Thạch thủy, đặc điểm và chẩn đoán, phân biệt của các chứng này.

Hoàng đế: Sự khác nhau của thủy chướng cơ bụng với Da chướng, Cổ chướng, Trường tân, Thạch hà, Thạch thủy là gì?

Kỳ Bá:

 - Thủy chướng bắt đầu bằng mắt hơi mọng như mới ngủ dậy, mạch cổ (nhân nghinh) đập nhanh có lực, thỉnh thoảng ho, mặt trong đùi lạnh, cẳng chân phù, bụng to dần và hình thành thủy chướng. Lấy tay ấn bụng, rồi bỏ tay ra thì chỗ ấn nổi lên ngay, như túi đựng nước vậy.

- Da chướng là do khí hàn lưu ở trong da, ở trong rỗng và có âm thanh, bụng to, toàn thân phù, da dày, ấn vào bụng, chỗ ấn bị lõm, màu da bụng không đổi.

- Cổ chướng là bụng chướng (như cái trống, toàn thân phù, giống như da chướng, như màu da xanh vàng, có gân xanh ở bụng).

- Trường tân là khí hàn lưu ở ngoài ruột đánh nhau với vệ khí, làm tuần hoàn của vệ khí bị trở ngại, làm cho cả huyết tích lại không thông, sự tích lại và lưu trệ ở trong này làm khí ác nổi lên và sinh ra thịt thừa. Mới bắt đầu thì nó to như quả trứng gà, rồi to dần đến mức như cái thai trong bụng. Bệnh thường lâu, nhiều năm, sờ thấy cứng, đầy thi di động song hành kinh vẫn đều.

- Thạch hà là (bệnh ở bào cung) do khí hàn vào cửa dạ con, làm nó tắc lại, tuần hoàn của khí không thông, huyết xấu không ra được nên huyết ngưng ở trong và to dần như có thai và kinh không đều. Bệnh chỉ ở trong dạ con của nữ, chữa bằng cách trục ứ thông lợi.

Hoàng đế: Có thể dùng châm để chữa bệnh da chướng cổ chướng không?

Kỳ Bá: Mới đầu dùng kim chích nặn máu huyết ứ ở lạc, rồi điều hòa kinh mạch về bình thường, chú ý lấy nặn máu xấu làm chủ.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 18, 2017, 05:59:25 PM
58. Tặc phong (Gió độc)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về gió độc là khí hậu khác thường của 4 mùa. Gió độc có thể hại người nếu không biết giữ mình.

Hoàng đế: Gió độc có thể gây bệnh cho người. Song có người chỉ ở trong nhà, được che chắn rất tốt không thể bị gió độc làm tổn thương được, tại sao lại đột ngột bị bệnh?

Kỳ Bá: Những người đó đều bị khí thấp làm hại, thấp tà ẩn náu trong mạch máu, giữa các cơ và ở lâu trong đó. Hoặc bị ngã từ cao xuống, huyết ứ tích ở trong người, hoặc đột nhiên quá vui quá giận, ăn uống không điều độ, không thích ứng được khí hậu nóng lạnh, làm thấu lý đóng lại và không thông. Hoặc lúc thấu lý mở ra bị phong hàn tấn công làm khí huyết ngưng kết, tân cảm và lưu tà hợp với nhau thành hàn tý. Hoặc lúc nóng ra mồ hôi và lúc mồ hôi đang ra thì bị phong tà tấn công. Những người đó tuy ở trong nhà, không bị gió độc của bốn mùa, nhưng do có lưu tà nay gặp tân cảm nên sinh bệnh.

Hoàng đế: Còn có người không bị gió độc, cũng không bị kích thích tâm thần mà đột nhiên bị bệnh là tại sao? có phải do quỷ thần không?

Kỳ Bá: Do có tà lưu ở trong nhưng chưa phát bệnh, do trong lòng có việc không vừa ý, hoặc không toại nguyện làm khí huyết loạn ở trong, thế là tà vẫn lưu ở trong và nguyên nhân mới đánh nhau nên gây bệnh. Thay đổi tình trí này biểu hiện ra ngoài rất tinh tế, nhìn không thấy, nghe không rõ, làm người ta nghĩ là thần quỷ gây nên, nhưng thật ra không phải như vậy.

Hoàng đế: Có người dùng phương pháp "Chúc do" (một phương pháp điều trị tâm thần cổ) để chữa và khỏi bệnh tại sao?

Kỳ Bá: Đó là dùng cái thắng ức chế cái thừa về mặt tâm thần để chữa bách bệnh. Trước hết phải hiểu nguyên nhân gây ra bệnh, rồi dùng cách chuyển dịch chú ý (tinh thần) để thay đổi khí quyết. Đó là phương pháp "Chúc do" để chữa khỏi bệnh.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 20, 2017, 07:05:34 AM
59. Khí bảo vệ mất bình thường (Vệ khí thất thường)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về khí, vệ khí tuần hoàn thất thường, lưu ở trong ngực bụng thì gây nhiều bệnh và cách châm (huyệt và thủ thuật) để chữa các bệnh đó. Ngoài ra còn nói đến trong chẩn đoán còn dựa vào người gầy béo hoặc to nhỏ, tuổi lớn nhỏ, để chữa cho có kết quả. Còn miêu tả 3 loại người béo to: Béo, phì lộn, cơ.

Hoàng đế: Khi vệ khí ngưng ở trong bụng rồi tích lại uất kết ở đó không hành, làm cho người ta thấy sườn, dạ dày đầy, suyễn khí nghịch, làm thế nào để chữa?

Kỳ Bá: Nếu khí tích ở ngực, lấy huyệt ở trên để chữa, nếu khí tích ở bụng, lấy huyệt dưới để chữa, nếu trên bụng dưới ngực đều đầy, lấy huyệt bên cạnh để chữa.

Hoàng đế: Có thể lấy các huyệt nào?

Kỳ Bá: Tích ở trên thì tả Nhân nghinh, Thiên đột, hầu trung (Liêm tuyền), tích ở dưới thì Túc tam lý và khí giai (Khí xung), đầy ở cả trên và dưới, dùng cả Nhân nghinh, Thiên đột, Liêm tuyền ở trên và Túc tam lý, Khí xung ở dưới, thêm huyệt ở dưới sườn 1 tấc (Chương môn), bệnh nặng thì dùng cách châm: Kê túc" (châm thẳng rồi sau đó châm chếch ra hai bên phải trái như chân gà). Trong chẩn đoán, nếu thấy mạch to và huyền cấp, hoặc mạch tuyệt và da bụng rất căng thì không được dùng châm.

Hoàng đế: Làm thế nào mà biết bệnh của da, của cơ, của khí huyết, của cân, của xương?

Kỳ Bá: Bệnh ở da có sắc bệnh giữa hai lông mày mỏng và bóng. Bệnh ở cơ có sắc bệnh ở môi xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Bệnh của khí huyết có dinh khí tán ra ngoài, thể hiện có nhiều mồ hôi, da nhuận. Bệnh ở cân có sắc bệnh ở mắt xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Bệnh ở xương khi vành tai khô không nhuận, đầy dáy tai và bẩn.

Hoàng đế: Bệnh xuất hiện ở bộ phận nào đó, làm thế nào để xác định được mục tiêu để châm?

Kỳ Bá: Bệnh thường thiên biến vạn hóa, khó mà ghi chép hết, tuy nhiên bệnh ở da có vị trí của nó, bệnh ở cơ có trụ cột của nó (cơ co), bệnh của khí huyết có nơi vận hành của nó, bệnh ở xương có nơi phụ thuộc của nó (nơi hai xương giao nhau). Đó là mục tiêu để ta châm.

Hoàng đế: Xin nói rõ lý do?

Kỳ Bá: Vì da ở thể biểu, và kinh khí bắt đầu vận hành từ các đầu chi, nên bệnh ở da, châm ở tứ chi, bệnh ở cơ lấy trụ cột của các cơ (các cơ nổi lên), trụ cột là nơi có cơ dày, ở đó các kinh dương ở tay, cẳng chân và Thiếu âm chân đi qua. Bệnh của khí huyết thì lấy lạc mạch, đó là nơi kinh khí đi đến, nếu khí huyết bị lưu trệ thì chúng sẽ đầy lên. Bênh ở cân không có phân ra Âm hay Dương, bên phải hay bên trái, mà chữa ngay tại chỗ bị bệnh. Bệnh ở xương thì chữa ở chỗ khớp xương, đó là những khe khớp nơi hấp thụ dịch tủy để ích não tủy (ích được tủy thì chữa được xương).

Hoàng đế: Lấy huyệt như thế nào (theo tiêu chuẩn nào)?

Kỳ Bá: Bệnh biến hóa có phù, có trầm, châm có sâu, có nông, bệnh nặng thì châm sâu, bệnh nhẹ thì châm ít kim, bệnh nặng châm nhiều kim, tùy tình hình của bệnh mà điều khí, sẽ có kết quả. Đó là cách làm của người thầy thuốc giỏi.

Hoàng đế: Phân biệt người béo, nhỏ to, thiếu niên, tráng niên, lão niên như thế nào?

Kỳ Bá: Người 50 tuổi trở lên là lão, đến 20 tuổi trở lên là tráng niên, 18 tuổi trở lên là thiếu niên, 6 tuổi trở lên là nhỏ (tiểu) (Thiên kim phương: 6 tuổi trở lên là tiểu, 18 tuổi trở lên là thiếu, 30 tuổi trở lên là tráng, 50 tuổi trở lên là lão).

Hoàng đế: Tiêu chuẩn để phân loại béo, gầy là gì?

Kỳ Bá: Người to béo, cơ phì nộn (cao), và béo.

Hoàng đế: Phân biệt thế nào?

Kỳ Bá: Người béo là người có bắp thịt ở khoeo săn, da dầy. Người phì nộn là người có bắp thịt ở khoeo mềm nhẽo, da mềm. Người cơ là người có da và cơ bám chặt với nhau, rất săn chắc.

Hoàng đế: Thể chất hàn, ôn của người ta biểu hiện như thế nào?

Kỳ Bá: Người phì nộn nếu có cơ mềm nhuận, nếp da thô thưa, thường có thể chất hàn, nếu nếp da nhỏ dầy thường có thể chất nhiệt. Người béo nếu có cơ săn chắc, nếp da nhỏ dầy, thường có thể chất nhiệt, nếu nếp da thưa thô, thường có thể chất hàn.

Hoàng đế: Tình trạng khí huyết nhiều hay ít của 3 loại người ấy như thế nào?

Kỳ Bá: Người phì nộn có nhiều khí, thì nhiệt và chịu được hàn. Người cơ có nhiều huyết người đầy đặn thể chất bình thường. Người béo thì huyết thanh, khí ít mà đục, nên người không to. Đó là điều mà mọi người có thể phân biệt được.

Hoàng đế: Tình trạng gầy béo to nhỏ của họ ra sao?

Kỳ Bá: Người phì nộn có nhiều khí, da mềm, bụng béo và sệ xuống (béo bệu). Người cơ có dung tích thân thể lớn. Người béo người thu nhỏ hơn (hai loại người trên).

Hoàng đế: Còn người bình thường thì sao?

Kỳ Bá: Người bình thường thì da, cơ , mỡ (chỉ) cao cân đối, không thể béo to được, khí và huyết tương đương, không thiên bên nào, cho nên có hình thể vừa phải không to không nhỏ, với các bộ phận cân xứng với nhau.

Hoàng đế: Chữa cho 3 loại người này như thế nào?

Kỳ Bá: Trước hết phải phân biệt được 3 loại người đó, rồi xem huyết của họ nhiều hay ít, khí của họ trong hay đục, để điều hòa lại, trong khi chữa cần lấy huyệt theo kinh, không sợ không kết quả.

Nhắc lại: Người phì nộn cơ bụng mềm nên bụng sệ xuống, người cơ trên dưới đều to, người béo tuy béo nhưng nhỏ nhắn hơn hai người kia.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 24, 2017, 06:03:09 AM
60. Bản ngọc (Ngọc bản)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Thiên này ghi lại những kinh nghiệm quý giá để lại cho đời sau nên gọi là: Bản ngọc. Nêu rõ nguyên nhân gây bệnh ung nhọt, nguyên tắc và phương pháp chữa bệnh  này. Đã nêu lên các hiện tượng nghịch (nguy cấp) của ung độc nội hãm của mạch và chứng, tương phản của bệnh sắp chết và không được châm, các trường hợp trên. Kim tuy nhỏ nhưng chữa được bệnh và cũng có thể làm chết người nếu châm bừa. Như châm huyệt Ngũ lý (kinh Dương minh tay) có thể làm tan khí, kiệt mà chết.

Hoàng đế: Kim là vật nhỏ, song lại nói nó (có tác dụng) hợp với trời ở trên, hợp với đất ở dưới, hợp với người ở giữa. Ta có lẽ đề cao kim quá mức vậy. Xin cho nghe ý kiến về vấn đề này.

Kỳ Bá: Có cái gì lớn hơn trời đâu. Còn nói cây kim (có tác dụng) to tì nên so với 5 loại binh khí sẽ rõ. Binh khí là để giết người, chứ không dùng cho sự sống. Còn ở trong trời đất, sự sống đối với người là quan trọng nhất. Cây kim là để chữa bệnh cho người với phạm vi ứng dụng rất rộng rãi, tuy so với binh khí thì nó lại rất nhỏ. Như vậy là rõ.

Hoàng đế: Có 1 loại bệnh phát ra do vui giận bất thường, ăn uống không điều độ, làm khí Âm (của tạng) thiếu, khí Dương (của phủ) vượng, dinh khí không hành (ngưng trệ) và phát ra ung thư (Ung có sưng nóng, đỏ đau, có đầu nhô ra ở nông, da bóng - Thư bệnh ở sâu ấn vào đau cứng, da không đổi, không bóng, không có đầu nhô ra). Hoặc Âm Dương không thông (khí huyết ngưng trệ, dinh vệ vận hành bất thường), nhiệt ở trong và ở ngoài đánh nhau hóa thành mủ, có thể dùng kim để chữa không?

Kỳ Bá: Vì tà khí đã vào sâu trong người, nên khó đuổi ra, nhưng tà khí cũng không thể ở lâu trong người. Nên quân của hai bên đã dàn thành thế trận, gươm đao sáng ngời, cờ xí rợp trời, không thể một ngày mà có được mưu kế, phải suy nghĩ lâu ngày mới ra, hoặc trong một nước, muốn dân, lính chấp hành nghiêm pháp luật, không phải chỉ giáo dục một ngày mà được. Khi bệnh tà đã vào người gây nên ung thư, máu mủ tụ lại, mà muốn một ngày chữa khỏi, có phải là mong muốn quá không. Vì ung thư gây ra, hóa thành máu mủ, là do phát triển dần. Không phải từ trên trời xuống, dưới đất lên. Người giỏi thì chữa khi chưa có hình dáng bệnh, còn người kém thì thường chữa khi bệnh tật đã hình thành rồi.

Hoàng đế: Ung thư đã hình thành, mong nó không gây chết người, song sau khi mủ đã hình thành rồi thường khó thấy quá trình nó chuyển vào trong, vậy làm thế nào để biết việc này?

Kỳ Bá: Khi mà ung thư đã thành mủ, mủ độc có thể chạy ra mà công ngược vào trong, thường là mười chết một sống, cho nên khi chưa làm mủ phải chữa ngay làm nó không chuyển sang giai đoạn nguy hiểm. Như vậy cần có phương pháp có hiệu quả và phải ghi vào thẻ tre để giúp cho đời sau không bị loại bệnh này uy hiếp tính mạng.

Hoàng đế: Khi ung thư đã làm mủ, có nhất định là chết không? có thể dùng kim để chữa không?

Kỳ Bá: Dùng kim nhỏ chữa vùng nhỏ, công hiệu nhỏ, dùng kim to chữa vùng to, thường cho kết quả xấu, vì vậy đối với loại có máu mủ, chỉ có thể dùng biếm thạch hoặc phi châm, hoặc phong châm (kim 3 cạnh) để chích và nặn mủ ra là tốt nhất.

Hoàng đế: Các trường hợp ung thư biến thành ác tính, có thể chữa được không?

Kỳ Bá: Điều đó dựa vào sự thuận nghịch của trạng thái bệnh.

Hoàng đế: Nội dung của thuận nghịch là gì?

Kỳ Bá: Có 5 chứng nghịch. Nếu người bệnh có lòng trắng mắt màu xanh, lòng đen nhỏ, là chứng nghịch thứ nhất. Uống nước mà bị nôn là chứng nghịch thứ hai. Bụng đau từng cơn và khát nước dữ dội là chứng nghịch thứ 3. Vai gáy cử động khó khăn là chứng nghịch thứ 4. Tiếng nói khàn, mặt không còn máu là chứng nghịch thứ 5. Ngoài 5 chứng trên ra còn lại đều là chứng thuận.

* (Lòng trắng thuộc Phế, nay màu xanh là Mộc vũ kim, Phế khí suy; Lòng đen thuộc Can, lòng đen nhỏ là Can khí thiểu).

Hoàng đế: Các bệnh đều có trạng thái nghịch, thuận, xin nói rõ?

Kỳ Bá:

* Bụng chướng, xốp, mạch to là nghịch thứ nhất, tà ở lý biểu đều thịnh. Bụng sôi và đầy, tứ chi lạnh và ỉa chảy (chứng âm), mạch to (chứng dương) là nghịch thứ hai. Máu cam (ấm) không dứt, mạch to (dương) là nghịch thứ 3. Ho và đái máu, cơ gầy (hư) khí suy mạch nhỏ hữu lực (thực) là nghịch thứ 4. Ho, người gầy (âm hư) sốt, mạch nhỏ tật (tà thịnh) là nghịch thứ 5. Nếu đúng như vậy thì sống không quá 15 ngày sẽ chết.

* Bụng to chướng, tứ chi lạnh gầy, ỉa chảy nặng là nghịch thứ 1. Bụng chướng, ỉa máu (bệnh âm) mạch to, có lúc mất nhịp (cơ dương muốn thoát) là nghịch thứ 2. Ho, đái máu, gầy (Tỳ bại), mạch không hòa hoãn (Vị khí kém) là nghịch thứ 3. Nôn máu, ngực đầy lan ra lưng (tạng khí lan ra lưng) mạch nhỏ và tật (chân nguyên suy) là nghịch thứ 4. Ho, nôn (thượng tiêu), bụng chướng (trung tiêu), ỉa chảy (hạ tiêu) mạch (phục muốn) tuyệt, (không còn chính khí) là nghịch thứ 5. Nếu đúng như vậy thì không quá một ngày sẽ chết. Nếu không nắm tình trạng nghịch đó mà cứ châm bừa thì gọi là chữa nghịch.

Hoàng đế: Châm có tác dụng rất lớn (lý luận của nó có thể) phối hợp với (quy luật của) trời đất, thích ứng với thiên văn địa lý. Ở trong người có quan hệ với ngũ tạng lục phủ, với hội 28 kinh mạch, tất cả đều vận động không ngừng. Song châm cũng có thể giết người sống và không làm người chết sống lại. Có thể phản bác lập luận này không?

Kỳ Bá: (Nếu châm không đúng) có thể giết người sống. Đương nhiên không thể làm cho người chết sống lại.

Hoàng đế: Nghe điều này xong thấy không thể chịu nổi, xin nói rõ đạo lý của nó cho người đời tránh để không châm chết người.

Kỳ Bá: Điều này rất rõ ràng, và kết quả của nó là tất yếu. Như đao kiếm có thể đâm chết người vậy, như rượu có thể làm người say được. Thông qua những ví dụ trên, có thể thấy rõ đạo lý của nó. Cụ thể như sau: Người hấp thụ khí của thức ăn uống, thức ăn uống vào Vị - bể của thức ăn uống và kí huyết. Nước của bể bị bốc hơi lên thành mây thì bay ở trên trời. Khí huyết sinh ra từ Vị thì tuần hoàn trong kinh mạch. Kinh mạch là đại lạc của 5 tạng 6 phủ. Nếu "Đón (dòng chân khí đến) thì đoạt lấy" sẽ làm hao tán đi, sẽ (làm cho khí huyết tận, Vị khí tuyệt và) chết.

Hoàng đế: Có vùng cấm châm ở các kinh tay, chân không?

Kỳ Bá: Nếu dùng cách tả theo: "Đón để đoạt lấy" ở trên để châm huyệt Ngũ lý (Dương minh tay) sẽ làm cho tạng khí vận hành, 1/2 đường thì kiệt và ngừng lại. Do tạng khí của mỗi tạng thường là ngũ chí là hết, nếu châm tả nhầm 5 lần thì tạng khí đó hết. Cho nên mỗi tạng có 5 chí, 5 tạng có 25 chí, nếu tả nhầm 25 lần thì khí của tạng đều kiệt và chết, đó là vì đã cưỡng đoạt mất thiên khí (chân khí), và nếu không làm chết thì cũng làm tổn thọ. Do không nắm được nơi cấm châm ở những chỗ yếu điểm của khí huyết, nên cứ châm nông bừa đi, châm xong về nhà, bệnh nhân có thể chết, nếu châm mạnh, sâu vào nơi đó, có thể chết ở nơi châm.

Hoàng đế: Rất đầy đủ, rõ ràng. Cần ghi lại như bảo vật di truyền cho hậu thế, coi đó là điều cấm kỵ của châm để khỏi xảy ra tai biến trong điều trị.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 24, 2017, 03:16:15 PM
61. Năm điều cấm (Ngũ cấm)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nêu lên ý nghĩa của 5 điều cấm, 5 đoạt, 5 nghịch, 5 quá, 9 nên và trọng tâm nói về 5 cấm, nói về đến ngày cấm châm thì nên tránh châm phần nào đó của cơ thể. Còn nói về 5 chứng của nguyên khí đại hư, và lúc này tuyệt đối không dùng phép tả. Ngoài ra đối với 5 loại nghịch mạch, chứng tương phản, cũng không được châm. Tuy nhiên cũng không có nội dung của 9 nên, có lẽ mất.

Hoàng đế: 5 điều cấm trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là gặp ngày cấm thì cấm không được châm vùng nào đó.

Hoàng đế: 5 đoạt trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là cấm không được châm tả 5 chứng nguyên khí đại hư.

Hoàng đế: 5 quá trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là khi châm bổ hay tả, thủ thuật không được quá độ.

Hoàng đế: 5 nghịch trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là 5 trạng thái bệnh nặng mà có mạch chứng tương phản.

Hoàng đế: 9 nên trong châm là gì?

Kỳ Bá: Đó là phải nắm lý luận của 9 loại kim, để sử dụng cho đúng.

Hoàng đế: Ngày mà không được châm vùng nào đó, ở 5 điểm cấm là những ngày nào?

Kỳ Bá:

- Đến ngày Giáp Ất không châm vùng đầu, không dùng phép "Phát mông" (châm huyệt Thính cung vào giờ Ngọ khi điếc, mù), để châm ở tai.

- Đến ngày Bính Đinh không được dùng cách châm "Chấn si" (châm Thiên dung, Liêm tuyền là chính để chữa chứng dương khí nghịch lên ngực, ho suyễn ngực đầy, sợ nhìn khói) để châm ở vai hầu, Liêm tuyền.

- Đến ngày Mậu Kỷ (Canh và tứ quý) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (chí) không châm ở vùng bụng, cũng không dùng cách châm "Khứ chảo" (dùng phi châm để làm ra nước ở các chứng khớp tứ chi, lưng gối không lợi, âm nang có nước) để tả thủy.

- (Mậu Kỷ là thổ của Thiên can, tứ quý Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ của Địa chi. Thìn là tháng 3 là Quý xuân, Mùi tháng 6 là Quý hạ, Tuất tháng 9 là Quý thu, Sửu tháng 12 là Quý xuân. Một trong 4 quý đều gọi là tứ quý.

- Thiên can ứng với cơ thể là Giáp Ất là đầu, Bính Đinh là vai hầu, Mậu Kỷ là chân tay, chân tay hợp với tứ quý là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Canh Tân là đùi gối, Nhâm Quý là cẳng chân. Thiên can ứng vào ngày nào thì ngày đó không châm vùng đó (Mã Nguyên Đài).

- Đến ngày Canh Tân không châm ở khớp và vùng đùi, gối. Đến ngày Nhâm Quý không châm ở cẳng chân. Đó là 5 điều cấm.

Hoàng đế: 5 đoạt là gì?

Kỳ Bá: 5 đoạt là 5 chứng đại hư:

- Bệnh lâu, người gày khô, là đoạt thứ nhất. Sau khi chảy máu lớn là đoạt thứ hai. Sau khi mất nhiều mồ hôi là đoạt thứ ba. Sau khi ỉa chảy lớn là đoạt thứ tư. Mới đẻ hoặc sau chảy máu lớn là đoạt thứ năm. Đó là 5 đoạt và không được tả.

Hoàng đế: 5 nghịch là gì?

Kỳ Bá: 5 nghịch là 5 chứng có mạch chứng tương phản: Bệnh nhiệt (đáng lẽ là mạch hồng đại) mà mạch tĩnh, sau khi ra mồ hôi (đáng lẽ là mạch tĩnh) mà mạch động thịnh là chứng nghịch thứ nhất. Bệnh ỉa chảy (đáng lẽ là mạch tĩnh) mà mạch lại to là chứng nghịch thứ hai. Trước tý (chân tay tê dại, bệnh lâu không khỏi) có các bó cơ bị loét, sốt, mà có mạch thiên tuyệt là chứng nghịch thứ 3. Bệnh tà thâm nhập vào trong, làm người gày, sốt, mặt khô sắc trắng bệch, ỉa máu có máu cục, có máu cục là bệnh cực nguy là nghịch thứ 4. Bệnh hàn nhiệt lâu, người gày khác thường (đáng lẽ là mạch tế, nhược) mà mạch thực hữu lực là nghịch thứ 5.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 25, 2017, 04:05:52 PM
62. Các huyệt động (Động du)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Tại sao 3 trong 12 kinh có động mạch đập không ngừng. Mạch thốn khẩu của kinh Thái âm phế đập, do Phế khí vận hành ở kinh Thái âm tay có quan hệ với hơi thở, do thở không ngừng nên mạch ở cổ tay đập không ngừng. Mạch nghân nghinh của Dương minh chân đập do khí đổ về Phế, khí mạch còn lên đầu rồi từ đầu đi xuống qua nhân nghinh, nên nhân nghinh đập không ngừng. Mạch Thái khê của kinh Thiếu âm chân do nhánh của mạch Xung cùng với đại lạc của kinh Thiếu âm chân đều bắt đầu ở dưới thận đi ra ở Khí xung, đi dọc ở mặt trong đùi xuống dưới thân, đường đi của nó hợp với kinh thận, đổ vào các lạc, nuôi dưỡng cẳng chân làm cho mạch Thái khê đập.

Hoàng đế: Tại sao các kinh Thái âm tay, Thiếu âm chân, Dương minh chân trong 12 kinh lại đập không ngừng?

Kỳ Bá: Đó là quan hệ mật thiết giữa Vị khí và mạch đập. Vị là biển của 5 tạng 6 phủ, khí trong của nó đổ vào Phế, Phế khí tuần hành theo kinh Thái âm tay rồi đi toàn thân. Phế khí ra vào (theo hơi thở) có quan hệ mật thiết với hơi thở, do đó người thở ra mạch đập, hít vào mạch lại đập, thở liên tục thì mạch đập không ngừng.

Hoàng đế: Khí (mạch Thái âm tay) qua thốn khẩu (thịnh suy không đều nhau), khí mạch tiến lên thì khí thế rất mạnh, khí này đến từ đâu? khí mạch thoái thì khí suy dần, vậy có tiềm phục ở đâu? Nó đến đi theo đường nào và cuối cùng nó ra sao?

Kỳ Bá: Mạch khí rời tạng phủ đi ra, kinh mạch thế như mũi tên cùng cây cung vút đi, như nước ở trên đổ xuống, lúc khí qua thốn khẩu đến Ngư tế thì mạch khí (từ thịnh chuyển thành suy), khí dư của nó suy tán đi ngược lên, nên thế của nó yếu.

Hoàng đế: Nguyên nhân gì làm kinh Dương minh đập?

Kỳ Bá: Vị khí lên đổ vào Phế, khí mạch của nó xung lên đầu, đi dọc theo họng lên các khiếu, dọc theo hệ mắt để vào lạc của não, đi ra ở trán để xuống huyệt Khách chủ nhân (của kinh Thiếu dương chân) dọc theo Giáp xa, hợp với Dương minh chân xuống Nhân nghinh, đó là nơi Vị khí tách ra đi vào Dương minh (Nhân nghinh) làm Dương minh (Nhân nghinh) đập liên tục. Do động mạch Thái âm xuống ra ở thốn khẩu, động mạch của Dương minh lên ở Nhân nghinh, nên khí Âm Dương trên dưới thông nhau và mạch động của chúng như nhau. Nếu bệnh ở Dương nhưng mạch dương (Nhân nghinh) lại nhỏ là nghịch, bệnh ở Âm mà mạch âm (thốn khẩu) lại to là nghịch. Do vậy mạch Âm Dương động hoặc tĩnh, tương ứng với mạch to hay nhỏ, duy trì cân bằng như kéo co, 2 bên cân đối, nếu đã có thiên là có bệnh.

(Bình thường là: Bệnh ở Dương mạch nhân nghinh to, bệnh ở Âm mạch thốn khẩu nhỏ).

Hoàng đế: Nguyên nhân gì làm kinh Thiếu âm chân động?

Kỳ Bá: (Đó là do mạch Xung và Thiếu âm chân hợp lại cùng đi). Mạch Nhâm là bể của 12 kinh, cùng đại lạc của Thận bắt đầu từ dưới Thận, đi ra ở khí nhai (khí xung) dọc theo mặt trong đùi chếch vào khoeo chân, đi dọc mặt trong cẳng chân, hợp với kinh Thiếu âm chân đi vào sau mắt cá trong, rồi đi vào dưới bàn chân. Nhánh của nó chếch vào mắt cá (trong), để ra ở bờ trên lồi củ xương gót (và mặt trên bàn chân) vào giữa ngón chân cái đổ vào lạc, để làm ấm cẳng chân, mạch (Thái khê) cũng đập đều.

Hoàng đế: Dinh khí, vệ khí tuần hoàn ở toàn thân, trên dưới thông với nhau, như một vòng kín không biết đâu là đầu, nay đột nhiên gặp phải phong tà, hoặc gặp phải rét đậm, (tà khí lưu ở tứ chi làm) chân tay rã rời. Đường đi của các kinh mạch Âm Dương, các chỗ hội nơi khí huyết, các kinh truyền cho nhau đều có thể bị ngoại tà làm cho bất thường (bế tắc). Vậy khí từ đâu đi và về đâu để rồi lại tuần hoàn không ngừng?

Kỳ Bá: Tứ chi là nơi hội của các kinh Âm Dương, ở đây còn có lạc mạch - nơi liên lạc của khí. Tứ giai (ở đầu, ngực, bụng, chân) là đường đi của Dinh khí, Vệ khí. Nên dù lạc có bị tắc, thì kinh vẫn thông (đường đi của 4 giai vẫn thông, duy trì sự tương thông của các kinh Âm Dương), đợi cho ngoại tà ở tứ chi giải hết thì khí sẽ lại tuần hoàn đủ như cũ, chuyển tiếp cho nhau như vậy khép kín.

Hoàng đế: Đúng. Có tác dụng hiệp đồng của tứ chi và tứ giai, chúng thông với nhau, nên đảm bảo được tuần hoàn thành một vòng khép kín, và không ngừng.

* (4 giai: Ở đầu là Bách hội, ở ngực là các huyệt du ở lưng, và hai bên ngực, ở bụng là Hoang du, Thiên khu, ở chân là Khí xung, Thừa sơn, dưới mắt cá).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2017, 10:39:48 AM
63. Ngũ vị

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nơi đến của ngũ vị khi vào cơ thể, nếu dùng quá độ thì có thể bị bệnh.

Hoàng đế: Ngũ vị vào mồm, mỗi vị đến nơi riêng, mỗi vị gây bệnh riêng. Chua đến gân, nếu ăn nó quá nhiều sẽ gây đái không thông. Mặn vào huyết, nếu ăn nó quá nhiều làm ta khát. Cay vào khí, nếu ăn nó quá nhiều làm cho Tâm khí hư. Đắng vào xương, nếu ăn nó quá nhiều làm người ta nôn. Ngọt vào cơ, nếu ăn nó quá nhiều làm người ta rạo rực. Biết chúng, nhưng không biết tại sao lại như vậy.

Thiếu Du: Vị chua vào Vị, do khí của nó sáp trệ, có tác dụng thu liễm - tác dụng này phát huy ở nhị tiêu (thượng, trung tiêu) nên không thể xuất nhập được, không ra được thì lưu ở trong Vị, khi trong Vị ôn hòa (thì không lưu lại) và đổ xuống Bàng quang, (do) Bàng quang mỏng và nếu gặp chua nó sẽ co cuộn lại, cho nên nó không thông và nước không có đường ra nên bí đái. Bộ phận sinh dục ngoài (âm khí) của người là nơi hội tụ nhiều gân, (Can chủ cân, chua vào Can trước) vì vậy ăn chua thì đi vào cân.

Hoàng đế: Vị mặn vào máu, ăn quá mặn làm cho khát, tại sao?

Thiếu Du:  Vị mặn vào Vị, khí của nó lên trung tiêu đổ vào mạch, khí huyết sẽ cùng vận hành với nó, huyết gặp mặn sẽ ngưng (ngưng thì huyết táo) cần dịch ở trong Vị đến tư nhuận, tư nhuận càng nhiều thì dịch của Vị càng kiệt, sẽ gây nên họng khô (do thiếu tân dịch) làm cuống lưỡi khô và thường khát. Huyết mạch (nơi khí huyết vận hành) đều xuất phát từ trung tiêu nên vị mặn vào (trung tiêu hóa thành tân dịch), rồi đi vào huyết.

Hoàng đế: Vị cay vào khí, ăn quá cay làm cho người Tâm khí hư, vì sao?

Thiếu Du: Vị cay vào Vị, khí của nó lên thượng tiêu, thượng tiêu là nơi tiếp thu (tinh hoa) khí và nuôi dưỡng phần dương của thân thể, khí cay của gừng, hẹ chúng bốc lên làm cho khí dinh, vệ thỉnh thoảng lại tiếp thu (kích thích) của nó, khí này lưu lại tại Tâm hạ (Vị) gây nên Tâm khí hư. Vị cay và vệ khí cùng vận hành (có tác dụng mở thấu lý, truyền thông dương khí) nên vị cay vào Vị rồi phát tán và làm ra mồ hôi.

Hoàng đế: Vị đắng vào xương, nếu ăn quá đắng làm nôn, vì sao?

Thiếu Du: Vị đắng vào Vị, khí của ngũ cốc đều không thể thắng vị đắng, vị đắng xuống vùng hạ quản làm cho cả thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu đều không thông (làm chức năng Vị rối loạn, Vị khí không hòa) và nôn. Răng là tận của xương (một bộ phận của xương) nên vị đắng đã vào Vị, rồi lại nôn ra qua miệng răng, làm cho ta cảm giác đắng đã vào xương.

Hoàng đế: Vị ngọt vào cơ nhục, nếu ăn quá ngọt, làm cho người ta rạo rực, vì sao?

Thiếu Du: Vị ngọt vào Vị, khí của nó nhỏ yếu, không thể lên được đến thượng tiêu mà lưu ở Vị cùng với thức ăn, làm người được nhu nhuận. Nếu Vị khí nhu thì hoãn, khí hoãn thì ký sinh trùng trong ruột sẽ quẫy, chúng quẫy thì khí trong người rạo rực không yên. Vị ngọt thuộc Tỳ (Tỳ chủ cơ nhục) nên nó đi ra ngoài để vào cơ nhục, do đó ngọt vào cơ nhục.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2017, 04:28:52 PM
64. Hai mươi nhăm lọai hình người (Âm Dương nhị thập ngũ nhân)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Căn cứ vào Âm dương ngũ hành, quy thành 5 loại hình người, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Mỗi loại hình lại chia ra 5 loại dựa theo Âm Dương, nhỏ to, phải trái, trên dưới, tổng cộng là 25 loại hình người. Nói rõ về màu da, thân thể, cá tính, thái độ, sự thích ứng với thời tiết, đặc biệt là chia ra theo 3 kinh dương tay, chân, đặc điểm sinh lý xuất hiện ở trên, ở dưới, do khí huyết thịnh suy và qua đó xem xét sự thay đổi, sự thịnh suy của nội tạng và khí huyết. Mặt khác lại phân tích nguyên tắc châm, tiêu chuẩn lấy huyệt, thủ thuật châm đối với các loại hình người khác nhau.

Hoàng đế: Có người thuộc âm, có người thuộc dương, làm thế nào để phân biệt?

Bá Cao: Trong vũ trụ, trong phạm vị trên dưới và 4 phương (6 hợp), sự vật được phân loại theo Ngũ hành, loại hình của người cũng ứng với Ngũ hành. Mỗi loại hình lại chia làm 5 loại hình nữa, cộng có 25 loại hình - mỗi loại có tiêu chuẩn của nó, còn 2 loại người thuộc Âm thuộc Dương không tính ở trong sự phân loại này.

- Hình thái của người thuộc Âm Dương khác với người khác, chia ra làm 5 loại (Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, âm dương bình hòa) thì đã rõ.

- Còn hình thái của 25 loại hình người, mỗi loại có đặc điểm riêng do khí huyết khác nhau. Người ta có thể từ biểu hiện bên ngoài để đoán thay đổi của nội tạng, như vậy là thế nào?...

Kỳ Bá: Mới đầu cần xác lập 5 loại hình thái: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, sau đó phân biệt 5 sắc, tìm chỗ khác trong điểm giống nhau của 5 loại hình, và như vậy là có được đặc trưng của 5 loại hình người.

Hoàng Đế: "Ta mong được nghe thầy nói đầy đủ hơn nữa"

Kỳ Bá:

- Người hình Mộc tương ứng với âm Giốc, giống như thượng đế (dân sống ở phương Đông), có đặc điểm là da mai mái (thương sắc), đầu nhỏ, mặt dài, vai to, lưng thẳng, thân nhỏ, chân tay tốt. Họ có tài, rất lao tâm khổ tứ, thiểu lực, ưu tư nhiều, làm việc cần mẫn. Họ thích ứng với thời tiết Xuân Hạ tốt hơn Thu Đông, khi cảm khí hàn lương thì dễ sinh bệnh. Họ thuộc Quyết âm chân (Can mộc), thường là ung dung tự đắc (Đà đà nhiên).

* Loại hình Mộc còn chia làm 4 loại hình, trên, dưới, phải, trái nữa. Phía trên bên trái là người thuộc (Âm) Đại giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân trái (Đởm) và đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên trái. Họ tự nguyện nhường không tranh giành hơn kém (Di di nhiên).

- Người thuộc (Âm) Tả giốc dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân phải (Đởm), và đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới kinh bên phải. Họ nói chung phục tùng người khác (Tùy tùy nhiên).

- Người thuộc (Âm) Để giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên phải. Họ là loại tiên tiến (Thôi thôi nhiên).

- Người thuộc (Âm) Phán giốc, dáng hình cơ thể ví với kinh Thiếu dương chân trái, đặc điểm sinh lý của nó biểu hiện ở phía dưới của kinh chân trái. Hành vi của họ thường là chính trực.

* Người hình Hỏa, tương ứng âm Thượng chủy, như người sống ở phương Nam (Xích đế), có đặc điểm là sắc đỏ, cơ lưng to rộng, mặt gày, đầu nhỏ, vai lưng, hông bụng, phát triển tốt (cân đối đẹp), bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, đi đứng vững vàng, không có tiếng động, nắm vấn đề, hiểu vấn đề nhanh, khi đi hai vai động đậy, cơ lưng đầy. Họ có chí khí, coi nhẹ tiền tài, thiếu lòng tin, nghĩ nhiều, thấy rõ vấn đề, mắt đẹp, tâm nóng vội, không thọ, đột tử. Họ thích ứng với thời tiết Xuân Hè tốt hơn Đông Thu, cảm khí hàn lương của Thu Đông thì dễ bị bệnh. Họ thuộc Thiếu âm tay (Hỏa), rất chân thật.

* Loại hình Hỏa còn chia làm 4 loại hình nữa: Người thuộc (Âm) Chất chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay trái, đặc điểm sinh lý của nó biểu hiện ở phía trên của kinh trái. Họ nói chung hiểu biết hời hợt không sâu.

- Người thuộc (Âm) Thiếu chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay phải, đặc điểm sinh lý hiện ở phía dưới của kinh bên phải. Họ là những người lạc quan yêu đời.

- Người thuộc (Âm) Hữu chủy, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới của kinh bên phải. Họ là những người không cam chịu thua người khác.

- Người thuộc (Âm) Chất phán, dáng hình cơ thể ví với kinh Thái dương tay trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới của kinh bên trái. Họ dễ bỏ qua những lo phiền, thường vui vẻ, nhẹ nhàng, tự đắc.

* Người hình Thổ ứng với âm "Thượng cung" như người sống ở thời "Thượng cổ hoàng đế" ở trung châu, có đặc điểm là da vàng, mặt tròn, đầu to, vai lưng đẹp, bụng to, đùi cẳng chân đẹp, bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, bắp thịt nhiều, trên dưới cân đối, đi đứng vững vàng không có tiếng động, chân nhấc lên không cao. Họ rất hay an tâm, hay làm lợi cho người. Không thích quyền thế, và thích phụ thuộc vào người khác. Họ thích ứng với thời tiết Thu Đông tốt hơn Xuân Hè (sợ nóng), khi bị ôn nhiệt của Xuân Hè thì dễ bị bệnh. Họ thuộc Thái âm chân (Thổ) rất thành thực, trung hậu.

- Người thuộc (Âm) "Đại cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên trái. Họ là người rất thuận hòa, hòa nhã.

- Người thuộc (Âm) "Gia cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân trái, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên trái. Họ là loại người đoan trang thận trọng.

- Người thuộc (Âm) "Thiếu cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía trên của kinh bên phải. Họ là loại người uyển chuyển (như cái bản lề).

- Người thuộc (Âm) "Tả cung", dáng hình cơ thể ví với Dương minh chân phải, đặc điểm sinh lý hiện ra ở phía dưới kinh bên trái. Họ là loại người rất chăm chỉ cần mẫn, không sợ khó.

* Người hình Kim, tương ứng với âm "Thượng thương", giống như người "Bạch đế" (sống ở phương Tây), có đặc điểm là mặt vuông, sắc trắng, đầu nhỏ, vai lưng bụng đều nhỏ, bàn chân bàn tay nhỏ nhắn, gót chân to ra như mọc thêm xương, toàn thân xương nhẹ. Người thanh liêm, tính nóng vội, có thể tĩnh, có thể động, khi động thì mãnh liệt, thích làm việc chính quyền. Họ thích ứng với thời tiết Thu Đông tốt hơn Xuân Hè, nếu cảm phải khí (ôn nhiệt) Xuân Hè thì đỡ bị bệnh. Họ thuộc Thái âm tay (Kim), kiên trinh bất khuất.

- Người thuộc (Âm) "Đệ thương", hình dáng cơ thể ví với Dương minh tay trái, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía trên kinh bên trái, họ là người rất trong sạch.

- Người thuộc (Âm) "Hữu thương", dáng  hình cơ thể ví với Dương minh tay trái, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía dưới kinh bên trái, họ là người thanh thái thoải mái, không dễ bị câu nệ.

- Người thuộc (Âm) "Tả thương", dáng hình cơ thể ví với Dương minh tay phải, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía trên kinh bên phải, họ là người có thể thấy rõ phải trái.

- Người thuộc (Âm) "Thiếu thương", dáng  hình cơ thể ví với Dương minh tay phải, đặc điểm sinh lý hiện rõ ở phía dưới kinh bên phải, họ là người nghiêm túc thận trọng.

* Người hình Thủy, tương ứng với âm "Thượng vũ", giống như người "Hắc đế" (người sống ở phương Bắc), có đặc điểm là sắc đen, mặt không bằng (lồi lõm), đầu to, chỗ tuyến nước bọt sau mép (góc hàm - di) hình lăng, vai nhỏ, bụng to, chân tay hiếu động, đi thì lắc người đoạn thắt lưng xương cụt dài, lưng cũng dài hơm mọi người. Họ không cung kính ai cũng không sợ hãi ai, thích lừa dối người, hay giết người, có thể thích ứng với thời tiết Thu Đông hơn Xuân Hè, bị khí (ôn nhiệt) Xuân Hè sẽ dễ sinh bệnh. Họ thuộc Thiếu âm chân (Thủy), Hành động không có giới hạn nào.

- Người thuộc (Âm) "Đại vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân phải, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên phải, họ thường có vẻ mặt đắc ý.

- Người thuộc (Âm) "Thiểu vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân trái, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên trái, họ là người khuất tất, không thẳng thắn.

- Người thuộc (Âm) "Trúng vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân phải, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía dưới của kinh bên phải, họ tính thật thà thanh liêm.

- Người thuộc (Âm) "Chí vũ", dáng hình cơ thể ví với Thái dương chân trái, đặc điểm sinh lý của họ thể hiện ở phía trên của kinh bên trái, họ có lòng yên tĩnh, đạo đức cao thượng

* Trên đây là 25 loại hình người biến từ Ngũ hành ra, nhiều người khó nhận ra, nhiều người dễ nhận ra, thường là hình dáng bên ngoài, còn bỏ sót không quan tâm đến khí huyết thịnh suy ở trong.

Hoàng đế: Có người hình dáng thuộc về loại hình của Ngũ hành, nhưng sắc da lại không phù hợp vì sao?

Kỳ Bá: Theo quy luật của Ngũ hành, người có hình thắng sắc (như hình Mộc lại có sắc vàng - Thổ) hoặc sắc thắng hình (như sắc thắng Kim ở người hình Mộc). Khi gặp 5 kỵ, nếu bị tà khí tấn công thì sẽ bị bệnh, và nếu có sai lầm trong điều trị, thì bệnh phát nhanh và rất đáng lo. Nếu hình và sắc tương ứng thì phú quý đại lạc (vì khí chất điều hòa).

Hoàng đế: Làm thế nào để biết 5 kỵ, khi có hình sắc tương khắc?

Kỳ Bá: 5 kỵ đều có ở 25 loại hình. Tiêu chuẩn của cách tính 5 kỵ là bắt đầu từ 7 tuổi, và cứ thêm 9 năm một, như (7 + 9 = 16) tuổi, (16 + 9 = 25) tuổi, (25 + 9 = 34) tuổi, 43 tuổi, 52 tuổi, 61 tuổi. Đó là những năm đại kỵ của người, cần giữ gìn sức khỏe. Nếu mắc bệnh, mà điều trị có sai sót, thì có thể làm bệnh nặng lên và rất đáng lo. Những năm ấy cần dưỡng sinh cẩn thận, không làm việc gian tà. Đó là năm kỵ. (7 là thiếu của dương, 9 là lão của dương, số dương lớn nhất (cực) là số 9, và cực thì phải biến, nên sau 7 tuổi, cứ thêm 9 năm là năm kỵ).

Hoàng đế: Dựa vào sự phân tích ở trên về đặc điểm sinh lý phản ánh ra ngoài của sự thịnh suy của khí huyết ở phần trên, phần dưới của 3 kinh dương chân tay để dự đoán thịnh suy của hình khí là thế nào?

Kỳ Bá: Đặc điểm hình dáng thể hiện ở phần trên kinh Dương minh chân là: Nếu khí huyết thịnh thì râu ở hai bên má dài và đẹp; Nếu huyết thiểu khí đa, thì có râu nhưng ngắn; Nếu khí thiểu huyết đa thì có râu nhưng ít; Nếu khí huyết đều ít thì không có râu ở má và nếp da ở hai bên mép nhiều. Đặc điểm hình dáng thể hiện phần dưới kinh Dương minh chân; Nếu khí huyết thịnh thì lông mu dài và đẹp, lông có thể mọc đến ngực; Nếu huyết đa khí thiểu thì lông mu đẹp, ngắn, cùng lắm là mọc đến rốn, khi đi thì nhấc cao chân, đi bước dài, cơ ngón chân ít, hai bàn chân thường lạnh; Nếu huyết ít khí nhiều thì cơ ở chi dưới dễ bị loét do lạnh cóng; Nếu khí huyết đều ít thì không có lông mu hoặc thưa thớt, khô dễ gẫy và thường sinh hai chân liệt mềm vô lực, hoặc quyết lạnh, hoặc teo cơ.

- Đặc điểm hình dáng thể hiện ở phần trên kinh Thiếu dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì râu quai nón dài đẹp; Huyết ít khí nhiều thì râu ít; Huyết nhiều khí ít thì râu quai nó đẹp, ngắn; Khí huyết đều ít thì không có râu; Nếu bị hàn thấp thì dễ bị bệnh tý, đau xương, móng khô.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thiếu dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì lông chân dài và đẹp, mắt cá ngoài to; Nếu huyết nhiều khí ít thì lông cẳng chân ngắn đẹp, da mắt cá ngoài chắc, dầy; Nếu huyết ít khí nhiều thì lông cẳng chân ít, da mắt cá ngoài mỏng mềm; Nếu huyết khí đều ít thì không có lông, mắt cá ngoài gày, không có thịt.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thái dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì lông mày đẹp, lông mày có nhiều, lông dài; Nếu huyết nhiều khí ít thì lông mày xấu, mặt có nhiều nếp da nhỏ; Nếu huyết ít khí nhiều thì mặt có nhiều thịt; Nếu khí huyết hòa thì sắc đẹp da nhuận.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thái dương chân là: Nếu khí huyết thịnh thì gân gót chân dày, gót chân có da dày, chắc; Nếu khí ít huyết nhiều thì gân gót gày, không có thịt; Nếu khí huyết đều ít thì hay chuột rút, dưới gót chân đau.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Dương minh tay là: Nếu khí huyết thịnh thì ria đẹp; Nếu khí nhiều huyết  ít thì ria xấu; Nếu khí huyết đều ít thì không có ria (ria:râu mọc ở phần trên môi dưới mũi).

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Dương minh tay là: Nếu khí huyết thịnh thì lông lách đẹp (Dương minh - Thái âm tay = biểu lý) cơ ở mô ấm áp; Nếu khí nhiều huyết  ít thì ria xấu; Nếu khí huyết đều ít thì bàn tay gày và lạnh.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thiếu dương tay là: Nếu khí huyết thịnh thì lông mày đẹp, dài, sắc tai đẹp (đều vùng Thiếu dương); Khí huyết đều ít thì tai khô sắc da xấu.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thiếu dương tay là: Nếu khí huyết thịnh thì nắm tay cơ nhiều và ấm; Nếu khí huyết ít thì bàn tay lạnh, gày, ít thịt, nếu khí ít huyết nhiều thì bàn tay mỏng gày, và nhiều lạc mạch nổi rõ.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần trên kinh Thái dương tay là: Nếu huyết khí thịnh thì nhiều râu, mặt nhiều thịt và (bằng) đầy đặn; Nếu huyết khí đều ít thì mặt gày, sắc xấu.

- Đặc điểm hình dáng được thể hiện ở phần dưới kinh Thái dương tay là: Nếu huyết khí thịnh thì cơ gan bàn tay đầy; Nếu khí huyết đều ít thì cơ gan bàn tay mỏng gầy và lạnh.

Hoàng đế: Châm cho 25 loại hình người này, có quy định gì không?

Kỳ Bá: Người lông mày đẹp là mạch Thái dương chân khí huyết nhiều; Lông mày xấu là khí huyết ít, trong đó cơ đầy, sắc da nhuận đẹp là khí huyết có thừa; Nếu cơ dầy, sắc da không nhuận là khí có thừa huyết không đủ; Nếu cơ dầy, mà sắc da không nhuận là khí huyết đều không đủ. Xem xét hình của nó để biết khí có thừa hay thiếu để điều hòa lại. Nếu làm được như vậy là biết phân biệt thuận nghịch vậy.

Hoàng đế: Châm để chữa các kinh Âm Dương tay chân thế nào?

Kỳ Bá: Xem mạch thốn khẩu (ở cổ tay), mạch nhân nghinh (ở cổ) [biết thịnh suy của Âm (cổ tay) Dương (nhân nghinh)] để điều hòa lại, rồi sờ theo đường kinh để xem khí huyết ngưng trệ ở đâu, nếu nơi nào có ngưng kết thì chỗ đó có thống tý, nếu nặng có thể không đi lại được, gọi là ngưng sáp. Với (trạng thái khí huyết bị) ngưng sáp, cần làm khí đến để ôn nó (làm dương khí thông, làm khí huyết thông thì hết ngưng sáp), khi mạch hòa thì (hết đau và) thôi dùng cách châm đó. Với trạng thái lạc mạch bị uất kết, mạch kết thì hết thông hòa (thông suốt), dùng cách châm tả huyết để huyết hành lại. Cho nên nói: (Do vị trí bệnh không giống nhau nên tà) khí có thừa ở trên, phải dẫn đạo xuống dưới (bằng cách lấy huyệt ở dưới) (chính) khí ở trên không đủ (cần lấy huyệt ở trên), day huyệt, châm lưu kim để đợi khí, nếu lưu kim lâu khí vẫn chưa đến (không có đắc khí) thì nhân nhi nghênh chi (căn cứ vào nguyên nhân để châm chếch sang phải, sang trái, hoặc tiến, hoặc lui kim, hoặc ấn xuống, hoặc nhấc lên để đạt đắc khí). Muốn vậy trước hết phải rõ đường đi của kinh để có phương pháp chữa tốt. Nếu có hàn và nhiệt đấu tranh với nhau cần truyền đạo (phần thiên thắng) để hành khí huyết. Nếu có chứng khí uất kết lâu ngày nhưng huyết không kết, cần căn cứ tình hình cụ thể để có điều trị cụ thể.

Tóm lại: Cần nắm được 25 loại hình người, xem đặc điểm hình dáng của cơ thể biểu hiện ra ở trên, ở dưới, các kinh bên phải, bên trái, do khí huyết thịnh suy để có chẩn đoán tốt, chính xác, rồi mới định phép châm để điều hòa khí huyết chữa bệnh, chắc sẽ đem lại kết quả tốt.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 29, 2017, 03:16:43 PM
Quyển thứ mười

65. Năm âm thanh, năm vị (Ngũ âm, ngũ vị)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Phần đầu tiếp thiên 64 về 25 loại hình người, nó rõ quan hệ giữa 5 âm thanh với các loại hình, cách chữa và nên lấy kinh nào khi chữa. Tác dụng quan trọng của ngũ cốc, 5 gia súc, 5 loại quả, 5 loại vị phối hợp với 5 màu, 5 thời tiết trong việc điều hòa khí của ngũ tạng và kinh mạch. Phần sau nói rõ vì sao nữ, hoạn quan, thiên hoạn không có râu, và quan sát sắc mặt, râu, lông mày, để nắm đặc trưng sinh lý của khí huyết thịnh suy, cuối cùng nói đến khí huyết trong các mạch nhiều ít, làm căn cứ cho việc bổ ít tả nhiều khi chữa bệnh bằng châm.

- Người thuộc "Hữu thủy" và "Thiếu thủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Thái dương tay phải (thuộc Hỏa). Người thuộc "Tà thương" của âm thanh Kim và "Tả thủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Dương minh tay trái (Kim). Người thuộc "Thiếu thủy" của âm thanh Hỏa và "Đại cung" của âm thanh Thổ, cần điều hòa phần trên của kinh Dương minh tay trái (Kim). Người thuộc "Hữu giốc" và "Đại giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của kinh Thiếu dương chân (Mộc). Người thuộc "Đại chủy" và "Thiếu chủy" của âm thanh Hỏa, cần điều hòa phần trên của kinh Thái dương tay (Hỏa). Người thuộc "Chúng vũ" và "Thiếu vũ" của âm thanh Thủy, cần điều hòa phần dưới của kinh Thái dương chân (Thủy). Người thuộc "Thiếu thương" và "Hữu thương" của âm thanh Kim, cần điều hòa phần dưới của kinh Thái âm tay phải (Hỏa). Người thuộc "Chi vũ" và "Chúng vũ" của âm thanh Thủy, cần điều hòa phần dưới của Thái dương chân phải (Thủy). Người thuộc "Đại cung" và "Thiếu cung" của âm thanh Thổ, cần điều hòa phần dưới Dương minh chân phải (Thổ). Người thuộc "Phán giốc" và "Thiếu giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của Thiếu dương chân phải (Mộc). Người thuộc "Đệ thương" và "Thượng thương" của âm thanh Kim, cần điều hòa phần dưới Dương minh chân phải (Thổ). Người thuộc "Đệ thương" của âm thanh Kim "Thượng giốc" của âm thanh Mộc, cần điều hòa phần dưới của Thái dương chân trái (Thủy).

Bị chú: Ở đây chủ yếu là dùng cung hành của âm thanh để điều hòa kinh cùng hành. Ví dụ lấy âm Hỏa để điều hòa Thái dương tay thuộc Hỏa.

- Nhưng cũng có đoạn không giống như vậy: "Thiếu thương" và "Hữu thương" thuộc âm thanh Kim, nhưng lại điều hòa phần dưới Thái dương tay thuộc Hỏa, hoặc "Đệ thương" "Thượng thương" điều hòa phần dưới Dương minh chân phải, nhưng thiên trước lại nói "người thuộc âm Đệ thương, ví với phần trên Dương minh chân phải".

* Nói chung các Y gia đều cho là chép nhầm, hoặc là do kinh khí của kinh bên phải, trái, phần trên, phần dưới thông nhau gây nên - cần nghiên cứu thêm).

- Người thuộc "Thượng chủy" và "Hữu chủy" của âm thanh Hỏa, ứng với lúa mạch, dê, quả hạnh, Thiếu âm tay, tạng Tâm, sắc đỏ, vị đắng, mùa Hè (của hành Hỏa).

- Người thuộc "Thượng vũ" và "Đại vũ" của âm thanh Thủy ứng với đậu to, lợn, hạt dẻ, Thiếu âm chân, tạng Thận, sắc đen, vị mặn, mùa Đông (của hành Thủy).

- Người thuộc "Đại cung" "Thượng cung" của âm thanh Thổ, ứng với tắc (một giống cao lương), bò, táo, Thái âm chân, tạng Tỳ, sắc vàng, vị ngọt, mùa trưởng Hạ (thuộc hành Thổ).

- Người thuộc "Thượng thương" "Hữu thương" của âm thanh Kim, ứng với thứ lúa nếp, gà, đào, Thái âm tay, tạng Phế, sắc trắng, vị cay, mùa Thu (Của hành Kim).

- Người thuộc "Thượng giốc" "Đại giốc" của âm thanh Mộc, ứng với vừng, chó, mận, Quyết âm chân, tạng Can, sắc xanh, vị chua, mùa Xuân (Của hành Mộc).

Phụ chú: Tóm tắt của người dịch.

(https://i.imgur.com/azwBzcf.jpg)

(Nói chung: Người thuộc âm thanh của hành nào thì dùng các thứ ở hành đó để chữa).

- Người thuộc "Đại cung" âm thanh Thổ, "Thượng giốc" âm thanh Mộc, cùng điều hòa phần trên của Dương minh chân.

- Người thuộc "Hữu giốc", "Đại giốc" thuộc âm thanh Mộc, cùng điều hòa phần trên của Dương minh chân trái.

- Người thuộc "Thiếu vũ", "Đại vũ" âm thanh Thủy, cùng điều hòa phần dưới của Thái dương chân phải.

- Người thuộc "Tả thương", "Hữu thương" âm thanh Kim, cùng điều hòa phần trên của Dương minh tay trái.

- Người thuộc "Gia cung", "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa  phần trên của Thiếu dương chân trái.

- Người thuộc "Chát phán" của âm thanh Hỏa, "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa phần dưới của Thiếu dương chân trái.

- Người thuộc "Đại vũ" âm thanh Thủy, "Đại giốc" âm thanh Mộc, "Đại cung" âm thanh Thổ, cùng điều hòa phần trên của Thiếu dương chân phải.

(Người thuộc âm thanh Hỏa): Hữu chủy, Thiếu chủy, Chất chủy, Thượng chủy, Phán chủy.

(Người thuộc âm thanh Mộc): Hữu giốc, Đệ giốc, Thượng giốc, Đại giốc, Phán giốc.

(Người thuộc âm thanh Kim): Hữu thương, Thiếu thương, Đệ thương, Thượng thương, Tả thương.

(Người thuộc âm thanh Thổ): Thiếu cung, Thượng cung, Đại cung, Gia cung, Tả giốc cung.

(Người thuộc âm thanh Thủy): Chúng vũ, Chí vũ, Thượng vũ, Đại vũ, Thiếu vũ.

Bị chú:

1. Đoạn này nói về Ngũ âm và mạch, nhưng có nhiều chỗ không thống nhất như "Tả giốc, Đại giốc cùng điều hòa phần trên Dương minh chân trái". Giốc thuộc âm thanh Mộc, đáng phải điều hòa kinh Mộc, nay lại điều hòa kinh Thổ. "Gia cung, Đại cung, cùng điều hòa phần trên Thiếu dương chân trái" cùng thuộc âm Thổ, nhưng lại điều hòa kinh Mộc.

2. Đoạn trước nói 12, đoạn này nói 9 loại người cộng 21, còn thiếu 4 mới đủ 25, cộng có âm Giốc (Mộc) 12, âm Chủy (Hỏa)6, âm Cung (Thổ) 8, âm Vũ (Thủy) 7. Phần trùng lặp có: Phần trên của Dương minh tay trái, phần dưới của Thái dương chân phải, phần dưới của Dương minh chân phải, phần dưới của Dương minh chân trái.

(Đây là những điều khó hiểu, chưa giải thích được - Trương thị loại kinh)

Hoàng đế: (Khí huyết thịnh thì râu dài, đẹp) nay nữ không có râu, có phải không có khí huyết hay không?

Kỳ Bá: Mạch Xung, Nhâm bắt đầu từ bào cung, đi lên dọc trong cột sống, là bể của 12 kinh mạch, nhánh nổi đi ở mặt ngoài cơ thể, dọc theo bụng để lên trên, hội ở họng, rồi lách ra để đến môi. Khi khí huyết thịnh thì da đầy đặn, cổ ấm, nếu chỉ huyết thịnh thì thấm ra da và mọc lông. Đặc điểm của nữ là khí có thừa, huyết không đủ, hàng tháng có kinh nguyệt, mạch Xung Nhâm không đủ nuôi dưỡng môi nên không có râu.

Hoàng đế: Có người đàn ông bị thương ở phần sinh dục, dương vật không cương được, không giao hợp được, song vẫn còn râu, tại sao? còn thái giám (hoạn quan) sau khi hoạn rồi thì lại không mọc râu nữa, tại sao?

Kỳ Bá: Vì hoạn quan đã mất "Tông cân" (tinh hoàn), làm mạch Xung bị thương tổn, sau khi máu bị chảy ra không tuần hoàn lại như cũ được nữa, lưu kết trong da, làm cho mạch Xung Nhâm không nên được môi nên không mọc râu được.

Hoàng đế: Ở người đẻ ra đã suy sinh dục, không bị hoạn cũng không có kinh như nữ mà vẫn không mọc râu tại sao?

Kỳ Bá: Do tiên thiên bất túc, nên mạch Xung Nhâm không thịnh "Tông cân" không thành (phát triển), có khi không có huyết (vì Nhâm Xung không thịnh) nên không nuôi dưỡng môi được, vì vậy không mọc râu.

Hoàng đế: Quan sát sắc mặt, lông mày, râu, có thể thấy sự thịnh suy của khí huyết, như sắc mặt vàng đỏ thì có khí nhiệt, sắc mặt xanh trắng thì nhiệt khí ít, sắc mặt đen, là nhiều huyết ít khí, lông mày đẹp là Thái dương nhiều huyết, râu quai nó là Thiếu dương nhiều huyết, râu đẹp là Dương minh nhiều huyết, đó là hiện tượng bình thường.

* Trong nước ta thường là: Thái dương thường nhiều huyết ít khí, Thiếu dương thường nhiều khí ít huyết, Dương minh thường nhiều huyết nhiều khí, Quyết âm thường nhiều khí ít huyết, Thiếu âm thường nhiều huyết ít khí, Thái âm thường nhiều huyết ít khí, đó là hiện tượng bình thường.

Bị chú: 3 thiên Ngũ âm, Ngũ vị, huyết khí hình chí (Tố vấn) cửu châm, nói về vấn đề này có chỗ khác, các tác giả Mã Nguyên Đài, Trương Cảnh Nhạc cho sách Tố Vấn là đúng.

(https://i.imgur.com/sFUejlL.jpg)
(Dương cực Âm sinh, Âm cực Dương bắt đầu)


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 31, 2017, 06:18:13 AM
66. Nguyên nhân gây bệnh (Bách bệnh sử sinh)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên nhân sinh ra bệnh tật, bệnh ngoại cảm chủ yếu là do phong, hàn, thử, vũ, thanh, thấp, và tình chí thất thường gây bệnh nội thương. Vị trí bệnh có thể ở Âm, ở Dương; ở trong; ở ngoài; ở trên; ở giữa; ở dưới. Nói rõ mấu chốt gây ra bệnh ngoại cảm là chính khí suy, ngoại tà thừa lúc xâm nhập gây bệnh, và tác dụng phòng bệnh của dưỡng sinh, tà khí khi vào cơ thể thì đi từ ngoài vào trong, khi tà lưu ở trong sẽ thành tích, chướng đau, và đưa ra nguyên tắc chữa bệnh bổ tả ở nơi bị bệnh.

Hoàng đế: Nguyên nhân gây bệnh là phong, vũ, hàn, thử, thanh, thấp, giận, vui. Vui giận không điều độ làm tổn thương tạng, phong vũ làm tổn thương phần trên, thanh thấp làm tổn thương phần dưới. Tổn thương của khí ở 3 bộ (thượng, trung, hạ) không giống nhau, nên hiểu như thế nào?

Kỳ Bá: Khí ở thượng, trung, hạ không giống nhau, hoặc bắt đầu từ Âm (lý) hoặc bắt đầu từ Dương (biểu). Nguyên tắc của nó như sau: Nếu vui giận không chừng sẽ thương tạng, tạng bị thương là bệnh bắt đầu từ Âm, thanh thấp thừa hư xâm nhập là bệnh bắt đầu từ phần dưới, phong vũ thừa hư xâm nhập là bệnh bắt đầu từ phần trên. Đó là 3 phần có bệnh (nguyên nhân và vị trí ) khác nhau. Còn nếu tà khí liên tục xâm nhập vào trong thì triệu chứng biến hóa không ngừng, khó ghi hết.

Hoàng Đế: Ta vẫn chưa rõ ràng về vấn đề biến hóa đa dạng của các chứng bệnh, vì thế ta muốn hỏi thầy là người hiểu biết và mong được nghe rốt ráo về đạo ấy.

Kỳ Bá: Các tà khí phong vũ, hàn nhiệt, không thể xâm phạm vào cơ thể được nếu không phải là cơ thể hư nhược. Còn người đột ngột bị mưa to gió lớn mà không bị bệnh, là vì chính khí không hư, thể chất khỏe, nên tà khí không xâm phạm được. Muốn sinh bệnh phải có chính khí hư, lúc đó phong tà nhân chính khí hư mà tác động vào (lưỡng hư tương bác), và hư tà xâm nhập vào cơ thể để sinh bệnh.

- Hai cái thực gặp nhau (khí hàn bình thường - chính khí vượng) thấy ở phần lớn người có cơ săn chắc, nên tà khí khó xâm phạm. Nói chung, bệnh do (lúc tà xâm nhập thường do) thời tiết bất thường và không thể suy, nó tạo ra thế tà thực, chính hư và gây bệnh lớn. Tà khí khi vào ở trong người (mỗi loại có chỗ riêng của nó), dựa vào chỗ lưu trú của nó mà có tên là ở trên,ở dưới, ở trong, ở ngoài. Tóm lại chia làm 3 viên (bộ phận), bệnh ở Biểu do tà khí - bệnh ở Lý do tích tụ - bệnh ở Âm do tình dục làm thương tạng.

- Tà khí tấn công người bắt đầu từ da, da mềm hoãn thì thấu lý khai, nếu khai thì tà khí từ chân lông đi vào, rồi vào sâu thêm, làm cho lông dựng lên, lúc đó người gai rét và da đau. Nếu tà khí vẫn lưu lại và không bị đuổi đi, thì nó sẽ truyền vào lạc mạch, khi tà khí ở trong lạc mạch thì cơ bị đau, nếu cơ lúc đau lúc không là biểu hiện tà lại vào sâu nữa và kinh lớn đã bị tấn công. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi, thì nó sẽ truyền vào kinh, khi tà kí truyền vào kinh sẽ có rét run, sợ lạnh, và trong lòng kinh sợ không yên. Nếu tà khí vẫn không bị đuổi đi, thì nó tụ ở Du, khi đó kinh khí của 6 kinh không thông đến tứ chi, làm chi khớp đau, sống lưng cứng. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ vào đoạn tủy sống của mạch Xung. Khi tà khí ở đó, thì chân tay nặng nề, người đau. Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ truyền vào trong trường vị, lúc đó thủy khí đình lại ở Vị và bụng kêu óc ách, bụng trướng. Nếu hàn nhiều thì bụng sôi, ỉa chảy, ăn không tiêu, nếu nhiệt nhiều thì ỉa lỏng (máu mũi, mót rặn, lị). Nếu tà khí vẫn lưu lại không bị đuổi đi thì sẽ truyền ngoài trường vị, giữa mô nguyên, lưu ở trong mạch, nếu lưu lại ở lâu, sẽ tích lại thành chứng tích. Tóm lại là tà khí vào cơ thể thì nó hoặc lưu ở tôn mạch, hoặc lưu ở lạc mạch, hoặc lưu ở kinh mạch, hoặc lưu ở mạch vận chuyển tân dịch, hoặc lưu ở đoạn trong ống tủy của mạch Xung, hoặc ở gân bám ở xương cùng, hoặc ở mô nguyên của trường vị, ở trên nối với gân mềm của bụng. Có thể thấy tà khí vào trong cơ thể, không chỗ nào nó không đến được, biến hóa khôn lường, khó mà nói hết.

Hoàng đế: Xin nói rõ thêm.

Kỳ Bá: Tà khí lưu ở nhiều mạch nhỏ của tôn lạc sẽ thành chứng tích, thành hòn cục, nó có thể di động lên, xuống, đến, đi. Do tà khí tích lại tôn lạc ở vùng nông và mềm của cánh tay, nên không thể hạn chế trạng thái tích và lưu nó ở đó, do vậy nó đến và đi di động vào gần giữa trường vị. Nếu có thủy thì sẽ thấm và tưới vào cho bên trong làm cho có tiếng như nước chảy. Nếu có hàn thì sinh ra bụng chướng và sôi bụng, thỉnh thoảng đau như dao đâm. Nếu tà khí lưu lại ở kinh Dương minh thì sẽ tích ở quanh rốn, khi ăn no sẽ to ra, khi đói thì bé lại. Nếu tà khí lưu lại ở cân mềm trong bụng, ăn no thì yên tĩnh (do tân dịch thấm ra ngoài), lúc đói thì lại đau (do khô tân dịch). Nếu tà khí ở đoạn trong ống tủy của mạch Nhâm, khi ấn sờ bụng thấy cảm giác động, nhấc tay lên bệnh nhân có cảm giác nóng chạy xuống hai bên đùi, như bị nóng bỏng ở đó. Nếu tà khí lưu ở cân xương cùng, ở sau trường vị, khi đói có thể thấy tích tụ, khi ăn no tích tụ (bị che lấp) nhìn không thấy và tay sờ cũng không thấy - Nếu tà lưu lại ở mạch vận chuyển tân dịch, sẽ làm cho mạch bị tắc, tân dịch không đi xuống được, các khiếu sẽ khô tắc lại. Đó là tình hình tà khí từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới (bệnh bắt đầu từ Dương).

Hoàng đế: Nguyên nhân của chứng tích từ lúc bắt đầu đến khi hình thành là gì?

Kỳ Bá: Bắt đầu sinh ra là do bị khí hàn, và tích hình thành là do bị khí hàn quyết nghịch lên.

Hoàng đế: Quá trình hình thành như thế nào?

Kỳ Bá: Khí hàn quyết nghịch xuống dưới, là chân đau, bàn chân đau, và vận động thất thường, gây cẳng chân lạnh, cẳng chân lạnh làm huyết mạch ngưng trệ, vì vậy khí hàn đi lên trường vị, làm cho chướng bụng (dương khí không hóa), bụng chướng làm chấp ở ngoài ruột bị dồn ứ không tán đi được, dần dần thành tích. Cũng do đột nhiên ăn quá nhiều làm ruột đầy, sinh hoạt ăn ngủ thất thường, dùng sức quá độ làm lạc mạch bị tổn thương. Nếu dương lạc bị tổn thương (lạc đi lên) thì huyết tràn ra ngoài, máu tràn ra ngoài thì chảy máu mũi. Âm lạc (lạc đi xuống) nếu bị thương thì máu chảy tràn vào trong, máu tràn vào trong thì ỉa máu. Lạc của trường vị bị thương thì máu tràn ra ngoài ruột, ngoài ruột có hàn, chấp và máu đấu nhau, quần tụ lại không tan và sinh tích, lại do đột ngột bị trúng hàn, lại bị nội thương do lo giận quá làm khí nghịch lên, khí nghịch lên như vậy sẽ làm cho sự vận chuyển của 6 kinh bị tắc không thông, làm cho khí ôn không hành,huyết ngưng kết lại ở trong không tan được, tân dịch cũng sinh ra sáp trệ (không thấm, tưới toàn thân), tụ lại dần dần và thành tích.

Hoàng đế: Bệnh sinh ra ở Âm (tạng) thì thế nào?

Kỳ Bá: Âu sầu lo nghĩ quá độ, làm Tâm bị thương, bị ngoại hàn lại ăn đồ lạnh ở trong (trùng hàn) làm Phế bị thương, giận dữ làm Can bị thương, say rượu rồi giao hợp, ra mồ hôi mà gặp gió, sẽ làm Tỳ bị thương. Dùng sức quá độ hoặc giao hợp xong, hoặc ra mồ hôi mà đi tắm, sẽ làm Thận bị thương.

Trên đây là trạng thái bệnh của trong, ngoài, 3 phần (trên, giữa, dưới của cơ thể).

Hoàng đế: Chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Xem chỗ đau sẽ biết vị trí của bệnh (Âm, Dương, Biểu, Lý). Bệnh có hữu dư và bất túc. Đáng tả thì tả, đáng bổ thì bổ, không nên vi phạm quan hệ giữa thời tiết và tạng, đó là nguyên tắc điều trị có hiệu quả và thích đáng nhất.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2017, 05:06:58 AM
67. Cách châm (Hành châm)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về thể chất của người bệnh khác nhau, khí Âm Dương có thịnh có suy, nên cảm ứng đắc khí của châm không thống nhất. Người thiên về Dương - trùng dương (tức khí của 6 kinh và khí Tâm Phế có thừa), có phản ánh rất nhạy với châm, người có Âm ở trong Dương, có phản ánh tương đối chậm chạp, người có Âm Dương điều hòa thì phản ánh không nhạy và không chậm chạp, người Âm nhiều Dương ít thì đắc khí chậm, rút kim ra rồi mới có phản ứng, hoặc vê kim nhiều lần mới đắc khí. Còn phản ánh xấu sau khi rút kim hoặc hãm mà bệnh lại nặng lên thì đều là do kỹ thuật của thầy thuốc không thích đáng, chúng không có liên quan gì với thể chất và trạng thái Âm Dương của người bệnh.

Hoàng đế: Khi châm cho người ta, do họ có thể chất khác nhau, khí huyết có suy có thịnh, nên có phản ứng khác nhau như: Khi (tâm) thần (kích) động, vừa châm đã có phản ứng,hoặc khi châm vào khí tương phùng, châm đúng lúc thì có phản ứng, hoặc khi rút kim ra rồi mới bắt đầu có phản ứng, hoặc phải châm nhiều lần, kích thích nhiều lần mới có phản ứng, hoặc khí rút kim rồi thì có khí nghịch (phản ứng xấu), hoặc châm làm bệnh nặng lên. Xin giải thích cho 6 vấn đề này.

Kỳ Bá: Người thiên về Dương (trùng Dương) thần của họ dễ động (phản ứng), nên dễ đắc khí khi châm.  Người thiên về Dương (trùng Dương) là người nhiệt tình cao, không chịu khuất phục, nói nhanh, đi thì nhấc cao chân, khí của Tâm Phế có thừa, khí Dương vận hành lanh lợi thịnh và vượng lên trên. Vì vậy thần động thì khí hành trước (khí động thì rất nhạy với châm.

Hoàng đế: Tại sao có người thiên về dương mà thần không hành trước (không mẫn cảm)?

Kỳ Bá: Vì họ có nhiều âm ở trong.

Hoàng đế: Làm thế nào để biết có nhiều âm ở trong?

Kỳ Bá: Người nhiều dương thì thích vui, người nhiều âm thì (trầm trì u uất) dễ giận dữ, tuy giận dữ nhiều nhưng khí giận dễ tiêu tan (thuộc âm ở trong dương), đó là người có nhiều âm. Nếu âm dương của họ khó ly hợp (trong dương có âm, Âm Dương không cân bằng, khí huyết hình thành không bình thường nên ly hợp, xuất nhập không bình thường), thì thần không thể đi được (không mẫn cảm).

Hoàng đế: Thế nào là kinh khí tương phùng (gặp nhau)?

Kỳ Bá: Ở người có Âm Dương điều hòa với tuần hoàn của huyết khí nhu nhuận, hoạt lợi thì châm vào là khí xuất (có phản ứng) và khí đến tùy theo thời gian châm (không đến nhanh, không đến chậm).

Hoàng đế: Khí nào đã làm cho khí đến (đắc khí) sau khi đã rút kim rồi?

Kỳ Bá: Ở ngoài có khí âm nhiều, khí dương ít. Khí âm tính trầm, làm khí dương đi phù ở ngoài cũng theo khí âm vào tạng ở trong, nên (mới châm khó có phản ứng ngay và ) sau khi rút kim mới xuất hiện phản ứng (lúc này kim đã rút rồi chỉ còn phản ứng của khí).

Hoàng đế: Khí nào làm cho phải châm nhiều lần mới có phản ứng?

Kỳ Bá: Ở người âm nhiều, dương ít, (dương) khí của nó trầm phục ở trong nên khi châm khí khó đến, do đó phải châm nhiều lần mới có phản ứng.

Hoàng đế: Khí nào làm cho khí nghịch lên sau khi châm kim vào (phản ứng xấu)?

Kỳ Bá: Châm kim vào khí nghịch lên, hoặc bệnh nặng lên, không phải do sự thinh suy của khí âm dương, hoặc là do xu thế phù trầm của khí âm dương. Đó là do thầy thuốc, kim, kỹ thuật sai gây nên tai biến này, không có quan hệ trực tiếp với Âm, Dương, Biểu, Lý, thân thể, thể chất của người bệnh.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2017, 06:17:40 AM
68. Thượng cách

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về chứng cách, có nguyên nhân là trùng ung, triệu chứng và cách chữa triệu chứng. Điểm xuất phát để thảo luận là "Khí vi thượng cách, trùng vi hạ cách", vì vậy lấy tên là thượng cách.

Hoàng đế:  "Khí vi thượng cách" (khí cơ uất kết thành chứng thượng cách) sau khi ăn vào thì nôn ngay. "Trùng vi hạ cách" (do trùng thành chứng hạ cách), ăn vào một ngày một đêm mới nôn ra. Nguyên nhân cụ thể của hai chứng này là gì?

Kỳ Bá: Nguyên nhân chủ yếu là vui giận không thỏa đáng (tình chí uất ức), ăn uống thất thường, thời tiết nóng lạnh thất thường, không thích ứng nổi (làm tổn thương tới khí của Vị), làm hàn chấp chảy xuống ruột, ký sinh trùng ở ruột bị lạnh (không hoạt động), tụ lại ở hạ quản làm (khí) trường vị đầy ứ. Khi người ăn vào, thì trùng đi lên xin ăn, hạ quản sẽ (tạm thời) hư, tà khí thừa cơ đó sẽ đi xuống hạ quản, lưu lại và tích tụ dần, tà khí tích tụ sẽ thành ung nhọt ở trong, làm cho hạ quản bị thắt lại, không thông lợi, do đó ăn xong quá một ngày đêm mới nôn.

Ung nhọt trong hạ quản thường đau ở sâu, ung nhọt ngoài hạ quản thường ở nông và gây đau ở phần nông, sờ da sẽ thấy nóng.

Hoàng đế: Chữa bằng châm thế nào?

Kỳ Bá: Tay sờ nhẹ chỗ bị ung, quan sát hướng đi của khí, mới đầu châm nông ở gần chỗ đó, châm xong khi hơi có cảm giác thì châm sâu hơn, sau đó lại làm như thế nhưng không quá 3 lần. Vấn đề là xác định vị trí nông sâu của ung để châm nông sâu. Châm rồi cứu thêm, để khí nóng vào trong, mỗi ngày đều cứu để nhiệt vào sâu ở họng, tà khí suy dần và ung sẽ vỡ. Ngũ dĩ tham cấm (cách chữa đúng phối ngũ với dưỡng sinh, và giữ tốt điều cấm kỵ) để trừ nguyên nhân gây bệnh bên trong, điềm đạm yên tĩnh, không có tham vọng, có thể làm khí hành thuận hòa, tuần hoàn trở lại bình thường, rồi dùng thuốc mặn đắng, làm khí độc của ung nhọt bị tống ra ngoài theo đường ỉa (mặn làm mềm, do thủy hóa, đắng làm ôn vị do hỏa hóa, đều có thể làm đi ỉa. Sách Giáp ất kinh, Nội kinh thái tố ghi là chua và đắng, chua là Thiếu dương, đắng là Thái dương, 2 vị là ôn có thể làm tiêu thức ăn).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2017, 06:37:12 AM
69. Âu sầu, phẫn nộ gây mất tiếng (Ưu hủy vô ngôn)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về bệnh lý của mất tiếng. Phát âm và nói được là tác dụng của các bộ phận mồm, môi, lưỡi, lưỡi gà, thanh quản, ống mũi, xương lưỡi phối hợp với nhau. Thanh quản (hội yếm) to hay nhỏ, dày hay mỏng, có quan hệ mật thiết với phát âm nhanh hay chậm. Hàn vào thanh quản làm mở đóng kém, gây mất tiếng đột ngột. Chích nặn máu Thiếu âm chân, mạch Nhâm, đồng thời châm Thiên đột có thể phục hồi sự phát âm.

Hoàng đế: Có người âu sầu giận dữ, đột ngột lại nói không ra tiếng, vậy đường vào đã bị tắc, khí vào đã không ra được để không thành tiếng?

Thiếu sư: Hầu họng là đường đi của thủy cốc. Yết hầu là nơi khí lên xuống, qua lại. Thanh quản (hội yếm) là chỗ phát âm thanh. Mồm môi là cửa của âm thanh. Lưỡi là (động) cơ của âm thanh. Lưỡi gà là nơi đóng mở của âm thanh. Ống sau mũi là nơi khí trong người và khí trong trời trao đổi (phân khí chi sổ tiết). Xương lưỡi chịu sự chỉ huy của ý thức (Thần) để khống chế hoạt động của lưỡi trong sự phát âm. Vì vậy nếu chảy nước mũi là mũi tắc, khó phân khí. Thanh quản nhỏ, mỏng, khí ra nhanh, đóng mở thuận lợi cho nên khí ra dễ, phát âm tốt. Thanh quản to, dày, đóng mở không thuận lợi, khí ra chậm hơn, phát âm chậm hơn nên nói lắp. Người đột ngột bị mất tiếng là khí hàn ở thanh quản, làm thanh quản không phát âm được, có phát âm được cũng không lên xuống để thành tiếng nói được, khi không còn đóng mở được thì thành mất tiếng.

Hoàng đế: Chữa bằng cách nào?

Kỳ Bá: Thiếu âm chân lên đến cuống lưỡi, lạc ở xương lưỡi, tận ở thanh quản. Tả huyệt mạch ở hai mạch (Nhâm và Thiếu âm chân) để đuổi khí trọc đi. Vì mạch của thanh quản liên lạc được với mạch Nhâm, do đó lấy Thiên đột thì thanh quản lại phát âm được.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2017, 06:57:08 AM
70. Nóng lạnh (Hàn nhiệt)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên nhân, cách chữa tràng nhạc (lao hạch, loa lịch). Tiên lượng và chẩn đoán bệnh này. Lao hạch do khí độc hàn nhiệt lưu ở kinh mạch gây nên.

Hoàng đế: Lao hạch hàn nhiệt ở cổ, nách, do khí nào gây nên?

Kỳ Bá: Đều do khí độc của hàn nhiệt, lưu ở mạch không bị đuổi đi (làm khí huyết ngưng trệ) gây nên.

Hoàng đế: Chữa như thế nào?

Kỳ Bá: Gốc của lao hạch là ở nội tạng, ngọn của nó là hạch ở cổ, nách. Nếu khí độc phù ở kinh mạch bên trong chưa vào sâu trong cơ, bên ngoài cũng chưa làm mủ thì dễ chữa. Mới đầu chữa từ gốc dẫn đến ngọn để làm khí độc suy dần, dừng lại sự phát tác của hàn nhiệt. Cần xem xét vị trí của kinh mạch, theo đường đi của nó để lấy huyệt châm, kim châm vào từ từ và lấy ra từ từ để khử nó. Nếu hạch nhỏ như hạt lúa, châm một lần là có hiệu quả, châm 3 lần là tiêu hết.

Hoàng đế: Xem xét tiên lượng xấu tốt dựa vào đâu?

Kỳ Bá: Vạch mắt xem, nếu thấy có vằn máu đỏ theo hướng trên đi xuống, dưới đi lên, và đều đi vào đồng tử là rất nguy kịch, nếu có 1 mạch máu thì sống 1 năm, nếu có một mạch máy rưỡi thì sống 1,5 năm. Nếu có 2 mạch máu thì sống 2 năm, nếu có 2, 5 mạch máu thì sống 2,5 năm, nếu có 3 mạch máu thì sống 3 năm. Nếu mạch không đi vào đồng tử thì chữa được.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2017, 05:45:39 AM
71. Tà khí lưu lại ở người (Tà khách)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về mất ngủ do Dương thịnh Âm hư, tà khí nhiễu trong nội tạng. Cách châm cứu là phải tả Dương bổ Âm, điều hòa hư thực, về hai bài (Bán hạ thang, Truật mễ tiễn) có tác dụng chữa mất ngủ tốt. Về đầu ứng với trời, chân ứng với đất, 2 mặt ứng với nhật nguyệt, 9 khiếu ứng với tay chân... về trạng thái tuần hoàn của Thái âm tay, Quyết âm tay, về sự khỏe chắc của Tâm làm tà khí không vào được, và lúc vào được đều ở Tâm bào, về triệu chứng khi tà vào thân thể, và chỉ định, chống chỉ định và thao tác của châm; về 8 nơi hư (2 khuỷu, 2 nách, 2 háng, 2 khoeo là nơi khớp vận động, là nơi chân khí và huyết hội với nhau, nếu tà vào đến đó thì khớp không vận động được mà co quắp lại).

Hoàng đế: Khi tà vào người, khí nào làm cho khi ngủ không nhắm được mắt, lòng không yên và mất ngủ?

Kỳ Bá: Ngũ cốc vào Vị, tiêu hóa rồi chia làm ba: Cặn bã (thải ra), tân dịch (thấm tưới da cơ), tông khí (tụ ở giữa).

- Tông khí tụ ở ngực (từ Phế) lên họng, xuyên thông kinh mạch để thở. Dinh khí tiết tân dịch rồi tưới vào mạch và hóa thành huyết để nuôi tứ chi, vào trong để nuôi 5 tạng 6 phủ, tuần hoàn của nó ứng với thời gian 100 khắc của ngày và đêm. Vệ khí mạnh mẽ, lanh lợi (của thức ăn, uống) mới đầu đi ở giữa da cơ của tứ chi tuần hoàn không ngừng. Ngày nó đi ở phần dương (phủ), đêm nó đi ở phần âm (tạng), thường bắt đầu ở Thiếu âm chân nơi nó và Thái âm chân nối nhau rồi đi vào 5 tạng 6 phủ. Nếu tà khí quyết nghịch lưu ở 5 tạng 6 phủ thì khí vệ một mình bảo vệ ở ngoài, tuần hoàn ở phần dương nên khi khí dương thịnh. Khí dương thịnh thì mạch Dương kiều "hãm" (sách này nói "hãm" nhưng các sách Giáp ất, Nội kinh thái tố đều ghi là "mãn"). Khi vệ khí không thể vào phần âm làm (ngoài thì thừa trong thì thiếu), Âm hư, vì vậy mắt không thể nhắm được khi ngủ.

Hoàng đế: Chữa thế nào?

Kỳ Bá: Bổ cái bất túc (Chiếu hải), tả cái hữu dư (Thân mạch), điều hòa hư thực để thông đường kinh của nó và đuổi tà khí đi. Uống một thang: Bán hạ thang, nếu âm dương mà thông thì sẽ ngủ. Bán hạ thang: Lấy nước sông cái 8 thăng, để lắng trong, lấy 5 thăng, đun to lửa cho chóng sôi, cho truật mễ (gạo nếp) 1 thăng, chế Bán hạ 5 hợp, rồi dùng lửa nhỏ (văn hỏa). Khi nước còn một thăng rưỡi thì bỏ bã, mỗi lần uống một cốc nhỏ, ngày uống 3 lần hoặc hơn đến khi có hiệu quả. Ở người mới mắc bệnh uống xong thì đi ngủ ngay hoặc khi ra mồ hôi là có kết quả. Ở người có bệnh lâu, uống 3 lần là khỏi.

Hoàng đế: Khớp tứ chi, ứng với trời đất như thế nào?

Bá Cao: Dùng cách so sánh theo hình tướng, đầu tròn ứng với trời, bàn chân vuông ứng với đât. Trên trời có mặt trăng, mặt trời, người có hai mắt. Mặt đất có 9 châu, người có 9 khiếu (9 châu = 9 địa phương của tổ quốc - thời gian viết sách). Trời có gió mưa, người có vui giận; trời có sấm sét, người có âm thanh; trời có 4 mùa, người có 4 chi; trời có 5 âm (thanh), người có 5 tạng; trời có 6 luật, người có 6 phủ [6 luật thuộc dương là (những âm giai) Hoàng chung, Thái tộc, Cô tẩy, Nhung tân, Di tắc, Vô sa]; trời có Đông Hạ, người có hàn nhiệt; trời có 10 ngày, người có 10 ngón tay; giờ có 12, người có 10 ngón chân, ở nam có thêm dương vật và tinh hoàn (là 12), ở nữ tuy không đủ 12 nhưng có dạ con nuôi con; trời có Âm Dương, người có vợ chồng; năm có 365 ngày, người có 365 tiết (huyệt chính); đất có núi cao, người có vai gối; đất có khe sâu, người có nách khoeo; đất có 12 kinh thủy, người có 12 kinh mạch; đất có suối mạch, người có vệ khí; đất có cỏ, người có lông; trời có ngày đêm, người có dậy nằm; trời có sao, người có răng; đất có núi nhỏ, người có khớp nhỏ; đất có núi đá, người có xương cao gồ; đất có rừng cây, người có cân mạch; đất có nơi đô hội, người có các bắp thịt; năm có 12 tháng, người có 12 khớp to (mỗi chi 3 khớp); đất có nơi 4 mùa không mọc cỏ, người có người không con. Đó là những điểm người ứng với trời đất.

Hoàng đế: Phép tắc châm, lý luận về tiến châm, ý nghĩa của tả, bổ, nghênh, tùy, cách gõ kim để khai thấu lý như thế nào? Sự uốn khúc của kinh mạch và nơi ra vào của nó, khí của mạch đến đâu thì ra, đến đâu thì hết và dừng, đến chỗ nào thì nhanh lên, đến chỗ nào thì chậm lại, đến đâu thì vào, tình hình 6 phủ tưới cho toàn thân tôi đều muốn biết. Ngoài ra nơi phân ly của kinh mạch, tách Dương để vào Âm, tách Âm để vào Dương, đường tuần hoàn nào phụ trách vấn đề này xin cho rõ.

Kỳ Bá:

- Mạch Thái âm tay xuất ở đầu ngón tay cái, gập vào trong đi dọc bờ Ngư tế (mô ngón cái) lên đến sau khớp bàn tay, đến Thái uyên, lưu ở đó lên có mạch đập, cong ra ngoài đến dưới khớp bàn tay gấp vào trong, hội ở Ngư tế với các lạc của kinh âm, các mạch hợp lại, khí chảy mạnh mẽ, hoạt lợi, bắt đầu đi ẩn ở dưới mõm xương Ngư tế, gấp ra ngoài, nổi ra ngoài ở cổ tay theo kinh đi lên (Kinh cừ), lên đến mặt trong khuỷu, vào dưới gân to (Xích trạch), lại gấp vào trong đi lên mặt trong cánh tay, vào hố nách, lại gấp vào trong đến Phế. Đó là sự tuần hành gấp khúc nhiều lần của kinh Thái âm tay.

- Mạch Tâm chủ xuất ở đầu ngón tay giữa gấp vào trong, dọc bờ trong ngón giữa đi lên, lưu ở trong gan bàn tay, đi nấp giữa hai xương, gấp ra ngoài đi ra chỗ giữa hai gân, giữa xương và cơ. Khí nó hoạt lợi, đi lên 2 tấc, gấp ra ngoài, đi giữa hai gân lên bờ trong khuỷu tay, vào dưới gân nhỏ, lưu ở chỗ hội của hai xương, đi lên vào trong ngực để vào liên lạc với mạch Tâm.

Hoàng đế: Tại sao mạch Thiếu âm tay không có huyệt?

Kỳ Bá: Thiếu âm là mạch Tâm. Mạch Tâm chủ nhân của 5 tạng 6 phủ, nơi ở của tinh (thần); nếu tạng nó chắc thì tà không thể nào vào được, nếu vào được đến Tâm thì Tâm bị thương, thần sẽ đi và chết. Cho nên cái tà vào Tâm đều phải đến Tâm bào lạc. Tâm bào lạc là mạch của Tâm chủ, nên mạch Tâm không có huyệt [mãi đến Hoàng Phủ Mật (Giáp ất kinh) mới ghi huyệt của kinh Thiếu âm tâm].

Hoàng đế: Kinh Thiếu âm không có huyệt, vậy có bệnh không?

Kỳ Bá: Ở kinh thì có bệnh, còn ở tạng Tâm thì không có bệnh, nên khi chữa chỉ lấy huyệt (Thần môn) ở cổ tay chỗ xương đậu để chữa. Các phần khác của mạch xuất nhập gấp khúc, đi nhanh hay chậm đều giống như tuần hoàn của kinh Thiếu âm tâm chủ. Cho nên nói Thần môn là huyệt du của kinh đó, nếu có bệnh thì lấy để điều hòa lại, tùy khí nó hư hay thực, đi nhanh hay chậm, nếu xung (thịnh) thì tả, nếu suy thì bổ. Chữa như vậy thì sẽ đuổi được tà khí, củng cố được chân khí. Đó là thuận theo sự vận hành tự nhiên của nó để chữa.

Hoàng đế: Cách châm nghênh tùy như thế nào?

Kỳ Bá: Trước hết biết gốc ngọn của 12 kinh, tính hàn nhiệt của da, sự thịnh suy hoạt sáp của mạch. Nếu mạch hoạt thịnh là bệnh ngày một tăng nặng; nếu mạch hư tế là bệnh lâu và đang cố gắng duy trì; nếu mạch to và sáp là thống tý. Nếu Âm Dương như nhất (nội ngoại biểu lý đều có bệnh) thì bệnh khó chữa. Nếu gốc (ngực bụng) ngọn (tứ chi) đều nhiệt (dư tà chưa hết) là bệnh vẫn còn tồn tại. Nếu nhiệt của nó đã suy là bệnh đã suy (tà khí bị đuổi ra). Còn phải xem da ở bên trụ (xương trụ) xem sự mềm chắc của cơ, sự to nhỏ hoạt sáp của mạch, trạng thái hàn, nhiệt, táo, thấp. Cũng phải xem 5 sắc của mắt để đoán sự thay đổi của 5 tạng, để có tiên lượng (tốt hay xấu) sống hay chết. Cũng xem huyết mạch, sắc của người bệnh để biết chứng hàn nhiệt thống tý.

Hoàng đế: Ý nghĩa của thủ pháp nghênh tùy là gì?

Kỳ Bá: Nguyên tắc của châm là phải có thái độ đoan chính và trong lòng yên tĩnh. Trước hết phải biết hư thực, để châm nhanh hay chậm. Khi châm tay trái giữ xương của người bệnh, tay phải sờ huyệt theo kinh, châm không được quá mạnh để gây nên cơ co lại (làm mút kim). Khi tay phải châm thẳng góc, không nghiêng ngả, khi bổ (châm nông) phải bịt lỗ châm, đồng thời dùng thủ thuật bổ trợ để dẫn khí (nâng sức chống đỡ) làm khí tà không thâm nhập thêm, như vậy châm khí sẽ ở nguyên chỗ và phục hồi tuần hoàn ở chỗ đó.

Hoàng đế: Phép gõ trên da để khai thấu lý ra sao?

Kỳ Bá: Tùy vị trí nhóm cơ bị bệnh, trước hết dùng tay trái sờ để phân rõ cơ phu, sau đó dùng tay phải tiến kim rất nhẹ và làm cho kim thẳng góc với da, rồi tiến từ từ vào phần nông của da. Cách châm đó an toàn làm thần thoải mái, không làm hao tán mà khí tà vẫn bị trừ đi. Gần như cách châm ở da (bì phu châm hiện nay).

Hoàng đế: Người có 8 cái hư, có thể dùng chẩn đoán các loại bệnh gì?

Kỳ Bá: Để chẩn ngũ tạng. Phế Tâm có tà, khí của nó lưu ở hai khuỷu tay; Can có tà, khí của nó lưu ở hai nách; Tỳ có tà, khí của nó lưu ở hai háng hông; Thận có tà, khí của nó lưu ở hai khoeo, 8 cái hư đó (khuỷu, nách, hông háng, khoeo) là những nơi khớp vận động, chân khí đi qua, huyết lạc tuần hoàn. Tà khí và huyết xấu, đương nhiên không được lưu trú ở đó. Nếu chúng lưu lại thì sẽ làm tổn thương kinh lạc, khớp xương, khớp không vận động được, hình thành chứng co cứng khớp. (Phế, khí lưu ở Xích trạch; Tâm, khí lưu hành ở Thiếu hải; Can, khí lưu hành ở Kỳ môn, Uyên dịch; Tỳ, khí lưu hành ở Xung môn, Khí xung; Thận, khí lưu hành ở Âm cốc, Ủy trung - Trương Cảnh Nhạc - Loại kinh).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 07, 2017, 10:50:44 AM
72. Thông thiên

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về người có 5 loại hình: Thái âm, Thiếu âm, Thái dương, Thiếu dương, Dương minh. Mỗi loại hình có đặc trưng sinh lý, tính tình thể chất, hình thái riêng, chúng có quan hệ với điều trị, trong điều trị có nguyên tắc riêng cho từng loại hình.

Hoàng đế: Có người thuộc Âm, có người thuộc Dương. Vậy người nào thì thuộc Âm, người nào thì thuộc Dương?

Thiếu Sư: Mọi vật trong vũ trụ, trong 6 hợp (trên dưới và 4 phương) đều không tách khỏi 5 hành. Người cũng thế, không phải chỉ có một Âm một Dương. Nói Âm Dương là nói khái quát để dễ nắm chung, còn những vấn đề phức tạp trong đó thì không thể giải thích đơn giản như vậy được.

Hoàng đế: Ở người hiền (hiền nhân), bậc thánh (thánh nhân) tâm của họ có biểu hiện ra hành vi hay không?

Thiếu Sư: Nói chung, có 5 loại hình: Thái âm, Thiếu âm, Thái dương, Thiếu dương, dương âm hòa bình...ở mỗi loại hình trong 5 loại hình đó đều có hình thái khác nhau, gân xương khỏe yếu, khí huyết thịnh suy khác nhau...

- Người loại hình Thái âm thì tham lam bất nhân, bề ngoài ra vẻ trang trọng, nhưng trong lòng nham hiểm, chỉ thu vào mà không nhả ra, tâm hòa nhưng không biểu hiện ra ngoài, và khi cần có thái độ cũng không muốn tỏ thái độ của mình, đợi người ta làm xem sao rồi mới làm. Bề ngoài ra vẻ trung hậu, trong lòng nham hiểm, đó là người Thái âm.

- Người loại hình Thiếu âm thì tham vặt, thường có tà tâm hại người, thấy người có tổn thất thì thích thú, thích hại người, làm tổn thương người, thấy người khác vinh hiển thì đố kỵ, tức giận, tính tình tàn bạo, không đồng tình giúp người. Bạo ngược, tham vặt, thích hại người, thích thú khi người gặp nạn là người Thiếu âm.

- Người loại hình Thái dương thì ăn ở tùy tiện, thích nói đại sự, không có năng lực, không có năng lực nhưng hay đại ngôn, tuyên truyền ý chí của mình, động tác hành vi thô lỗ không kể phải trái, gặp việc dung tục rất bình thường nhưng lại rất tự tin, việc thất bại nhưng không hối hận. Loại đại ngôn vô năng lực, không có thủy chung là người Thái dương.

- Người loại hình Thiếu dương thì làm việc tinh tế, nghiên cứu kỹ lưỡng, tự cho là cao quý, có làm quan dù nhỏ vẫn tự tôn mình và thấy đắc ý, thích ngoại giao nhưng đối nội kém. Loại người tự cao tự đại đó là người Thiếu dương.

- Người loại hình âm dương hòa bình thì chỗ ăn chố ở yên tĩnh, trong lòng yên tĩnh không có lo lắng, cũng không có tham vọng quá đáng, biết thuận quy luật phát triển của sự vật, không tranh phần cho mình, có thể thích ứng với thời tiết. Họ có thể có địa vị tôn qúy, nhưng thái độ vẫn khiêm tốn, dùng đức để cảm hóa người mà không hoàn toàn dùng quyền bính, đó gọi là phương pháp xử lý sự việc tốt nhất.

- Người thầy thuốc khéo dùng kim châm và ngải cứu để trị bệnh, họ thường quan sát biết được 5 dạng người như nói trên để phân biệt ra mà trị liệu: Khi nào thịnh thì dùng phép tả, khi nào hư thì dùng phép bổ.

Hoàng đế: Nguyên tắc chữa bằng châm 5 loại hình đó là gì?

Thiếu Sư:

- Người Thái âm thì nhiều âm vô dương, âm huyết của họ đục, vệ khí của họ vận hành sáp trệ, âm dương bất hòa, cân hoãn và da dày, nếu không dùng cách tả cấp thì không làm cho bệnh giảm được.

- Người Thiếu âm thì nhiều âm ít dương, dạ dày nhỏ và ruột to (dạ dày ở trên là dương, dương ít nên dạ dày nhỏ, ruột ở dưới là âm, âm nhiều nên ruột to), 6 phủ không điều hòa, khí của mạch Dương minh nhỏ, khí mạch Thái dương to, nên phải quan sát kỹ nhiều mặt mới chữa, nếu không thì (khí ít không giữ được huyết nên) huyết dễ thoát, và (ngược lại, nguyên) khí cũng dễ bị bại hoại.

- Người Thái dương thì nhiều dương ít âm, cần cẩn thận khi điều hòa nó (do âm ít nên) không được làm âm thoát mà vẫn phải tả dương (thừa) (song tả quá độ) khí dương liên tục bị hao thoát thì dễ gây nên chứng cuồng. Nếu làm âm dương đều bị hao thoát thì sẽ chết đột ngột, hoặc bất tỉnh nhân sự.

- Người Thiếu dương thì nhiều dương mà ít âm, họ có kinh nhỏ mà lạc to (kinh ở trong - âm ít nên nhỏ, lạc ở ngoài - dương nhiều nên to), do huyết mạch ở trong mà khí lạc ở ngoài (nên trong điều trị) phải làm cho âm thực lên và (tả) làm cho dương hư đi. Nếu chỉ tả lạc mạch (dương) thôi thì sẽ làm khí dương hao tán và tiết nhanh ra ngoài làm trung khí không đủ, bệnh sẽ khó khỏi.

- Người âm dương hòa bình thì khí âm dương của họ điều hòa, huyết mạch cũng điều hòa. (Trong điều trị) cần chẩn rõ sự thay đổi của âm dương, sự thịnh suy của chính khí, tà khí dựa vào diện mạo và biểu hiện, định xem là hữu dư hay bất túc, nếu thịnh thì tả nó, nếu không thực không hư thì lấy kinh có bệnh để chữa.

* Những điều ghi ở trên là nguyên tắc điều trị để điều hòa âm dương và tiêu chuẩn để phân biệt 5 loại hình người.

Hoàng đế: Những người thuộc 5 loại hình thái ở trên, vốn không cùng ở với nhau, nay mới gặp nhau, không rõ hành vi của nhau hàng ngày ra sao, vậy làm thế nào để biết họ?

Thiếu Sư: Nhiều người thuộc loại hình người trên, thường là không biết rõ đặc điểm của 5 loại hình thái (âm dương) này. Người ta đã quy nạp (từ ngũ âm, ngũ hành) thành 25 loại hình người, nhưng (5 loại) hình thái (âm dương) này không liệt kê vào 25 loại hình trên. Hình thái của 5 loại hình này không giống mọi người nói chung.

Hoàng đế: Phâm biệt 5 loại hình này như thế nào?

Thiếu Sư: Người Thái âm có da đen như màu quả dâu, ý niệm không phát triển, ti tiện, hai mắt cứ nhìn xuống đất, như là người rất cao lớn phải cúi xuống để nhìn, tuy không còi xương nhưng khớp gối cong queo không thể đứng thẳng, đó là đặc điểm bên ngoài của người Thái âm.

- Người Thiếu âm có diện mạo như rất thanh cao, nhưng hành động lại mờ ám (tâm địa) thâm hiểm, ngoan cố, khi đứng thì cuồng động không yên, biểu thị trạng thái ác tà. Khi đi như cúi rạp người xuống. Đó là đặc điểm bên ngoài của người Thiếu âm.

- Người thuộc hình Thái dương, dáng điệu của họ rất kiêu căng tự đắc, họ thường nẩy ngực, co bụng, và cũng thường co gối lại, nhưng gối thì lại như gấp lại, đó là đặc điểm bên ngoài của của người Thái dương.

- Người Thiếu dương có dáng đứng ngẩng cao đầu, đi thì lắc lư, hai tay hai khuỷu thường đưa ra sau lưng, đó là đặc điểm bên ngoài của người Thiếu dương.

- Người âm dương bình hòa có diện mạo ung dung tự đắc, dễ thích ứng với hoàn cảnh, thái độ cung kính nghiêm túc, đối đãi với người mềm mỏng hòa nhã, ánh mắt hiền từ, miệng nói tay làm, làm việc phân minh không hỗn loạn, mọi người gọi họ là quân tử, đó là đặc điểm bên ngoài của người âm dương bình hòa.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 08, 2017, 03:24:00 PM
Quyển thứ mười một

73. Sử dụng tùy tài năng (Quan năng)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Thảo luận tương đối toàn diện về các vấn đề thao tác lâm sàng, lý luận châm cứu.

Người làm châm cứu phải biết quan hệ giữa hình và khí, các vị trí trên dưới trong ngoài, phải trái, Âm Dương, khí huyết nhiều ít của các đường kinh, sự vận hành thuận nghịch của chúng, tình hình giao hội của các kinh, nắm đặc trưng của 5 loại huyệt, tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp, ảnh hưởng đến Âm Dương ngũ hành, tứ thời, 8 phong đối với tạng phủ, kết hợp với khí sắc ở mặt để có chẩn đoán chính xác, rồi dựa vào biểu lý, trên dưới, hàn nhiệt, hư thực, để chọn huyệt, thủ pháp châm hay cứu - nếu là hàn ở lý, trung khí sa xuống và âm dương đều hư thì phải cứu - đề xuất thao tác và tác dụng của phép "Bổ tất dụng phương, tả tất dụng viên".

Còn nêu nguyên tắc hướng dẫn học trò, dựa vào năng lực, tính tình, chí hướng đặc điểm của họ để có nội dung về kỹ thuật, giao việc để phát huy tài năng của họ. Nên đề của thiên này là sử dụng tùy tài năng.

Hoàng Đế: Ta đã nghe Thầy nói về vai trò của cửu châm, nghe đã nhiều rồi, sự phong phú của nó thật là không biết bao nhiêu mà kể, ta đã suy rộng ra để thảo luận nhiều lần và đã quy nạp được về 1 mối, nay ta xin đọc lại cho thầy nghe, thầy nghe cho rõ về cái lý của nó, nếu có điều gì sai, xin thầy bảo cho ta biết, ta cũng xin được thầy tu chính cho đúng với cái đạo của nó, làm thế nào để truyền lại cho đời sau mà không có điều gì hại. Khi nào ta tìm được những người có cái chí thông hiểu như chúng ta thì ta mới truyền dạy cho, còn nếu như không có được những người như vậy thì thôi, không dạy.

Kỳ Bá: Thần xin kính nghe về cái đạo của bậc thánh nhân.

Hoàng đế: Nguyên lý dùng châm để chữa là phải biết chỗ hình và khí (bị bệnh) hoặc trên dưới, phải trái, Âm Dương, biểu lý, hoặc khí huyết nhiều ít (trong 12 kinh), hoặc vận hành thuận nghịch, những nơi để cho khí xuất từ lý ra biểu, nhập từ biểu vào lý, mới có thể kết hợp các mặt để có căn cứ chữa bệnh. Biết cách giải các chỗ kết tụ, biết cách bổ hư tả thực (thủ thuật), biết sự phân bố ở trên dưới của huyệt, nhất là tác dụng của 4 hải (khí hải, huyết hải, tủy hải và thủy cốc hải). Phải xem xét kỹ nơi bị bệnh, trạng thái hàn nhiệt vãng lai, hoặc lao lực mệt nhọc (cần suy nghĩ chu đáo vì nơi bệnh tà xâm nhập vào chỗ), tình hình khí huyết chảy đến khác nhau. Cho nên phải xem kỹ bệnh tình (hư thực, sự tuần hoàn của khí) để điều (hòa) khí (mạch), hiểu rõ tình hình của (khí huyết vận hành ở trong) 12 kinh mạch, (trong) các nhánh lạc mạch ở trái phải, và nắm chắc các nơi hội họp của chúng.

 Nếu có hàn nhiệt tranh nhau (Âm Dương bất hòa), cần xem toàn diện để có thể điều hòa lại, nếu chứng hư và thực gần giống nhau thì cần biết sự thịnh suy của kinh mạch, để dùng phép sơ thông kinh mạch. Nếu tà khí xâm nhập vào đại lạc bên trái, gây bệnh bên phải, nhập bên phải gây bệnh bên trái, phải biết tà khí ở bộ vị nào để áp dụng phép châm mậu thích: đau bên phải châm bên trái, đau bên trái châm bên phải, cần hiểu rõ đặc điểm bệnh thuộc thuận hay thuộc nghịch để biết có thể hay không thể chữa được (thuận thì chữa được, nghịch thì không chữa được).

 Khi Âm Dương (của tạng phủ và kinh mạch) không có thiên lệch (điều hòa) mà chỉ do khí hậu có thể ảnh hưởng đến tạng phủ, nên phải nắm mối quan hệ giữa thời tiết và bệnh tật. Nghiên cứu rõ phần gốc ngọn của bệnh, quan sát trạng thái hàn nhiệt của nó, biết được (quy luật truyền bệnh và) nơi bệnh tà chiếm lĩnh thì sẽ vạn lần châm, vạn lần thành công (không làm bệnh nặng thêm). Biết tính năng của 9 loại kim, biết tận dụng chúng trong chữa bệnh, thì càng phát huy tốt nguyên lý dùng châm để chữa bệnh.

 Cần biết rõ vai trò của ngũ du huyệt (tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợp), việc châm nhanh hay chậm và (khí mạch vận hành qua lại) gấp duỗi ra vào đều có điều lý (quy luật). Nói đến 2 mặt Âm Dương (của người) cũng là nói đến 5 hành, 5 tạng 6 phủ (hợp với Âm Dương ngũ hành) và hoạt động của chúng. Khí hậu 4 mùa và 8 hướng thổi của gió đều có Âm Dương (và ảnh hưởng đến nội tạng). Mặt cũng có các vị trí ứng với Âm Dương, hợp ở minh đường và mỗi vị trí có mầu sắc riêng, được dùng làm chuẩn để chẩn bệnh của 5 tạng 6 phủ. Từ chỗ đau, kết hợp với sắc của mặt ở trên, dưới, phải, trái, ta có thể biết được bệnh thuộc hàn hay nhiệt và ở kinh nào. Lại xem nóng, lạnh, hoạt, sáp của da để biết bệnh của nó. Do cơ hoành ở trên có (Tâm Phế), dưới (Tỳ, Can, Thận), nên có thể biết chỗ khí của chúng bị bệnh. Mới đầu cần nắm đường đi của kinh, chọn huyệt ít mà tinh để chữa, hoặc châm hơi sâu, lưu kim để chính khí từ từ vào trong (tăng sức chống khí tà). Nếu sốt cao ở phần trên, cần dùng cách châm để đẩy xuống (để dẫn hỏa tiết xuống dưới), nếu bệnh tà phát triển từ dưới lên, cần dẫn tà đi xuống để trừ nó đi. Chú ý vị trí đau trước kia, và lấy huyệt chỗ đó trước (để chữa gốc). Nếu đại hàn ở ngoài, cần dùng cách lưu kim để bổ (làm nóng) nó. Nếu hàn tà vào sâu ở trong, lấy huyệt hợp để tả trừ nó đi. Nếu không thích ứng với châm thì dùng cứu. Nếu khí ở trên bất túc, dùng cách "đẩy để dương lên" (bổ khí hư ở trên). Nếu khí ở dưới bất túc, dùng cách "bất nhi tòng chi" lưu kim thuận khí để tích (bổ hư) ở dưới. Nếu Âm Dương đều hư, nên cứu (không châm). Nếu quyết mà rất lạnh hoặc cơ ở cạnh xương mà lõm xuống, hoặc lạnh quá hai đầu gối, thì cứu huyệt Túc tam lý. Lại nếu ở nơi âm lạc đi qua (hàn tà xâm nhập) và lưu ở đó, hoặc hàn tà từ lạc mạch vào trong (nội tạng) thì dùng phép "đẩy để hành khí" để khu hàn tà. Nếu kinh lõm xuống thì phải cứu, nếu lạc kết chắc lại và căng thì cũng dùng cứu để chữa. Nếu không rõ chỗ có bệnh, lầy huyệt Thân mạch, Chiếu hải (mạch kiều), nam thì lấy Dương kiều làm kinh, nữ thì lấy Âm kiều làm kinh, xong nếu lấy nhầm nam Âm nữ Dương thì tác dụng trái ngược, đó là điều cấm. Lý luận chính của phép châm là như vậy.

 Muốn học tập cách châm, cần nắm phương pháp và nguyên tắc ở trên, phải quan sát thiên quang (quy luật vận hành của ngày, tháng, tuần, giờ), ở dưới cần kết hợp với bát chính (4 lập, 2 phân, 2 chí = lập Xuân, lập Hạ, lập Thu, lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí, Đông chí) để tránh các tà khác của 4 mùa, và báo cho mọi nhà biết. Làm sao có thể biết được thực phong, hư phong (thực phong là phong bình thường, hư phong là phong khác thường gây bệnh), để đề phòng trước khỏi bị tà tấn công. Nếu bị mưa gió trái mùa hoặc tuế khí (khí của năm) không đủ gây bệnh, người thầy thuốc cấp cứu không (nắm được thay đổi của khí hậu và chữa kịp thời) được, sẽ làm bệnh tình nguy cấp thêm. Cho nên cần biết sự thích ứng và cấm kỵ của thiên thời trước rồi mới nói đến thao tác châm.

 Phép châm từ học thuyết xưa, được ngày nay kiểm tra, muốn quan sát được sự biến hóa ở bên trong cơ thể khi nó không thể hiện ra ngoài thì phải có lý luận, như vậy mới có thể truyền cho đời sau được. Với hiện tượng sinh lý bệnh lý phức tạp, không dễ phát hiện, thường chỉ người thầy giỏi mới chẩn đoán được, và đó là chỗ khác với người thường của họ. Vì tuy dinh vệ khí huyết vận hành ở trong cơ thể, không nhìn rõ được, hoặc vận động của thần khí như có như không (song họ vẫn chẩn đoán được đúng).

 Khi tà (thừa hư) xâm phạm cơ thể, có triệu chứng gai rét sợ lạnh rõ. Chính tà (lao động ra mồ hôi bị gió) xâm nhập cơ thể (tác hại của nó rất nhỏ), chỉ có sắc khí hơi thay đổi, thân thể không có gì khác như có bệnh mà lại như không có bệnh, như là bệnh tà đã bị trừ, lại như vẫn còn ở trong, như là có dấu ấn của bệnh, lại như không có, khó biết rõ bệnh tình cụ thể. Cho nên người thầy giỏi sẽ lấy khí của nó để chữa khi bệnh mới mắc, thầy thuốc kém thường đợi bệnh đã thành mới chữa, lúc đó hình thể đã suy mòn (nên khó chữa).

 Người dùng châm để chữa bệnh (muốn chữa khỏi bệnh) cần biết chỗ (vận hành) của khí, giữ cửa ra vào của nó (huyệt), cần biết cách điều khí, cần biết chỗ bổ, tả, ý nghĩa thủ pháp châm nhanh, chậm, và huyệt nào cần dùng để chữa bệnh đang có.

 Khi tả, phải dùng thủ pháp tròn (lưu lợi), ấn vào nơi đau và vê kim. như vậy tà khí mới lui và khôi phục lại chính khí. Khi châm thì châm vào nhanh nhưng rút kim ra chậm hơn, được vậy tà khí mới theo kim mà xuất ra ngoài. Nếu châm bằng phép nghênh đón để tả (khi châm kim vào) làm căng da để (đưa kim qua da) đón khí đến (rồi làm thủ pháp), khi rút kim cần long to lỗ kim, để tà khí có chỗ ra cho nhanh.

 Nếu châm bổ, ta phải có thái độ đoan chính, thung dung, trước hết phải xoa nắn bên ngoài da, làm thế nào để tà khí ở nơi nào đó trên kinh mạch sẵn sàng ở vùng của huyệt đã chọn, tay trái ta xoa trên huyệt vị, tay phải ta ấn lên da, ta xoay nhẹ mũi kim rồi châm kim vào 1 cách chậm chậm, thủ thuật và dáng điệu phải đoan chính, phải an tĩnh, phải kiên tâm không nóng nảy, lưu kim 1 cách nhẹ nhàng, đợi khi nào mạch khí điều hòa, ta mới rút kim thật nhanh, sau khi rút kim xong, ta dùng tay xoa nhẹ trên da và đồng thời bịt kín vết kim lại, nhờ vậy mà chân khí mới giữ lại được.

 Tóm lại, phần quan trọng của việc dụng châm là không nên quên, không nên lơ là đến vấn đề thần khí của người bệnh.

* Chú ý: Ở đây ghi tả tất dụng viên, bổ tất dụng phương, là nói về thủ pháp khi bổ tả. Còn ở Tố Vấn thiên "Bát chính thần minh" ghi tả tất dụng phương, bổ tất dụng viên là nói đến cách dùng bổ tả.

Lôi Công: Làm thế nào để biết là người nào có chí đáng truyền nghề, người nào không đáng truyền nghề?

Hoàng đế: (Khi truyền học thuật) nói chung phải tìm người thích hợp, tùy năng lực (đặc điểm) phân công việc cho họ, để thấy rõ được họ có làm được hay không.

Lôi Công: Làm thế nào để chọn người?

Hoàng đế: Cách chọn người, sử dụng người thường là: Người mắt tinh  ta dạy cho họ cách nhìn về sắc diện, người nào có đôi tai thính, ta dạy cho họ cách nghe âm thanh, người nào nói năng lưu loát, phát âm rõ ràng, ta dạy cho họ cách ăn nói để truyền đạt ý tưởng, người nào ăn nói hòa hoãn, dáng điệu yên tĩnh, thủ pháp khéo léo và nhận xét tinh tường, ta dạy cho họ thao tác châm và cứu, để điều lý khí huyết , điều hòa các trạng thái thuận nghịch, quan sát Âm Dương kiêm nắm vững phương pháp điều trị, chọn người có động tác tay nhẹ nhàng mềm dẻo, tính tình hòa nhã để xoa bóp dẫn khí (làm khí huyết lưu thông), chọn người có tính đố kỵ, lời nói cay nghiệt, coi thường người khác để chữa bệnh tâm thần phù phép (Chúc do khoa), chọn người móng tay sắc khỏe như lang độc, khi làm hay sát thương người khác để xoa bóp các tích tụ cứng chắc, hoặc các chứng tý lâu năm. Mỗi người có 1 khả năng, phát huy tài năng của họ đúng vào các loại phương pháp chữa bệnh, thì họ sẽ nổi tiếng. Ngược lại dùng người không đúng, không những họ làm việc không có kết quả, mà thầy cũng mất cả danh tiếng.

 * Cho nên nói: gặp đúng người thì truyền nghề, nếu không gặp đúng người thì thôi không truyền nghề nữa. Với người thế tay như lang độc, có thể thử ấn mai rùa, đặt rùa ở dưới khí cụ rồi ấn ở trên, đến ngày thứ 50 thì rùa chết. Còn nếu rùa vẫn sống là thế tay đã hòa hoãn (đã tập tốt).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 10, 2017, 03:33:08 PM
74. Chẩn đoán bệnh qua da phía trụ (Luận tật chẩn xích)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về từ các hiện tượng ở da phía trụ cánh tay (nhuận, bóng, khô, cơ teo, cơ yếu, nóng lạnh) có thể đoán ra tình hình thịnh suy của tạng phủ. Nếu nó hoạt (trơn) và trạch (bóng) là bệnh phong. Nếu sáp là phong tý. Nếu thô, khô như vẩy cá là bệnh ẩm, nếu nóng mạch thịnh thao động là bệnh ôn. Nếu nóng bỏng tay, nóng trước lạnh sau là bệnh hàn nhiệt v.v...Lại nêu muốn dùng chẩn đoán da ở phía trụ, cần kết hợp với vọng chẩn, mạch chẩn và tình hình nóng lạnh ở khuỷu, cánh tay, gan tay. Ngoài ra còn nói đến xem hướng đi của mạch máu ở mắt, số lượng mạch xuất hiện ở đồng tử, để đoán bệnh ở kinh nào, hoặc dự đoán thời gian chết. Về mạch của người có thai, bệnh trẻ con dễ chữa, khó chữa, chứng chết, các bệnh dễ mắc do phục tà 4 mùa vv...cũng được giới thiệu kỹ càng.

Hoàng đế: Làm thế nào để không cần qua vọng sắc, chẩn mạch, mà chỉ qua kiểm tra da ở phía trụ tay mà xác định được là bệnh gì, để từ biểu hiện bên ngoài của thân thể mà đoán thay đổi bên trong của nó?

Kỳ Bá: Quan sát kỹ trạng thái hoãn cấp, to nhỏ, hoạt sáp, cơ săn chắc hoặc mềm yếu của da phía trụ tay, có thể xác định được loại bệnh gì.

- Nhìn mắt thấy mi mọng lên như vừa ngủ dậy, mạch cổ đập, có lúc ho, ấn tay, chân có lõm xuống là phù do phong thủy.

- Da tay phía trụ hoạt, nhuận, sáng là do phong. Cơ tay phía trụ yếu, không có sức, chỉ nằm yên, cơ teo (Âm Dương suy bại) là bệnh hàn nhiệt (hư hao) khó chữa. Da tay phía trụ hoạt (trơn) nhờn bóng là bệnh phong. Da tay phía trụ sáp (do huyết ít, không nuôi được da) là phong tý. Da khô sáp như vẩy cá khô là bệnh tật ẩm (thủy thấp tràn ra chân tay). Da tay phía trụ rất nóng, mạch thịnh thao động là bệnh ôn, mạch thịnh hoạt là bệnh tà đã bị đuổi ra (sắp khỏi). Da tay phía trụ hàn, mạch nhỏ là tiết tả hoặc thiểu khí. Da tay phía trụ sờ nóng, rát tay, trước nóng sau lạnh là bệnh hàn nhiệt. Da tay phía trụ lạnh trước, dần dần chuyển nóng cũng là bệnh hàn nhiệt (sốt rét).

- Chỉ có da ở khuỷu nóng là nhiệt từ thắt lưng trở lên. Chỉ da ở tay nóng là nhiệt từ thắt lưng trở xuống. Chỉ da ở phía trước khuỷu nóng là nhiệt ở trước ngực, chỉ da ở khuỷu tay nóng là nhiệt ở lưng vai (mặt ngoài cánh tay). Chỉ giữa cánh tay nóng là thắt lưng bụng nhiệt. Chỉ da dưới bờ sau khuỷu 3 tấc - 4 tấc nóng là trong ruột có giun. Da gan tay nóng là trong bụng có nhiệt, da gan tay lạnh là trong bụng có hàn. Thịt trắng ở mô cái có mạch xanh nổi lên là Vị hàn.

- Da tay phía trụ nóng rát, mạch nhân nghinh to, là đang mất máu. Da tay phía trụ chắc to, mạch lại rất nhỏ là thiểu khí, nếu lại thêm bồn chồn khó chịu trong ngực thì chết ngay.

- Mắt đỏ là bệnh tại Tâm, mắt trắng là bệnh tại Phế, mắt xanh là bệnh tại Can, mắt vàng là bệnh tại Tỳ, mắt đen là bệnh tại Thận. Nếu mắt vàng và có màu lờ mờ khác, bệnh ở trong ngực (khí 5 tạng từ ngực bắt đầu ra, nhưng có gốc là Tỳ, vì vậy có màu vàng (Tỳ) và màu lờ mờ khác (ngực).

- Trong chẩn đoán đau mắt, khi mạch máu đi từ trên xuống dưới là bệnh Thái dương chân (vì Thái dương chân là lưới ở trên mắt), nếu mạch máu đi từ dưới lên là bệnh ở Dương minh (vì Dương minh là lưới ở dưới mắt), nếu mạch máu đi từ ngoài vào trong là bệnh Thiếu dương (vì Thiếu dương đi ở khóe ngoài mắt).

- Trong chẩn đoán bệnh hàn nhiệt, nếu trong mắt có một mạch máu đi từ trên xuống đồng tử thì 1 năm sẽ chết; nếu thấy 1,5 mạch máu thì 1,5 năm sẽ chết; nếu thấy 2 mạch máu thì 2 năm sẽ chết; nếu thấy 3 mạch máu thì 3 năm sẽ chết.

- Trong chẩn đoán đau, sâu răng, xem đường Dương minh chân tay, nếu chỉ nơi đi qua của kinh mạch có nhiệt, nếu đó là kinh trái thì bên trái có nhiệt, nếu đó là kinh phải thì bên phải có nhiệt, nếu đó là ở trên thì trên có nhiệt, nếu đó là ở dưới thì ở dưới có nhiệt.

- Trong chẩn đoán vị trí của huyết mạch, nếu màu đỏ nhiều là nhiệt nhiều, nếu xanh nhiều là đau nhiều, nếu đen nhiều là bệnh tý lâu ngày, nếu có cả đỏ nhiều, đen nhiều, xanh nhiều là bệnh hàn nhiệt.

* [Bì bộ luận Tố Vấn có đoạn như thế này và chú thích như sau: Da ở trên dọc đường kinh Dương minh đều thuộc kinh Dương minh, nếu có nổi mạch lạc, là của kinh Dương minh. Màu xanh (do huyết mạch lưu thông không tốt, huyết không hành được) thì đau, màu đen (do khí huyết tắc lại) là cửu tý, màu trắng (do Tâm hỏa suy không làm máu vận hành bình thường để duy trì thể nhiệt) là hàn, màu vàng đỏ (do thấp nhiệt chứng nhau ở trong) là nhiệt. Năm màu đều xuất hiện là bệnh có cả hàn và nhiệt].

- Người mình đau có màu da hơi vàng, men răng vàng, móng tay vàng là bệnh vàng da. Thích nằm nghỉ, nước tiểu vàng đỏ, mạch tiểu, sáp là không muốn ăn (là thuộc âm, âm đản là Tỳ hư, nên không muốn ăn).

- Người có bệnh nếu có mạch cổ tay to hoặc nhỏ như mạch nhân nghinh, phù hoặc trầm cũng thế (nghĩa là cả 4 mùa đều giống nhau) là bệnh khó chữa (vì mạch cổ tay mùa Thu phù, mùa Đông trầm, mạch nhân nghinh mùa Xuân nhỏ, mùa Hè to. Nay trong 4 mùa cả hai mạch đều như nhau là mạch đã bị loạn).

- Nữ có mạch Thiếu âm (Tâm) đập mạnh là có mang (Tâm chủ huyết mạch, có mang không có kinh, máu trong mạch sẽ nhiều, nên mạch Thiếu âm tâm đập mạnh và hoạt).

- Anh nhi có bệnh (tuổi vườn trẻ), nếu lông tóc đều dựng ngược là bệnh chết (do huyết khô không nuôi được lông tóc, nên chúng khô như cỏ khô). Khi ở vành tai (nhĩ gian) có mạch xanh nổi lên là đau do gân cơ co rút (tai thuộc Thiếu dương chân, xanh là màu của Can, xanh chủ đau, Can chủ cân, nên đau do gân co rút). Thiên kim phương: Trích nặn máu mạch xanh phía trên huyệt Hoàn cốt (sau tai).

- Còn trong phân có chất không tiêu đỏ (các sách Mạch kinh, Giáp ất kinh viết xanh) là ỉa chảy do rối loạn tiêu hóa, nếu thêm mạch nhỏ chân tay lạnh thì khó chưa (hư hàn).

* Trong sự biến hóa của khí hậu 4 mùa, thì hàn nhiệt thay đổi nhau, trùng Âm tất Dương, trùng Dương tất Âm (thịnh cực tất suy, vật cực tất biến), do Âm chủ hàn, Dương chủ nhiệt, nên hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn, và hàn sinh nhiệt, nhiệt sinh hàn. Đó là sự tiến hóa của Âm Dương vậy.

 - Vào mùa Đông bị hàn làm tổn thương thì mùa Xuân dễ bị bệnh ôn. Vào mùa Xuân bị phong làm tổn thương thì mùa Hè dễ sinh chứng ỉa chảy, lị. Vào mùa Hè bị thử làm tổn thương thì mùa Thu dễ sinh bệnh ngược (sốt rét). Vào mùa Thu bị táo làm tổn thương thì mùa Đông dễ sinh ho. Đó là tình hình bệnh bốn mùa.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 14, 2017, 04:26:46 PM
75. Thích tiết chân tà

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về bệnh của 5 tiết và cách châm 5 tiết (Trấn ai, Phát mông, Khứ trảo, Triệt y, Giải hoặc). Tác dụng của 5 tà (Trì ung, Dung đai, Giáp tiểu, Hàn, Nhiệt) và cách châm 5 tà. Từ quá trình dẫn truyền của bệnh tà khi vào cơ thể, nói lên nguồn gốc và công năng của chân khí. Phân tích rõ tà khí, chính khí, và quan hệ giữa bệnh với chân khí, chính khí, tà khí. Dẫn chứng khi kinh mạch bị bệnh, chính khí không thắng được tà khí, tà khí lưu lại và gây các chứng đau, ung, sốt rét, ngứa, tý, tê, cốt tý, co quắp, liệt 1/2 người, dò xương, cân lưu, trường lưu, cốt thư, nhục thư vv...Để nói nên chúng có quan hệ với sự mạnh yếu của tác nhân bên ngoài, sự thịnh suy của chân khí trong người với các triệu chứng khác nhau và vị trí bệnh cũng khác. Nhưng không ngoài: Chân khí quá suy, khí tà quá thắng.

Hoàng đế: Cách châm có 5 tiết, nội dung của chúng là gì?

Kỳ Bá: Đó là Trấn ai, Phát mông, Khứ trảo, Triệt y, Giải hoặc. Cách châm Trấn ai là châm phần kinh mạch ở biểu nông để chữa bệnh dương (phần vào tạng phủ kinh mạch ở sâu - lý). Cách châm Phát mông là châm huyệt du của các phủ để chữa bệnh ở 6 phủ. Cách châm Khứ chảo là châm khớp và lạc, nhánh của lạc. Cách châm Triệt y là châm các huyệt có tác dụng kỳ diệu (kỳ huyệt) ở phần dương. Cách châm Giải hoặc là biết điều hòa Âm Dương, bổ hư tả thực, làm cho hư thực thay đổi chỗ cho nhau để lấy lại trạng thái cân bằng.

Hoàng đế: Châm Trấn ai là châm phần kinh mạch ở nông để chữa bệnh Dương là thế nào?

Kỳ Bá: Cách châm Trấn ai, khí dương đại nghịch, nên đầy ở ngực, làm cho ngực rất bồn chồn, sôi sục và thở co vai rụt cổ hoặc đại khí (tông khí) nghịch lên làm ngồi phục để thở (lên cơn hen), sợ khói bụi, hầu họng như bị tắc không thở được. Nói Trấn ai là nói tác dụng của cách châm này nhanh như phủi bụi vậy.

Hoàng đế: Cần lấy huyệt gì?

Kỳ Bá: Lấy Thiên dung (Thái dương tay), huyệt để chữa hầu tý, tắc họng, nấc, ho.

Hoàng đế: Khi ho rũ rưỡi, người co lại, ngực đau thì lấy huyệt gì?

Kỳ Bá:Lấy Liêm tuyền (mạch Nhâm), chữa lưỡi rụt, lưỡi mềm, chảy nước bọt, nuốt khó, ho.

Hoàng đế: Cách châm hai huyệt đó như thế nào?

Kỳ Bá: Châm Thiên dung, thời gian lưu kim không dài quá người đi bộ 1 lý đường, châm Liêm tuyền, nếu mặt biến sắc thì thôi châm.

Hoàng đế: Tốt.

- Ý nghĩa cách châm Phát mông là gì? khi dùng nó để chữa người điếc, người mù thì dùng huyệt gì trong các huyệt du của phủ ở các kinh dương để chữa bệnh của phủ? xin nói rõ.

Kỳ Bá: Tác dụng của cách châm Phát mông rất nhanh như thần minh, nhanh không lường được. Châm để chữa mắt không nhìn thấy, tai không nghe thấy thì phải châm vào giữa trưa các huyết Thính cung (Tiểu trường) làm cho cảm giác đắc khí theo đường kinh vào đến con ngươi rồi còn phải làm cho tai nghe thấy âm thanh.

Hoàng đế: Nghe được âm thanh là thế nào?

Kỳ Bá: Đó là châm vào huyệt rồi, bảo người bệnh tự bịt kín 2 lỗ mũi, đồng thời ngậm kín miệng lại, làm cho người bệnh không nói được, như vậy trong tai có thể nghe thấy âm thanh của châm. Làm được kỹ thuật này là đạt trình độ "thần minh" đó.

Hoàng đế: Cách châm Khứ chảo là châm khớp và lạc nhánh. Xin nói rõ thêm.

Kỳ Bá: Khớp sống là khớp lớn của chi dưới là trụ cột để đi đứng, dương vật có chức năng tạo hóa (sinh dục), để giao cấu phóng tinh, là đường đi của tinh dịch. Cho nên, ăn uống thất thường, vui giận quá độ, tân dịch trào vào trong và chảy lưu ở bìu dái, đường máu (Giáp ất kinh, Nội kinh, Thái tố ghi là đường nước) không thông (ở đây hiểu là đường nước) bìu dái to dần, làm các khớp vận động kém, cúi người khó khăn, đi lại không thuận lợi. Bệnh do nước ngưng tụ ở trong, khí đi lên không được, khí đi xuống và đái ra cũng không được. Dùng phi châm, hoặc biếm thạch để lấy nước ra, đó là cách chữa Khứ chảo nghĩa là cắt bỏ phần móng thừa ra ngoài, ở đây là lấy đi phần nước không có đường ra.

Hoàng đế: Xin nói rõ về cách châm Triệt y là châm các huyệt có tác dụng tốt các phần dương, không có vị trí nhất định.

Kỳ Bá: Đó là khí dương (của phủ, tà) có thừa, khí âm của (tạng, chân khí) bất túc. Khí Âm bất túc thì sinh nhiệt ở bên trong, khí Dương thừa thì nhiệt ở bên ngoài, nhiệt và tà ở trong đánh nhau, như trong lòng có than lửa vậy, ngoài nóng lắm sợ đắp thêm vào người, sợ mặc quần áo, sợ cả nằm chiếu, sợ cả người đến gần. Tấu lý lại đóng, mồ hôi không ra được, nhiệt chứng làm môi khô lưỡi rộp, thịt khô, họng táo, rất khát nên ăn uống bất kể thứ tốt xấu gì để giải cái khát. Lúc đó chữa bằng huyệt Thiên phủ (Thái âm tay) Đại trữ (Thái dương bàng quang) [Thiên phủ chữa bạo đơn nội nghịch, Can Phế tương bác, huyết dật tỵ khẩu, Đại trữ chữa sốt rét, thương hàn hãn bất xuất, ngực có uất, sốt) châm mỗi huyệt 3 lần, rồi châm Trung lữ du (kinh Bàng quang) chữa kinh giật, hàn nhiệt, uốn ván] để khử nhiệt, bổ Thái âm tay chân [Tỳ chủ cốc khí, Phế chủ khí (trời) hai khí âm này thiếu, thì dương sẽ thừa thắng, khí âm không tiết thì thành bệnh nhiệt, nên phải tả dương thịnh, bổ 2 âm, dương khứ, 2 âm thực, khí âm thông) cho ra mồ hôi, khi nhiệt đã thoái hư, mồ hôi giảm dần bệnh sẽ khỏi, hiệu quả rất nhanh như cởi áo (Triệt y) vậy.

Hoàng đế: Cách châm Giải hoặc, là phải biết tường tận tác dụng điều hòa Âm Dương, tả thực, bổ hư, làm thực hư thế vị nhau, như vậy làm thế nào để giải được mê hoặc?

[i]Kỳ Bá:[/i] Người bị đại phong tà, huyết mạch tất có hiện tượng thiên hư, hư tức là thiếu, thực là thừa, tứ chi thiên nhẹ, thiên nặng không co duỗi được, thân thể khó xoay trở, nằm phủ phục, có thể (mất tri giác) không phân biệt được Đông, Tây, Nam, Bắc, triệu chứng thì lúc ở trên, lúc ở dưới, biến hóa nhiều, nặng thì làm người ta điên đảo cả lên. Khi chữa chủ yếu tả cái thừa, bổ cái thiếu, làm cho Âm Dương được bình phục. Hiệu quả của cách châm này nhanh như là giải trừ sự mê muội của người ta vậy.

Hoàng đế: Thế nào là 5 khí tà?

Kỳ Bá:

1. Bệnh phù thũng do khí úng trệ.

2. Bệnh đại tà (ở giữa cơ phu).

3. Bệnh tiểu tà (chính khí hư).

4. Bệnh có nhiệt.

5. Bệnh có hàn.

Hoàng đế: Châm chữa 5 tà như thế nào?

Kỳ Bá: Châm chữa 5 bệnh khí tà, chủ yếu là 5 chương (5 điểm):

 * Đơn nhiệt thì tiêu diệt, thũng tích thì làm tiêu tán, tý hàn thì làm ấm (để hành khí huyết), tiểu tà (chính hư) thì bổ dương khí, bệnh đại tà thì phải trừ khử. Thao tác cụ thể như sau:

- Châm tà úng trệ (khi nó đang vượng) thì không nên tả mà phải làm (từ từ) hư, thay đổi tập quán. Khi chưa làm mủ thì xoa day chỗ cứng để làm cho nó mềm ra, hoặc đạo dẫn xoa bóp làm khí nó hành, để làm cho khí tà rời chỗ ở, không cho nó cố định ở chỗ dương, có hiện tượng có ứ trệ và có quan hệ với ung độc thì phải tả các huyệt có kinh đó (lấy huyệt theo kinh khi châm đại tà (thực), cần bắt khí tà từ to chuyển thành nhỏ (kinh) nghĩa là dùng phép tả để trừ hiện tượng hữu dư của khí tà là nó từ thực thành hư. (Trong quá trình thao tác), cần công mạnh đúng nơi tà khí lưu thông và nơi có bệnh. Qua cơ nhục quan sát mạch sắc của tà khí, chính khí, không thể (lấy tà nhỏ làm tà to) làm thay đổi bộ mặt thật của bệnh. Tà thực thường ở (3 kinh) kinh dương, nên châm ở giữa các cơ của kinh dương là chính.

- Khi châm tiểu tà (chính khí hư) cần làm cho chính khí tăng dần, bổ cái thiếu để nó chuyển thành đủ, lúc đó khí tà sẽ không gây tác hại được. (Sau khi bổ) phải xem nơi bệnh (hư thực) đón nó nơi ranh giới của khí hành (tả kinh thiên thịnh) như vậy khí chân ở xa gần hoàn toàn có thể phục hồi. Khí tà không có chỗ hở nào để vào người, nên không thể từ ngoài vào để lưu hành ở trong được. Và như vậy khí tà vô hình dung đã tự tiêu tan. Khi chữa châm vào giữa các cơ là chính.

- Khi châm tà nhiệt, phải làm cho khí tà phát ra (để từ nóng sốt chuyển sang mát). Khi tà ra rồi thì không quay lại (sốt) nữa, và không còn bệnh. Khi châm cần khai thông chỗ uất trệ của kinh lạc, mở cửa (lỗ châm) làm khí tà có đường ra, bệnh sẽ khỏi.

- Khi châm tà hàn, phải làm nó nóng dần lên (để hành khí huyết), vê kim từ từ làm cho thần khí ấm, dinh vệ điều hòa, rút kim ra phải bịt lỗ kim, làm khí bổ lưu ở dinh vệ không bị tiết ra, hư thực sẽ được điều hòa, chân khí có thể được củng cố.

Hoàng đế: Dùng các kim gì để chữa bệnh cho 5 tà?

Kỳ Bá: Châm tà úng trệ dùng phi châm, châm đại tà dùng phong châm (ba cạnh), châm tiểu tà dùng viên lợi châm, châm tà nhiệt dùng sàm châm, châm tà hàn dùng hào châm. Dùng phi châm như mũi kiếm để tháo mủ - dùng phong châm để chích nặn máu.

- Thần xin nói về vấn đề ý nghĩa của giải luận: Đây là 1 lập luận nhằm nói về tương ứng với Thiên Địa, về phối hợp với tứ thời, con người cùng tham với Thiên Địa, cho nên con người có thể dựa vào đó để hiểu thế nào là giải kết. Ví dụ: nơi ẩm thấp, có nguồn suối ngầm thì bên trên nó sẽ sinh ra cỏ lau (vi), cỏ bồ. Dựa vào cái lý đó, ta có thể suy để biết quan hệ giữa hình khí của con người nhiều hay ít. Sự biến hóa của Âm Dương được biểu hiện bằng hàn thử. Khi khí trời nóng nhiệt (chưng cất thủy khí) để lên trên hóa thành mưa, đó là khí ở bên trên, vì thế gốc và rễ thường kém thủy phân. Con người khi bị nhiệt chưng cất, cũng sẽ làm cho Dương khí thoát ra ngoài, khiến cho bì phu bị lơi lỏng, làm cho tấu lý khai, huyết khí suy giảm, mồ hôi ra nhiều, làm cho bì phu bị nhuận trơn. Khi khí trời lạnh lẽo sẽ làm cho đất và nước bị lạnh đóng băng. Dương khí của con người bị tiềm phục lại bên trong, bì phu bị bít kín, tấu lý đóng kín, mồ hôi không xuất ra được, huyết khí cứng rắn, cơ nhục cứng và rít sáp. Lúc bấy giờ, kẻ giỏi chèo thuyền trên nước, cũng không thể chèo thuyền trên băng, kẻ giỏi đào đất, cũng không thể đào phá được những lớp băng dưới đất, người khéo dụng châm, cũng không thể trị được chứng tứ chi bị quyết nghịch. Nay nếu huyết mạch ngưng kết đóng cứng lại, sự đi đứng thật khó khăn, không thể nhất thời làm cho mềm dịu trở lại được. Vì vậy, muốn đi thuyền thì phải đợi lúc ấm trời, lúc đó băng giá đã tan, nước chảy thì thuyền mới đi được. Ở đất cũng như vậy, lúc đó mới khoan đất được. Ở người cũng vậy (phải khí dương vận hành làm) huyết mạch lưu thông mới dùng châm để chữa được, và chữa quyết nghịch phải dùng ấm nóng để điều hòa kinh mạch, điều hòa những nơi hội của khớp (bàn tay, bàn chân, nách, khuỷu, gáy, cột sống), phải cứu trước, khí ấm đã thông rồi thì huyết mạch sẽ hành. Sau đó xem bệnh tình, nếu huyết trong mạch hoạt lợi, có thể dùng cách châm để bình (vì khí dương ở ngoài nông - làm cho hồi phục), nếu mạch cứng khẩn (là tà thịnh) thì dùng cách công phá để làm tan kết tụ, khi khí quyết nghịch đi xuống thì thôi châm. Cách dựa vào nơi tà tụ lại để châm đuổi nó đi như trên gọi là Giải kết.

* Phạm vi ứng dụng của châm là điều khí. Khí của thức ăn tích ở Vị là nguồn gốc khí dinh dưỡng, khí bảo vệ, hai khí này tuần hoàn theo đường đi của chúng. Tông khí lưu ở khí hải (trong ngực), phần đi xuống thì xuống tận khí giai (Khí xung Túc dương minh vị), phần đi lên thì lên đường thở. Vì vậy nếu quyết nghịch ở chân (do hàn khí) thì tông khí không xuống được, huyết ở trong mạch bị ngưng trệ ở trong (không hành) thì phải dùng lửa (cứu) để điều hòa khí huyết, lúc này không dùng châm.

 Dùng châm phải xem xét trạng thái hư thực của kinh lạc trước, sờ dọc theo kinh, day ấn da búng huyệt, xem sự ứng động của nó ra sao, sau đó mới dùng cách châm thích đáng để dẫn khí đi xuống. Khí mạch của 6 kinh (tay chân) điều hòa là không có bệnh, nếu có bệnh, cũng dễ tự khỏi. Khi một kinh có trên thực, dưới hư không thông là có khí thịnh ở lạc ngang chèn vào kinh chính, làm cho nó không thông. Muốn chữa phải tả (nhánh lạc ngang) và đây cũng là cách Giải kết.

 - Nếu trên hàn dưới nhiệt (từ thắt lưng trở lên = trên, từ thắt lưng trở xuống = dưới) thì châm kinh Thái dương ở gáy trước (Đại trữ, Thiên trụ - Cảnh Nhạc) lưu kim lâu, châm rồi cứu ở gáy và vai (hai huyệt trên), khi thấy hơi ấm xuống hợp với ở dưới thì thôi châm, đó là cách đẩy phần dưới bằng dùng phần trên của kinh (thôi nhi thượng chi).

 - Nếu trên nhiệt dưới hàn, xem kỹ ở phần dưới của kinh, nếu mạch hư lõm xuống thì bổ mạch đó, làm cho khí dương ở trên đi xuống mới thôi. Đó là cách châm dẫn nhiệt ở trên xuống (dẫn nhi hạ chi).

 - Bệnh mà khắp thân mình sốt cao, nhiệt làm cho cuồng, thấy bậy bạ, nghe bậy bạ, nói bậy bạ, trước hết nên quan sát để thấy và biết được những nơi bệnh thuộc lạc mạch hay kinh mạch của túc Dương minh vị, nếu hư, ta thủ huyệt để châm bổ, nếu như có huyết lạc thực thì ta thủ huyệt để châm tả loại trừ huyết ứ trệ. Nhân lúc bệnh nhân đang nằm ngửa, người thầy thuốc nên đứng trước đầu của bệnh nhân, dùng 4 ngón tay (2 ngón cái và 2 ngón trỏ) đè lên vùng huyệt Nhân nghinh và Đại nghinh nơi cổ trước của bệnh nhân, giữ yên như vậy cho lâu, chúng ta nên vừa day vừa ấn, kéo dài xuống đến giữa vùng huyệt Khuyết bồn, xong ta lại tiếp tục làm trở lại như cũ, làm cho đến khi nào nhiệt lui thì ngưng. Đây được gọi là phương pháp "Thôi nhi tán chi" (đẩy lui và làm thoát ra vậy).

Hoàng đế: Trong một kinh mạch có thể sinh 10 loại chứng bệnh, hoặc đau, hoặc ung, hoặc nóng sốt, hoặc  lạnh, hoặc ngứa, hoặc tý, hoặc tê, hoặc không còn cảm giác, vv...Biến hóa của nó là vô cùng, tại sao?

Kỳ Bá: Đó là do khí tà gây nên.

Hoàng đế: Ta nghe nói khí gồm có chính khí, có chân khí, có tà khí, thế nào là chân khí?

Kỳ Bá: Chân khí là khí tiếp thu của trời hợp với tinh khí của thức ăn để bổ xung toàn thân (chân khí giả, sở thụ ư thiên, dữ cốc khí tịnh nhi sung thân dã) (Cảnh Nhạc: các tên khác của chân khí là nguyên khí, dương khí ở phần dương, âm khí ở phần âm, khí bảo vệ ở biểu, khí dinh dưỡng ở lý, sung khí ở Tỳ, vị khí ở Vị, tông khí ở thượng tiêu, trung khí ở trung tiêu. Khí của nguyên âm nguyên dương ở hạ tiêu). Chính khí (khí hậu bình thường mùa Xuân gió đông, mùa Hạ gió nam) cũng là khí chính phong, nó đến từ 1 phương đúng của thời tiết 4 mùa, nó không phải là thực phong tàn phá ác liệt, cũng không phải là hư phong (mùa Xuân gió nam, Hạ gió đông trái với thời tiết bình thường). Khí tà là hư phong, tấn công kiểu kẻ cướp, tà vào sâu trong người, không thể tự động tiêu đi. Còn chính phong, chính khí vào người thì ở nông, không tiếp xúc với chân khí rồi tự  thì tự tiêu tan, vì sức tấn công yếu không thể thắng nổi chân khí nên bị tiêu tan.

 - Hư tà tấn công cơ thể, có hiện tượng sợ lạnh gai rét, dựng chân lông, mở tấu lý. Khi mà vào sâu, nếu vào xương sẽ thành cốt tý, vào gân sẽ thành co gân, nếu vào mạch sẽ thành ung nhọt do huyết tắc không thông, nếu vào bắp thịt thì đánh nhau với vệ khí, nếu Dương thắng thì nhiệt, Âm thắng thì hàn, hàn thì chân khí bị đuổi đi thành dương hư, lúc đó khí hàn sẽ tụ ở trong da (bì phu chi gian). Nếu khí tà phát ra ngoài, làm mở tấu lý, lay động lông, tà khí đi lại sẽ thành ngứa. Nếu lưu lại sẽ thành tý, nếu vệ khí không hành thì sẽ thành tê dại.

 - Hư tà chỉ ở 1/2 người, khi nó vào sâu dần và lưu ở trong dinh vệ thì làm dinh vệ hơi suy đi, tức là chân khí bị đuổi ra, lúc đó tà khí độc chiếm nên gây 1/2 thân liệt. Nếu tà ở nông, ở biểu, có thể do huyết mạch không hòa nên gây 1/2 người đau.

 - Hư tà vào sâu trong người, hàn tà và khí nhiệt đánh nhau, nếu đóng ở lâu đó, hàn thắng nhiệt thì thì xương đau, cơ khô. Nhiệt thắng hàn thì thịt sẽ mục nát thành mủ, nếu vào đến xương sẽ thành sâu xương (viêm xương). Có bệnh bắt đầu từ gân trước, gân co không duỗi được, nếu tà khí cứ lưu lại không lui, sẽ thành cân lựu (u gân - do khí huyết tích tụ gây nên). Nếu tà khí có chỗ kết, khí nó hướng qui vào trong, khí bảo vệ tại chỗ cũng bị lưu tích ở trong không thể vận hành, làm tân dịch cũng lưu lâu (ở giữa trường vị) tích lại thành trường lựu (u ruột). Còn một loại tích lâu vài năm mới thành hình, mới đầu sờ thấy mềm, biểu hiện đã có tà khí uất kết, lâu ngày khí qui dần vào trong là tân dịch ứ lại không hành, sau đó lại bị tà khí làm tổn thương, làm huyết khí ngưng kết ngày 1 tăng, tích dần lại và thành lựu tích (u mạn tính). Tay sờ thấy cứng, cứng đó là tà khí kết lại đã vào xương, là hiện tượng xương bị tà khí xâm nhập, xương và tà khí kết hợp, nên kết ngày một tăng to và thành cốt thư. Nếu tà khí kết ở bắp thịt, tông khí đi ở trong đến đây và cũng bị lưu kết lại với tà khí, nếu có nóng là thành mủ và nếu chỗ đau không nóng là nhục thư.

 - Trên đây là một số trạng thái bệnh của tà khí, biến hóa không lường được, bệnh phát ra tuy không có vị trí nhất định nhưng đều có một tên bệnh (tông khí là đại khí là khí của Dương minh - Trương Cảnh Nhạc).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 19, 2017, 05:17:24 AM
76. Tuần hành của khí bảo vệ (Vệ khí hành)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về 50 chu kỳ tuần hoàn trong ngày đêm của khí bảo vệ. Lúc bình minh khi mở mắt ra thì khí bảo vệ từ đầu mắt lên đầu dọc Thái dương tay chân, Thiếu dương tay chân và Dương minh tay chân để đi lên đi xuống. Ở chân nó giao với phần Âm, qua Thiếu âm chân lên mắt. Như vậy mỗi ngày đêm đi 25 chu kỳ. Từ lúc ngủ đến bình minh nó bắt đầu từ kinh Thận và theo tuần tự Thận, Tâm, Phế, Can, Tỳ, rồi về Thận, một đêm đi 25 chu kỳ. Ngày và đêm đi tất cả 50 chu kỳ. Khí bảo vệ là mẹ của 100 bệnh, nó tuần hoàn ở toàn thân và phân ra Âm Dương ngày đêm, theo một quy luật nhất định, nếu châm đúng giờ thì hiệu quả cao hơn. Khi châm cần đợi khí, nếu bệnh ở 3 kinh Dương, thì đợi khí bảo vệ tuần hành đến phần Dương hãy châm, nếu bệnh ở 3 kinh Âm, thì đợi khí bảo vệ tuần hành đến phần Âm hãy châm, để nâng hiệu quả lên, gọi là: "cẩn hậu kỳ thời, bệnh khả dữ thời, thất thời phản hậu, bách bệnh bất trừ".

Hoàng đế: Sự tuần hoàn ra vào (ở Âm Dương biểu lý) của khí bảo vệ như thế nào?

Kỳ Bá: Một năm có 12 tháng, một ngày có 12 giờ, giờ Tý giờ Ngọ (ở Nam Bắc) là đường kinh (thẳng) giờ Mão Dậu (ở Đông Tây) là đường (ngang) vĩ. Vận hành trên trời của 28 sá (sao) là mỗi phương (Đông, Tây, Nam, Bắc) có 7 sá (sao), 4 phương cộng 28 sá (sao). (Từ Đông sang Tây là) từ Phòng sá đến Ngang sá là vĩ (từ Bắc đến Nam là) từ Hư sá sang Sương sá là kinh. Cho nên từ Phòng sá (của phương Đông sang phương Nam) đến Tất sá (của phương Tây gồm 14 sá) thuộc Dương. Từ Ngưỡng sá (của phương Tây qua phương Bắc) đến Tâm sá (của phương Đông, gồm 14 sá) thuộc Âm. Dương là ngày, Âm là đêm. Cho nên khí bảo vệ (tuần hoàn cũng có quy luật như sự vận hành của các thiên thể) trong một ngày đêm tuần hành 50 chu kỳ, ngày 25 chu kỳ ở phần dương, 25 chu kỳ ở phần âm trong các tạng.

Giải thích: 28 sá là từ thiên văn cổ, là nơi các thiên thể quay vòng, chia làm 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc, mỗi phương có 7 sá tức 7 sao. Đông có: Giác, Cung, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Bắc có: Đẩu, Ngưu, nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích. Tây có: Khuê, Lâu, Vị, Ngang, Tất, Chủy, Sâm. Nam có: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Chương, Dực, Chẩn. Theo 12 địa can, từ Đông qua Nam đến Tây (14 sá) là giờ Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân (ban ngày) là Dương, nên "Phòng đến Tất là Dương". Từ Tây qua Bắc đế Đông (14 sá) theo địa chi là Dậu, Tuất, Hợi, Tý, Sửu, Dần (đêm) là Âm, nên "Ngang đến Tâm là Âm".

Từ Ngang đến Tâm là Âm

(https://i.imgur.com/0sjph0K.jpg)

Từ Phòng đến Tất là Dương

 - Lúc bình minh là Âm tận. Lúc đó khí bảo vệ (đã đi hết 25 vòng ở tạng và) đi ra ngoài ở đầu mắt. Khi mở mắt, khí bảo vệ lên đầu, qua gáy, xuống Thái dương chân, dọc lưng xuống đến đầu ngón út (chí âm). Các nhánh đi khác của nó, là từ đuôi mắt xuống theo Thái dương tay đến phía ngoài đầu ngón tay út (Thiếu trạch). Từ đuôi mắt dọc theo Thiếu dương chân đến đầu ngón chân 4 (Khiếu âm), phần ở trên dọc theo Thiếu dương tay đến đầu ngón tay nhẫn (Quan xung), nhánh tách lên trước tai hợp ở hãm mạch (giữa Thừa khấp và Giáp xa), đổ vào Dương minh chân đi xuống, đến mu chân vào khoảng giữa các ngón chân (Lệ đoài), nhánh đi khác, từ dưới tai xuống Dương minh tay vào đầu ngón cái (đáng lẽ phải ghi là đầu ngón trỏ) rồi vào trong gan tay. Nhánh theo đường Dương minh chân đến bàn chân, vào gan chân, rồi lên mắt cá trong, đi theo phần Âm rồi lại hợp ở đầu mắt và bắt đầu lại, như vậy là hết một chu kỳ.

 (Ở gan chân lên mắt cá trong là Thiếu âm chân, nhánh của Thiếu âm chân là mạch Kiểu, mạch Kiểu thuộc khóe mắt trong, nên trở về hợp ở đầu mắt - Cảnh Nhạc).

 (Khí bảo vệ vận hành có quy luật, nên) khi mặt trời đi một sá thì khí bảo vệ đi một chu kỳ 8/10 (ngày đêm 28 sá thì có 50 chu kỳ của khí bảo vệ. Vậy vệ khí đi 1 sá thì sẽ là 50:28 = 1,785 chu kỳ), mặt trời đi 2 sá, vệ khí đi 3,6 chu kỳ, mặt trời đi 3 sá, vệ khí đi 5,4 chu kỳ, mặt trời đi 4 sá, vệ khí đi 7,2 chu kỳ, mặt trời đi 5 sá, vệ khí đi 9 chu kỳ, mặt trời đi 6 sá, vệ khí đi 10,8 chu kỳ, mặt trời đi 7 sá, vệ khí đi 12,6 chu kỳ, mặt trời đi 14 sá, vệ khí đi 25,2 chu kỳ (vì đây tính tròn 1,8 nên là 25,2 chu kỳ, đáng ra chỉ có 1.785), (ban ngày vệ khí đi) hết phần dương thì sẽ chuyển vào phần âm (và bắt đầu vào đêm) phần âm tiếp thu khí bảo vệ. Nó bắt đầu từ Thiếu âm chân, đổ vào Thận, từ Thận đổ vào Tâm, từ Tâm đổ vào Phế, từ Phế đổ vào Can, từ Can đổ vào Tỳ, từ Tỳ đổ vào Thận thành một chu kỳ. Cho nên đêm (mặt trời) đi một sá thì vệ khí đi ở trong âm cũng đi 1,8 chu kỳ. Trong một đêm cũng như trong một ngày vệ khí đi 25 chu kỳ ở trong âm và lại hợp lại ở đầu mắt. Ở phần âm, phần dương, một ngày một đêm (vận hành cộng 50 chu kỳ) thêm 0,4; nếu chỉ tính ở phần âm chỉ thêm 0,2 chu kỳ. Số tính có thừa vì người lúc ngủ lúc thức sớm muộn không giống nhau vậy.

Hoàng đế: Khí vệ tuần hành trong người, lúc ở trên lúc ở dưới tùy theo giờ, làm thế nào để đợi khí mà châm được?

Bá Cao: Sự phân độ tuần hành của thiên thể có nhiều có ít, thời gian của ngày có dài có ngắn, bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm có khác nhau theo quy luật 4 mùa. Song thường lấy lúc mặt trời mọc làm chuẩn, lúc đêm tận làm bắt đầu (vệ khí bắt đầu ở phần dương). Trong  1 ngày 1 đêm, đồng hồ nước báo 100 khắc, vậy 25 khắc là thời gian 1/2 ngày, và tuần hành không ngừng như vậy (cho nên ban ngày dài hay ngắn) khi mặt trời lặn là lúc hết ban ngày (dương tận). Thường lấy thời gian dài ngắn của đoạn mặt trời mọc, mặt trời lặn để làm chuẩn (cho Âm Dương ngày và đêm) và tiến hành châm cho đúng lúc. Nếu châm đúng lúc (khí hành), có thể đoán chính xác ngày khỏi bệnh, nếu không nắm đúng thời cơ châm, hoặc vi phạm khí hậu 4 mùa (châm sai), thì không chữa được các bệnh. Cho nên nói: châm chữa chứng thực, cần châm thế đến của nó (đón khí nó đến để đoạt khí làm cho nó hư đi), châm chữa chứng hư, cần châm thế đi của nó (theo thế đi của nó để bổ xung cho nó). Nghĩa là khí cảm ứng với châm còn hay mất, cần phân biệt rõ trạng thái hư thực để châm cho thích hợp. Đợi khí đến để châm đúng lúc là gập thời (nghĩa là) bệnh ở 3 kinh dương, cần đợi khi khí đến phần dương mới châm.

 - Đồng hồ nước điểm 1 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 2 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 3 khắc, vệ khí ở Dương minh (chân tay). Điểm 4 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 5 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 7 khắc, vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 8 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 9 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 10 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 11 khắc, ở Dương minh (tay chân). Điểm 12 khắc vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 13 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 14 khắc vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 15 khắc, vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 16 khắc, vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 17 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 18 khắc, vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 19 khắc, vệ khí ở Dương minh (chân tay). Điểm 20 khắc vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 21 khắc vệ khí ở Thái dương (tay chân). Điểm 22 khắc vệ khí ở Thiếu dương (tay chân). Điểm 23 khắc vệ khí ở Dương minh (tay chân). Điểm 24 khắc vệ khí vào phần âm (Thiếu âm chân). Điểm 25 khắc, vệ khí ở Thái dương (tay chân). Đó là tình hình tuần hoàn của vệ khí trong 1/2 ngày. Từ Phòng sá đến Tất sá có 14 sá, đồng hồ nước điểm 50 khắc, ngày đi được 1/2 thời gian và 1/2 đường. Mỗi lúc mặt trời lặn đi được 1 sá, cần phải dùng thời gian 3 khắc 4/7 (100 khắc/28 = 3,5714 khắc). Trong thiên Đại yếu có viết: thường mặt trời đi 1 sá trong 28 sá, vệ khí (bắt đầu đi) ở Thái dương (tay chân). Cho nên, quá trình mặt trời đi 1 sá, vệ khí đi hết 3 kinh dương và vào phần âm (Thiếu âm chân), vận hành như vậy không ngừng, cùng quy luật với biến hóa của tự nhiên. Tuy rất phức tạp, nhưng vẫn có một mối không rối loạn là đi hết thì bắt đầu đi lại và qua một ngày đêm 100 khắc, vệ khí hoàn thành quá trình tuần hoàn 50 chu kỳ toàn thân của mình.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 20, 2017, 10:02:22 PM
77. Chín cung tám phong (Cửu cung bát phong)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về "Thái nhất" trong một năm, cả trung ương 8 phương thành 9 cung, chúng đổi chỗ theo tuần tự, mỗi phương lại chia 3 thời tiết, cộng tiết ước 46 ngày, 8 phương toàn năm cộng 24 tiết, 365 ngày quá một tý. Ngày mà khí "Thái nhất" chuyển từ cung này sang cung khác cũng là ngày đổi tiết trời, như tình hình biến đổi khí tượng của ngày đó và mấy ngày trước sau đó, và có thể dựa vào đó để dự báo mưa gió có thuận hòa hay không, có sinh ra hạn lụt không, và sẽ lưu hành những bệnh gì. 8 loại gió thổi từ 8 phương, nếu hợp với thời tiết sẽ thúc đẩy vạn vật sinh trưởng, nếu trái thời tiết là hư phong, sẽ khu sát vạn vật. 8 hư phong có 8 tên khác nhau, tác động vào cơ thể cũng ở vị trí khác nhau. Ở người hư gặp năm hư thì bị hư phong, 3 hư đánh nhau thì rất là nguy hiểm.

(https://s20.postimg.org/hql0bs4fx/linhkhu2.jpg)

Giải thích:

1. Vị trí của 9 cung sắp xếp theo vị trí bát quái. Vị trí 8 quái sắp xếp theo 5 hành, xếp ở 8 phương vị.

Ví dụ:

Khảm = Thủy = Bắc

Ly = Hỏa = Nam

Trấn = Mộc = Đông

Tốn = Mộc = Đông nam

Đoài = Kim = Tây

Càn = Kim = Tây bắc

Không = Thổ = Tây nam

Cấn = Thổ = Đông bắc

 Tiết trời xếp vào 9 cung, căn cứ vào Âm Dương ngũ hành. Ví dụ: Trấn: Đông, Xuân phân; Ly: Nam, Hạ chí; Đoài: Tây, Thu phân; Khảm: Bắc, Đông chí...; Chủ yếu cần hiểu ý nghĩa đại biểu thời tiết của bát quái. Thông thường để vị trí Tây bên trái, Đông bên phải, Bắc ở trên, Nam ở dưới, ở đây để ngược lại nhưng tác dụng của 2 cách đặt như nhau.

2. Trong mỗi cung có 1 số, đó là số của 9 cung trong Lạc thư. Số đó đại biểu cho sự thay đổi khí hậu 4 mùa, sự mạnh yếu của ánh nắng mặt trời mỗi ngày. Thứ tự sắp xếp các số tuần tự theo vị trí Đông, Nam, Tây, Bắc là 3, 9, 7, 1. Chúng căn cứ vào số Âm 2 (chẵn), số Dương 1 (lẻ), Âm Dương hợp với nhau 1 + 2 = 3. Từ 3 nhân với số của phương trước mình lên để phân cho 4 phương. Cung Trấn phương Đông là 3, vậy cung Ly, phương Nam là 3 x 3 = 9. Cung Đoài phương Tây là 3 x 9 = 27 (7). Cung Khảm phương Bắc là 3 x 7 = 21 (1). Cung Trấn phương Đông, tiếp tục là 3 x 1 = 3. Những phương chính diện là số lẻ (kỳ số, số dương), tượng trưng cho ban ngày, mặt trời lên ở phương Đông, lặn ở phương Tây. Số lớn bé còn đại biểu cho sự biến hóa nóng lạnh của 4 mùa, và sự mạnh yếu của ánh sáng mặt trời. Như phương Đông cung Trấn là Xuân phân, số 3 đại biểu xuân ôn, vạn vật sinh trưởng, khí dương từ ôn phát triển lên nhiệt cực, chuyển đến phương Nam Ly số 9, Hạ chí, tức mùa Hạ nhiệt, vạn vật trưởng thành. Nhiệt cực chuyển thành mát, sang phương Tây cung Đoài, số 7 Thu phân, tức thu lương (mát) thì vạn vật thu lại. Mát chuyển thành hàn cực rồi chuyển sang phương Bắc, cung Khảm số 1 - Đông chí, tức đông hàn và vạn vật chết. Hàn cực lại chuyển thành ôn hòa, lại chuyển sang phương Đông, cung Trấn số 3 - Xuân phân. Lấy nhiệt độ trong một ngày, phương Đông số 3, đại biểu mặt trời mọc, lúc ánh nắng tăng dần, chuyển đến số 9 giữa trưa, ánh nắng mạnh nhất, lại chuyển sang số 7 ánh nắng giảm dần, rồi sang số 1 ánh nắng yếu nhất.

 Trong 4 góc của hình là số chẵn, số Âm, số chuyển động của nó được ngược với số dương. Bắt đầu từ số 2 tức góc Tây nam cung Khôn, 2 x 2 = 4 chuyển sang góc Đông nam cung Tốn, 2 x 4 = 8, chuyển sang góc Đông bắc cung Cấn, 2 x 8 = 16 (6) chuyển sang góc Tây bắc cung Càn, 2 x 6 = 12 (2) lại chuyển về góc Tây nam cung Khôn. Số Âm lớn nhỏ, chuyển hướng trước sau cũng đại biểu 4 mùa và sự mạnh yếu của nhiệt độ trong ngày, nói lên rét đi thì nắng lại, ngày qua thì đêm đến. Trong hình ở giữa là số 5, là nguồn gốc mọi biến hóa của các số. 2 là số khởi đầu của Âm Dương 2 x 5 = 10, các số chéo nhau của 4 phương chính cộng lại cũng thành 10, 9 + 1 = 10, 2 + 8 = 10, 7 + 3 = 10, 6 + 4 = 10. Nếu lấy số 3 x 5 = 15 thì cộng các hàng ngang, dọc của 9 cung đều là 15. 4 + 3 + 8 = 15, 2 + 7 + 6 +15, 4 + 9 + 2 = 15, 3 + 5 + 7 = 15, 8 + 1 + 6 = 15.

 Đồng thời lấy các số chẵn 2, 4, 6, 8 cộng lại và nhân với 5 là 100; các số lẻ 3, 9, 7, 1 cộng lại và nhân với 5 cũng là 100. Với cách nhân, cộng như trên của các số có thể có những kết quả như nhau, vì vậy cách phân bố số ở 9 cung suy ra 4 mặt, 8 phương, nhưng có quan hệ nhất định.

- "Thái nhất" thường bắt đầu ở ngày Đông chí, ở cung Diệp trập (chủ 3 tiết Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn) 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (ngày thứ 47) (đã sang Lập xuân và) sang cung Thiên lưu (Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Xuân phân) sang cung Thương môn (lập xuân, Thanh minh, Cốc vũ) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập hạ và) sang cung Âm lạc (Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng) cộng 45 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Hạ chí) sang cung Thiên (Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập thu và) sang cung Huyền ủy (Lập thu, Xử thử, Bách lộ) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Thu phân) sang cung Thượng quả (Thu phân, Hàn lộ, Sương giáng) cộng 46 ngày. Đến ngày thứ 2 sau khi hết cung trên (là sang Lập đông) sang cung Tân lạc (Lập đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết) cộng 45 ngày. Hết 45 ngày này tiếp ngày sau là sang Đông chí và cung Diệp trập.

Bị chú: "Thái nhất " là Bắc thìn. Theo "Tây chí" sao Trung cung, sao Thiên cực có một vị sáng là nơi ở của sao "Thái nhất" là chí tuân, "nhất" là bắt đầu của vạn vật, là chúa tể của thiên nguyên. Thái nhất là Bắc cực, Bắc cực ở giữa không vận động, sao Đẩu vận động ở ngoài. Sao Đẩu có 7 sao, phụ 1 sao, từ 1 đến 4 là Khôi, từ 5 đến 7 là Tiêu, từ Đẩu đến Tiêu là 12 thìn (giờ), lấy nó để xây dựng thời tiết, vì sao Bắc cực là thống soái nên gọi là Bắc thìn.

 Cung Khảm gọi là Diệp trập, mùa Đông chủ trập trùng, đến lúc nhất dương của sơ Đông, côn trùng bắt đầu hoạt động nên gọi là Diệp trập. Cung Cấn là Thiên lưu. Cấn là núi, không động. Cung Trấn là Thương môn, thương là tàng. Khí của trời đất vạn vật thu tàng, đến xuân phương, đông bắt đầu chấn động mở cửa gọi là Thương môn. Cung Tốn là Âm lạc ở Đông nam, chủ tháng 4. Cung Ly gọi là cung Thiên (trời), ngày tháng đẹp có mặt trời mặt trăng, chủ ly minh ở trên. Cung Khôn là Huyền ủy, Khôn là đất, huyền là du viễn, ủy là tùy thuận, đại đạo du viễn tuần tự là Huyền ủy. Cung Đoài là Thương quả, đến Thu, vạn vật thu lại thành quả. Cung Càn là Tân lạc, tân là bắt đầu, Lạc thư ghi 9 lý 1, 1 là bắt đầu của Càn.

- Thái nhất là ngày du hành, ngày đó được lấy làm Đông chí, nằm ở cung Diệp trập, được làm chuẩn để tính chỗ của các ngày khác. Phải bắt đầu từ số 1 (cung Khảm, ở phương vị đó) lần lượt du hành 9 ngày, cuối cùng lại trở lại cung Khảm số 1, và cứ tuần hoàn không ngừng như vậy.

 (Ngày 1 là Đông chí, 2 là Lập thu, 3 là Xuân phân, 4 là Lập hạ, 5 là Trung ương, 6 là Lập đông, 7 là Thu phân, 8 là Lập xuân, 9 là Hạ chí, rồi trở lại 1 là Đông chí (Mã Nguyên Đài). Nếu ở cung Diệp trập, ngày 1 đến Thiên lưu, ngày 2 đế Thương môn, ngày 3 đến Âm lạc, ngày 4 đến Thiên cung, ngày 6 đến Huyền ủy, ngày 7 đến Thương quả, ngày 8 đến Tân lạc, ngày 9 đến Diệp trập. Nếu ở cung Thiên lưu thì sau 9 ngày  lại trở về Thiên lưu).

 Ngày Thái nhất chuyển cung, trời ứng bằng có gió mưa, ngày đó nếu có gió mưa là lành, được mùa, dân yên, ít bệnh. Nếu trước mấy ngày có nhiều mưa (mưa nhiều, hoặc sau mấy ngày mới có mưa gió thì sẽ hạn nhiều (do khí thiếu). Ngày Thái nhất, tại Đông chí, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại quân. Ngày Thái nhất, tại Xuân phân nếu khí hậu có biến đổi, chiếm tại tể tướng. Ngày Thái nhất, tại trung cung, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại sứ. Ngày Thái nhất tại Thu phân, nếu khí hậu có biến đổi chiếm tại Bách binh (dân). Ngày khí hậu có biến đổi là ngày mà Thái nhất ở cung nào đó trong năm cung trên, có gió mạnh thổi gẫy cành đổ cây, gió thồi bay cát sỏi. Dựa vào hiện tượng đó, có thể từ phương mà Thái nhất đóng để đoán thân phận sang hèn của người bệnh. Đồng thời còn lấy hướng gió làm căn cứ trong mỗi mùa, gió từ nơi nó ở thổi đến (đúng hướng) là thực phong, chủ khí sinh trưởng, nuôi dưỡng vạn vật. Nếu hướng gió trong mùa ngược lại là hư phong, có thể làm tổn thương thân thể, chủ khí sát, chủ hại (cũng gọi là tà phong). Người ta phải tìm cách tránh phong đó. Thánh thần (người biết phép dưỡng sinh) biết sâu sắc sự cần thiết phải tránh hư tà tặc phong của mỗi ngày như tránh mũi tên hòn đạn vậy, như vậy khí tà không vào người được.

 (Thực phong: mùa Xuân gió đông, mùa Hạ gió nam, mùa Thu gió tây, mùa Đông gió bắc. Nguyệt kiến ở Tý, gió bắc là khí mùa Đông; nguyệt kiến ở Mão, gió đông, là khí mùa Xuân; nguyện kiến ở Ngọ, gió nam là khí mùa hè; nguyệt kiến ở Dậu, gió tây là gió mùa Thu. Bốn ngẫu 12 kiến, các khí đều có riêng, đúng với mắt chính của nó, chính khí vượng là thực phong - Cảnh Nhạc).

 (Hư phong: Tháng 11 (Tý) có gió nồm (Nam ở Ngọ hỏa phản thắng thủy), TÝ Ngọ tương xung (Kim thắng Mộc), tháng 2 (Mão), có gió Tây (Tây ở Dậu) Mão Dậu tương xung. Thái nhất (tháng 5) ở Ngọ có gió bấc (thủy thắng hỏa). Thái nhất ở Dậu (tháng tám) có gió Đông (Mộc phản thắng Kim).

 Nếu Thái nhất (nguyệt kiến) ở cung giữa, thì nằm ở giữa và hướng cả được về 8 phương, để đoán các ảnh hưởng xấu và tốt của nó đối với vạn vật. Gió từ Nam lại (Hỏa - Ly) gọi là Đại nhược phong (gió to yếu). Nếu vào người thì ở trong nó vào ở Tâm, ở ngoài nó lưu ở mạch, khí của nó chủ bệnh nhiệt. Gió từ Tây nam (Thổ - Khôn) lại gọi là Mưu phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Tỳ, ở ngoài nó lưu ở cơ. Khí của nó chủ bệnh suy nhược. Gió từ Tây (Kim - Đoài) lại gọi là Cương phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Phế, ở ngoài nó lưu vào da, khí của nó chủ bệnh táo (khô). Gió từ Tây bắc (Kim - Càn) lại gọi là Triết phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Tiểu trường, ở ngoài nó lưu vào mạch Thái dương tay, nếu mạch tuyệt thì khí của nó tràn ra, mạch tắc thì khí của nó kết lại không thông, dễ chết đột ngột. Gió từ Bắc lại (Thủy - Khảm) gọi là Đại cương phong, nếu nó vào người thì ở trong nó vào Thận, ở ngoài nó lưu vào xương và gân của vai, cột sống, khí của nó chủ bệnh hàn. Gió từ Đông bắc lại (Thổ - Cấn) gọi là Hung phong (gió dữ), nếu nó vào người thì ở trong nó vào Đại trường, ở ngoài lưu ở dưới hai sườn, nách và các khớp chi thể. Gió từ Đông lại (Mộc - Trấn) gọi là Anh nhi phong (gió trẻ em) nếu vào người thì ở trong nó vào Can, ở ngoài nó lưu vào chỗ bắp cơ (cân hữu), khí của nó chủ bệnh thấp toàn thân. Gió từ Đông nam (Mộc - Tốn) lạ gọi là Nhược phong, nếu vào người thì ở trong nó vào Vị, ngoài lưu ở thịt, khí của nó chủ bệnh người nặng nề. 8 loại gió này đều đi từ hướng hư đến, đều thuộc hư phong, nên có thể gây bệnh. 3 cái hư đánh nhau (chính khí hư, khí của 5 hư, hư phong) dễ gây bạo bệnh, chết đột ngột. 2 thực 1 hư đánh nhau, bệnh thường là mệt mỏi, hàn nhiệt. Ở nơi mưa ẩm thấp (bị khí của thủy thấp) thường gây bệnh nuy. Nên nói người khôn ngoan tránh tặc phong như tránh mũi tên hòn đạn vậy. Trong 3 hư mà tà phong thiên thắng thì hay dễ bị hôn mê hay liệt 1/2 người.

 (Tây bắc là Càn - Kim. Kim chủ giết người, Chiết phong - phong vào người nam ứng ở trên, Bắc ứng ở dưới nên Tiểu trường bị bệnh. Tiểu trường là Bính, là phủ hỏa của hạ tiêu, Càn - Hợi hư phong, nó xung với Tỵ. Tây là Kim, tính là sát, Bắc là thủy, tính là tàn bạo, khí Tây bắc hợp nên bạo tử.

 Đông bắc là Cấn - Thổ. Vì âm khí chưa thoái, dương khí chưa thịnh nên gọi là hung phong, vào người nó ở Đại trường - Đại trường là Canh phủ Kim ở hạ tiêu, Cấn Dần là hư phong, nó xung với Thân, Vùng dưới hai nách, sườn ở gần chỗ của Đại trường, khớp tay là nơi đi qua của Dương minh tay. Đông nam là Tốn - Mộc, vì khí hoãn nên gió yếu gọi là Nhược phong. Ở Đông nam thì thấp thắng, Mộc vũ Thổ, nếu phong vào người thì sẽ vào Vị, lưu ở bắp thịt và gây thân thể nặng nề.

Bảng tóm tắt 8 hư phong và vị trí bị bệnh

(https://i.imgur.com/PzqE7Ul.jpg)


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 22, 2017, 03:13:39 PM
Quyển thứ mười hai

78. Bàn về 9 loại kim (Cửu châm luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về hình dáng, tính năng khác nhau của 9 loại kim và nêu chỉ định trong điều trị của chúng, từ quan điểm trời đất tương ứng, dùng các hình tượng nói lên quan hệ giữa người và tự nhiên. Nêu rõ trong điều trị cần dựa cả vào bệnh tình lẫn hoàn cảnh sinh sống, để dùng cả châm, cứu, đạo dẫn, biếm thạch lẫn thuốc ngọt, xoa bóp, uống rượu mới mong đạt kết quả tốt. Và cũng cần dựa vào công năng, thuộc tính của ngũ tạng và quan hệ tương đối về Âm Dương của thân thể, quy luật phát bệnh của Âm Dương, khí huyết để thuyết minh rõ khi chữa bệnh bằng châm cần kết hợp với các mặt tạng phủ Âm Dương.

Hoàng đế: Nguyên lý của 9 loại kim từ đâu mà có, tại sao lại có tên khác nhau?

Kỳ bá: 9 loại kim là con số lớn của đất trời. Con số bắt đầu bằng 1 kết thúc bằng 9 (mỗi loại kim đều kết hợp với hiện tượng tự nhiên). Kim thứ nhất lấy phép của trời, kim thứ hai lấy phép của đất, kim thứ ba lấy phép của người, kim thứ tư lấy phép của thời (bốn mùa), kim thứ  năm lấy phép của ngũ âm, kim thứ sáu lấy phép của (6) luật, kim thứ bẩy lấy phép ở thất tinh (7) sao, kim thứ tám lấy phép ở (tám) phong (8 gió). kim thứ chín lấy phép ở đồng ruộng (của 9 châu).

Hoàng đế: Kim ứng với 9 con số như thế nào?

Kỳ Bá: Người tài giỏi đã lập ra cách đếm số để nói lên sự biến hóa của trời đất, lấy từ số 1 đến số 9 (là các số cơ bản) làm căn cứ để phân châu. 9 nhân với 9 bằng 81, rồi lại sáng tạo số Hoàng chung (là 1 trong 12 luật, trong 5 âm cung, thương, giác, trưng, vũ, cung thuộc trung ương Hoàng chung, 12 luật của ngũ âm bắt đầu từ phần đó. Cảnh Nhạc viết: Hoàng chung là gốc của vạn vật) để kim châm và con số ứng với nhau, đó là nguồn gốc của 9 loại kim ứng với 9 con số.

- Loại thứ nhất (Sàm châm) ví như trời. Trời ở trên là Dương, tạng ứng với trời là Phế, vì Phế là tạng cao nhất, là cái lọng che hết cả 5 tạng 6 phủ (che cả vạn vật, phế khí nhẹ và hư nên ví như trời). Da là hợp của Phế, cũng là phần dương (biểu nông nhất) của cơ thể. Để chữa loại bệnh nông này, kim phải có đầu to, mũi nhọn sắc (như mũi tên) để nó chỉ châm nông ở da mà không đi sâu trong cơ để làm khí dương xuất ra ngoài da.

 - Loại thứ hai (Viên châm) ví như Thổ. Bắp thịt của cơ thể ứng với Thổ, để chữa bệnh ở bắp thịt, kim phải có thân tròn dài như trụ, mũi kim hình ô van như trứng (để xoa bóp) để nó không làm tổn thương bắp thịt (sơ tiết khí huyết ở trong bắp thịt) nếu bắp thịt bị thương thì sẽ làm khí (của Tỳ suy) kiệt.

- Loại thứ ba (Đề châm) ví như người. Do trưởng thành sự sống của người phải nhờ vào tuần hoàn của huyết mạch, nên châm bệnh của huyết mạch, kim phải có thân tương đối to, mũi kim tròn hơi nhọn làm nó có thể xoa bóp mạch lạc mà không gây nên xuyên qua da vào cơ, để lưu thông khí của nó, để (cho chính khí đầy đủ và ) chỉ đuổi tà khí ra thôi.

 - Loại thứ tư (Phong châm) ví như 4 mùa, 4 mùa có nghĩa là: tà phong của 8 phương trong 4 mùa khi xâm nhập vào kinh mạch, đều gây nên bệnh ngoan cố, cho nên để chữa bệnh này, kim cần thân hình trụ, mũi sắc nhọn để tả nhiệt, làm ra máu và hết bệnh ngoan cố.

 - Loại thứ năm (Phi châm) ví như âm thanh. 5 số của âm (ở giữa hai số 1 và 9 trong 9 cung, số 1 đại biểu Đông chí và Tý, số 9 đại biểu Hạ chí và Ngọ) số 5 ở giữa là ở giữa Đông Hè và giữa Tý Ngọ. Như Âm Dương của người chia hai đầu, hàn và nhiệt không duy trì bình thường mà đánh nhau ở một chỗ và hợp lại thành nhọt mủ. Chữa loại bệnh này, dùng loại kim có mũi nhọn như mũi kiếm để tháo mủ ra.

 - Loại thứ sáu (Viên lợi châm) ví như (6) luật. (6) luật (cao thấp có tiết tấu) điều hòa Âm Dương 4 mùa, và phối hợp với 12 kinh mạch. (Nếu khí huyết Âm Dương không điều hòa là 6 luật không điều hòa). Hư tà sẽ thừa hư vào kinh lạc và gây chứng tý cấp (Bạo tý). Để chữa loại bệnh này, kim cần nhọn như đuôi ngựa, tròn mà sắc, giữa thân kim hơi to để chữa bạo khí (chứng cấp).

 - Loại thứ bẩy (Hào châm) ví như (7) ngôi sao. 7 ngôi sao ở trên trời như 7 khiếu ở phần trên của người. Ngoại tà vào trong kinh sẽ sinh thống tý, và bệnh ở trong kinh lạc. Chữa loại bệnh này kim cần mũi nhọn như vòi của muỗi để có thể yên tĩnh đợi khí và vê châm nhẹ. Thân kim nhỏ để lưu kim lâu, làm cho khí chính đầy đủ, chân khí và tà khí đều bị ảnh hưởng của châm, khi rút kim có thể tán tà dưỡng chân được.

 - Loại thứ tám (Trường châm) ví như (tám) phong, ví như 8 khớp chân tay, 8 tiết khí trời của 4 quý đều có hư phong, thành ra 8 phong đều gây bệnh và đều nằm ở giữa khớp xương sống lưng và tấu lý mà thành chứng tý ở sâu. Chữa loại bệnh này, kim cần dài, mũi nhọn để vào đuổi tà ở sâu, tý ở sâu (viễn tà, viễn tý).

 - Loại thứ 9 (Đại châm) ví như (9 vùng) đồng ruộng, ở người nó là các khe khớp và dưới da. Tà khí vào sâu, chẩy tràn ra trong người như kiểu phong thủy, nước không qua khớp và tích lại ở khớp thành thành bệnh. Để chữa bệnh này kim cần nhọn như cây trượng (của người già) mũi kim hơi tròn, để lấy cái khí (nước tích) không qua được khớp ra.

Hoàng đế: Độ dài ngắn của các loại kim?

Kỳ Bá: Loại thứ nhất (nhọn) Sàm châm, giống như kim dệt, mũi kim nhọn như mũi tên, trừ mũi kim ra còn dài 1,5 tấc, cộng 1,6 tấc, chữa bệnh nóng ở đầu, thân (châm nông ở da để tả nhiệt). Loại kim thứ hai Viên châm, mô phỏng theo kim dệt sợi bông, thân kim hình ống dài, mũi kim hình (ô van) như quả trứng, dài 1,6 tấc (để xoa bóp) để chữa bệnh do tà lưu ở giữa các bó cơ. Loại kim thứ ba Đề châm, giống như hạt dẻ tròn mà hơi nhọn, dài 3,5 tấc, để xoa bóp kinh mạch, lưu thông khí huyết, làm tà khí tiết ra ngoài. Loại thứ tư Phong châm, cũng mô phỏng theo kim dệt sợi bông, thân hình ống dài, mũi kim sắc nhọn, dài 1,6 tấc, chữa nhiệt độc hay ung nhọt, để chích (lạc) nặn máu. Loại thứ năm Phi châm, mô phỏng theo mũi kiếm, rộng 2,5 phân, dài 4 tấc, chữa ung nhọt có mủ và hàn nhiệt không hòa (để chích tháo mủ). Loại kim thứ sáu Viên lợi châm, mô phỏng theo cái đuôi ngựa, mũi kim hơi to, thân kim nhỏ lại, để có thể châm sâu, dài 1,6 tấc, chữa ung nhọt và chứng tý. Loại kim thứ bẩy Hào châm, mô phỏng theo sợi tóc, sợi tơ, dài 1,6 tấc, chữa hàn nhiệt thống tý, khí tà ở lạc. Loại kim thứ tám Trường châm, mô phỏng theo kim kỳ dài 7 tấc, chữa khí tà ở sâu, lâu ngày không khỏi - viễn (cửu) tý. Loại kim thứ chín Đại châm, mô phỏng loại Phong châm, nhưng mũi kim sắc hơi tròn dài 4 tấc, chữa tích nước ở khớp. Đó là độ dài ngắn to nhỏ của 9 loại kim.

Hoàng đế: Dáng người ứng với 9 vùng đồng bằng của tự nhiên như thế nào?

Kỳ Bá: Chân trái ứng với Lập xuân, ngày Mậu dần, Kỷ sửu (do bên trái là dương, Xuân Hạ thuộc dương, dương khí từ dưới lên). Sườn trái ứng với Xuân phân, ngày Ất mão. Tay trái ứng với Lập hạ, ngày Mậu thìn, Kỷ tỵ. Ngực, hầu, họng, đầu mặt ứng với Hạ chí, ngày Bính ngọ. Tay phải ứng với Lập thu (Đông Thu thuộc âm, âm khí từ trên giáng xuống, nên tay phải ứng với Lập thu), ngày Mậu thân, Kỷ mùi. Sườn phải ứng với Thu phân, ngày Tân dậu. Chân phải ứng với Lập xuân, ngày Mậu tuất, Kỷ hợi. Thắt lưng xương vùng khiếu ở dưới ứng với Đông chí, ngày Nhâm tý, 6 phủ, 3 tạng ở dưới cơ hoành (Can, Tỳ, Thận) ứng với trung châu (Trung cung), ngày đại cấm là ngày Thái nhất ở trung cung và các ngày Mậu, Kỷ. Từ 9 vùng trên, có thể đoán nơi ở của 8 chính. Dựa vào các vị trí phải trái trên dưới của 9 cung, nếu thân thể chỗ nào có ung nhọt, sưng, cần chữa rạch tháo mủ thì phải tránh ngày cấm của nó tức ngày ứng với nó.

Giải thích:

 - Phương Đông là mộc, Xuân phân tháng hai âm lịch, tháng Mão, thiên can là Ất mộc, địa chi là Mão mộc, lấy địa chi của tháng làm địa chi của ngày, nên cạnh sườn trái là Xuân phân, ứng ngày Ất mão.

 - Phương Nam là hỏa, Hạ chí vào tháng 5, tháng Ngọ, thiên can là Bính hỏa, địa chi là Ngọ hỏa, đầu mặt cổ là Hạ chí ứng ngày Bính ngọ.

- Phương Tây là kim, Thu phân vào tháng 8, tháng Dậu, thiên can là Tân kim, địa chi là Dậu kim, nên cạnh sườn phải là Thu phân, ứng ngày Tân dậu.

- Phương Bắc là thủy, Đông chí tháng 11, tháng Tý, thiên can là Nhâm thủy, địa chi là Tý thủy, nên thắt lưng xương cũng là Đông chí, ngày Nhâm tý.

 - Bốn góc là giữa hai phương, trung ương, thuộc thổ, nên ngày của 4 góc và trung ương đều là mậu Kỷ và thêm vào địa chi của phương vị của khí hậu.

Ví dụ:

 - Lập xuân tháng 12, tháng Sửu hoặc tháng giêng, tháng Dần, hướng Đông bắc. Sửu Dần, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can sẽ là ngày của Lập xuân Mậu dần, Kỷ sửu.

 - Lập hạ tháng 3, tháng Thìn, tháng 4 tháng Tỵ, hướng Đông nam. Thìn Tỵ, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can là ngày của Lập hạ (Mậu thìn, Kỷ tỵ).

 - Lập thu tháng 6, tháng Mùi hoặc tháng 7 Thân, tháng Dần, hướng Tây nam. Mùi Thân, hai địa chi hợp với Mậu Kỷ - hai thiên can sẽ là ngày của Lập xuân (Mậu thân, Kỷ mùi).

 - Lập đông tháng 9, tháng Tuất hoặc tháng 10 Hợi, hướng Tây nam, hai địa chi Tuất Hợi hợp với hai thiên can Mậu kỷ là ngày của Lập đông (Mậu tuất, Kỷ hợi).

 Người xưa cho rằng bệnh ở các vị trí ứng với các ngày trên, thì không nên chữa vào ngày đó, nhất là rạch tháo mủ. Ngày nay không nhất thiết phải kiêng.

 - Hình lạc chí khổ (thân thể nhàn hạ trong lòng bị dày vò) bệnh thường ở mạch, khi chữa cần dùng cả châm và cứu. Hình khổ chí lạc (thân thể bị dày vò trong lòng thanh thản) bệnh thường ở cân, chữa cần dùng cứu ôn và đạo dẫn. Hình lạc chí lạc (thân thể nhà hạ, trong lòng thanh thản) bệnh thường ở cơ nhục, chữa cần dùng châm biếm thạch. Thân khổ chí khổ (thân thể bị dầy vò, trong lòng cũng bị dầy vò) bệnh thường ở hầu họng, dùng thuốc ngọt để chữa. Nếu nhiều lần bị khủng khiếp (khí huyết vận hành ở) cân mạch sẽ không thông, bệnh sẽ có cảm giác bất nhân (tê bì) cần dùng xoa bóp và rượu thuốc để chữa (làm thông khí huyết). Đó là những bệnh do thân thể an nhàn lao lực quá gây nên.

 - Khí của ngũ tạng (không điều hòa sẽ sinh bệnh), khí Tâm (không sơ thông) sinh ho khạc, khí Can (uất kết, thì tinh thần bất thường và) sinh nói nhiều, khí Tỳ (vận hóa thất thường thì) nuốt chua, khí Thận (không đủ thì mệt mỏi) thì ngáp.

 Bị chú: Người xưa có lúc đưa bệnh của Vị vào bệnh của Tâm, vì chỉ có Vị khí không giáng mới ợ hơi.

 - Khí của 6 phủ (không điều hòa sẽ sinh bệnh), khí của Đởm (uất dễ) sinh cáu gắt, khí của Vị (không giáng sẽ) nghịch thành nấc, khí của Đại tràng, Tiểu tràng (không chuyển hóa thức ăn được) gây ỉa chảy. Khí của Bàng quang (hư) không khống chế được đi đái, sẽ đái dầm, đái ra quần (di niệu). Tam tiêu không thông đường nước sẽ bị tắc, nước ứ thành phù.

 - Ngũ vị: chua vào Can (mộc) trước, cay vào Phế (kim) trước, đắng vào Tâm (hỏa) trước, ngọt vào Tỳ (thổ) trước, mặn vào Thận (thủy) trước, nhạt vào Vị (thổ) trước. Đó là ngũ vị đi vào các tạng phủ.

 Năm tinh (cùng): Tinh khí cùng với Can thì lo (Ưu), cùng với Tâm thì vui, cùng với Phế thì buồn, cùng với Thận thì khủng, cùng với Tỳ thì lo sợ. Đó là bệnh do tinh khí của 5 tạng (thừa hư) hợp cùng các tạng gây nên.

 Chú ý: Sự tác động lẫn nhau này diễn ra theo cái chí của mỗi tạng, như tinh khí thừa Tâm, hư hợp với Tâm làm Tâm khí hữu dư gây vui...Nhưng cũng diễn ra theo tương khắc như sinh khí cùng hợp với Tỳ làm Tỳ khí thực, Tỳ thực khắc Thận, Thận chủ kinh khủng nên ở đây Tỳ thực mà lại biểu hiện kinh khủng là chí của Thận.

 - Năm ố (sợ): Can (chủ cân, phong làm co cân) sợ gió. Tâm (chủ huyết mạch, nhiệt cao có thể làm thương mạch) sợ nhiệt. Phế (chủ khí, hàn làm khí không truyền thông) sợ hàn. Thận (chủ thủy, thích nhuận) sợ táo. Tỳ (thuộc thổ thích táo) sợ thấp. Đó là những cái sợ của 5 tạng.

 - Năm chất dịch: Tâm chủ (việc sinh) mồ hôi, Can chủ (việc sinh) nước mắt, Phế chủ (việc sinh) nước mũi, Tỳ chủ (việc sinh) nước dãi, Thận chủ (việc sinh) nước bọt. Đó là 5 chất dịch do các tạng sinh ra (các tạng Phế, Can, Tỳ sinh ra chất dịch của các khiếu của chúng, nước mũi, nước mắt, nước bọt. Còn Tâm có khiếu là lưỡi chủ huyết, thuộc hỏa, hỏa có thể làm ra mồ hôi, nên Tâm chủ việc sinh ra mồ hôi. Thận có khiếu là tai, nhưng mạch Thận lên đến cuống lưỡi, nước bọt ở dưới lưỡi chảy ra nên Thận chủ việc sinh nước bọt.

 - Năm lao (thái quá): Nhìn quá lâu thương huyết, ngồi quá lâu thương bắp thịt, đứng quá lâu thương xương, đi quá nhiều thương cân, nằm quá lâu thương khí.

 - Năm tẩu (hướng đi): Chua đi vào cân (Can), cay đi vào khí (Phế), đắng đi vào huyết (Tâm), mặn đi vào xương (Thận), ngọt đi vào bắp thịt (Tỳ). Đó là năm hướng đi.

 - Năm tiết chế (kiêng): Bệnh ở cân thì không ăn chua. Bệnh ở khí thì không ăn cay. Bệnh ở xương thì không ăn mặn. Bệnh ở huyết thì không ăn đắng. Bệnh ở cơ thì không ăn ngọt. Khi nghiện, thèm ăn các vị trên thì không được ăn nhiều, phải tự tiết chế. Đó là 5 tiết chế.

 - Năm phát (nơi phát bệnh): Bệnh ở (Thận) âm hay phát ra ở xương. Bệnh ở (Tâm) dương hay phát ra ở huyết (mạch). Bệnh ở (Tỳ) âm hay phát ra ở bắp thịt. Bệnh ở (Can) dương (ở mùa Xuân) bắt đầu phát ra từ mùa Đông (mùa Đông bị hàn, mùa Xuân sẽ có bệnh ôn, mùa Hè bị thử, mùa Thu sẽ có sốt rét "Sinh khí thông thiên" - Tố vấn), bệnh (Phế) âm (ở mùa Thu) bắt đầu phát từ mùa Hè.

 - Năm tà (khí): Khí tà vào phần dương (dương thịnh nhiệt cực) thì sinh cuồng. Khí tà vào phần âm (âm thịnh sẽ hàn, huyết bị ngưng trệ) thì sinh huyết tý. Khí tà vào phần dương thì (khí lên không xuống được) sinh bệnh điên (đau đầu, váng đầu, hoa mắt chóng mặt. Tố vấn "Phương thịnh suy": Khí thượng bất hạ, đầu thống điên tật). Khí tà vào phần âm (là dinh khí thiếu) thì gây khản tiếng. (Khí tà từ) Dương vào Âm (bệnh đang rầm rộ chuyển thành) yên tĩnh. (Khí tà từ) Âm chuyển ra Dương, bệnh có biểu hiện vui giận.

 - Năm tàng: Tâm tàng thần, Phế tàng phách, Can tàng hồn, Tỳ tàng ý, Thận tàng tinh, chí (xem chương 8 Bản thần)

 - Năm chủ: Tâm chủ mạch, Phế chủ da, Can chủ cân, Tỳ chủ cơ, Thận chủ cốt.

 - Dương minh nhiều huyết nhiều khí, Thái dương nhiều huyết ít khí, Thiếu dương nhiều khí ít huyết, Thái âm nhiều huyết ít khí, Quyết âm nhiều huyết ít khí, Thiếu âm nhiều khí ít huyết.

 Vì vậy cho nên châm Dương minh có thể xuất huyết, xuất khí, châm Thái dương xuất huyết giữ khí, châm Thiếu dương xuất khí giữ huyết, châm Thái âm xuất huyết giữ khí, châm Quyết âm xuất huyết giữ khí, châm Thiếu âm xuất khí giữ huyết.

 (Thiên "Ngũ âm ngũ vị" - Linh khu và "Huyết khí hình chí" - Tố vấn cũng nói vấn đề này. Thấy thiên "Huyết khí hình chí" - Tố vấn nói đúng hơn. Đó là Thái âm thiểu huyết đa khí, chứ không phải là đa huyết thiểu khí).

 - Dương minh và Thái âm chân là biểu lý, Thiếu dương và Quyết âm chân là biểu lý, Thái dương và Thiếu âm chân là biểu lý, đó là quan hệ Âm Dương của các kinh chân. Dương minh và Thái âm tay là biểu lý, Thiếu dương và Quyết âm tay là biểu lý, Thái dương và Thiếu âm tay là biểu lý. Đó là quan hệ Âm Dương của các kinh tay.

BẢNG TÓM TẮT PHÂN LOẠI THEO 5 TẠNG

(https://i.imgur.com/MRuKRZK.jpg)

(https://i.imgur.com/F29HEme.jpg)


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 02, 2017, 10:15:45 PM
79. Mưa gió trái thường trong năm (Tuế lộ)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về cơ chế bệnh lý, thời gian phát cơn và nguyên nhân phát cơn sớm muộn của sốt rét, với triệu chứng chính của sốt rét là: Sốt và rét tách rời. Cũng nêu lên tác dụng xâm phạm cơ thể của phong tặc, phong tà, nhân tố gây bệnh của hàn thử vào người, rồi nêu lên 3 hư, 3 thực, có tác dụng quyết định đối với ngoại tà có thể gây được bệnh hay không.

 Đồng thời nói về nguồn gốc của tà hư, tặc phong, cách chẩn đoán và cho là mồng 1 tháng giêng mỗi năm nếu có mưa gió, có thể dựa vào hướng và thời gian phát sinh mưa gió để đoán tình hình bệnh tật lưu hành của 4 mùa, số người mắc bệnh nhiều hay ít, bệnh tình nặng hay nhẹ, nhấn mạnh ảnh hưởng đối với thân thể của khí hậu trái thường của 4 mùa.

Ví dụ: Nếu có gió Nam vào mùa Đông, mùa Đông lại có khí hậu mùa Hè thì người dễ sinh bệnh, nếu lúc đó phục tà chưa gây bệnh thì sang Lập xuân sẽ bị hư phong, thì 2 tà khí cũ và mới hợp lại sẽ phát bệnh. Nếu năm mới gió không hòa, nắng không ấm, nắng Xuân không đẹp mà ngược lại là mưa gió như mùa Thu sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát sinh của vạn vật. Loại thời tiết mưa gió trái thường đó gọi là Tuế lộ.

Hoàng đế:Mùa Hè bị thương thử, đến mùa Thu bị bệnh sốt rét. Song cơn sốt rét lại có định kỳ, tại sao?

Kỳ Bá: Khí tà sau khi vào Phong phủ, dọc lưng, cột sống, xuống dưới, khí vệ tuần hoàn một ngày đêm thường đại hội ở Phong phủ, đến ngày thứ hai mỗi ngày xuống một khớp, nên thời gian lên cơn sốt rét mỗi ngày sẽ chậm hơn một chút. Đó là khí tà vào cột sống. Cho nên mỗi khi vệ khí đến Phong phủ thì tấu lý khai, tấu lý khai thì tà khí thừa cơ vào khe khớp, mỗi khi tà khí vào thì lên cơn sốt, đó là nguyên nhân lên cơn sốt muộn hơn hôm trước. Do khi vệ khí đến Phong phủ, mỗi ngày xuống một đốt, sau 21 ngày xuống đến xương cụt, ngày thứ 22 lại vào ống tủy, đổ vào mạch Xung trong ống tủy, theo mạch lên đến ngày thứ 9 thì đi ra ở giữa 2 hố trên đòn (Khuyết bồn), huyệt Thiên đột, vì ngày khí hành lên dần, nên thời gian lên cơn cũng ngày một sớm hơn. Khí tà theo kinh vào ngũ tạng, đi ngang ra mộ và nguyên, khoảng cách hơi xa, khí của nó vào sâu, tuần hoàn chậm, không thể mỗi ngày mỗi cơn, nên cách ngày mới có cơn.

Hoàng đế: Vệ khí mỗi khi đến Phong phủ, làm tấu lý khai, tấu lý khai thì khí tà vào gây bệnh. Vệ khí đi mỗi ngày một đốt sống thì (và gặp tà ở đó để phát bệnh, vậy khi lên cơn) vệ khí không ở Phong phủ nữa, làm thế nào để biết?

Kỳ Bá: Phong tà xâm nhập vào người, nguyên không phải từ một chỗ cố định nào, chỉ cần vệ khí gặp tà khí thì nơi đó tấu lý sẽ khai, đó là nơi tà khí xâm nhập, cũng là nơi phát bệnh [Phong phủ hiểu theo nghĩa: nơi phong tà vào (gáy, lưng, thắt lưng) không nhất định phải đúng là huyệt Phong phủ].

Hoàng đế: Phong và sốt rét có quan hệ với nhau, lại cùng là tà khí, nhưng phong thường tác động không có nghỉ,còn sốt rét lúc lên cơn lúc không, tại sao?

Kỳ Bá: Phong khí gây bệnh thường lưu ở nơi nó vào, còn ngược tà (sốt rét) thì đi theo kinh, có thể sâu dần vào đến tạng, đến khi nó gặp vệ khí thì sẽ phát bệnh.

Hoàng đế: 8 phong của 4 mùa xâm phạm vào người có hàn, thử, nếu là hàn thì da săn lại, tấu lý khép kín, nếu là thử nhiệt thì da mềm dãn, tấu lý khai. Tặc phong tà khí có phải do đó (khí hậu nóng lạnh thay đổi) là có thể vào người hay còn phải bị cả hư tà của 8 tiết trong 4 mùa mới có thể vào người?

Thiếu sư: Không phải. Tặc phong tà khí vào người không tính thời gian, nhưng phải có tấu lý khai mới có thể (thừa hư mà) vào người được, hoặc trực trúng vào nội tạng, nên bệnh rất cấp nặng, nếu tấu lý đóng, thì dù tà có vào cũng chỉ có thể quanh quẩn ở nông, và bệnh cũng từ từ vào muộn.

Hoàng đế: Có người thích ứng với thay đổi nóng lạnh của khí hậu, tuy tấu lý không khai, nhưng vẫn bị bệnh cấp đột ngột, tại sao?

Thiếu sư: Vẫn có tà khí vào người, tuy con người sống yên lành, nhưng sự đóng mở của tấu lý thích ứng mật thiết với sự căng trùng của da và sự thay đổi của khí hậu, vì vậy do cảm phải khí hậu không lành nên sinh bạo bệnh.

Hoàng đế: Xin nói rõ thêm.

Thiếu sư: Người và trời đất có quan hệ mật thiết, người cũng ứng với sự di chuyển của mặt trăng, mặt trời, khi trăng tròn thì nước triều dâng ở Tây (Tây là Âm, là mặt trăng), ở người thì khí huyết tích đầy, cơ nhục đầy, da săn, lông chắc, tấu lý kín, da như mỡ có bồ hóng bếp bám. Trong điều kiện nóng dù gặp tặc phong, nó cũng chỉ có thể vào nông và không sâu. Khi mặt trăng khuyết (không có trăng) không có ánh trăng thì nước triều dâng ở Đông (Đông là Dương, là mặt trời), ở người thì khí huyết suy, vệ khí hao tán, hình thể tuy còn nhưng cơ nhục giảm, da nhẽo, tấu lý khai, lông ít, nếp da mỏng, lớp bồ hóng không còn. Trong điều kiện này, nếu gặp tặc phong thì nó chui ngay vào người, vào sâu và gây bệnh nặng, cấp (bạo bệnh).

Hoàng đế: Có người đột nhiên đột tử, hoặc đột nhiên bị bệnh cấp nặng, tại sao?

Thiếu sư: Nếu bị 3 hư (hư phong, chính khí hư, tuế khí hư) thì đột tử bạo bệnh. Nếu có 3 thực thì tà khí không vào người được.

 3 hư là: Tuế khí bất cập (năm hư), gặp ngày không có mặt trăng và không phòng bệnh tốt (chính khí hư), bị khí hậu khác thường (tà hư) nên bị tặc phong làm tổn thương. Trong khi luận bệnh không biết 3 nhân tố hư này không phải là thầy giỏi.

 3 thực là: Tuế khí thịnh (năm thực), gặp ngày trăng tròn, thời tiết điều hòa, tuy bị tặc phong, tà khí cũng không bị nguy hiểm.

Hoàng đế: Nguyên nhân nào làm cho trong một năm nhiều người cùng một lúc bị bệnh?

Thiếu sư: Đó là do ảnh hưởng của tám phong.

Muốn tìm nguyên nhân bệnh có quan hệ với khí hậu trái thường đó, thường quan sát vào ngày Đông chí, Thái nhất ở cung Diệp trập, ví khí Thái nhất đi đến cung đó thì nhất định là có mưa gió. Nếu mưa gió từ phương Nam đến thì là hư phong và mang các yếu tố làm hại cơ thể. Nếu mưa gió đến lúc nửa đêm, lúc mọi người đều ngủ ngon thì không xâm phạm được con người, nên năm đó dân ít bệnh. Nếu mưa gió đến ban ngày, lúc mọi người được bảo vệ ít (mùa Đông) thì đều có thể bị trúng hư phong, và người bị bệnh rất nhiều. Nếu hư tà vào ở xương mà không ra ngoài, đến ngày Lập xuân, khí dương phát mạnh, tấu lý khai và trong ngày Lập xuân đó, gặp gió Tây thì mọi người đều bị hư phong. Vì hai tà hư (mùa Đông và gió Tây của Lập xuân - Phục tà và tân cảm) kết lại với nhau làm kinh mạch lưu kết.

Nếu khí trong năm điều hòa, ít tặc phong thì người bị bệnh ít, chết ít. Nếu trong một năm có nhiều tặc phong, tà khí nóng lạnh không thuận hòa thì dân bị bệnh nhiều và chết nhiều.

Hoàng đế: Hư tà của phong có thể gây nên bệnh nặng hoặc nhẹ, nhiều người hoặc ít người bị bệnh, làm thế nào để xác định?

Thiếu sư: Mỗi năm vào ngày mồng một tháng Giêng, Thái nhất đến cung Thiên lưu, nếu ngày đó gặp gió Tây bắc, không mưa, sẽ có nhiều người chết bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng, nếu lúc rạng đông mà gió bấc thì mùa Xuân dân sẽ mắc bệnh nặng. Ngày mồng một tháng Giêng lúc rạng đông gió bấc đi qua thì 3/10 dân bị bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng vào giờ Ngọ có gió bấc, khí mùa hè năm đó cũng dễ mắc bệnh. Ngày mồng một tháng Giêng lúc hoàng hôn có gió bấc, mùa Thu năm ấy dân cũng sẽ mắc bệnh nhiều. Nếu cả ngày mồng một tháng Giêng đều có gió bấc thì có dịch bệnh đến 6/10.

Ngày mồng một tháng Giêng có gió nồm gọi là "Hạn hương" có gió Tây gọi là "Bạch cốt", trong nước sẽ có tai ương, dân sẽ chết nhiều. Ngày mồng một tháng Giêng có "gió Đông nam" thổi rung nhà, cát sỏi bay tứ tung, trong nước tai ương lớn. Ngày mồng một tháng Giêng khí hậu ấm áp (ôn hòa) không có gió, thì được mùa, giá gạo rẻ, dân không có bệnh, nếu lạnh quá và có gió thì mất mùa, giá gạo cao, dân đa nhiều người mắc bệnh.

Đó là cách xem gió đầu năm để đoán tình hình hư tà ảnh hưởng đến con người.

Tháng hai ngày Sửu không có gió, dân bị bệnh Tâm bụng nhiều. Tháng ba ngày Tuất không ấm áp, dân bị bệnh hàn nhiệt nhiều. Tháng bốn ngày Tỵ không có nắng, dân dễ bị bệnh đơn (sốt cao) nhiều. Tháng 10 ngày Thân không rét, dân bị đột tử nhiều.

* Cần chú ý: Các gió của ngày 1 tháng 1, và các ngày khác nói ở trên, đều phải là gió có thể thổi bay nóc nhà, gẫy cành đổ cây, bụi cát bay mù làm cho rụng lông, khai tấu lý.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 03, 2017, 12:34:47 AM
80. Luận về sự mê hoặc (Đại hoặc luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về các trạng thái khi trèo lên cao thì sinh ra thần hồn mắt hoa, đầu váng và các trạng thái hay quên, chóng đói, mất ngủ, nhắm mắt hay nằm, ít nằm. Đầu tiên nói về tính khí của 5 tạng 6 phủ đều đổ lên mặt, hệ mắt (thuộc vào não), nếu đột nhiên thấy vật dị thường là thần hồn đã tán, tinh khí đã loạn sẽ có đầu óc quay cuồng, kéo theo hệ mắt căng thẳng và sinh ra huyễn vựng. Nguyên nhân của hay quên do Trường vị thực, Tâm Phế hư, ở phần trên khí bất túc, ở phần dưới khí hữu dư, hay đói là do Vị nhiệt tiêu hóa thức ăn, không muốn ăn là do khí hành ở vị quản tắc. Vệ khí lưu ở phần Dương không đi vào phần Âm, Dương sẽ đầy Âm (sẽ) hư, và thành mất ngủ. Vệ khí lưu ở phần Âm không ra phần Dương, Âm (sẽ) thịnh và Dương (sẽ) hư, thành ra hay nhắm mắt. Nếu thể tích của dạ dày, ruột khá lớn, da sáp trệ, thì vệ khí lưu ở trong tạng khá lâu, vận hành tương đối chậm, khí của nó không thăng, nên chỉ muốn ngủ. Nếu thể tích dạ dày, ruột khá nhỏ, da hoạt nhuận, vệ khí lưu ở phần biểu tương đối lâu, sẽ ít nằm. Những chứng đó tuy không là bệnh chứng nặng, nhưng lại là thuộc loại hay gặp, một lúc khó chẩn đoán ra.

Hoàng đế: Trèo lên đài cao đến một chừng, nhìn ra bốn phía phải phủ phục và bò đi, vừa bò lên thấy thần hồn kinh hãi, mắt hoa cả lên, trong lòng lấy làm lạ bèn nhắm mắt lại rồi lại mở mắt ra, an tâm định khí để trấn tĩnh lại mãi mà không được. Lên đến đài cao, nhìn bốn phía cũng thấy chóng mặt, tim đập, quỳ cúi đầu xuống đài vẫn không hết, xong đột nhiên lại hết, khí nào làm ra hiện tượng đó?

Kỳ Bá: Tinh khí của 5 tạng 6 phủ đều lên tụ ở mắt để thành tinh (nên mắt nhìn thấy), nơi tinh đó hội tụ là mắt, trong đó tinh của xương đổ vào đồng tử, tinh của cân đổ vào lòng đen, tinh của huyết đổ vào huyết lạc của mắt, tinh của khí đổ vào lòng trắng, tinh của cơ nhục đổ vào tròng mắt. Tinh của gân xương, khí huyết và lạc mạch hợp lại với nhau thành mục hệ. Phần trên của nó thuộc về não, phần sau liên thông với gáy. Cho nên nếu tà khí trúng vào gáy, vừa gặp lúc thân thể hư, tà khí vào sâu, theo hệ mắt để vào não. Tà khí vào não sẽ gây ra đầu óc quay cuồng và kéo theo hệ mắt căng thẳng, hệ mắt căng thẳng sẽ gây chóng mặt hoa mắt, nhìn thấy quay cuồng. Đồng thời tà khí vào tinh (ngũ tạng ở mắt) làm tinh của 5 tạng mất điều hòa với nhau gây nên tinh hao tán. Vì tinh hao tán nên xuất hiện song thi (nhìn 1 thành 2 vật). Tóm lại mắt của người là nơi hội tụ thành tinh của 5 tạng 6 phủ, nơi đi qua của dinh, vệ, hồn, phách, cũng là nơi sinh ra thần khí (để nhìn thấy vật). Nếu thần mệt mỏi sẽ gây hồn phách tán, ý chí loạn. Do tinh của xương đổ vào con ngươi ở mắt thuộc Thận, tinh của Can ở lòng đen mắt thuộc Can, cả hai đều là tạng Âm, nên lấy Âm làm chuẩn, tinh của khí ở lòng trắng thuộc Phế, tinh huyết ở mạch máu của mắt thuộc Tâm, cả hai đều là tạng Dương, nên lấy Dương làm chuẩn.

Khí (4 tinh) Âm Dương trên dưới điều hòa, và chuyển đổ lên trên để thành tinh và nhìn rõ. Đặc biệt mắt là sứ giả của Tâm (bị Tâm sai khiến), Tâm là nơi ở của thần (nguồn gốc của tinh thần ý thức), do đó khi thần tinh bị loạn, thì tinh sẽ không chuyển lên mắt được. Trèo cao nhìn lên bốn phía, đột nhiên thấy cảnh tượng rất khác, thường đó là tinh thần hồn phách bị tán loạn không hợp với nhau (làm cho thần hồn đầu váng mắt hoa). Đó là trạng thái mê hoặc.

Hoàng đế: Sau lần trèo cao ở Đông uyển, rồi mỗi lần đến Đông uyển đều có thần hồn đầu váng mắt hoa, có phải là do chỉ đến Đông uyển thần mới mệt mỏi không, tại sao lại có tình hình đó?

Kỳ Bá: Không phải. Ở lúc nào đó trong lòng tuy thích thú, nhưng thần gặp phải cảnh vật chán ngán (ghét và yêu) đột nhiên đến tranh nhau, làm tinh khí loạn, mắt nhìn sẽ sai đi, nhìn không rõ gây nên thần hồn đầu váng mắt hoa, sau khi rời nơi đó thì lại trở lại bình thường. Trong trường hợp đó nhẹ thì gọi là mê, nặng thì gọi là hoặc.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người hay quên?

Kỳ Bá: Ở trên khí bất túc, ở dưới khí hữu dư, là trường vị thực, và Tâm Phế hư do (ở trên) hư, nên dinh vệ lưu ở dưới trường vị, nếu qua một thời gian dài không đưa đổ lên Phế để đi toàn thân, sẽ làm khí huyết hư và hay quên.

Hoàng đế: Khí nào làm người hay đói nhưng không muốn ăn?

Kỳ Bá: (Ăn uống vào Vị) tinh khí cùng vào Tỳ, khí nhiệt lưu ở Vị, vì nhiệt nên tiêu hóa nhanh, tiêu nhanh nên chóng đói. Khí Vị nghịch lên vị quản sẽ hàn (tắc - khó tiếp thu thức ăn) nên không muốn ăn.

Hoàng đế: Khí nào làm cho có bệnh mà ngủ không ngon?

Kỳ Bá: Vệ khí không vào được phần Âm, thường lưu ở phần Dương. Nếu nó lưu ở phần Dương thì khí Dương phải đầy. Khí Dương mà đầy thì Dương kiểu thịnh, không vào được Âm và khí Âm phải hư (ngoài thừa trong thiếu) nên không ngủ được.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người bệnh không nhìn được?

Kỳ Bá: Vệ khí lưu ở phần Âm không đi ra để hành ở phần Dương. Nó lưu ở phần Âm thì khí Âm thịnh, khí Âm thịnh thì (khí của) Âm kiểu thịnh, nó không ra được phần Dương thì khí dương suy, nên mắt nhắm (không nhìn được).

("Thiên hàn nhiệt" viết :Âm kiểu, Dương kiểu, Âm Dương tương giao, Dương vào Âm, Âm ra Dương, giao nhau ở đầu mắt, khí dương thịnh thì mở mắt, khí âm thịnh thì nhắm mắt).

Hoàng đế: Khí nào làm người ta nằm nhiều?

Kỳ Bá: Người đó có trường vị to, da ẩm thấp, giữa các cơ không hoạt lợi. Trường vị to thì vệ khí lưu lại lâu, da ẩm thấp thì các cơ vận động không linh hoạt, nên vận động chậm chạp. Do vệ khí ban ngày tuần hành ở phần Dương, ban đêm ở phần Âm, nên khi Âm tận (tức Dương bắt đầu) thì thức dậy. Vì vậy nếu thể tích trường vị to thì vệ khí sẽ lưu ở đó lâu, da ẩm thấp thì bắp thịt không hoạt lợi và vận động chậm chạp. Nếu vệ khí lưu ở phần Âm lâu, thì khí của nó không trong (không tuần hoàn tốt) nên chỉ muốn nhắm mắt và nằm nhiều. Nếu thể tích trường vị nhỏ, da hoạt nhuận, mềm, cơ hoạt lợi thì vệ khí lưu ở phần dương lâu, nên không nhắm mắt, không muốn ngủ.

Hoàng đế: Khí nào làm cho người bình thường đột nhiên ngủ nhiều?

Kỳ Bá: Khí tà lưu ở thượng tiêu thì khí ở thượng tiêu (tắc) không thông, lại thêm ăn no hoặc uống nhiều canh, làm vệ khí lưu lâu ở phần Âm, không hành (ra phần Dương) nên ngủ nhiều.

Hoàng đế: Làm thế nào để chữa các chứng trên?

Kỳ Bá: Trước hết làm cho chức năng 5 tạng 6 phủ cân bằng điều hòa, chữa ngay các tà nhỏ (chứng nhẹ), rồi điều khí, nếu thịnh thì tả nó, nếu hư thì bổ nó. Tất nhiên cần hiểu (hoàn cảnh sinh sống) sự mệt mỏi của tinh thần và thể xác của người bệnh, để định hướng chữa (tâm thần khổ thì thương thần - thể xác khổ thì thương tinh khí).


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 05, 2017, 11:56:18 PM
81. Ung nhọt (Ung thư)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về nguyên nhân gây ung nhọt, sự khác nhau giữa ung nhọt và quá trình chuyển biến thành ác tính. Nói về nguyên nhân bên ngoài của ung nhọt là ngoại tà làm trở ngại tuần hành của khí huyết trong kinh mạch, làm vệ khí tích tụ tại chỗ dẫn đến khí huyết ngưng trệ gây nên. Khi ung đã hóa mủ, tất phải tháo mủ ra đúng lúc, làm cho bệnh độc có lối thoát ra, mà không công vào cơ thể. Cũng nêu lên một số bệnh: Mãnh ung, yếu thư, não lạc, bĩ ung, mễ thử, mã đao hiệp anh, tỉnh thư, hại bĩ, cổ kinh thư, nhuệ thư, xích thư... và nói rõ các triệu chứng, vị trí bị bệnh và cách điều trị.

Hoàng đế: Trường vị thu nạp các chất thức ăn biến thành các chất tinh vi, ở thượng tiêu chuyển vệ khí ra làm cho ấm da cơ, nuôi dưỡng xương khớp, thông lợi tấu lý, ở trung tiêu khí xuất như sương (tân dịch) đi lên đổ vào khê cốc (khê: nơi hợp nhỏ của cơ. Cốc: nơi hợp lớn của cơ), thấm vào tôn lạc, tân dịch điều hòa rồi qua khí hóa biến thành máu đỏ.

Huyết mà hòa thì tân dịch đầy tràn, rồi đổ vào lạc mạch, đầy rồi thì đổ vào kinh mạch, làm cho bên trong ngoài Âm Dương đều đầy. Khí huyết tuần hoàn toàn thân theo với hơi thở. Mặt trời, mặt trăng tuần hoàn theo quy luật của nó có định số, con người cũng vậy, khí dinh vệ tuần hoàn toàn thân liên tục không ngừng. Để điều hòa một cách thiết thực (tìm cách) làm tà khí hư đi để giải quyết chứng thực, nhưng nếu tả quá mức lại có thể gây nên hư nguyên khí (vì vậy phải nắm đúng lúc khí đến để tả). Tả đúng lúc thì có thể làm khí tà suy đi, nếu chỉ lưu kim (không tả khí tà đúng lúc) thì bệnh vẫn như trước không giảm. (Nếu dùng cách) làm cho chính khí thực để loại trừ trạng thái hư (nếu khí tà còn lưu mà), bổ quá thì làm tà khí hữu dư. Khi khí huyết đã điều hòa thì giữa hình và khí có thể giữ được hoạt động sinh lý bình thường. Khí huyết bình hay không bình thì đã rõ, nhưng lại không biết khí ung nhọt sinh ra như thế nào? Quá trình hình thành và ác hóa, ngày chết, ngày lành, sớm hay muộn ra sao và lấy gì để làm chuẩn?

Kỳ bá: Khí huyết ở trong kinh mạch tuần hành không ngừng, cùng độ với tuần hoàn của trời (thiên thể trong vũ trụ), phù hợp với (quy luật các hiện tượng trên mặt) đất. Nếu độ tuần hoàn ở trên trời thất thường sẽ gây Nhật thực, Nguyệt thực, trên mặt đất mất quy luật (dòng sông đông lạnh hoặc tràn ra làm tuần hành bình thường của) dòng sông rối loạn, nước tràn ra 4 phía, cây cỏ sẽ khô héo, ngũ cốc không mọc được. Nếu đường trên mặt đất không thông, người không thể đi lại được, phải tụ lại ở phố cảng, ở trong nhà, và xa biệt nhau. Tình hình tuần hoàn của khí huyết cũng vậy. Cụ thể, dinh vệ khí huyết trong người tuần hoàn không ngừng, ở trên ứng với thiên thể trên trời, dưới ứng với các dòng sông ở dưới đất. Nếu hàn tà vào kinh lạc sẽ làm khí huyết ngưng trệ, ngưng trệ thì không thông, không thông thì vệ khí kết tụ ở tại chỗ, không thể vận hành đều đặn nên thành ung nhọt. Đến khi hàn hóa nhiệt, nhiệt độc chưng làm cơ nhục thối rữa, và thành mủ. Mủ nếu không bị tống ra sẽ làm mục cân (gân), rồi làm thương xương, xương bị thương sẽ làm tủy bị tiêu, nếu mủ không ở khe xương khớp thì không có lối thoát ra và làm cho huyết khô mạch rỗng, làm cân, cốt, huyết, cơ không được nuôi dưỡng, kinh mạch bại hoại có nhiều lỗ rò, bệnh độc sẽ vào 5 tạng, các tạng bị tổn thương thì chết.

Tóm lại:

1. Quá trình thành ung nhọt: Ngoại tà vào kinh lạc (hàn tà) làm huyết ngưng trệ, ảnh hưởng đến vận hành của dinh vệ, vệ khí kết ứ tại chỗ và hình thành ung nhọt.

2. Quá trình hóa mủ: Khí hàn hóa nhiệt, nhiệt làm thối cơ, cơ thối nát thành mủ.

3. Quá trình ác hóa: Mủ không thoát ra ngoài, xâm phạm cân mạch. Cân thối nát sẽ tổn thương xương, tiêu hủy các kinh mạch bị bại hoại và dò, bệnh độc vào tạng và chết.

(Khái niệm này được đời sau sử dụng để giải thích các hiện tượng 1, 2, 3).

Hoàng đế: Muốn biết các loại ung nhọt, kiêng kỵ và tên chúng?

Kỳ Bá:

- Ung phát ở họng gọi là Mãnh thư (ung ở hầu họng - phát triển mãnh liệt). Nếu chữa không kịp thời thì dễ hóa mủ, nếu không tháo được mủ sẽ làm tắc họng, và sau 1/2 ngày thì chết. Khi đã có mủ, thì phải tháo mủ rồi uống mỡ lợn lạnh sau 3 ngày sẽ khỏi.

- Ung phát ở cổ gọi là Yêu thư (rất nguy hiểm - ít người lành nên gọi là yêu (quái)). Ung này to màu đỏ đen, nếu không chữa gấp thì khí nhiệt xuống Uyên dịch (nách), ở trước nó xâm phạm mạch Nhâm, ở trong nó hun đốt Can Phế. Khi vào đến Can Phế rồi thì 10 ngày sẽ chết.

- Dương khí lưu ở trong (tà nhiệt) phát ra ở gáy làm cho não như bị tiêu lạc (nung đốt) gọi là Não lạo. Thần xác của người bệnh không vui, gáy đau như bị kim đâm. Nếu (nhiệt độc vào trong, sẽ có) trong tâm phiền táo, là chứng chết không chữa được.

(Lạc là tiêu lạc, là lửa to nung chảy kim loại).

- Ung phát ra ở vai và cánh tay, gọi là Từ ung (ung ở vai). Nó có mầu đỏ đen cần phải chữa gấp, và làm ra mồ hôi cho đến bàn chân mới có thể không làm hại ngũ tạng. Nếu đã phát 4, 5 ngày, cần dùng cách cứu ngay.

- Ung phát ở dưới nách, đỏ cứng, gọi là Mễ thư (mễ có ý nhỏ như hạt gạo), dùng biếm thạch để chữa, dùng loại dài nhỏ, chích rải rác và bôi mỡ lợn 6 ngày thì khỏi và không cần băng. Ung nào cứng mà không vỡ là Mã đao hiệp anh, cần chữa gấp.

- Ung phát ra ở ngực gọi là Tỉnh thư (sâu và nguy hiểm). Nó giống hạt đậu to, trong vòng 3, 4 ngày đầu, nếu không chữa sớm thì sẽ lan xuống bụng, không chữa thì 7 ngày sẽ chết.

(Chú: Nó là ung nhọt ở gần vùng Tim, và còn gọi là Xuyên tâm lãnh hậu, Tâm lậu thư, Xuyên tâm độc - rất khó chữa).

- Ung phát ra ở ngực (ưng song) là Cam thư (kinh Dương minh nên thuộc Thổ - ngọt), màu nó xanh, dáng như hình hoàn đan, hạt quá lâu, thường sốt, rét run, cần chữa gấp để trừ hàn nhiệt, nhưng 10 năm sau vẫn chết, và sau khi chết mới vỡ mủ.

- Ung phát ở sườn gọi là Bại tử, là bệnh của nữ, nếu dùng cứu thì sẽ làm mủ nhiều lên. Trong điều trị, cần chú ý ở trong có sinh cơ như hạt đậu đỏ, dùng Liên kiều (thảo và rễ) mỗi thứ 1 thăng, cho vào 1 đấu 6 thăng nước đun kỹ còn 3 thăng, uống lúc nóng, uống xong mặc nhiều quần áo ngồi trên nồi đang nóng để xông cho ra mồ hôi đến bàn chân, sẽ khỏi.

- Ung phát ở đùi, cẳng chân, gọi là Cổ kinh thư. Tuy nhiên không có thay đổi nhiều, nhưng ở trong mủ lại nhiều làm thối xương, nếu không chữa gấp thì 30 ngày sẽ chết.

- Ung phát ở vùng cùng cụt gọi là Nhuệ thư (vì ở chỗ cuối cùng của xương cụt gọi là nhuệ). Dáng của nó đỏ cứng to, cần chữa gấp, nếu không sẽ chết trong vòng 30 ngày.

- Ung phát ở mặt trong đùi gọi là Xích thư (vì nó ở vùng kinh Âm nên) nếu không chữa gấp sẽ chết trong vòng 16 ngày. Nếu cả hai bên đều bị mà không chữa gấp sẽ chết trong vòng 10 ngày.

- Ung phát ở gối, gọi là Từ ung. Dáng ung to, màu không đổi, sốt rét, cứng như đá, mới mắc không được dùng biếm thạch để chích, nếu chích sẽ chết, đợi nó mềm ra mới được chích tháo mủ và sẽ sống.

- Các ung nhọt phát ra ở khớp và đối xứng theo trên dưới, phải trái đều là chứng khó chữa. Ung phát ra ở phần Dương 100 ngày sẽ chết. Ung phát ra ở phần Âm 30 ngày sẽ chết.

- Ung phát ở cẳng chân là "Thỏ gặm", mầu đỏ, vào đến xương cần chữa gấp, nếu không chữa sẽ làm hại người.

- Ung phát ở mắt cá trong gọi là Tẩu tùy (tức ung nhọt ở mắt cá trong). Bên ngoài giống ung, sắc không thay đổi, dùng biếm thạch để chích chỗ sưng (số thạch kỳ du), sẽ làm hết hàn nhiệt của nó và không chết.

- Ung phát ở trên dưới bàn chân gọi là Tứ (2 bàn chân trên và dưới) dâm (tà độc thịnh). Nó giống loại ung to, cần chữa sớm nếu không sẽ chết trong 100 ngày.

- Ung phát ở cạnh bàn chân gọi là Lệ ung. Nó không to, mới đầu như ngón út (do tà khí ở kinh lạc), nếu phát bệnh phải chữa ngay, lấy đi phần đen trong đó. Nếu không lấy được, bệnh sẽ nặng, nếu kéo dài không chữa sẽ chết trong 100 ngày.

- Ung phát ở ngón chân gọi là Thoát ung (thoát thư) nó mầu đỏ đen, chứng chết không chữa được. Nếu chưa có mầu đỏ đen thì chưa chết. Nếu tà khí không suy, phải cắt bỏ ngón chân, nếu không khó tránh khỏi chết.

(Ngoại khoa chính tông viết: "Thoát thư là ngoài thối trong hoại...thường phát ở chân tay...mới đầu như hạt kê, đầu có phỏng nhỏ mầu vàng, da như tái đỏ luộc chín, mầu đen lan dần ra 5 ngón, lên bàn chân, đau như bị bỏng nước, bỏng lửa, xương khô gân róc, mùi hôi rất khó ngửi, tính mệnh dù là phương thuốc tiên cũng khó chữa).

Hoàng đế: Ung và Thư khác nhau ở chỗ nào?

Kỳ Bá: Khí dinh vệ ngưng lại ở trong kinh mạch thì huyết ngưng tụ không hành, làm vệ khí bị trở ngại cũng không thông và phát sốt. Nếu sốt cao không ngừng, nhiệt thống thì thịt sẽ nát mục, nát mục sẽ thành mủ. Nhưng nhiệt độc (chỉ nổi ở biểu) không lõm vào trong, xương tủy sẽ không bị khô héo, ngũ tạng không bị thương, nên gọi là Ung (tức ung).

Hoàng đế: Thư là gì?

Kỳ Bá: Thư là khí nhiệt thịnh lõm xuống (mủ độc đi vào) cơ phu, làm gân teo tủy khô, vào đến ngũ tạng gây khí huyết kiệt, ở phần sâu dưới ung, gân xương thịt lành đều bị thối nát, gọi là Thư. Đặc điểm của Thư mầu da cam (không bóng) cứng (dầy) như da cổ trâu bò. Đặc điểm của Ung, da mỏng, bóng. Đó là chẩn đoán phân biệt của Ung và Thư.


Tiêu đề: Re: Linh khu
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 10, 2017, 11:41:21 PM
Mục Lục

(https://s20.postimg.org/sgrfgv7pp/Ng%E1%BB%AF_Loan.jpg)

Lời nói đầu                                                                                                        5
    
Quyển thứ nhất                                                                                        .

1. Chín loại kim - 12 huyệt nguyên                                                                       7

2. Các huyệt du của mỗi đường kinh - Bản du                                                      10

3. Giải thích về cách châm kim nhỏ (Tiểu châm giải)                                             14

4. Tình hình bệnh tật của tạng phủ khi bị tà khí (Tà khí tạng phủ bệnh tình)            15

Quyển thứ hai

5. Căn kết (Huyệt căn và huyệt kết)                                                                     22

6. Thọ yểu cương nhu                                                                                         24

7. Cách sử dụng của kim (quan châm)                                                                 27

8. Nguồn gốc của thần (Bản thần)                                                                        29

9. Bắt đầu và kết thúc (Chung thủy)                                                                     32

Quyển thứ ba

10. Khí mạch                                                                                                      38

11. Kinh nhánh (Kinh biệt)                                                                                   46

12. Kinh thủy                                                                                                      48

Quyển thứ bốn

13. Kinh cân                                                                                                       51

14. Độ dài của xương (Cốt độ)                                                                              54

15. Năm mươi chu kỳ (Ngũ thập dinh)                                                                   55

16. Dinh khí                                                                                                        57

17. Độ dài của kinh mạch (Mạch độ)                                                                      57

18. Chỗ sinh ra và nơi hội lại của dinh vệ (Dinh vệ sinh hội luận)                             59

19. Khí hậu bốn mùa (Tứ thời khí)                                                                         61

Quyển thứ năm

20. Tà khí của năm tạng (Ngũ tà)                                                                          64

21. Bệnh hàn nhiệt (Hàn nhiệt bệnh)                                                                     64

22. Điên cuồng                                                                                                     66

23. Bệnh nhiệt (Nhiệt bệnh)                                                                                  68

24. Bệnh quyết (Quyết bệnh)                                                                                 71

25. Gốc của bệnh (Bệnh bản)                                                                                 73

26. Tạp bệnh                                                                                                        73

27. Chu tý                                                                                                            75

28. Hỏi miệng (Khẩu vấn)                                                                                      76

Quyển thứ sáu

29. Thầy truyền lại (Sư truyền)                                                                              79

30. Phân loại khí (khí quyết)                                                                                   80

31. Trường vị                                                                                                         81

32. Người khỏe nhịn ăn (Bình nhân tuyệt cốc)                                                           82

33. Luận về biển (Hải luận)                                                                                      83

34. Ngũ loạn (Năm cái loạn)                                                                                     84

35. Luận về chướng (Chướng luận)                                                                            85

36. Năm bế của tân dịch (Ngũ lung tân dịch biệt)                                                        86

37. Biểu hiện của khí và sắc trạch của ngũ tạng (Ngũ duyệt, ngũ sử)                            88

38. Nghịch thuận gầy béo (Nghịch thuận phì sấu)                                                        89

39. Luận về huyết lạc (Huyết lạc luận)                                                                        90

40. Âm dương trong đục (Âm dương thanh trọc)                                                          91

Quyển thứ bảy

41. Hệ âm dương nhật nguyệt (Âm dương hệ nhật nguyệt)                                            93

42. Phương thức truyền bệnh (Bệnh truyền)                                                                 96

43. Dâm tà phát mộng                                                                                                98

44. Khi khí thuận, một ngày chia làm 4 thời (Thuận khí nhất nhật phân tứ thời)               98

45. Từ biểu hiện ở ngoài suy đoán bệnh của nội tạng (Ngoại sủy)                                    100

46. Năm loại bệnh tý (Ngũ biến)                                                                                   101

47. Bản tạng                                                                                                               103

Quyển thứ tám

48. Chữa lung tung và chữa theo phép tắc (Cấm phục)                                                   107

49. Năm màu sắc (Ngũ sắc)                                                                                          108

50. Bàn về dũng cảm (Luận dũng)                                                                                 111

51. Huyệt du ở lưng (Bối du)                                                                                         113

52. Khí bảo vệ (Vệ khí)                                                                                                 113

53. Luận về đau (Luận thống)                                                                                       114

54. Tuổi trời (Thiên niên)                                                                                              115

55. Nghịch thuận                                                                                                         116

56. Ngũ vị                                                                                                                   116

Quyển thứ chín

57.Thủy chứng                                                                                                             119

58. Tặc phong (Gió độc)                                                                                                119

59. Khí bảo vệ mất bình thường (Vệ khí thất thường)                                                       120

60. Bản ngọc (Ngọc bản)                                                                                               122

61. Năm điều cấm (Ngũ cấm)                                                                                        124

62. Các huyệt động (Động du)                                                                                       125

63. Ngũ vị                                                                                                                    127

64. Hai mươi nhăm lọa hình người (Âm Dương nhị thập ngũ nhân)                                    127

Quyển thứ mười

65. Năm âm thanh, năm vị (Ngũ âm, ngũ vị)                                                                  133

66. Nguyên nhân gây bệnh (Bách bệnh sử sinh)                                                              136

67. Cách châm (Hành châm)                                                                                          138

68. Thượng cách                                                                                                           139

69. Âu sầu, phẫn nộ gây mất tiếng (Ưu hủy vô ngôn)                                                       140

70. Nóng lạnh (Hàn nhiệt)                                                                                              140

71. Tà khí lưu lại ở người (Tà khách)                                                                               141

72. Thông thiên                                                                                                             144

Quyển thứ mười một

73. Sử dụng tùy tài năng (Quan năng)                                                                             147

74. Chẩn đoán bệnh qua da phía trụ (Luận tật chẩn xích)                                                  150

75. Thích tiết chân tà                                                                                                     152

76. Tuần hành của khí bảo vệ (Vệ khí hành)                                                                    156

77. Chín cung tám phong (Cửu cung bát phong)                                                              159

Quyển thứ mười hai

78. Bàn về 9 loại kim (Cửu châm luận)                                                                           164

79. Mưa gió trái thường trong năm (Tuế lộ)                                                                     169

80. Luận về sự mê hoặc (Đại hoặc luận)                                                                          172

81. Ung nhọt (Ung thư)                                                                                                 174