Tứ Hải giai huynh đệ

Võ thuật - Martial Art => Tông phái - Sects => Tác giả chủ đề:: ongxabeo trong Tháng Năm 05, 2008, 03:35:57 PM



Tiêu đề: CÁC HỆ PHÁI KARATE
Gửi bởi: ongxabeo trong Tháng Năm 05, 2008, 03:35:57 PM
Shotokan, lốI đánh thấp đầy uy quyền:

Môn shotokan tự nó đã rất khác so vớI các môn khác bởI vị trí chiến đấu thấp và biên độ lớn trong kỹ thuật. Những vị trí chiến đấu thấp tạo ra lợI thế làm tăng phần cơ dưới. Shotokan đòi hỏI động tác phảI mạnh, không chỉ bởI tính ổn định của vị trí chiến đấu mà còn ở phần hông vững vàng. Trong khi di chuyển, phần hông luôn luôn phảI giữ ngang tầm. Shotokan là môn chiến đấu thấp, đầy lực và nhịp nhàng, chậm và nhanh đan xen nhau. Điều này rất quan trọng và cũng là quy luật khắc nghiệt trong chuyển động tay chân. Ví dụ như trong khi di chuyển hay ở những kỹ thuật chân, hông phảI luôn giữ ở một vị trí cố định. Đặc biệt nhịp thở không được phát ra mạnh khi thót bụng. Những bước nhảy cũng đòi hỏI tính kỹ thuật một cách nghiêm khắc chứ không đơn thuần mang tính chất thể dục trong môn shotokan.

Wado-ryu, sự kết hợp giữa Karaté và Ju-jutsu:

Môn wado-ryu trước hết là một môn rất có kỹ thuật, một lốI chiến đấu luôn luôn thay đổI và hoàn toàn khó nắm bắt trong đó tính uyển chuyển là một khái niệm hết sức quan trọng. Có 3 nguyên tắc trong trường phái Wado-ryu: Noru (phốI hợp trong tấn công và phòng thủ ở cùng một động tác), Nagasu (hít thở) và Inasu (làm trệch hướng). Một khía cạnh nữa cũng không kém phần quan trọng là tính kềim chế và giữ khoảng cách vớI đốI thủ. Nguyên tắc này về cơ bản mang tính quyết định rất cao. Thực ra, bản chất của Karaté Wado ryu đã tự thu tóm trong một tổng thể mở của tinh thần và lòng dũng cảm.

Shito ryu, môn võ của nghệ thuật kata:

Các đặc điểm kỹ thuật của Shito ryu phỏng theo Shuri-Té và Nahaté. Phong cách được đánh dấu bằng sự tinh tế (nhận thức sự tấn công) và độ nhanh nhậy (hay còn gọI là tốc độ chuyển động và nắm bắt cuộc chiến). Những kỹ thuật dựa trên tính linh hoạt của vùng hông và những chuyển động nhịp nhàng của cơ thể. Môn Shito-ryu đòi hỏI cơ thể phảI ở vị trí tự nhiên, tay ở tư thế mở. Ở Shito-ryu ngườI ta cũng tìm thấy tính liên kết về lực, một trạng thái cân bằng làm hài hòa cơ thể và duy trì sức khỏe. BởI vậy Shito-ryu cũng là một trường phái thi đấu dẻo dai và đầy chất uyển chuyển.

Goju-ryu, kết hợp giữa sức mạnh và tính mềm mại:

Môn Goju ryu dựa trên những khái niệm uyển chuyển và là sự kết hợp giữa hai thuật ngữ “Go” (cương: cứng rắn) và “Ju”(nhu: mềm mạI). Cả hai khái niệm này đều có tầm quan trọng và tính quyết định cao ngang bằng nhau để tạo nên môn Goju ryu. Khoảng cách cần thiết trong trường phái này cho phép ngườI ta có thể thực hiện một cách có hiệu lực những cú chặt đòn, những cú khóa đòn và phóng những đòn bằng tay một cách có hiệu quả hơn. Ngoài ra, ở hệ phái Goju ryu, toàn bộ cơ thể như một động cơ chuyển động, lực tập trung nhiều ở cơ bụng. Do vậy những cú đạp và đá tập trung sức mạnh ghê gớm. Cũng giống như những hệ phái truyền thống khác của Okinawa, kỹ thuật bằng tay cũng có một vị trí quan trọng. Goju ryu là một phương pháp tự vệ tuyệt vờI cũng như tôi luyện sức khỏe, và lòng tự tin là nền tảng cơ bản của hệ phái.


Tiêu đề: Re: Các hệ phái Karate
Gửi bởi: Tây Hồ trong Tháng Năm 05, 2008, 03:52:06 PM
Tứ hệ phái Karate

Năm 1930, thầy Kenwa Mabuni (Chưởng môn Hệ phái Shito Ryu) và Chojun Miyagi (Chưởng môn Hệ phái Goju Ryu) cũng đã thành lập nhiều Câu lạc bộ Karatedo lớn ở Osaka. Đến năm 1935, thầy Gichin Funakoshi biên soạn và xuất bản cuốn sách “Karatedo Kyohan” tạo bước phát triển vững chắc trong làng võ thuật Nhật Bản. Năm 1936, thầy đã thành lập Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu). Sau này, thầy Hironiri Ohtsuka cũng thành lập Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu). Bốn hệ phái chính này có một số nét đặc trưng phòng ngự như sau: 
 
1) Hệ phái Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu): “Đòn đỡ cũng là đòn tấn công dưới sự bộc phát của cường lực (Kime) cao nhất”. 
 
a) Sức mạnh: Tốc độ càng nhanh thì sức càng mạnh, cường lực càng dũng mãnh mới xuyên phá được mục tiêu như khi luyện công phá. Bạn phải tập trung sức mạnh bàn tay (hoặc chân) và khi va chạm phải xuyên suốt bất kỳ vật cản nào mới mang lại hiệu quả. Trong đối kháng hiện đại, khi một đòn đấm thuận vào trung tâm cơ thể đối phương, bạn dùng bàn chân trước để xoay mũi chân sau về trước, tay cùng chiều với chân đấm ra chuyển thân mình thành tấn trước, vai nghiêng 450 khi chân chạm đất trước mặt. Hiệu quả của nó là ở cường lực xuyên phá. Trong đối kháng truyền thống, lúc đối phương đang lao nhanh vào tấn công bạn là thời điểm bạn sử dụng sức mạnh tối đa, chỉ cần một kỹ thuật đá ngang (Yoko geri) cho hai lực nghịch cộng lại sẽ có hiệu quả tốt. Đỡ bằng nắm đấm (Ken) để ngăn chặn đòn tấn công của đối phương trực tiếp là lấy sức mạnh để phá vỡ sức mạnh.

b) Tốc độ: Đỡ nhanh nhẹn, nhu nhuyễn. Nó thuần về kỹ thuật tay mở (Sho), không va chạm trực tiếp, để linh hoạt dự bị cho những kỹ thuật phản công ngay sau khi đỡ. Đồng thời, bạn phải phối hợp tốt di chuyển thân pháp nhanh nhẹn để thực hiện kỹ thuật.

(http://www.vothuat.net.vn/Modules/CMS/Upload/Article/Karate1.jpg)

Những kỹ thuật căn bản nhưng được tập luyện thường xuyên như: Jodan age uke, Chudan uchi uke, Gedan Barai để được chuẩn xác phương hướng, phát lực hiệu quả. Sau đó, bạn tăng tốc độ, di chuyển theo đòn tấn công của đối phương. Những kỹ thuật này được biến thế qua kỹ thuật tay mở. Dạng này cũng được áp dụng trong các quyền thức các bài quyền nhập môn chủ yếu là nắm tay. Khi quá trình luyện tập lâu hơn, theo trình độ tăng tiến, bàn tay mở sẽ áp dụng nhiều hơn. Đòn đỡ của Shotokan Ryu là Tốc độ + Sức mạnh = Kime. 
 
2) Hệ phái Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu): “ Đòn đỡ cũng là điều kiện để tấn công”. 
 
Đòn đỡ luôn là động tác dự bị tấn công, nó sẽ không thực hiện nếu không nhằm mục đích tấn công. Đòn đỡ muốn có hiệu quả phải trên cơ sở đòn tấn công của đối phương nương theo chiều tấn công, không cản lại bằng những kỹ thuật Nagashi (dòng chảy), Inashi (đã qua) và Nori (cưỡi) để làm giảm lực tấn công của đối phương. 
 
Khi đỡ đòn, kỹ thuật rất đa dạng, nhiều bộ vị trên cơ thể được sử dụng triệt để, tiến thoái xoay chuyển được chia đều cho toàn thân để nương một cực nhỏ chống đối lại cực lớn với phương pháp “Tam vị nhất thể” (3 trong 1). Ví dụ: đối phương tấn công một đòn đấm vào mặt, bạn sẽ nương theo đòn ấy chia đều khoảng cách cho các kỹ pháp: chuyển vị tức là thay đổi vị trí chân, chuyển thể tức là xoay chuyển toàn thân bằng hông và chuyển kỹ tức là làm biến đổi kỹ pháp. Nếu được vậy, bạn sẽ không chỉ vận dụng nhiều kỹ thuật ở đôi tay mà là của kỹ thuật toàn thân. 
 
Trong tập luyện, bạn luôn ý thức ”Phòng ngự là tấn công và tấn công cũng là phòng ngự”, không sử dụng kỹ thuật đơn điệu mà phải sáng tạo. 
 
3) Hệ phái Shito Ryu (Mịch Đông Lưu):“Quán tưởng (nhìn thấy) đối phương để có kỹ thuật phù hợp”. 
 
Hệ phái này chú trọng các động tác nhanh nhẹn,tư thế đối kháng với tấn cao di động hữu hiệu, ít sử dụng lực, không cứng nhắc nguyên tắc mà sáng tạo phù hợp theo thể tạng mỗi người. 
 
Quan điểm của Hệ phái Shito Ryu theo phương châm: 
 
a) Rakka (Cánh hoa rơi): Đón đỡ đòn tấn công của đối phương đến như hứng đỡ cánh hoa đang rơi xuống mặt đất. 
 
b) Ryusui (Dòng chảy): Khi đỡ đòn tấn công của đối phương, ta phải nương theo lực đánh của họ như dòng nước chảy chứ không đỡ trực tiếp. 
 
c) Ten-i (Hoán vị): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta di chuyển thích hợp theo một trong tám hướng với đòn tấn công đó. 
 
d) Kussin (Ẩn thân): Đòn tấn công của đối phương đến, chúng ta hóa giải bằng cách co duỗi thân thể, tạo khoảng cách an toàn mà đòn tấn công không thể va chạm được, ngay sau đó trở về vị trí cũ để phản công. 
 
e) Hangeki (Phản kích): Phòng ngự và tấn công là một (Công phòng nhất thể), các bạn hóa giải được từ dự đoán được đòn tấn công của đối phương và phản công ngay cử động đầu tiên. 
 
Tất cả phương pháp hóa giải của Hệ phái Shito Ryu được tập luyện từ kỹ thuật căn bản đến quyền thức, luôn ước lượng tốc độ, sức mạnh đối phương để áp dụng kỹ thuật có lợi thế cho ta. Nếu bạn cảm thấy tình huống khoảng cách không có lực, hãy áp dụng “Cánh hoa rơi”. Bạn hãy luôn soi rọi, tìm kiếm kẻ hở của đối phương để có kỹ thuật phù hợp. 

(http://www.vothuat.net.vn/Modules/CMS/Upload/Article/Karate2.jpg)

4 )Hệ phái Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu): 
 
Quan niệm của hệ phái này là “Chuyển động tròn” tức ứng dụng trong phòng ngự hoặc tấn công muốn có hiệu quả tốt, phải xoay chuyển liên động của các thành phần thân thể: hông, vai, cánh tay, chân v.v…Để hóa giải, bạn ứng dụng quán tính Moment (↑↔↓M=F. d ) vào kỹ thuật để lực mạnh nhất phát sinh vào giai đoạn giữa, khi lực va chạm đến sẽ bị triệt tiêu. Trong Goju Ryu, kỹ thuật được ước lượng tốc độ và sức mạnh, những sức mạnh không có lợi sẽ bị loại bỏ dần, kết hợp với các kỹ thuật nhu để cương nhu được nhuần nhuyển tạo ra sức mạnh tối đa. Hệ phái này chú trọng những điểm nhấn về các động tác nhanh-chậm-thả lỏng kết hợp sự điều khí hít thở cơ bụng, các kỹ thuật ngắn gọn, chặt chẽ. Phương pháp tập luyện có 3 cách: 
 
a) Luyện kỹ thuật Hachisabaki (Tám tám): Cánh tay xoay chuyển theo hình số 8 tạo sự linh hoạt cho chân và hông. Phương pháp di chuyển 4 phương hướng chính 900 và 4 hướng chếch 450. 
 
b) Kakie (Quái thủ): Tạo sự niêm dính của hai cánh tay. 
 
c) Sanchin (Tam chiến): Bài quyền giúp tấn pháp kiên cố để phát triển toàn diện. 
 
Karatedo có trên một trăm hệ phái, mặc dù có rất nhiều hệ phái khác nhau nhưng tất cả đều theo một hệ thống võ thuật thế giới. 
 
Đến năm 1940, Karatedo được tôn vinh ở Nhật Bản, trở thành bộ môn tiêu biểu nhất trong làng võ thuật nước này, rất nhiều trường Trung, Đại học đã thành lập Câu lạc bộ riêng. Karatedo không những được giới trẻ yêu thích để phát triển thân thể cường tráng, giáo dục tinh thần và thể chất mà còn đến với giới trung niên, các em thiếu niên như một phương cách gìn giữ sức khỏe. Môn võ này cũng rất tiện ích cho người phụ nữ nào muốn có một thân hình thon thả và để tự vệ khi cần thiết.

Cũng vào năm này, thầy Choji Suzuki (Tổ sư của Karatedo Việt Nam) - Thuộc Hệ phái Takeno Uchi Ryu (Trúc Chi Nội lưu) của dòng thiền Soto (Tào Động) ở Nagasaki truyền thụ với mục đích “làm giàu tri thức, giàu ứng xử và giúp người là giúp mình”. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc vào năm 1945, thầy tình nguyện ở lại Việt Nam dạy những bài võ Karatedo truyền thống đầu tiên mang tính chiến đấu thực dụng cho bộ đội, tự vệ ở Liên khu bốn, sau đó chuyển công tác về Liên khu năm.   
 
Đến năm 1956, thầy thành lập Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo (Suzucho Karatedo Dojo Noen Ryu) tại Huế, Suzucho là họ và tên ghép của người sáng lập nhưng cũng có nghĩa là “Tiếng chuông vang xa”.   
 
Hệ thống giảng dạy của hệ phái này là phương pháp Tewaza, Ashiwaza, Ukewaza, Ozodosad… cùng 9 bài quyền Yen và Maki nhằm mục đích “làm giàu tri thức, giàu ứng xử và không vì danh lợi cá nhân, quyền lực, được, mất, thực, hư ở cõi người” với tôn chỉ truyền thống: “Nhân ái, Trí tuệ, Dũng cảm” để rèn luyện tinh thần và thể chất, hành xử quang minh, chính trực, công bằng và cao thượng. Lấy sự chính trực và lòng chân thật làm hành trang đi tới Đạo.   
 
Với môn quy rất nghiêm khắc, người nhập môn phải chuẩn mực đạo đức, tôn trọng Đạo đường (Dojo), nghi thức, trung thực với mọi người, không chửi thề, thậm chí không hút thuốc lá, uống rượu. Họ được tôi luyện để bình thản với thắng, thua ở đời thường bằng một niềm tin, thấu đáo mọi lẽ, với khát vọng, ước ao đã hoạch định để hành động nổ lực đến mục đích mong muốn, nhằm vươn tới Chân - Thiện - Mỹ.   
 
Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu có độ dày hoạt động khá lâu và nhất là thầy Chưởng môn sống gắn bó hơn nữa cuộc đời mình với Việt Nam - Nơi có truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng nên hấp thụ nền văn hóa ở đây. Vì thế, môn võ này mặc nhiên trở thành Karatedo Việt Nam, có lực lượng môn sinh đông đảo nhất.   
 
Hiện nay hơn bốn vạn người tập luyện hằng ngày với năm khu vực của sáu mươi tư tỉnh, thành. Ngoài ra, hệ phái còn có trên mười Phân đường đã phát triển ở các quốc gia khác như Australia, Mỹ, Canada và Đông âu…   
 
Thời gian qua, Karatedo Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả vẻ vang với rất nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới mang vinh quang về cho Tổ quốc. Tổ chức Hệ phái hoạt động theo truyền thống của cố Chưởng môn đời thứ nhất: Choji Suzuki, được sự bảo trợ của Uỷ ban Thể dục Thể thao Việt Nam.   
 
Chưởng môn bổ nhiệm Trưởng tràng thành lập Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban Chuyên môn. Chưởng môn có thể bãi miễn nếu Trưởng tràng và Ban Chấp hành làm việc không hiệu quả.   
 
Hiện nay, Hệ phái này đã chuẩn hóa kỹ thuật hài hòa với bốn Lưu phái chính là Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu), Wado Ryu (Hòa Đạo Lưu), Shito Ryu (Mịch Đông Lưu) và Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu) để cải tiến phương pháp huấn luyện và luyện tập được phát triển trên diện rộng. Môn võ này có thể hoà trộn, thẩm thấu Karatedo Hiện đại và Karatedo Truyền thống để trở thành Karatedo Việt Nam nhưng nét đặc trưng của Suzucho Ryu - Nền móng của tự vệ truyền thống sẽ không lẫn vào đâu được.   
 
Ngày 18-3-2007, Hệ phái Suzucho Ryu đã tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2007-2012) tại TP.Hồ Chí Minh, đã thống nhất 9 chương trình hành động cụ thể của nhiệm kỳ này với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, chủ động hội nhập và phát triển. Đại hội đã thông qua sửa đổi môn quy, quyết định kể từ nay hệ phái có tên gọi là Suzucho Karatedo Ryu (Linh Trường Không Thủ Đạo Phái), phù hiệu hệ phái theo đúng mẫu cũ (Sư huynh Hạ Quốc Huy thiết kế từ tháng 3-1973),   
 
Tổ sư Suzucho Karatedo Ryu : Choji Suzuki (Phan Văn Phúc).   
 
Chưởng môn đời thứ hai: Tokuo Suzuki (Phan Văn Minh Đức).   
 
Học trò xuất sắc của thầy Choji Suzuki là:   
 
Lê Văn Thạnh, hiện Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Trọng tài Quốc gia - Huấn luyện viên Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trưởng Bộ môn Karatedo tỉnh TT Huế   
 
Lê Công - Phó Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karatedo Ryu - Phó Chủ tịch Liên đoàn Karatedo Lâm thời Việt Nam - Huấn luyện viên Trưởng Đội tuyển Karatedo Việt Nam - Trọng tài Quốc gia; Phó Trưởng tràng Ngô Văn Thanh, Phó Trưởng tràng Nguyễn Tấn Kiệt và Tổng thư ký Nguyễn Ngọc Thạo…   
 
Ngoài ra, còn có các cao đồ và môn đồ như Henry Nguyễn Xuân Dũng, Hạ Quốc Huy, Trần Đình Tùng, Khương Công Thêm, Hoàng Như Bôn, Nguyễn Bá Kiều, Trần Định, Dương Đình Vinh, Nguyễn Chí Trí, Tôn Vĩ Đại, Trương Dẫn, Nguyễn Đình Kỉnh, Phan Hữu Bốn, Nguyễn Thông, Trương Đình Hùng, Lê Văn Phước, Hoàng Công Minh, Nguyễn Đình Anh Tuấn, Nguyễn Thành Tự, Nguyễn Phi Hổ, Huỳnh Văn Muôn, Lê Văn Lộc, Lê Văn Thọ, Hồ Vũ Sang, Vũ Kim Anh, Nguyễn Nguyệt Ánh, Nguyễn Đình Sơn, Dương Phước Hùng, Võ Ngọc Tín, Dương Đình Hội, Nguyễn Kính, Hoàng Mai Sơn, Phạm Hồng Hà, Hà Thị Kiều Trang, Nguyễn Thị Thảo Quyên, Hồ Thu Nguyệt Hằng, Nguyễn Hoàng Ngân v.v…đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển Karatedo Việt Nam ngày nay.