Tứ Hải giai huynh đệ

Đông Y - Traditional Medicine => Châm cứu - Án ma - Acupuncture - Massage => Tác giả chủ đề:: tuhaibajai trong Tháng Tám 08, 2018, 05:06:48 PM



Tiêu đề: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 08, 2018, 05:06:48 PM
Lời nói đầu

 Cách đây 24 năm, trong tay tôi đã có được bộ sách (Châm Cứu – Tư Sinh Kinh của Vương Chấp Trung).

 Thoạt đầu, tôi đã rất trân trọng, vì chỉ mới qua bảng kê loại bệnh mà tác giả sưu tầm, giới thiệu trong sách, chúng đã làm thoả mãn ngay ước vọng tìm học của tôi.

 Dần dần, trong những năm chống Mỹ xâm lược, từ các nẻo đường sơ tán ở miền Bắc, cũng như những ngày hành quân dọc đường Trường sơn vào Nam đánh Mỹ, tôi đọc sách, rồi đối chứng tìm phương, đã chữa được nhiều chứng bệnh bằng những phương đơn giản. Từ đó đến nay không mấy ngày mà tôi không đọc sách này.

 Mỗi một lần đọc lại, tôi luôn như thấy thêm một vẻ mới. Buổi đầu chỉ là lòng mong ước tìm đúng chứng người bệnh kể mà trong sách đã mô tả, theo đó chọn huyệt mà chữa. Sau này khi hiểu biết về Y-Lý, Đông-Tây khá hơn, tôi có thể chỉ qua mô tả triệu chứng trong sách mà đã suy thấy những nguồn gốc tinh tế gây ra chứng đó. Và càng hiểu tác giả “Tư Sinh Kinh” đã có công cố gắng hết sức biết chừng nào, trong điều kiện phương tiện kỹ thuật của người thầy thuốc phân tích bệnh thời đó rất hạn chế.

 Tôi xin kể 2 ví dụ và kết quả ứng dụng của tôi theo sách đã dẫn như sau:

 - Vào mùa hè 1965, khi tôi ở thôn Hữu Định, xã Quang Minh, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Hà Bắc, khoảng 4 giờ chiều, anh bạn tôi nhờ sang xem bệnh cho con ông chủ nhà. Tôi tới nơi, thấy một em bé gái khoảng hơn 10 tuổi, có đôi mắt vàng khè như 2 chiếc lá rụng. Theo lời ông bố kể, em bé mới bị trong vòng nửa giờ. Sợ có những đột biến về gan-mật. Tôi khuyên gia đình nên mượn võng cáng, chuẩn bị đưa em đi bệnh viện. Trong khi chờ đợi, tôi mở sách đọc phần phụ “Mục hoàng”, trong đoạn “Mục xích”, thấy ở đó có mấy chữ “Não hộ, Đảm du, Ý xá, Dương cương” trị “Mục hoàng”. Tôi liền theo phương đó châm ngay. Lạ lùng thay, chỉ sau chừng 5 phút vê kim, kích thích, người bạn tôi ngồi theo dõi, đã phát hiện ra mắt em bé trở lại như thường. Thế là việc đi bệnh viện vô cùng vất vả đã được bãi bỏ. Để yên tâm hơn, buổi sáng hôm sau, theo phương đó, tôi châm thêm lần nữa, cho mãi tới cuối năm 1973, sau khi từ miền Nam trở ra, tôi ghé thăm cơ sở cũ. Vừa gặp lại, ông bố em bé cho biết, từ đó đến nay em không bị bệnh đó trở lại. Hiện em đã lấy chồng và có con rồi.

 - Năm 1969, tại vùng căn cứ trong rừng sâu tỉnh Tuyên Đức (nay là thành phố Đà Lạt), tôi nhận được thư bác sĩ Chính, phụ trách một bệnh xá ở trong vùng (ông cùng đoàn với tôi). Theo yêu cầu của ông, tôi đã dịch toàn bộ phần “Thuỷ thũng”, ở các trang 54, 55, 58 quyển IV, sách châm cứu “Tư Sinh Kinh” để ông dùng. Sau này gặp lại, ông cho biết, bài đó đã giúp ông thay đổi chọn dùng, chữa khỏi một bệnh binh bị phù thận nhiễm mỡ. Trong hoàn cảnh thiếu thốn của căn cứ kháng chiến lúc đó, thế mà hằng năm sau, bệnh nhân đó không có dấu hiệu tái phát. Ngay cả bác sỹ Chính cũng phải ngạc nhiên hết đỗi. Bởi vì vốn bệnh học Tây-Y của ông đã gây ấn tượng cho ông rằng, phù thận nhiễm mỡ là một bệnh chứng nan y.

 Theo yêu cầu bạn bè và cũng là ý muốn giúp cho con cháu trong nhà tiện dùng, tôi dịch lại bộ sách này bằng hiểu biết và kinh nghiệm có hạn của mình.

 Tiến hành dịch, tôi gặp rất nhiều khó khăn tưởng khó có thể vượt qua, trước hết phải kể đến vốn từ quá ít của tôi về Hán cổ, theo văn phong cách đây gần một Thiên Niên Kỷ, nhất là những đoạn tự truyện kinh nghiệm riêng của ông, đã khiến cho tôi phải nhờ đến nhiều loại từ điển, và cân nhắc tỷ mỉ từng ý nghĩa khác nhau của từ. Tuy vậy, dù có cố gắng thế nào, những thiếu sót cũng vẫn còn nhiều.

 Hy vọng của tôi là ở những phần về chứng bệnh và phương huyệt, cũng như cách sử dụng tôi cố gắng mô tả rõ ràng ý của người viết, để người xem bản dịch có thể khai thác được kinh nghiệm.

 Xem sách của “Vương Chấp Trung” viết, tôi thấy tư cách ông thật đáng kính trọng ở mức độ rất cao.

 Ông không những chỉ có tấm lòng cứu người, mà trong trước tác của mình, ông còn rất nêu cao tính cẩn thận, tính chính xác (trong khi trích dẫn chứng), tính khách quan khoa học, thực sự cẩn thị khi sưu tầm kinh nghiệm hay, dù đó là kinh nghiệm của Quan Ngự Y, hay của người thầy thuốc ở chợ. Ông đều ghi rõ ràng và coi trọng như nhau. Ngay cả những chỗ lầm lẫn của người đời, ông cũng tìm đến cái lý gốc để phân giải tìm cho rõ đúng sai. Sự nhầm lẫn một cách chữa lâu nay trong gia đình ông thường dùng mà ông tưởng rằng, đấy là của dòng họ ông, khi ông thấy sách đó có ghi, ông cũng đính chính lại.

 Nhìn lại những người viết sách thời nay, tưởng tấm gương của ông vẫn đáng treo cao để ta cùng phấn đấu, rèn luyện tư cách cho xứng đáng với việc ta đang làm vậy.

 * Trong bản dịch này có nhiều loại chú thích:

 - Tên sách của tác giả tham khảo, đối chiếu thường được viết tắt. Ngoài ra, tác giả còn chú thích để xem thêm là chú thích về chứng bệnh mà ông đã viết trong phạm vi sách này.

 - Những chú thích ở ngay sau tên huyệt, tên chứng mà trong sách không có chú thích là của tôi thêm, cho dễ nhận ra, số lượng chú thích này rất ít.

 * Cách dịch các chú thích đó như sau:

 + Tên sách vẫn giữ nguyên lối viết tắt, có chấm ở dưới đít để hiểu đó là tên sách.

 + Chú thích xem thêm tỷ mỉ ở các sách ông đã tham khảo là tên đề mục nội dung sách đó. Những chú thích này, viết ngay sau tên sách tham khảo.

 + Những chú thích xem thêm các mục ở trong sách châm cứu “Tư Sinh Kinh” của ông, ông không để tên sách ở trước.

Bảng đối chiếu tên sách tham khảo viết tắt

 Đồng “Đồng Nhân Châm Cứu Đồ”, do Tống Nhân Tông, Vương Duy Dức soạn.

 Minh “Minh Đường Châm Cứu Đồ” do người đời sau mượn lời “Hoàng Đế” và “Lôi Công” viết theo lối vấn đáp.

 Minh Hạ: “Minh Đường” có 2 quyển: “Thượng” và “Hạ”.

 Tố Vấn là sách “Hoàng Đế” và “Kỳ Bá” vấn đáp Y Học.

 Thiên Kim Phương do “Tôn Tư Mạo” đưa thêm những chỗ đã rơi mất mà ông tìm lại được.

 Ngoại Đài “Ngoại Đài Bí Yếu” do “Vương Thọ” đời Đường xem sách 20 năm viết ra, gồm 1140 môn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 08, 2018, 05:12:34 PM
Mục lục quyển III

1. Hư tổn
2. Cứu 20 loại cốt chứng
3. Lao khái
4. Thận hư
5. Tiêu khát
6. Âm mềm rụt
7. Âm vượt ra
8. Chuyển lệnh bàng quang
9. Đau dương vật
10. Bàng quang khí
11. Mồ hôi ở âm hộ
12. Âm hộ sưng
13. Đau bụng dưới
14. Bụng dưới trướng tức
15. Đồi sán
16. Sán giả
17. Lậu còng
18. Đái khó
19. Đái 5 màu
20. Chữa mộng di thất tinh
21. Ỉa không thông
22. Đái không thông
23. Đái không cầm
24. Đại tiện không cầm
25. Ỉa chảy
26. Ỉa như cháo loãng
27. Ỉa lỏng
28. Lỵ
29. Ỉa ra máu
30. Trĩ
31. Trường cường
32. Ruột giãn
33. Đau ruột
34. Sôi ruột
35. Thoát giang
36. Quặn bụng nôn nao
37. Quặn bụng ỉa mửa
38. Nôn mửa
39. Nôn khan
40. Nấc
41. Thương hàn, nôn ựa
42. Thoả nhổ bọt
43. Đau dạ dày
44. Phản vị
45. Ăn không xuống được
46. Không thể ăn được
47. Không muốn ăn
48. Thực khí
49. Ăn nhiều
50. Sốt rét
51. Đau lá lách


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 08, 2018, 05:16:47 PM
Châm cứu Tư Sinh kinh – Quyển III

1. Hư tổn

 Não hư lãnh, nục não (Chảy máu cam), phong hàn nhập não, đau đầu lâu dài nên cứu Tín hội.
 
 Tuổi tôi đã qua thời trẻ khỏe, gặp đêm lạnh ngồii xem sách, là thấy lạnh não. Uống rượu quá lượng, não cũng đau nhiều. Sau do cứu huyệt đó mà khỏi.

 Có một người lính bị nục mũi không hết, tôi bảo cho họ cứu huyệt đó thì khỏi.

 Có người bệnh đầu phong lâu ngày, cũng bảo cho họ cứu huyệt đó mà khỏi.

 Nhưng ở “Đông nhân minh đường kinh” chỉ chép: Chủ bệnh mũi tắc không ngửi thấy mùi thơm, thối mà thôi. Theo tôi thì sách đó nên bổ sung chố khuyết về trị liệu. Ngay như Não hộ không nên châm xuyên qua, thì Tín hội cũng không nên châm. Trong kinh chỉ ghi là dưới 18 tuổi không nên châm, sợ thóp thở chưa kín chắc.

 Phàm ăn, uống không suy tính, bụng trên cổ trướng, sắc mặt vàng úa, đời gọi là bệnh Tỳ Thận. Nên cứu Trung quản.

 Sách “Nạn kinh” nói: Bốn mùa đều lấy Vị khí làm gốc.

 Nói năm Tàng đều lấu Vị khí làm gốc. Vị là thủy cốc chi phủ, con người ta cần trông vào Vị khí làm chủ, vậy thì muốn toàn sinh nên cứu Vị quản.

 Các bệnh lạnh lâu, thường yếu tạng phủ, đái ỉa không dứt, trúng gió bất tỉnh nhân sự, nên cứu Thần khuyết.

 * Tương truyền, xưa có người tuổi già mà mặt tươi như trẻ nhỏ, cứ đủ tuổi lấy cứt chuột, cứu giữa rốn một mồi như thế. Tôi thử ở một bệnh ỉa chảy lâu ngày, một đêm cứu 3 lần 7 = 21 mồi, thì ngày hôm sau không ỉa như thế. Liền mấy đêm cứu, thì mấy ngày không ỉa như thế. Mới thấy hết lời kinh nói chữa đái, ỉa không dứt là nghiệm vậy.

 Lại tuổi tôi đã qua thời khỏe mạnh, thấy tay chân bên trái đã yếu hẳn, tình cờ cứu ở đó mà khỏi. Thế mà kinh không nói chủ trúng phong là vì sao vậy?

 Tạng khí hư yếu, chân khí bất túc, nên cứu Khí hải.

 Thân người có bốn hải là: Khí hải, Huyết hải, Thủy cốc chi hải, Tủy hải. Mà Khí hải là đứng đầu. Khí hải là bể của nguyên khí, con người lấy nguyên khí làm gốc. Nguyên khí không bị thương tổn thì tà khí không làm hai được. Bị tổn thương nguyên khí thì không bệnh mà chết vậy. Nên cứu nhiều lần ở huyệt đó để tráng nguyên dương. Nếu đã bị bệnh rồi mới cứu, sợ đã muộn vậy..

 Tạng phủ hư yếu, các bệnh hạ nguyên lạnh, nên cứu Đan điền.

 Dương khí hư yếu, thất tinh, tuyệt tự nên cứu Trung cực. Trung cực là một tên, là khí nguyên, dương khí của người mà hư suy có thể chẳng cứu ở đó sao được? (sách “Nạn kinh” nói: Đan điền cũng có tên là Đại trung cực. Đan điền nó ở đúng giữa, đó cũng gọi là Trung cực. Cách Đan điền một thốn, tuy so với Đan điền thì chưa rất đúng giữa bằng. Rõ ràng không ở giữa cũng không ở xa vậy).

 Tam lý: trị Vị hàn bụng trên trướng đầy, Vị khí bất túc, sợ thấy mùi cơm, ruột sôi, bụng đau, ăn không hóa “Đồng”.

 “Tần Thừa Tổ” nói rằng: mọi bệnh đều chữa được. “Hoa Đà” nói: chữa ngũ lao gầy mòn, thất thương hư yếu, trong ngực ít huyết, ung vú (Ngoại đài). “Minh đường” nói: người ta trên 30 tuổi nếu không cứu Tam lý, làm cho khí xông lên mắt (“Minh hạ” nói: Mắt mờ). “Thiên” nói: chủ ôn khí bất túc, bụng rắn, bệnh nhiệt không ra mồ hôi, miệng đắng, sốt cao, mình uốn vặn, miệng mím, lưng đau không thể quay, Vị khí bất túc, ỉa chảy kéo dài, ăn không hóa đều châm cứu cả, nhiều là đến 500 mồi, ít là 200 hoặc 300 mồi. “Tiểu phàm” nói: Tứ chi muốn khử phong tà không nên cứu nhiều, 7 mồi đến 7 lần 7 = 49 mồi thì dừng. Không thể quá số mồi theo tuổi. Theo "Đồng nhân” về huyệt Túc tam lý, chỉ nói cứu 3 mồi, châm 5 phân mà thôi. “Minh đường thượng kinh” lại nói: cứu 7 đến 100 mồi thì dừng, cũng chưa phải là nhiều vậy. Đến “Thiên kim phương” thì nói nhiều là đến 500 mồi, ít là đến 200, 300 mồi đâu là nhiều? Khi cần, ngày cứu 7 mồi, hoặc mồi ngải thật nhỏ có thể đến 14 mồi, mấy ngày cứu 7 lần 7 = 49 mồi thì dừng. Bỏng cứu thấy khô thì báo để cứu. Đúng như số mồi của “Thiên kim phương” sợ phạm điều ngăn của “Tiểu phàm”.

 Tôi có bị dị tật cước khí, qua xuân thì chân hơi sưng, ngẫu nhiên khoảng mùa hạ, theo đúng như lời chữa chỗ huyệt trong sách “Tố vấn” đem ôn châm, đâm nhẹ nhàng, ngày hôm sau tiêu mất chỗ sưng, thật thần hiệu, châm mà còn như thế, huống hồ là cứu. Chỗ đó không chỉ trị chân thũng, mà mọi bệnh đều trị.

 - Dũng tuyền: Chữa đau tim, không muốn ăn, đàn bà không có con, đàn ông như mê hoặc, con gái như có chửa, đau ở đầu chót năm ngón, chân không thể đặt xuống đất, nên châm, cứu.

 “Thiên” nói: đột nhiên hay quên, thân thể, lưng, cột sống như rời ra, đại tiện khó, đái không dễ, giữa chân trong vắt (không có màu sắc) lên đến gối, trong họng đau, không thể ăn vào, tiếng câm, không nói được, chảy máu mũi không dứt…

 Các huyệt ở “Thiên kim” đều phân chủ, riêng Cao hoang, Tam lý, Dũng tuyền, đặc biệt nói về trị bệnh khó, là ba huyệt không thể không chữa.

 - Tỳ du: Trị ăn nhiều, thân gầy, đái dễ, mình nặng, tứ chi khó chụm lại, bụng đau, không muốn ăn.

 - Vị du: Trị Vị hàn, bụng trướng, không muốn ăn, gầy mòn “Đồng”.

 Người ta nói rằng: Huyết khí chưa động, rất gầy mà không có hại, huyết khí đã kiệt, tuy béo mà chết, là nói về hình thể tuy gầy nhưng chưa đủ làm hại người. Không biết cái gầy yếu của con người là ở sự ăn uống không tiến. Ăn uống không tiến thì không lấy gì để sinh vinh vệ, thế là khí huyết do đó mà suy, suy quá thì chết. Theo “Nạn Kinh Sớ” nói: Người ta trông vào Vị khí là chính, nhờ vào Vị khí mà sống.

 Ngũ tạng luận nói: “Tỳ bất ma, thực bất tiêu” tức là Tỳ không khỏe, ăn không thể tiêu, xong lại phải nhờ Vị khí để giúp Tỳ tiêu hóa thức ăn. Vậy có thể để Tỳ Vị một ngày không khỏe được chăng? Nếu muốn Tỳ, Vị khỏe thường cứu Tỳ du, Vị du.

 Tâm trúng phong, chạy lăng nhăng, phát động kinh (giản), vừa nói, vừa khóc, trong ngực buồn loạn, ho nhổ ra máu nên châm Tâm du “Đồng”.

 Nạn Kinh Sớ nói: Tâm là chúa của tạng phủ, pháp là không chịu bệnh (pháp bất thụ bệnh), bệnh thì thần mất, khí kiệt, khí kiệt thì chân tay, khớp chân, tay lạnh, tên là “chân tâm thống”, ngày phát bệnh thì đêm chết. Chân tay ấm, tên là (quyết âm thống) phải chữa gấp ngay.

 Theo Thiên Kim nói: Tâm trúng phong, cứu ngay Tâm du 100 mồi, uống “Tục mệnh thang” tức là (nệ vào thuyết Tâm du bất khả cứu), là không có sách vậy. Nhưng Tâm du châm rất khó, nếu trúng giữa Tim, một ngày sẽ chết.

 Lại hỏi: làm thế nào để tránh phải châm ư? Nếu không muốn mắc nạn đó, đều thường phải dưỡng cái Tâm, sử sự êm đẹp, lo buồn, suy nghĩ không để cho tổn thương cái thần, theo sách trên, không thể khác được, cũng thường uống thuốc Trấn tâm đan để phù trợ cũng là như thế..

 - Thận du: Trị hư lao gầy yếu, Thận hư, thủy tạng lạnh kéo dài, nước tiểu đục, xuất tinh đau trong dương vật, ngũ lao, thất thương, chân lạnh như băng, mình thũng nước.

 Nạn Kinh Sớ nói: Kẹp hai bên xương sống là hai quả thận, ở bên trái là Thận, bên phải là Mệnh môn (Lưu ý), Mệnh môn là gốc rễ của tính mệnh, huyệt ngang bằng với rốn. Phàm cứu Thân du phải đứng ở chỗ bằng phẳng, lấy một cái gậy đo bằng với rốn, lại đem cái gậy ấy so trên cột sống phía đằng sau lưng, thế là biết chỗ đó ngang bằng với rốn. Sau đó đo cách sang hai bên đều thốn rưỡi lấy huyệt, tức là huyệt Thận du vậy. Phải lấy tay ấn giữa chỗ lõm, sau đó mới cứu thì không sai chỗ của huyệt. Phàm cứu thì lấy số mồi theo tuổi.

 - Khúc cốt: Chủ mất tinh, ngũ tạng hư kiệt, cứu 50 mồi “Thiên” lại nói rõ thêm chẳng qua hư yếu và cực lạnh đều nên cứu.

 Xương tủy lạnh đau, cứu Thượng liêm 70 mồi “Thiên”.

 Nạn Kinh Sớ - Bát Hội nói: Phủ hội Trung quản trị bệnh ở Phủ; Tạng hội Chương môn, chữa bệnh ở Tạng; Cân hội Dương lăng tuyền, bệnh gân chữa ở đó; Tủy hội Tuyệt cốt, bệnh tủy chữa ở đó; Huyết hội Cách du, bệnh huyết chữa ở đó; Cốt hội Đại trữ (cấm cứu), bệnh xương chữa ở đó; Khí hội Chiên trung, bệnh khí chữa ở đó. Như thế thì cốt tủy có bệnh thường trước là lấy Đại trữ, Tuyệt cốt sau đến Thượng liêm cũng được.

 - Bang quang: Tam tiêu ít tân dịch, Đại tiều trường hàn nhiệt (xem mục: đau lưng), hoặc Tam tiêu hàn nhiệt cứu Tiểu trường du 20 mồi. Trong Tam tiêu, Bàng quang, Thận nhiệt khí, cứu Thủy đạo theo tuổi “Thiên”.

 - Cao hoang du: chủ không chỗ nào không chữa, gầy mòn, hư tổn, trong mộng mất tinh, khí ho ngược lên, phát cuồng, hay quên…

 - Cao hoang du: không chỗ nào không chữa, thế mà có người chằng biết cầu huyệt này. Tấn Cảnh Công có bệnh, Tần y rằng hãy khoan, để xem đã. Ở hoang chi thượng (trên chỗ hoang), cao chi hạ (dưới chỗ cao) công thì không được, đạt thì không tới, thuốc không sao đến. Tấn Hầu đã là lương y, mà Tôn Chân Nhân có thể cười là vụng về,là không thể tìm huyệt mà cứu vậy.

 Nếu như Xích long đan của Lý Tử Dực có thể trị được quỷ ở trên Cao hoang, dưới ngũ âm, không cần đến cứu, là không riêng ở vụng, không biết cứu cũng không có thuốc diệt quỷ, cũng là tài chỉ có đến đó thôi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 09, 2018, 11:41:02 AM
 2. Cứu 20 loại cốt chưng

 “Thôi Tri Thảo” nói rằng: Bệnh cốt chưng cũng có tên là “Chuyền thi” cũng gọi là “Yếm diệp” cũng là vô hạnh.

 Đàn ông lấy tinh khí làm gốc rễ, đàn bà lấy huyết khí làm gốc rễ, không kể già trẻ thường mắc bệnh này. Tôi thử 30 ngày, cứu sống 15 người. Trước sau tính cả số khỏi 200, không chỉ riêng đánh vào cốt chưng, lại ngoài ra chữa khí, chữa phong hoặc lao, hoặc tà, hoặc tích. Bệnh trạng quá rộng cứu sống không thể ghi đủ, sau cứu nên uống thuốc trị lao Địa hoàng khỏi hết.

 Phàm lấy Tứ hoa huyệt, lấy nõn rơm lúa, đo bề rộng hai khóe mép, cấu đi, xem dài là bao nhiêu, lấy độ dài như thế làm một cạnh để gấp miếng giấy hình vuông. Thường cắt một lỗ nhỏ ở giữa, lại lấy riêng một nõn rơm khác, đạp dưới gót chân, phía trước bằng đầu ngón chân, phía sau lấy đến nếp khuỷu chân thì dừng, xong rồi vòng qua phía dưới sụn hầu thẳng xuống phía sau lưng trên, xem chỗ đầu rơm đứt, liền lấy lỗ nhỏ của giấy đặt đúng vào đấy, chia ra bốn hoa ở bốn góc tờ giấy, cứu ở đó.

 Lại có một thầy thuốc truyền một cách nữa. Trước hết đo ngang miệng xem dài bao nhiêu, lấy cọng rơm đó đặt ở dưới đốt sống thứ 3, đến chỗ hết cọng rơm thì đứt, hai đầu trên dưới dùng bút chấm lấy dấu. Lại lấy ngón giữa dài, ngắm làm chuẩn, đem cái cổ đo độ ngón giữa, đặt ngang hai đầu, dùng bút vòng bốn góc, nếu thành hình tròn là huyệt (không tròn không phải là huyệt). Có thể cứu 7 x 7 = 49 mồi thì dừng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 12, 2018, 10:42:51 AM
 3. Lao khái: (truyền thi, cốt chưng, gầy mòn).

 - Trung liêu: chữa đàn ông ngũ lao Thất thương, Lục cực, đau lưng, khó ỉa, đái són, bụng chướng, dễ ỉa, ăn thì đói “Đồng”.

 - Tam lý: Trị ngũ lao, thất thương, gầy mòn, hư mệt. “Minh hạ” nói: ngũ lao, hư mệt, tứ chi gầy mòn.

 - Kiên tỉnh: Trị ngũ lao thất thương.

 - Đại chùy: Trị ngũ lao, thất thương, sốt rét ôn, sốt rét ho, khí thuyên, làm đau cấp ở bả vai, cánh tay cổ gáy cứng (“Minh đường – Thượng hạ” cũng giống thế). Phong lao, thực (ăn) khí.

 - Phế du: Trị nóng lạnh, hen, đầy tức, hư phiền, miệng khô lao chuyền thi, cốt chưng, Phế yếu (nuy), ho hắng. (“Minh đường” nói: chữa thịt đau, da ngứa, chuyền thi, cốt chưng, Phế ho…).

 - Phách hộ: Chữa hư ho, Phế nuy. “Minh” nói: lao tổn, yếu vàng, ngũ thi chạy thuyên (Đau gió), gáy cứng. “Minh hạ” nói: Trị lao tổn, hư mỏi. “Phiếm”.

 - “Tần Thừa Tổ” nói: Chi chính: chữa ngũ lao, tứ chi yếu sức, hư, mệt mỏi “Minh hạ”.

 - Y hy: Chữa lao tổn, mệt mỏi không ngủ được.

 - Hạ tiêu du: Chữa bả vai đau, mình nóng.

 - Khúc cốt: Hư mệt, cực lạnh đều cứu.

 - Khí hải: Chữa bệnh lạnh, mặt đen, cơ thể gầy mòn, tứ chi yếu sức, khí tích tụ, bồn chồn ở bụng dưới, bụng yếu, thoát dương muốn chết, không biết gì nữa, khí ở năm tạng công ngược lên.

 - Cao hoang du: Chữa gầy mòn, hư tổn, trong mộng mất tinh, không chỗ nào không chữa “Đồng”.

 - Thận du: Chữa hư lao, gầy mòn, tai điếc, Thận hư, thủy tạng lạnh kéo dài (“Minh”: đau lưng). Bụng trên cổ chướng, sườn tức, dẫn đau xuống bụng dưới, mắt nhìn mờ mờ, khí ít (hụt hơi) đái ra máu, nước đái đục, xuất tinh dương vật đau, ngũ lao, thất thương, hư hại, chân gối co quắp (“Minh” nói: riêng có nằm là tốt), chân lạnh như băng, mình nặng, đầu nóng, run rẩy, tứ chi dâm lạc, đái trong, ăn không hóa, mình thũng nước.

 Chú giải thêm: chữa mình nóng rét, ăn nhiều mình gầy mòn, mặt vàng đen, mắt mờ mờ, đàn bà tích lãnh khí mà thành lao.

 - Não không: Trị bệnh lao, gầy mòn, toàn thân nóng, cổ gáy cứng (lao màng não).

 - Chương môn: Trị thương bão (ăn no gây hại), mình vàng, gầy mòn.

 - Lậu cốc: Trị ăn mà không làm thành da thịt.

 - Hạ quản: Trị ngày càng gầy mòn (xem: Huyền thích).

 - Hạ quản: (xem bụng chướng), Vị du: (xem: Hư tổn)

 - Tỳ du, Hạ liêm: (xem: đái như cháo), trị gầy mòn.

 Trẻ em gầy mòn, ăn ít, không sinh da thịt, cứu Vị du 1 mồi “Minh hạ”.

 * Phép cứu lao: Là chứng trạng: lòng bàn tay, lòng bàn chân nóng, nhiều mồ hôi trộm, tinh thần mệt mỏi, khớp xương đau đớn. Mới đầu phát ho hắng, dần dần nôn ra máu mủ, cơ thịt gầy mòn, mặt vàng, ăn giảm, sức yếu..

 Bảo họ đứng thẳng, lấy một sợi dây, trai thì bên trái, gái thì bên phải, đo từ đầu ngón chân giữa, qua dưới gầm bàn chân, quặt qua gót, lên đến nếp gấp sau khoeo chân thì cắt đứt. Lại đem sợi đây đó đo từ đầu nhọn mũi, theo giữa đầu (cần rẽ tóc sang hai bên, để đo sát da thịt), vòng qua gáy, xuống đến xương sống, ở chỗ cuối đầu dây, lấy mực đánh dấu, lại dùng đoạn dây khác, bảo người bệnh miệng ngậm tự nhiên, đem đo bề ngang hai mép vòng qua môi rồi cắt. Đem đoạn dây đó đặt ở đoạn mực đánh dấu chỗ đầu dây trên lưng, gập bằng hai, ngoài cùng là huyệt. Khi cứu số mồi nhiều hơn số tuổi là một (như tuổi 30 cứu 31 mồi) quả là hiệu “Tập hiệu”.

 Bệnh cổ trái gầy mòn, tự có chứng nóng rét, nên tùy chứng bệnh mà chữa. Nếu như trắng mà lại gầy, lại không có bệnh, sau khi bị bệnh rất gầy, lâu không trở lại như thường gọi là hình thoát. Đối với người trước vẫn béo tốt, đột nhiên gầy mòn, ăn uống giảm bớt, hoặc có bệnh khác nữa thì khó cứu chữa. Cần biện chứng cho sớm.

 Trọng Cảnh bàn về Lục cực đã viết: Tinh cực làm cho người ta khí ít, sức yếu, dần dần hư ở trong mình, hâm hấp gầy mòn, mắt không tinh sáng, và nói: Bát vị Thân khí hoàn khỏi lục cực, mà khỏi cả Ngũ lao, tức là Bát vị hoàn vẫn thường uống (“Trọng Cảnh” thường uống, hoặc thường uống khử Phụ tử gia Ngũ vị tử), mà huyệt Thận du thường cứu đó nhiều.

 - Tỳ du, Đại trường du: Trị trong bụng khí trướng đau dẫn sang xương sống, ăn nhiều mà mình gầy mòn, tên gọi là Thực bối. Trước hết lấy Tỳ du. Sau lấy Lý lặc. Ngũ Tạng, lục Phủ, bụng đầy, lưng trên, lưng dưới đau, thức ăn ngược lên, nóng rét lẫn lộn, đái khó, gầy mòn, ít hơi cứu Tam tiêu du theo tuổi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 12, 2018, 10:43:14 AM
4. Thận hư

 - Thận du: Trị Thận hư, thủy tạng lạnh kéo dài “Đồng” nói: cũng giống như thế.

 - Trung lữ du: Trị Thận hư tiêu khát (Xem mục: Tiêu khát).

 - Dương kiều: Trị Thận khí “Minh”.

 - Hạ liêm: Trị Tiểu trường khí bất túc, mặt không có màu sắc cứu Tiểu trường. Hạch hòn khí, khi phát thì bụng đau như dao chích, không chịu nổi, đàn bà khí huyết tích chạy thuyên đau nhói, nằm ngồi không được, đái ỉa không thông, cứu ở dưới gầm ngón chân thứ hai, cả hai chân, đúng giữa nếp gấp đốt thứ nhất đều 10 mồi, mỗi mồi to như hạt đậu đỏ, rất nghiệm.

 - Phương chữa Tiều trường khí thì rất nhiều, chưa chắc đã có hiệu quả cả (Kỳ vực phương, Đoạt mệnh tán dương phương, Thương thất tán) đều đã ghi là có hiệu quả.

 Có một người binh sỹ nạn Tiểu trường khí, theo đúng phương đó cứu dưới nếp gấp thứ hai năm mồi, được khỏi nhưng lại tái phát, sợ số mồi chưa đủ, tôi lấy “Chấn linh đơn” 10 viên, bảo họ sớm và tối, mỗi lần uống 5 viên mà khỏi. Cứu cố nhiên là nhanh hơn thuốc, tiện hơn thuốc, nếu như cứu không được huyệt, lại không kiến hiệu thì vừa cứu vừa thuốc cũng là lẽ thường vậy.

 Bài thuốc: Toàn yết 5 cái, Sa nhân 37 cái, Hồi hương sao 1 đồng, tán bột chia làm 3 lần hòa rượu nóng uống lúc đói. Đó là Tiểu trường bị nhiệt, ôn tích không tan, lâu ngày mà thành bệnh. Uống bài đó khỏi ngay, tuy chưa dùng qua, nhưng nói có lý, nên phụ vào đây.

 Có người học trò ít tuổi, mắc chứng mộng di, thấy đau buốt ở điểm Thận du, bảo họ cứu ở đó mà khỏi, tức là không câu nệ già trẻ, Thận đều có thể hư. Cổ nhân nói: Bách bệnh đều sinh ra ở Tâm, lại nói: Bách bệnh đều sinh ra ở Thận. Tâm lao thì sinh ra bách bệnh, Thận hư cũng lại sinh ra bách bệnh, người ta chưa biết đó. Cái thiên nhất sinh Thủy, Địa nhị sinh hỏa, Thận thủy không thăng lên, thì Tâm hỏa không giáng xuống, bệnh do chỗ này mà sinh ra, người ta không thể dưỡng Tâm, không yêu quý giữ gìn Thận vậy.

 5. Tiêu khát (Tiêu Thận, tiêu trung).

 - Thương khâu: Chủ phiền trung, khát “Thiên”.

 - Ý xá: Chủ tiêu khát, mình nóng, mặt, mắt vàng. “Minh” cũng thế.

 - Thừa tương: “Minh hạ” nói: Uống nước không nghỉ, Ý xá, Quan xung, Nhiên cốc: Chủ tiêu khát, ham uống.

 - Ẩn bạch: Chủ khát uống.

 - Lao cung: Chủ đắng khát, ăn không xuống.

 - Khúc trì: Chủ nóng, rét, khát.

 - Hành gian, Thái xung: Chủ họng khô, hay khát (chung thiên).

 - Ý xá: (Xem: Chướng bụng), Trung lữ du: Trị Thận hư, tiêu khát, mồ hôi không ra “Minh” chép: không ra mồ hôi. Lưng, cột sống không cúi ngửa được “Đồng”.

 - Đoài đoan: Trị nước đái vàng, lưỡi khô, tiêu khát.

 - Nhiên cốc: Chủ lưỡi trùng ra, buồn tức, tiêu khát.

 - Thủy câu: Trị tiêu khát, uống nước vô độ. “Minh” cũng giống như thế.

 - Dương cương: Trị tiêu khát “Minh hạ” xem mục: sôi ruột.

 Cổ phương chép bệnh khát có 3 là Tiêu khát, Tiêu trung, và Tiêu Thận, Tiêu Thận tối kỵ phòng sự.

 “Lý Từ Bộ” nói: Thận hư thì tiêu khát, tiêu trung cũng thường vậy. “Trương Trọng Cảnh” nói: Nên uống Bát vị hoàn, nếu uống mà không hiệu là vì không bỏ Phụ tử đi. Có người bị bệnh đó, người ta dạy bỏ Phụ tử, thêm Ngũ vị tử vào thì khỏi. Có một vị Đồng Quan bị bệnh đó, tôi bảo uống Thiên kim Câu kỷ thang thì khỏi. “Pha văn” chép: Mi Sơn – Trương Y chữa Dương Đình Cự bệnh khát (Xem: Pha”). “Trương” nói: Tiêu khát, tiêu trung đều do Tỳ suy mà Thận bại, thổ không thể thắng thủy, Thận dịch không ngược lên mà làm thành bệnh đó.

 Bệnh tiêu khát đã qua 100 ngày trở lên, không nên châm cứu, chích thì trong chỗ mụn lên mủ, nước không khô, đưa đến ung thư gầy mòn mà chết. Nếu bệnh mới phát có thể như phương mà châm cứu, nếu cứu chư âm không khỏi thì cứu chư dương (Thấy rõ ở “Thiên Kim” có tới 10 huyệt).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 15, 2018, 04:51:05 PM
 6. Âm mềm rụt (dương vật mềm rụt):

 - Âm cốc: Chủ âm mềm rụt, bụng dưới dẫn đau, cạnh trong âm đau “Thiên”.

 - Đại hách, Nhiên cốc: Chủ ống tinh to lên.

 - Thái xung: Chủ hai hòn ngoại Thận co cao lên, trong bụng rắn không thể nằm (“Giáp” nói: quanh rốn đau, hai hòn dái co lại).

 - Thạch môn: Chủ bụng dưới rắn đau, không đái được, hai hòn dái co lên.

 - Âm rụt cứu Trung phong

 - Đại hách: (xem: Thất tinh), Trung phong: Chủ mềm quyết (xem: Sán).

 - Khúc tuyền: Chủ không đái, âm mềm.

 - Khí xung: Trị âm mềm, kinh dương đau (dương vật?) (“Thiên” cũng giống thế), hai hòn dái co lên đau không chịu nổi “Đồng”.

 - Ngũ khu: (xem: Sân), Quy lai: Trị chứng dái co lại (xem: Âm đau).

 - Gân co: Âm rụt lại vào trong bụng cũng dẫn đau, cứu Trung phong 50 mồi, hoặc không đủ 50 mồi, tùy theo già trẻ mà gia giảm. Lại nói 2 huyệt đó: Hầu sưng, quyết nghịch, đau ở năm tạng làm cổ chướng cũng dùng để chữa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 15, 2018, 04:51:56 PM
 7. Âm vươn ra

 - Đại đôn: chủ âm vươn ra.

 - Thiếu phủ: chủ âm vươn dài (“Thiên tính” xem: Mục sán).

 - Thượng liêu: (“Thiên” xem: Tuyệt tự). Trị đàn bà âm lòi ra không cầm “Đồng”.

 - Âm kiều, Chiếu hải: (Xem: mục lậu), Thủy tuyền: (xem: Mục kinh nguyệt), Khúc tuyền: (xem: Hà tích ở “Thiên” cũng thế): Chữa đàn bà âm lòi ra.

 - Âm kiều: (xem: Mục lậu nhỏ giọt): Trị âm lòi ra “Minh”.

 8. Chuyển lệch Bàng quang (chuyển vào).

 - Dũng tuyền: Chủ chuyển Bàng quang (“Thiên” xem: lậu)

 - Quan nguyên: Chủ đàn bà chuyển Bàng quang không đái được (xem: không con) lại chủ Bàng quang bế tắc. “Đồng” nói: Chữa Bàng quang chuyển, không đái được.

 - Lưng đau, đái không lợi. Nếu Bàng quang chuyển, cứu Trung cực 7 mồi.

 Phàm ăn no xong lại nín đái, hoặc đi ngựa, hoặc nín đái mà nhập phòng, hoặc chạy mạnh đều dẫn đến chuyển Bàng quang. Dưới rốn tức đầy, đái không thông (ở “thiên kim” nói: đái không thông là do bọng đái vẹo lệch, lấy lá hành cấu bỏ ngọn đi, luồn vào trong ống đái sâu 3 thốn, nhẹ nhàng thổi, Bàng quang căng chướng, nước tiều thông mà khỏi).

 9. Đau dương vật (âm kích động).

 - Khúc tuyền: (xem: Sán).

 - Hành gian: Chủ bí đái, đau trong dương vật “Thiên”.

 - Khí xung: Chủ âm mềm, đau dương vật.

 - Liệt khuyết: (xem: Mất tinh)

 - Âm lăng tuyền, Thiếu Phủ: Chủ âm đau.

 - Quy lai: Chủ bôn đồn (khí trong bụng dưới như con cá dồn chạy), trứng dái co lên, đau dẫn vào dương vật.

 - Hoành cốt: Trị âm khí duỗi thẳng ra mà đau (xem: Lậu).

 - Thủy đạo: trị bụng dưới đầy, dẫn xuống âm đau (xem: Bụng dưới đầy).

 - Khí xung: Trị đau dương vật (xem: Âm mềm).

 - Hội âm: Trị mọi bệnh ở âm hộ, trước sau cùng dẫn đau, không thể đái, ỉa, đầu âm lạnh, xung lên Tim.

 - Đại đôn: Trị đau dương vật (xem: Sán).

 - Thận du: (xem lao), Chí thất: (xem: Âm thũng), Âm cốc: (xem: Khó đái), Thái xung: (xem: Tiểu tiện không lợi): Trị âm đau.

 “Thiên kim dực” nói: Thất thương làm bệnh, đái đỏ, nóng, đau như kim chích, phía dưới âm hộ thường ẩm thấp, âm mềm, nhỏ đi, tinh trong mà ít, đái đục, đầu âm hàn lạnh, trong dương vật đau đớn… (thường sớm uống thuốc làm bằng Ngải).

 - Trong dương vật đau đớn cứu Hành gian 30 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 16, 2018, 11:18:28 AM
 10. Bàng quang khí

 - Chương môn: Chữa Bàng quang sán khí, tích, sán, hà, Bàng quang khí tích như tiếng sấm, khí tích tụ “Minh”.

 “Kỳ Bá” cứu Bàng quang khí, công xung hai bên sườn, khí dưới rốn kêu, trứng dái vào bụng, cứu dưới rốn 6 thốn, sang mỗi bên 1,6 thốn, cứu 3 x 7 = 21 mồi.

 - Ngũ khu: Chữa Bàng quang khí công hai sườn (dạ), Bàng quang lạnh, cứu như phép Thận hư “Thiên”.

 - Bàng quang, Tam tiêu ít tân dịch, đại, tiểu trường nhiệt, hàn (xem: Đau lưng), hoặc Tam tiêu hàn, nhiệt, cứu Tiểu trường du 50 mồi. Khí nóng trong Tam tiêu, Bàng quang, Thận: Cứu Thủy đạo, theo tuổi.

 - Thủy đạo: Trị bụng dưới đầy tức, dẫn vào âm đau, thắt lưng bả vai cấp, Bàng quang có hàn, Tam tiêu kết nhiệt, tiểu tiện bất lợi.

 “Thiên kim” nói: Khí xung chủ bệnh đồi. “Minh đường” nói: Khí xung chữa quý, trị Thủy sán, đồi, to, lệch, lên xuống không định, đau không chịu nổi, tục gọi là Bàng quang khí, vậy Bàng quang khí cũng tức là Đồi sán.

 “Thái Dương Công” chẩn “Mệnh Phụ” nói: “Sán khí khách ở Bàng quang”, đái ỉa khó, nước tiểu đỏ, lại không thể tiện, nhận rằng Bàng quang khí nói là Sán khí).

 11. Mồ hôi ở âm hộ (âm hãn, ẩm ngứa):

 - Hội dương: Trị dương khí hư yếu, âm có mồ hôi, ẩm “Đồng”.

 - Ngư tế: (xem: Hàn, nhiệt): trị âm có mồ hôi “Minh”.

 - Trung cực, Âm kiều, Yêu cực giao, Âm giao, Khúc tuyền: Chủ âm ngứa “Thiên”.

 - Hội âm: Chủ âm đầu hàn.

 - Thiếu phủ: Chủ âm ngứa (xem: Sán).

 - Trọng Cảnh luận thất thương nói: một âm có mồ hôi, hai tinh hãm hoàng, ba tinh trong, bốn tinh ít, năm dưới bìu ẩm ngứa, sáu đái vặt, bảy đêm mơ thấy người âm: Như vậy là âm có mồ hôi, âm ẩm ngứa, đúng mấy cái của thất thương, có thể không chữa sớm được sao?

 “Thiên kim dực” trị hư tổn nói: Chỗ bắt đầu của bênh tật, sinh ở ngũ lao, tức sinh lục cực (thấy rõ hàn, nhiệt), lại sinh thất thương: 1 âm hàn, 2 âm mềm, 3 lý cấp, 4 tinh liền liền không dứt, 5 tinh ít bìu ẩm, 6 tinh trong, 7 đái vặt (là bệnh đái nóng, đỏ, hoặc đau như kim đâm, âm mềm, bé, dưới âm thường ẩm, tinh trong mà ít…) luận này so với Trọng Cảnh có sai chút ít, cũng chép vào đây.

 12. Âm bộ sưng (âm có mụn, thũng):

 - Khúc tuyền: (xem: Không con), Âm kiều: (xem: Lậu hạ), Đại đôn, Khí xung: (xem: Sán) chữa âm sưng “Thiên”.

 - Chí thất, Bào hoang: Chữa âm đau, sưng ở dưới “Minh”.

 - Côn lôn: Trị âm sưng “Đồng”.

 “Minh hạ” nói: Nội Côn lôn (ở trong mắt cá trong 5 phân, giữa hai gân): Trị trẻ em âm sưng, cứu 3 mồi.

 - Khúc tuyền: Trị âm sưng, cẳng chân đau (xem: Phong lao).

 - Khí xung: Trị đàn bà âm sưng (xem: Kinh nguyệt), lại chữa âm sưng “Minh hạ” (xem: Sán).

 - Bàng quang du: Trị âm mọc mụn (xem: Đái đỏ).

 - Có người âm thũng, thầy thuốc lấy đất đỏ đắp lên, bảo uống Bát vị hoàn mà khỏi. Một em bé bị âm sưng, thầy thuốc cũng lấy đẩt đỏ đắp lên mà khỏi. Nếu như bệnh lâu ngày mà âm sưng, bệnh đã nguy cấp, nên khẩn trương cứu huyệt Thủy phân (huyệt Thủy phân có thể phân thủy cốc, thủy cốc không phân làm cho sưng. Không riêng âm sưng, chỗ nào sưng cũng vậy. Tốt nhất là uống gấp Vũ dư lương hoàn, xem ở Ký hiệu phương).

 13. Đau bụng dưới:

 - Âm kiều: Chữa một bên bụng dưới đau, nôn mửa, hay nằm “Minh”.

 - Trung cực: Trị bụng dưới đau, tích tụ rắn như đá, tiểu tiện không lợi, thất tinh, tuyệt tự, mặt đen “Hạ”.

 - Thận du, Phục lưu, Trung phong, Thừa khấp, Âm bao, Thừa sơn, Đại đôn: Chủ đau bụng dưới “Thiên”.

 - Thạch môn, Thương khâu: Chủ bụng dưới rắn đau.

 - Thạch môn, Thủy phân: Chủ khớp bụng dưới đau gấp.

 - Dũng tuyền: Chủ phong nhập vào trong bụng, đau bụng dưới.

 - Tề trung: Chủ bụng dưới đau sán khí (xem: Sán).

 - Thái khê: Chủ bụng dưới nóng, mà đau một bên.

 - Can du (xem: Ho ngược), Tiểu trường du: (xem: Đái đỏ, Lãi câu, Chiếu hải: (xem: Sán), Trung đô: (xem: Sôi ruột): Trị đau lưng dưới “Đồng”.

 - Thái xung: Trị đau lưng dẫn vào bụng dưới.

 - Đới mạch: Trị đàn bà bụng dưới rắn đau, kinh nguyệt không đều, ra khí hư trắng, đỏ, lý cấp khế túng (động kinh co giật).

 - Ngũ khu: Chủ đau bụng dưới (xem: Sán).

 - Khúc tuyền: Chủ con gái bụng dưới sưng (không có con), đàn bà đau âm hộ dẫn vào dưới tim (bụng dưới rắn đau, cứu cạnh ngoài đầu gối 1 thốn) “Thiên dực”.

 14. Bụng dưới chướng tức:

 - Đại cự: Chữa bụng dưới chướng tức, phiền khát, Quý sán thiên khô, tứ chi không cử động được “Đồng”.

 - Khúc cốt: Chữa bụng dưới chướng tức, tiểu tiện nhỏ giọt không thông, quý sán, đau bụng dưới (xem: Ngược).

 - Nhiên cốc: Chữa bụng dưới chướng (xem: Sán).

 - U môn: Chữa bụng dưới chướng tức, nôn ọe ra nước bọt, nôn ra dãi, hay nhổ vặt.

 - Kinh môn: (xem: Sôi ruột), Lãi câu: (xem: Sán), Trung phong trị bụng dưới sưng (xem: Ngược).

 - Bào hoang: Trị bụng dưới rắn cấp (xem: Bụng).

 - Thủy đạo: Trị bụng dưới tức, dẫn vào hạ bộ đau, lưng dưới, lưng trên cứng cấp, Bàng quang co lạnh, Tam tiêu kết nhiệt, tiểu tiện không dễ.

 - Đại đôn: Trị bụng dưới đau, nóng ở trong, hay nằm, tiểu tiện không dễ.

 - Bụng dưới chướng tức, mệt mỏi cứu Tiểu trường du theo tuổi “Thiên”.

 - Năm tạng hư lao, bụng dưới căng cấp, chướng nóng cứu Thận du 50 mồi. Người già và trẻ em thì bớt đi. Nếu hư lạnh có thể cứu 100 mồi.

 - Ủy trung: Chủ bụng dưới sưng rắn.

 - Sách “”Đồng nhân” nói rằng: Tiểu trường du trị tiểu tiện đỏ, tắc, nhỏ giọt, bụng dưới đau, sách “thiên kim” cũng nói: Đó là yếu huyệt để chữa bụng dưới chướng đầy. Nếu cứu huyệt đó không có kết quả thì mới cứu các huyệt khác.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 16, 2018, 04:47:15 PM
 15. Đồi sán:

 Sách “Tất dụng phương” nói: Chữa thủy đồi, to một bên, lên xuống không nhất định, đau không chịụ nổi, tục thường gọi là Bàng quang khí. Dùng hai lạng Mẫu lệ đã tôi qua lửa, Gừng đã sấy khô 2 lạng, hai thứ tán nhỏ đắp lên chỗ sưng thì khỏi.

 Như vậy thì Thủy đồi tức Bàng quang khí.

 Sách “Thiên kim” nói rằng: Khí xung chủ đồi.

 Sách “Minh đường hạ kinh” nói: Trị quý sán.

 Như vậy Đồi sán tức là Quý sán. Tôi sợ người khác cạm ở cái tên mà chữa sai, cho nên làm riêng rõ như thế.

 - Khúc tuyền: Chủ Quý sán, hạ âm (bìu dái), nhảy đau, dẫn vào trong rốn “Thiên”.

 - Trung đô, Hợp dương, Trung khích, Quan nguyên, Đại cự, Giao tín, Trung phong, Thái xung, Địa cơ: Chủ Đồi sán.

 Trung phong: Chủ Đồi sán, còng, đau dữ dội, mệt mỏi, quyết.

 - Thiếu phủ: Đau hạ bộ, thực thì vươn dài ra, nóng rét, dương vật rát đau, đái dầm. Thiên về hư thì ngứa dữ dội, khí nghịch tốt sán, tiểu tiện khó.

 - Xung môn: Chủ đàn bà âm sán.

 - Thương khâu: Âm đau trong đùi, khí úng, Hồ sán (như con cáo) chạy lên, chạy xuống dẫn đau vào bụng, không thể cúi ngửa

 - Cự khuyết: Chủ Hồ sán.

 - Thái xung: Chủ Hồ sán, nôn, quyết.

 - Kiên tỉnh: Chủ cạnh vai xõa ra và cánh tay nhói đau, chủ đồi một bên (Thiên đồi).

 - Trung quản: Chủ sán xung lên, chết giả không biết gì hết.

 - Giao tín: Chủ khí còng, Đồi sán âm bộ cấp, khu vực đùi, cạnh trong xương đau.

 - Tề trung, Thạch môn, Thiên khu, Khí hải: Chủ sán khi đi quanh ở bụng dưới, sán năm Tạng thắt ở rốn, xông lên ngực không thở nổi (Giống như ở sách “Thiên”).

 - Tề sán, đau thắt rốn, xung lên ngực không thở được cứu Tề trung (Thần khuyết).

 - Tề sán, đau thắt rốn, Thạch môn chủ ở đó.

 Tề sán đau thắt rốn, như đứt. Lấy Thiên khu chủ trị, lại chủ khí sán, phiền muộn, nôn (“Thiên” nói: Chủ khí sán nôn), mặt sưng, bồn chồn (như con cá đều chạy, giống “Giáp”).

 - Khí xung: Chủ đồi (sách “Minh hạ” chép là Quý sán), âm hộ sưng đau, dương vật mềm yếu, đau trong ống đái, hai hòn dái lạnh, đau không thể cúi ngửa.

 - Ngũ khu: Chủ Âm sán, hai hòn dái co lên vào bụng dưới mà đau, sách “Minh đường hạ kinh” nói: Chủ Âm sán, đau bụng dưới.

 - Âm bao, Thạch môn, Thái xung: Chủ hai hòn dái lạnh (xem: co lại).

 - Giao tín: (xem: lậu), Trung đô (xem: Sôi ruột), Đại cự, Khúc cốt (xem: Bụng dưới) trị: Quý sán “Đồng”.

 - Khúc tuyền: Trị đàn ông quý sán, âm hộ và đùi đau, đái khó, bụng sườn đầy tức, còng bí, ít khí (ngắn hơi), dễ ỉa, tay chân không cất nhắc được (bất cử). Thực thì mình nóng, mắt hoa đau, mồ hôi không ra, mắt mờ mờ, đầu gối đau, gân co không thể gập duỗi.

 Sách “Thiên kim” nói: Đồi có bốn loại:

 Trường đồi: Hòn dái trương lên, khó cứu, Khí đồi, Thủy đồi, châm cứu, dễ chữa.

 - Hòn dái to, co lên vào bụng, cứu Tam âm giao, theo tuổi.

 - Hòn dái lệch, to, bệnh đồi, cứu Quan nguyên 100 mồi, hoặc Đại đôn theo tuổi, hoặc Hoành cốt ở bên 27 mồi, giáp với ống dương vật là huyệt (xem rõ ở “Thiên kim”

 - Trúc tân: Trị trẻ em Thai sán (“Minh hạ” cũng giống thế), đau không thể bú được.

 - Trẻ em Thai sán, đái lệch chiều, cứu dấu chữ thập sau bìu dái (huyệt Nang để), ngay trên đó 3 mồi. Mùa xuân so với hạ mà cứu, mùa thu so với mùa đông mà cứu (?).

 - Thái xung: Chủ con gái Sán khí, lại sưng cả bụng dưới, ỉa nhão còng lưng, đái dầm, đau cửa mình, mặt đen, đau khóe mắt, rong huyết “Thiên”.

 - Lãi câu: Chủ con gái sán, ra nước đỏ trắng quá nhiều, lúc nhiều, lúc ít, bụng đau dữ dội.

 - Âm giao, Thạch môn: Chủ sán (xem: Không con).

 - Trẻ em Khí đồi, cứu huyệt Đại đôn ở Túc quyết âm. Bị bên trái cứu bên phải, bị bên phải cứu bên trái, đều 1 mồi.

 “Thái Trung Công” chẩn “Tư Không Mệnh Phụ” rằng: “Sán khí khách vi Bàng quang, vu tiền hậu tiết nhi niệu xích”, tức sán khí trú ở trong Bàng quang, trước, sau khi đái thì đái ra nước đỏ mà khó. Cứu ở mạch Túc quyết âm trái, phải đều 1 mồi, tức thì không đái dồn mà nước đái trong, lại làm Hóa tễ thang uống mà tan sán khí.

 - Âm thị, Can du: Trị hàn sán xuống đến lưng dưới và chân như nước lạnh, thủy thương mọi thứ sán, ẩn ở dưới Phục thỏ, trên gối thấy đau lạnh (ở khoảng Âm thị), bụng chướng đầy, quyết ngắn hơi.

 Sách “Minh hạ” nói rằng: Tốt sán đau bụng dưới, sức yếu, ngắn hơi, giữa Phục thỏ lạnh, sách “Đồng” cũng nói: Hàn sán bụng dưới chướng, lưng trở xuống và trên Phục thỏ lạnh như nước lạnh.

 - Hợp dương: Trị hàn sán, bụng dưới chướng, xông lên sườn ngực.

 - Thứ liêu: Trị các khí tụt xuống thắt lưng và cột sống đau không xoay, lắc được, cấp dẫn vào cửa mình và dương vật đau không chịu nổi. Từ thắt lưng xuống tới chân tê bại, nếp bả vai đau, đái nhỏ giọt, vùng dưới tim rắn, chướng.

 - Thái khê, Hành gian: (xem: Bạch trọc, trắng đục).

 - Hoang du: (xem: Bụng chướng), Can du: Trị hàn sán (xem: Ho ở sách “Minh” thấy giống thế).

 - Âm giao: Trị hàn sán dẫn đau vào bụng dưới.

 - Ngũ khu: Trị con trai hàn sán, trứng dái co lên vào trong bụng mà đau.

 - Trung phong: Trị Hàn sán dẫn đau vào trong thắt lưng, hoặc mình hơi sốt nhẹ.

 - Đại đôn: Chủ Hàn sán âm vật và dương vật vươn ra (xem: Khí sán).

 * Em nhỏ tôi chơi đùa bê nặng, mắt tối thiên trụy, có một đạo nhân lấy ngang huyệt Quan nguyên sang bên đúng 3 thốn, cứu ở trên mạch xanh đúng 7 mồi thì khỏi. Vương Ngạn mắc nạn Tiểu trường khí cũng cứu như bé thì khỏi (xem thêm: Bàng quang).

 - Kim môn: (xem: Thi quyết), Khâu khư: (xem: Nách sưng): Trị Hàn sán mà đau.

 -Đại đôn: Trị Tốt sán, đái nhiều lần, đái dầm, ở trong đầu âm đau (đầu lỗ đái), đau vùng tim mà ra mồ hôi, dái co lên bụng, dái to lệch. Trong rốn, bụng đau, buồn buồn không vui. Bệnh bên trái lấy bên phải, bệnh bên phải lấy bên trái.

 Đái dầm không cầm, ra không tự biết cứu Âm lăng tuyền theo tuổi.

 - Đái không cầm, cứu Đại đôn hoặc Hành gian 7 mồi.

 - Đái ở giường, cứu nếp ngang dưới rốn 7 mồi.

 - Đàn bà đái dầm dề, cứu Hoành cốt 7 mồi.

 - Trẻ em đái dầm dề cứu dưới rốn 1,5 thốn, theo tuổi. Lại cứu Đại đôn 3 mồi (xem thêm “Thiên kim”).

 - Khúc tuyền, Âm cốc, Âm lăng tuyền, Phục lưu: (các huyệt đó dứt việc đái dễ rất hay, không tổn dương khí. Cùng nói cầm đái dầm dề).

 - Lãi câu: Trị Tốt sán, bụng dưới sưng, có lúc bụng dưới đau dữ dội, đái khó, như còng, bế nhiều lần kêu hi hi, sợ hãi, bồn chồn thở hụt hơi, bụng đau, buồn buồn không vui. Trong họng có vướng như cục thịt thở (tức ngực), phần vai trên đau khắp, không thể cúi, ngửa được.

 - Thái xung: Trị trẻ em Tốt sán, nôn ngược, phát rét, họng khô, mu bàn chân sưng. Phía trước mắt cá bàn chân đau quá lắm, ống chân buốt, dưới nách sưng. Sách “Minh hạ” nói: Trị Tốt sán, đau bụng dưới, đái khó như lậu.

 - Chiếu hải: Trị Tốt sán, đau bụng dưới, nôn mửa, hay nằm.

 - Âm kiều: Trị Tốt sán, đau bụng dưới, bị bên trái lấy bên phải, bị bên phải lấy bên trái , khỏi ngay “Minh”.

 - Lãi câu trị Tốt sán, bụng dưới sưng, đái khó (sách “Giao nghi” cũng giống thế). Dưới rốn tích khí như quả trứng bằng đá, chân lạnh, ống chân buốt, khó co duỗi “Hạ kinh”.

 - Thạch môn: Chữa Tốt sán, đau thắt rốn.

 - Quan nguyên: Trị Tốt sán (sách “Đồng” chép là bạo, “Thiên” giống ở đây, sán, bụng dưới đau, chuyển bào (lệch Bàng quang), không đái được.

 - Hãm cốc: Chữa Tốt sán, đau bụng dưới.

 - Giao tín: (xem: Lậu). Chữa Tốt sán.

 “Hoa Đà” chữa Tốt sán, chứng đái lệch, to: Lấy ở ngón cái chân, từ móng chân đi vào cạnh trong 5 phân chỗ thịt trắng. Đốt 3 mồi ngải to bằng nửa hạt táo, tả cứu hữu, hữu cứu tả.

 - Chiếu hải: Chủ tứ chi mệt mỏi, mình mẩy bứt dứt, bạo phát sán “Thiên”.

 - Đại đôn: Chủ Tốt sán, đau dữ dội, hòn dái nhảy lên vào bụng. Hàn sán, dương vật vươn ra, sưng to mà lệch. Trong rốn, bụng buồn buồn không vui, đái khó mà đau. Cứu, chích thì khỏi ngay. Bệnh bên trái lấy bên phải, bệnh bên phải lấy bên trái (“Giáp”: Chiếu hải chủ trị).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 19, 2018, 04:36:28 PM
 16. Sán giả:

 - Âm lăng tuyền: Trị sán giả, tiểu tiện khó, khí lâm (lậu khí – “Đồng”). Sách “Thiên” nói: Chữa đàn bà sán giả, ấn như có một luồng nước nóng dẫn từ phía trong đùi đến thắt lưng, ỉa như cháo loãng, đau âm hộ, bụng dưới rắn đau gấp, không muốn ăn.

 - Đại khê: Trong bào có sán giả to tích tụ, dẫn cùng gia tới âm hộ “Thiên”.

 - Thái âm khích: Địa cơ, Xung môn: Chủ sán khí, Âm sán.

 - Tứ mãn: Chủ sán tích ở dưới rốn (“Giáp” nói: trong bào có huyết).

 - Thạch môn: Chủ bụng đầy, tức, sán tích.

 - Tứ mãn: (xem: Tích tụ), Trung cực: Trị sán giả.

 - Phủ xá: Trị sán tích (xem: Đau Tỳ).

 - Giả tụ, cứu Khí hải, Thiên khu 100 mồi (xem thêm: bụng chướng).

 - Đới hạ (ra khí hư), cứu Giản sử 30 mồi. Lại lậu, đái đỏ, đau niệu đạo, kết khối ở dưới rốn như cái chén úp, hoặc do ăn mà mắc, hoặc do đẻ mà mắc bệnh, khối ối không xuống (ác lộ bất hạ), vì thế mà thành sán giả, hoặc do kinh nguyệt không đều, huyết kết thành cục đều châm ở đó “Thiên dực”.

 17. Lậu còng (lậu nhỏ giọt, xem thêm: Đái không thông):

 - Quan nguyên: Chủ Bàng quang bế tắc, đái không thông, lao nhiệt, thạch lâm (sỏi Bàng quang) và 36 loại bệnh ở dưới rốn.

 - Không đái được cứu thêm ở Túc thái dương.

 - Huyền chung: Chủ 5 thứ lậu (ngũ lâm).

 - Đại đôn, Khí xung: Chủ 5 thứ lậu, không đái được.

 - Khí xung: Chủ trong bụng đầy nóng, lậu, bí không đái được.

 - Giao tín: Chủ khí lâm (lậu hơi).

 - Phục lưu: Chủ huyết lâm (lậu đái ra máu) “Minh hạ” nói: Chữa 5 thứ lậu, đái ra màu như than giã nhỏ.

 - Quan nguyên, Dũng tuyền: Chủ bệnh Bàng quang, khí lậu.

 - Trường cường, Tiểu trường du: Chủ lậu còng lưng.

 - Quan nguyên, Âm lăng tuyền: Chủ bệnh Thận, không thể cúi, ngửa, khí còng lưng.

 - Khúc tuyền: Chủ còng lưng, bí đái.

 - Hành gian: Chủ còng lưng, bí đái, đau trong ống đái.

 - Nhiên cốc: Chủ còng lưng, sán.

 - Khúc cốt: Chủ bụng dưới chướng, huyết còng, khó đái.

 - Bào hoang, Trật biên: Chủ còng lưng, bí đái, nặng bọng đái, không đái được.

 - Âm kiều: chủ đàn bà lậu (“Minh” nói: Chữa mọi thứ lậu, xem: Chứng lậu).

 - Thạch môn: Chủ khí lâm, nước đái vàng.

 - Chí âm: Chữa đái lậu, mất tinh “Hạ”.

 - Trung cực: Trị 5 thứ lậu, đái đỏ, sáp, rít (“Minh hạ” nói: Đau ống đái), mất tinh, dưới rốn kết như chén úp, dương khí hư bại “Đồng”.

 - Phục lưu” Trị 5 thứ lậu, đái như tóe lửa.

 - Thứ liêu: Trị lậu đỏ (xem: đái ỉa không lợi).

 - Nhiên cốc, Khúc cốt: Trị lậu nhỏ giọt (xem: đau bụng dưới).


 - Thái xung: Chủ lậu.

 - Âm lăng tuyền: Chữa khí lậu, nóng rét không ngắt đoạn.

 - Giao tín: Trị khí lâm, quý sán, âm đau cấp, đùi dẫn vào tới cạnh trong xương đau (“Minh” nói: Chữa khí lâm, tốt sán, đái ỉa khó).

 - Cơ môn: Chữa lậu, đái rớt, cơ chuột nhắt ở háng (cơ khép đùi) sưng đau, đái không thông.

 - Đại chung: Chữa thực chứng thì đái lậu, bí, cột sống và lưng dần dần cứng đau. Ỉa bí, rít, ưa nằm, trong miệng nóng. Hư thì nôn ngược, thường rét muốn đóng cửa mà nằm, thở hụt hơi.

 - Ngực chướng thở suyễn, lưỡi khô, trong họng ăn nghẹn không xuống, hay sợ hãi không vui. Trong hầu kêu và ho ra máu.

 - Khí lâm cứu Quan nguyên 50 mồi, hoặc muối tốt bỏ vào rốn cứu 3 mồi “Thiên”.

 - Lậu sỏi, cứu Quan nguyên hoặc Khí môn hoặc Đại đôn 30 mồi.

 - Lậu lao cứu Túc thái âm 100 mồi.

 - Lậu huyết cứu Đan điền, hoặc Phục lưu theo tuổi.

 - Năm thứ lậu, không đái được, cứu Trung phong 27 mồi, hoặc Đại đôn 7 mồi (xem thêm “Thiên kim”).

 - Thủy tuyền: Chữa con gái đái lậu nhỏ giọt.

 - Ủy dương, Chí thất: (xem: đau hạ bộ), Trung liêu: Chữa đái lậu nhỏ giọt.

 - Âm kiều: Chữa đàn bà lậu nhỏ giọt, âm vật lòi ra (“Đồng” giống thế). Tứ chi buồn bã, tim khó chịu, và mọi thứ lậu “Minh”.

 - Quan nguyên: (sách “Minh” cũng giống thế): Trị tự nhiên đái rớt, nhỏ giọt mà không biết (“Đồng” thấy nói đau rốn).

 - Tiểu trường du: Chữa lậu nhỏ giọt (xem: đái đỏ).

 Tôi hồi còn trẻ đi trọ học, tự nhiên có bệnh đái rớt, nhỏ giọt. Nhân xem sách thuốc, thấy có dùng Ngũ bội tử tán nhỏ hòa rượu uống, uống vào thì thấy khỏi, thuốc nếu phù hợp có thể uống, mà cũng không ảnh hưởng gì đến châm cứu. Viết làm phụ vào đây. Nếu  muốn trị chứng lậu thì có quả Vương bất lưu hành là thần hiệu. Bành Thị Lang chữa cho Trương Đạo Sỹ, cho uống 3 (quả) Viên (lạp) thì khỏi. Xem “Ký hiệu phương”. Có người đàn bà bị nạn lậu, uống mọi thứ thuốc đều không khỏi, nhưng cứ đêm chồng về là lại báo cấp cứu. Tôi bảo lấy hoa lá hơn 10 cái, đem giã nhỏ nấu uống. Chiều hôm sau, trở lại nói bệnh đã giảm 8 phần. Lại lấy mấy lá nữa, sắc uống thì khỏi. Có tên: Tiễn kim hoa và Kim trải dài.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 21, 2018, 09:59:00 AM
 18. Đái khó (không thông, không dễ):

 - Dũng tuyền: Chữa đái không thông “Minh”.

 - Khúc cốt: Chữa đàn bà đái không thông (xem: Ra khí hư, ở dưới).

 - Khúc tuyền: Chủ Âm kiều đau dẫn vào trong ống đái, đái không được “Thiên”.

 - Âm giao, Thạch môn, Ủy trung: Chữa bụng dưới rắn đau dẫn vào hạ bộ, không đái được.

 - Quan nguyên: Chữa 36 chứng đái không được.

 - Khí xung: Chủ lậu bí không đái được.

 - Đại đôn: Chủ đái khó mà đau (“Giáp” nói: Chiếu hải chủ chi).

 - Hoành cốt, Đại cự, Kỳ môn: Chủ bụng dưới đầy, âm hộ thõng xuống, đái khó.

 - Âm cốc, Đại đôn, Cơ môn, Ủy trung, Ủy dương: Chủ âm hộ nhảy rơi, đái khó (khiêu đi là nhảy rơi).

 - Trung phong, Hành gian: Chủ rét run, nước đái trắng, đái khó mà đau.

 - Khúc cốt: Chủ bụng dưới chướng, huyết làm còng lưng, đái khó.

 - Liệt khuyết: Chữa đái nóng, đau.

 - Trung cực: (xem: Mất tinh), Thừa phù, Khúc cốt đoan: Chữa đái khó (xem: Ỉa không cầm).

 - Thiếu phủ, Tam lý: Chủ đái khó còng lưng.

 - Âm lăng tuyền: Chủ tức đầy dưới tim, lạnh ở trong,  đái khó.

 - Bào hoang: (xem: Lậu), Thạch môn, Quan nguyên, Âm giao, Trung cực (xem: không có con), Khúc cốt: (xem: Ra khí hư): Chủ đái không được.

 - Kinh môn: Chủ uống nước thấm ra ngoài (ích ẩm), đường nước không thông, nước đái vàng.

 - Thái xung: Chủ đau thắt lưng dẫn vào bụng dưới, đái khó, giống như lậu (“Minh” cũng nói giống như thế), quý sán, bụng dưới sưng, đái lỏng, đái són, rớt, đau âm hộ, mặt và mắt xanh bủng, sườn ngực đầy tức, khó ỉa “Đồng”.

 - Thủy đạo: Trị Bàng quang hàn, Tam tiêu nhiệt, đái khó (xem: Bụng dưới đau).

 - Hội âm: Chữa đái khó, trong lỗ đái nóng (“Thiên” nói giống như thế), đa đao, đầu âm lạnh, xông lên tâm.

 - Hoành cốt: Trị bụng chướng, đái khó, âm khí thõng thẳng ra mà đau

 - Âm bao: (xem: Thắt lưng), Chí âm, Âm lăng tuyền: (Xem: Sán), Địa cơ: (xem: Thũng nước), Tam âm giao: (xem: Hạch hòn), chữa đái khó.

 - Cơ môn: (xem: Lậu) chữa tiểu tiện không thông.

 - Âm cốc: Chữa phiền nghịch đái khó, bụng dưới cấp đau dẫn vào bụng, đau cạnh trong đùi.

 - Ngũ lý: Chữa đầy trong ruột, nhiệt bí, không đái được

 - Hành gian: Chữa đái khó (xem: Đục, trắng).

 Có người đái lậu, tắc không thông, rất lấy làm khổ, tôi bảo hái lá Vương bất lưu hành (xem: Lậu nhỏ giọt), nghiền nhỏ sắc uống thì khỏi (Hoàng kỳ lấy búa đập, sắc sôi mấy đạo, uống chữa đại tiểu tiện không thông, khỏi ngay). Cũng thường nấu nước hành củ mà tẩm bằng khăn, đắp ở dưới rốn thì thông được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 21, 2018, 10:28:00 AM
 19. Đái năm mầu (ngũ sắc):

 - Thận du: Chủ đái khó, đục, dở, xương nóng rét “Thiên”.

 - Tiểu cốt, Ủy trung: Chủ đái đỏ, khó.

 - Thượng liêm, Hạ liêm: Chủ đái khó, vàng, phàm đái xanh, lấy tỉnh huyệt, vàng lấy du huyệt, đỏ lấy vinh huyệt, trắng lấy kinh, đen lấy hợp huyệt.

 - Thừa tương: Chủ đái đỏ, vàng, hoặc có khi không cầm.

 - Hoàn cốt, Tiểu trường du, Dương cương, Bàng quang du: Chủ đái vàng, đỏ.

 - Trung quản: Chủ Tiểu trường có nhiệt, đái vàng.

 - Quan nguyên: Chủ bệnh Thận khí, còng lưng đái vàng.

 - Kinh môn: (xem lại: Xuống dưới không thông), Chiếu hải: Chủ đái vàng, đường nước không thông.

 - Đại lăng: Chữa mắt đỏ, đái ra máu.

 - Quan nguyên: Chủ ở trong đái ra máu.

 - Đại lăng: Chữa đái như máu.

 - Quan nguyên: (sách “Minh hạ” giống như thế) chữa đái ra máu (xem: Đau rốn).

 - Hạ quản: Chữa đái đỏ (thấy rõ ở bụng rắn).

 - Âm giao: Chữa nóng ở dưới rốn, đái đỏ, khí đau như dao ngoáy làm thành cục như chén úp.

 - Âm kiều: Chữa đái ra nước vàng, bụng dưới nóng, họng khô, sách “Hạ” nói: Chữa đái khó.

 - Tiểu trường du: Chữa tiểu tiện đỏ, tắc, Tiểu trường đau cấp.

 - Đai khê, Quan nguyên: (xem: Bôn đồn), Bạch hoàn du: Chữa đái vàng “Hạ”.

 - Tiểu trường du: Chữa đái đỏ, tắc, lậu nhỏ giọt. Đau bụng dưới “Đồng”.

 - Bàng quang du: Chữa đái khó, tắc, đái rớt, âm hộ mọc mụn, ít hơi, ống chân lạnh đều, gấp, không co duỗi được.

 - Thượng liêu: Chữa đái khó, vàng, đỏ.

 - Thái khê: (xem: Thương hàn không có mồ hôi), Đoài đoan: (xem: Khát), Âm cốc: (xem: Bụng chướng), Hạ liêm: Chữa đái vàng.

 - Hồn môn: Trị đái vàng, đỏ.

 - Quan nguyên: (xem: Đau rốn), Trật biên: (xem: Đau lưng), Khí hải, Dương cương: Chữa đái đỏ, tắc (xem: Bụng chướng).

 - Hạ quản: Trị tiểu tiện đỏ (xem: Đau bụng).

 - Đại đôn: Chữa đái ra máu, cứu 3 mồi “Thiên”.

 Đái có 5 mầu, duy chỉ có đỏ, trắng là thường thấy. Màu đỏ thường là do uống rượu mà bị. Nên uống “Bản sự phương”, “Thanh tâm hoàn”, tôi đã bảo người ta uống mà khỏi. Màu trắng là do hạ nguyên bị lạnh, nên uống thuốc bổ và cứu các huyệt: Thận du, Quan nguyên, Tiểu trường du, Bàng quang du, đó đều là yếu huyệt cả. Gần đây có người đái ra máu, tôi bảo lấy rượu và nước sắc gốc cây rau mãi đắng (Khổ mãi thái căn), uống khỏi ngay.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 21, 2018, 11:01:48 AM
 20. Chữa mộng tinh, di tinh, thất tinh (trắng đục):

 - Hư lao, đái ra tinh, cứu hai bên đốt sống lưng thứ 7 đều 30 mồi “Thiên”, hoặc Khúc tuyền 100 mồi.

 - Hư lao, đái đục, trắng, cứu Tỳ du 100 mồi, hoặc Tam tiêu du, Thận du, Chương môn 100 mồi.

 - Mộng tinh, đái khó, đục, cứu Thận du 100 mồi.

 - Mộng, tiết tinh, cứu Trung phong 50 mồi.

 Con trai mộng giao hợp với đàn bà mà tiết tinh, cứu Tam âm giao 50 mồi.

 - Mất tinh, dương vật co lại, cứu Trung phong 50 mồi.

 - Mất tinh, dương vật co lại, trong ống tinh đau, cứu Đại hách 30 mồi.

 - Dương vật đau, đái ra máu, tinh ra, cứu Liệt khuyết 50 mồi.

 - Mất tinh, cả năm Tạng hư kiệt, cứu Khúc cốt đoan (Hoành cốt) 50 mồi.

 - Mất tinh đầu gối và ống chân lạnh đau, cứu Khúc tuyền 100 mồi.

 - Thắt lưng cột sống lạnh đau, đái đục, cứu Tỳ mộ (Chương môn) 100 mồi, giống như “Thiên”.

 - Bạch trọc (trắng, đục) và đái ra tinh, cứu xương Đại chùy, xương đuôi rùa và khoảng giữa, cộng là 3 huyệt. Dùng dây đo từ Đại chùy tới xương rùa, gập lấy ở giữa làm huyệt trung gian (riêng phụ).

 - Thái xung, Trung phong, Địa cơ: Chủ tinh không đủ “Thiên”.

 - Trung cực, Lãi câu, Lậu cốc, Thừa phù, Chí âm: Chủ tiểu tiện bất lợi, mất tinh (“Minh hạ” giống thế).

 - Chí thất: Trị mất tinh, đái lậu nhỏ giọt.

 - Nhiên cốc: Chủ tinh tràn (“Đại hách” cũng giống thế): Ống chân buốt, không đứng được lâu, 1 chân lạnh 1 chân nóng.

 - Hành gian: Trị đái khó, trắng, đục, hàn sán, bụng dưới sưng.

 - Thận du: Chữa đái ra máu, đái đục, ra tinh (sách “Đồng” xem: Lao khái).

 - Cao hoang du: Trị mộng ra tinh (xem: Lao).

 - Chí âm, Khúc tuyền: (xem: Phong lao), Trung cực “Minh hạ” giống thế, Chí thất: Trị sưng ở dưới, mất tinh.

 - Mộng tiết tinh, cứu Tam âm giao 27 mồi, mộng dứt thần yên lành “Thiên”.

 - Hư lao, đái ra tinh, cứu Dương lăng tuyền, hoặc Âm lăng tuyền, số mồi theo tuổi, hoặc hai bên đốt sống lưng thứ 10, thứ 19 đều cứu 30 mồi.

 - Tai ù, lưng đau, mất tinh, ăn ít, đầu gối trở xuống bủng… thường cứu Kinh môn 50 mồi, đốt sống 14 là 100 mồi.

 “Ngũ tạng luận” viết: Tâm có 3 lẽ, chứa nước tinh có 3 hợp (sách “Thiên” giống thế). Làm người ta đi lậu là do ở Tâm, Tâm động thì đi lậu được buông lỏng. Muốn tránh nạn đó, cần dưỡng ở Tâm, làm cho nó không động mới được. Nếu tà niệm (ý nghĩ sái trái và sự nghi ngờ trỗi dậy) tất phải dẹp bỏ ngay. Dưỡng ở Tâm mới là cao, uống thuốc và châm cứu chỉ là thấp vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 21, 2018, 11:02:45 AM
 21. Ỉa không thông:

 - Đại chung, Trung liêu, Thạch môn, Thừa sơn, Thái xung, Trung quản, Thái khê, Thừa cân: Chủ khó ỉa “Thiên”.

 - Côn lôn: Chủ phân khô, cứng, trong bụng đau như cắt.

 - Thạch môn: Chủ bí ỉa, hàn khí kết lại, tâm rắn, đầy (tâm là trên dạ dầy).

 - Thừa sơn: (xem: Chuột rút), Thái khê: (xem: Thương hàn không có mồ hôi): Chữa khó ỉa “Đồng”.

 - Đại chung: (sách “Đồng” xem: Lậu), Thạch môn: Chữa ỉa sáp (rít không trơn), bí.

 - Hoang du: Chữa ỉa táo (xem: Đau lưng).

 - Trung trú: Chữa bụng dưới có nhiệt, ỉa phân rắn, khô, khó.

 - Thái bạch: Chữa đau lưng, khó ỉa.

 - Thái xung: Chữa chân lạnh, ỉa khó.

 - Thạch quan, Bàng quang du: Chữa bụng đau, ỉa khó “Minh hạ”.

 - Ỉa khó, cứu ở đốt sống lưng 7 sang hai bên đều 1 thốn, 7 mồi. “Thiên”, lại ở Thừa cân 3 mồi.

 - Ỉa không thông, cứu Đại đôn 4 mồi.

 - Ỉa bế tắc, khí kết, tâm đầy rắn, cứu Thạch môn 100 mồi (xem thêm “Thiên kim”).

 - Trong bụng có tích, bí ỉa, lấy thịt Ba đậu (Ba đậu nhục), làm thành bánh, đặt vào rốn, cứu 3 mồi thì thông. Thần hiệu “Kỳ vực mật đoài” trị bí ỉa (xem rõ ở mục “Ký hiệu”).

 22. Đái ỉa không thông:

 - Phong long: Chủ trị đái ỉa, sáp, khó (“Minh” cũng nói thế).

 - Trường cường: (“Minh hạ” giống thế), Tiểu trường du: Chủ đái khó, ỉa khó, lậu còng.

 - Bào hoang: Chủ còng, bế nặng ở dưới, khó đái, khó ỉa.

 - Thủy đạo: Đái ỉa không thông do Tam tiêu (lại nói chủ đàn bà).

 - Doanh xung 4 huyệt: Chủ đái ỉa bất lợi

 - Thái khê: Chủ ỉa khó, nước đái vàng.

 - Trung trú, Phù khích: Chủ bụng dưới nóng, ỉa rắn.

 - Bạch hoàn du: (xem: Cột sống, thắt lưng), Thừa phù: (xem: Trĩ), Đại trường du: Chữa đái ỉa không lợi (“Đồng” xem: Bụng chướng).

 - Hội âm: Chữa đái ỉa không được (xem: Đau âm hộ, sách “Thiên” giống thế).

 - Phù khích: Trị Tiểu trường nhiệt, Đại trường kết (xem: Cân cấp).

 - Bàng quang du: Chữa đái ỉa khó, đái nước đỏ “Minh”.

 - Giao tín: Chữa đái khó.

 *Một trường hợp hàn, đái, ỉa không thông. Tôi dùng Ngũ linh tán mà đều thông.. Ngũ linh vốn lợi tiểu tiện, mà đại tiện cũng không thông, tân dịch sinh theo đó, hoặc đái thông mà ỉa chưa thông, nên dùng mật đoài đạo (“Tất dụng phương” – đàn bà, người già bí ỉa mà dùng “Ma tử = Tô tử” nấu cháo ăn rất tốt).

 23. Đái không cầm (đái rớt, đái dầm):

 - Thừa tương: Chữa đái không cầm (xem: Đái vàng).

 - Quan nguyên: (Lại chủ đàn bà đái nhiều lần không dứt). Dũng tuyền: Chủ đái nhiều lần.

 - Thiếu phủ: Trị âm hộ đau dữ dội, đái rớt “Thiên”.

 - Quan môn, Trung phủ: (sách “Giáp” viết là Ủy trung), Thần môn: Chủ đái rớt (đái dầm dề).

 - Âm lăng tuyền, Dương lăng tuyền: Chủ đái không cầm, dầm dề không tự biết.

 - Thái xung: Chủ con gái đái dầm dề.

 - Quan môn: Chữa đái dầm dề hay đầy tức “Đồng”.

 - Cơ môn: (xem: Lậu), Thông lý: (xem Thương hàn, sách “Đồng” giống thế), Đại đôn: (xem: Sán), Bàng quang du: (Xem: Đái đỏ), Thái xung: (xem: Đái không dễ), Ủy trung (xem: Cột sống, thắt lưng), Thần môn: Trị đái dầm dề.

 - Âm bao: Chữa đái dầm dề, không cầm (xem: Đau lưng).

 - Đái dầm dề, cứu Dương lăng tuyền hoặc Túc dương minh, đều theo tuổi “Thiên”.

 - Đái dầm dề không cầm, ra không tự biết, cứu Âm lăng tuyền theo tuổi.

 - Đái không cầm, cứu Đại đôn hoặc Hành gian 7 mồi.

 - Đái ở giường, cứu ở nếp ngang dưới rốn 7 mồi

 - Đàn bà đái dầm dề cứu Hoành cốt 7 mồi.

 - Trẻ em đái dầm dề, cứu dưới rốn 1,5 thốn, theo tuổi, lại cứu Đại đôn 3 mồi (xem thêm: “Thiên kim”).

 - Khúc tuyền, Âm cốc, Âm lăng tuyền, Phục lưu: (các huyệt đó dứt việc đái dễ rất hay, không tổn dương khí. Cũng nói cầm đái dầm dề).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 24, 2018, 11:12:35 AM
 24. Đại tiện không cầm (xem: Ỉa chảy):

 - Đại trường du, Thứ liêu: Chủ dễ đái, ỉa.

 - Dương cương: Chủ ỉa không hạn chế (“Minh” cũng giống thế), ruột sôi, đi ỉa, đái vàng đỏ.

 - Thừa phù: Chủ sưng trong mảng xương cùng, ỉa thẳng ra, âm bào có lạnh, đái khó.

 - Khúc cốt đoan (Hoành cốt): Chủ ỉa ra nhiều lần, cứu thêm Thiên khu.

 - Đan điền: Chủ ỉa dễ không cầm, bụng dưới cắn đau.

 - Quan nguyên: Chữa ỉa lỵ, hư chướng, đái khó “Minh”.

 - Hồn môn: Chữa ỉa không hạn chế “Đồng”.

 - Già, trẻ ỉa không cầm, cứu hai ngón chân, móng đi lên 1 thốn, 3 mồi. Lại cứu khe chia rẽ ngón cái (Đại chỉ kỳ gian) đều 3 mồi “Thiên”.

 - Tam lý: Chữa hoắc loạn, đẻ dị tật.

 Ỉa không cầm, bệnh cũng chán vậy, Thần khuyết, Đan điền, Khúc cốt đoan… đều là những huyệt nên nhanh cứu ngay. Tôi có thời gian ngắn bị Tỳ tiết, thầy thuốc bảo có tích, cho thuốc lãnh để lợi, sinh ra đi ỉa không cầm, uống “Trấn linh đơn” hơn 10 viên, từ trưa đến đêm, đều mấy viên mà khỏi. Ngày nay, người ta uống dăm ba viên đó không khỏi thì không uống, đó cũng là lấy một thìa nước mà cứu một xe lửa sao được.

  25. Ỉa chảy (xem thêm: Thổ tả):

 - Khúc tuyền: Trị ỉa dễ, tứ chi uể oải, rã rời (“Đồng” xem: Sán).

 - Khúc kết: Chữa lạnh bụng, ỉa dễ (xem: Đau rốn).

 - Thần khuyết: Chữa ỉa dễ không cầm, trẻ em còn bú sữa ỉa không dứt, bụng to, đau quanh rốn.

 - Khí huyệt: Chữa đàn bà ỉa dễ, không cầm (xem: Kinh nguyệt).

 - Dương cương: Chữa ỉa ra trơn, dễ, cốc loại không hóa (xem: Tích khí).

 - Quan môn: Chữa ỉa dễ không muốn ăn (xem: Tích khí).

 - Thiên khu: trị ỉa rễ, ăn không hóa.

 - Tam tiêu du: Chữa nước, cơm, gạo không hóa. Muốn, mót đi ỉa, dừng ỉa (dục tiết trú, xem: Bụng chướng).

 - Huyền khu: Chữa cơm nước không hóa, ỉa dễ (xem: Tích tụ).

 - Tích trung: Chữa ôn bệnh, tích tụ, ỉa dễ.

 - Trung liêu: Chữa bụng chướng, dễ ỉa, ăn vào là ỉa.

 - Tỳ du: Chữa ỉa dễ (xem: Bụng chướng).

 - Bàng quang du: Chữa dễ ỉa, bụng đau.

 - Đại trường du, Thận du: Chữa ỉa tháo nước, ăn không hóa (xem: Lao khái).

 - Hội dương: Chữa khí lạnh trong bụng, ỉa dễ không cầm.

 - Kinh môn: Chữa bụng dưới sưng rất nhanh, ruột sôi, ỉa như tháo cống, đau dẫn vào vùng xương cùng.

 - Tam gian: Chữa bụng đầy, sôi ruột chữa ỉa như tháo cống.

 - Nhiên cốc: trị trẻ em ỉa như tháo cống (xem: Miệng ngậm).

 - Quan nguyên: Chữa ỉa không cầm (“Minh hạ” xem: Bôn đồn).

 - Kinh môn, Nhiên cốc, Âm lăng tuyền: Chữa ỉa như tháo cống, không hóa “Thiên”.

 - Thận du, Chương môn: Chữa hàn ở trong, ỉa như tháo cống, đau mình.

 - Trường cường: Chủ đầu nặng, ỉa như tháo cống, sách “Minh hạ” nói: Ỉa như tháo cống, không cầm.

 - Âm lăng tuyền, Ẩn bạch: Chủ trong ngực nóng, ỉa dữ dội.

 - Đại trường du: Chủ ruột sôi, giữa bụng sưng, ỉa dữ dội.

 - Tam tiêu du, Tiểu trường du, Hạ liêu, Ý xá, Chướng môn: Chủ ruột sôi, bụng chướng, muốn mót đi ỉa (dục tiết trú).

 - Hội dương: Chữa trong bụng có hàn, mót đi ỉa, tích ở ruột, ỉa ra máu.

 - Thúc cốt: Chủ ruột tích, ỉa chảy.

 - Thiên khu: Chữa vào tháng Trọng đông, cảm hàn mà ỉa chảy, đau ngang rốn, trong bụng có khí đau như cắt. Nếu bụng trên đau mà sau đó ỉa, đó là khí hàn tạm ở trong ruột… Cứu Quan nguyên 100 mồi. Uống “Dương quý súc sa thang” (Chỉ).

 - Ỉa chảy nên trước cứu Thần khuyết, sau cứu Quan nguyên.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 24, 2018, 11:18:00 AM
 26. Ỉa chảy như cháo loãng (sôn tiết):

 - Trung liêu: Chủ bụng chướng, ỉa như tháo.

 - Hạ liêu: Chủ đau bụng dưới, ỉa như tháo, đau khe ngón tay trỏ, môi khô, nước dãi chảy ra không biết, không ra được mồ hôi, lông tóc khô, gầy sọp đi, thở ngắn hơi, nóng trong dạ dầy, không muốn ăn.
 
 - Thượng liêm: (xem: Đau sườn). Chữa ỉa như cháo.

 - Âm lăng tuyền: Chủ đàn bà ỉa như cháo (xem: Sán giả).

 Sách “Tố vấn” nói: Xuân thương ở phong, hạ tắc ỉa như cháo. Nếu như biết bị bệnh là do thương ở phong, thì dùng thuốc có thể chữa được. Tuy chưa giỏi về Ngải, cũng không làm hại gì.

 Sách “Bản sự phương” nói: Sôn tiết (ỉa như cháo) là cốc bất hóa, mùa xuân vượng ở mộc, sinh phong tà, dâm khí vào Tỳ kinh, đến mùa hạ  gặp cái lạnh của gió, cho nên thường ỉa như cháo loãng. Nên dùng Khương Cùng hoàn (gồm: Khung cùng, Thần khúc, Bạch truật, Phụ tử) các vị bằng nhau tán nhỏ, luyện hồ viên to như hạt Ngô đồng, mỗi lần uống dăm ba chục viên, chiêu bằng nước gạo. Trị Tỳ thấp mà ỉa.

 27. Ỉa lỏng (đường tiết):

 - Tam âm giao: Chữa ỉa lỏng, ăn không hóa (“Đồng” xem: Bụng chướng).

 - Địa cơ: (xem: Thủy thũng) trị ỉa lỏng.

 - Địa cơ: Chủ đường giả (không đúng là ỉa lỏng, đau bụng, tạng bại).

 - Thái xung: Chủ ỉa lỏng (xem: Lỵ).

 Tôi thử ở bệnh đau bại, khi thấy nhiều người ỉa lỏng kéo dài, do cứu giữa rốn xong không thấy kêu nhộn nhạo. Nếu cứu ỉa lỏng thì cứu giữa rốn là nhất, Tam âm giao cũng chỉ là thứ.
 
 “Bản sự phương” ghi: Một thân mẫu, đầu canh năm bị ỉa lỏng, lần thứ nhất bị mấy tháng, có người nói chứng đó tên là “Thận tiết”, Thận cảm âm khí mà thành, uống Ngũ vị tử thì khỏi (Ngũ vị tử 2 lạng, Ngô thù ½ lạng, sao thơm tán bột làm hoàn, mỗi lần uống 2 đồng, chiêu bằng nước cháo gạo lâu năm).

 Tôi ngày xưa bị bệnh ỉa lỏng, mỗi ngày cứ sáng sớm là phải đi ỉa, người ta dạy tôi mua "Đậu phu hoàn" uống thì khỏi, phương ấy không mua được. Năm khác lại bị nạn đó, thì dùng Gừng sắc Phụ tử, thêm Đậu khấu, uống khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 26, 2018, 11:10:55 AM
 28. Lỵ (xem thêm: Tả):

 “Tố vấn” nói: Ỉa lỵ có 5 loại:

 + Vị tiết, ăn không hóa mà màu vàng, Vị và Tỳ hợp nên màu vàng.

 + Tỳ tiết, bụng chướng mà đi ỉa lỏng không ngừng, lại nôn ngược lên, đó là nạn sốt rét.

 + Đại trường tiết, ăn xong bụng sôi, đau như cắt ruột, mà lỵ màu trắng. Đại trường hợp với Phế nên màu trắng.

 + Tiểu trường tiết, thân gầy mà ỉa ra mủ máu, Tiểu trường hợp với Tâm, Tâm chủ huyết.

 + Đại giả tiết, lý cấp hậu trọng, nhiều lần đến nhà xí mà không ỉa được, đau trong ống đái là Thận tiết.

 Phép chữa của các nhà có đến hơn hai chục loại. Đó mới chỉ có 5 loại, chỉ là đưa ra đầu mối, sách “Tất dụng phương” có đưa ra: Đỏ,Trắng, Cam, Cố, đại khái là tạng, phủ…

 Mấy lần tôi chữa người lỵ, chỉ với “Chấn linh đơn”, không có trường hợp nào không khỏi, hoặc chưa khỏi thì cho thêm mấy viên thì khỏi. Nếu như cổ lợi (bụng to dễ ỉa) thì dùng Bá diệp (lá Trắc bá), Hoàng liên sắc uống (xem: Ký hiệu).

 Mọi thứ lỵ riêng sách “Kỳ vực phương” dùng Hậu phác, Anh túc xác, giã thật nhỏ mịn, sau thêm Mộc hương, Trần bì, Hoàng liên lượng bằng nhau, Cam thảo trộn đều vào nhau, Hoàng xác diệp mấy miếng, Gừng, Táo, Ô mai đổ nước vào sắc, tôi thường dùng như vậy thấy hiệu nghiệm nên ghi vào đây.

 - Tuy nhiên, lỵ vốn không gọi là ác, thế mà có người bị bệnh đó mà chết, hoặc giả thầy thuốc ở đời cho lỵ là nhiệt bệnh, thường cho uống thuốc mát cho nên thế. Nếu như khó khăn khẩn cấp, cũng thường đốt Ngải, không thể chuyên dùng thuốc được.

 - Phục lưu: Chủ trường tích, ỉa ra máu mủ, lý cấp hậu trọng, bụng đau “Thiên”.

 - Giao tín: Chủ lỵ, ỉa trắng, đỏ (“Đồng” cũng giống thế), ra máu từng giọt.

 - Thái xung, Khúc tuyền: Chủ ỉa lỏng, đi lỵ ra máu.

 - Tiểu trường du: Chủ ỉa lỵ máu mủ 5 màu, ở dưới nặng mà sưng đau.

 - Đan điền: Chủ ỉa lỵ không cầm, bụng dưới cắn đau.

 - Quan nguyên, Thái khê: Chủ ỉa lỵ không dứt

 - Tỳ du: Chủ lỵ không ăn được, ăn không sinh da thịt (không béo).

 - Ngũ khu: Chủ đàn bà ỉa trắng đỏ, lý cấp, khế túng (điên dại, động kinh).

 - Khúc tuyền: Chữa ỉa chảy ra nước, dễ ra mủ máu (“Đồng” xem: Phong lao).

 - Trung lữ du: Trị lạnh ruột, lỵ trắng đỏ (“Minh” cũng giống thế).

 - Bàng quang du: Ỉa lỵ bụng đau “Minh”.

 - Tích du: Chữa ôn bệnh tích tụ, ỉa lỵ (“Đồng” chép ỉa dễ).

 - Quan nguyên: Chữa ỉa lỵ (xem: Ỉa không cầm).

 - Trẻ em ỉa lỵ trắng đỏ, lòi dom (thoát giang) mỗi lần ỉa bụng đau không chịu nổi, cứu chỗ đốt xương 12, tên là huyệt Tiếp tích 1 mồi.

 - Hoàng đế chữa trẻ em cam lỵ lòi dom, chân tay gầy còm khát nước, thân hình tiều tụy, mọi thứ thuốc không khỏi.
Cưu vỹ, Thư cốt lên 3 thốn chỗ xương lõm vào 3 mồi.

 “Kỳ Bá” nói: Trong vòng tam phục (tới ngày Canh, trong vòng 30 ngày sau Hạ chí), dùng nước Đào tắm cho trẻ nhỏ, đúng giờ Ngọ trong ngày thì cứu, dùng bông sạch chùi đi, thấy rõ cam trùng theo mồ hôi mà ra. Thần hiệu!

 - Trẻ em lãnh lỵ kéo dài không dứt, cứu ở động mạch dưới rốn, giữa 2 thốn và 3 thốn (2,5 thốn) 3 mồi.

 - Đàn bà ỉa ra nước lỵ, cứu Khí hải 100 mồi.

 - Lỵ, ăn không tiêu, không nuôi thành da thịt, cứu Tỳ du theo tuổi “Thiên”.

 - Đi ỉa ra 5 thứ, ỉa ra máu, bụng đau, nặng ở dưới, cứu Tiểu trường du 100 mồi

 - Ỉa lỵ không cầm, bụng dưới cắn đau, cứu Thạch môn 100 mồi làm 3 đợt.

 - Lỵ lâu dài, chữa trăm cách không khỏi, cứu Túc dương môn xuống 1 thốn, chỗ lõm trên xương cao, cách chỗ rẽ ngón cái 3 thốn, số mồi theo tuổi, lại cứu giữa rốn vài ba trăm mồi. Lại cứu Quan nguyên 300 mồi (Cứu 10 ngày).

 - Ỉa trắng đỏ, cứu xương cùng, thường là khỏi. Tứ chi rã rời nhiều mồ hôi.

 - Lỵ như tháo cống, cứu Đại hoành theo tuổi (xem: “Thiên kim”).

 Lỵ ỉa dữ dội ra như nước, cứu Khí hải 100 mồi “Chí”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 28, 2018, 11:15:44 AM
 29. Ỉa ra máu:

 - Phục lưu, Thái xung: (xem thêm: Lỵ), Hội dương: (xem: Tả): Chủ ỉa ra máu “Thiên”.

 - Hạ liêm, U môn: (“Minh” giống thế), Thái bạch: (xem: Thổ tả) Trị lỵ ỉa ra máu mủ “Đồng”.

 - Thái bạch: Chữa nôn, ỉa mủ máu (xem: Bụng chướng).

 - Tiểu trường du: Chữa ỉa máu mủ (“Minh” giống thế).

 - Hạ liêu: Chữa ỉa ra máu.

 - Phúc ai: Chữa ỉa ra máu (xem: Đau bụng) sách “Thiên” lại nói: Hàn ở trong, ăn không hóa bụng đau.

 - Lao cung: (xem: Thương hàn) Chữa đái ỉa ra máu.

 “Lục thị tập nghiệm phương” chữa ỉa ra máu không dứt, đo ngang rốn sang phía cột sống bằng nhau, lấy đốt sống trên đó cứu 7 mồi thì dứt. Nếu tái phát, lại cứu 7 mồi, mãi mãi chữa trừ gốc rễ, tận mắt nhìn thấy mấy người khỏi.

 Tôi thường dùng chỗ đó cứu người bị trường phong, đều chữa trừ được gốc rễ, thần hiệu không gì so kịp. Tuy nhiên cũng cần ấn chỗ lồi của xương mà có đau buốt mới cứu, không đau thì không cứu.

 Nhưng mà ỉa ra máu gốc ở trường phong, mà trường phong tức là trường trĩ, không nên chia ra làm 3, hoặc phân ra làm 3 nhưng mà chữa thì không chia.

 30. Trĩ (dò, nhỏ giọt, xem thêm: Mụn đỏ):

 - Trường cường: Chữa trường phong ỉa ra máu, 5 loại trĩ, can trùng ẩn dấu ở phần dưới. Trĩ này căn bản là lạnh, ăn lạnh, tình dục thái quá (phòng lao) sách “Đồng” và “Minh” giống nhau.

 - Sách “Minh hạ” nói: Chữa lỵ lâu ngày.

 - Hội âm: Chữa đường hang có bọ quấy nhiễu, trĩ lậu thông nhau là chết, sách “Thiên” nói: Chủ trĩ mà âm hộ thông nhau là chết.

 - Hội dương: Chủ trĩ lâu ngày

 - Tiểu trường du: Chủ 5 thứ trĩ đau (“Minh” nói giống thế).

 - Trật biên: Trị 5 thứ trĩ phát mụn nhọt.

 - Phục lưu: Trị huyết trĩ, sau khi ỉa thì sưng.

 - Phi dương: Trị dã kê trĩ (trĩ gà đồng).

 - Thừa sơn: Trị trĩ lâu, sưng đau.

 - Thừa phù: Trị trĩ lậu, sưng vĩ thự (phao câu), khó ỉa, âm bào có hàn, tiểu tiện khó, sách “Thiên” nói: Chữa 5 loại trĩ, ỉa ra máu tươi, sưng trong phao câu (xương đuôi sau lỗ đít), khó ỉa.

 - Khí hải du: Chủ bệnh trĩ ỉa ra máu “Minh”.

 - Phi dương: Chủ trĩ thoát, đau.

 - Thương khâu, Phục lưu: Chủ trĩ ra máu, ỉa xong nặng lỗ đít (cứ như là chưa ỉa xong, gọi là hậu trọng).

 - Lao cung: Chủ nhiệt trĩ.

 - Thừa cân, Thừa phù, Ủy trung, Dương cốc: Chủ trĩ đau, sưng dưới nách.

 - Thương khâu: Chủ trĩ xương bị mòn (sách “Đồng” nói: Bệnh trĩ xương có nhọt gặm mòn).

 - Chi câu, Chướng môn: Chủ tràng nhạc sưng, dò.

 - Tuyệt cốt: Chủ dò tràng nhạc, nách sưng.

 - Hiệp khê, Dương phù: (“Đồng” giống thế), Thái xung: Chủ sưng dưới nách, dò tràng nhạc (sách “Đồng” nói: Thái xung, Lâm khấp: Trị mụn, tràng nhạc dò).

 - Thiên đột, Chướng môn, Thiên trì, Chi câu: Chủ dò.

 - Thiên đột, Thiên song: Chủ dò đau cổ.

 - Trường cường: Chủ dò ở dưới (“Minh” xem: Trĩ) “Thiên” dùng Đình lịch làm thành bánh để cứu dò. “Ngoại đài” nói: Không thể cứu mụn trên đầu, hơi Đình lịch vào não, chết người.

 - Phép cứu trĩ, bệnh nếu chưa sâu tới xương đuôi (vỹ lư), gần Đường anh (lỗ đít) cứu 1 huyệt. Tiện có thể trừ đi, như “Truyền tín phương” trước hết lấy cành Hòe lâu năm, sắc nước rửa, sau cứu trên đó 7 mồi, rất sứng là nghiệm, như “Bản thảo” chỉ cần lấy một nắm rễ Mã lam thái, 3 bát nước, sắc lấy nửa bát, nhân lúc còn nóng, lấy cái bình nhỏ miệng, xông rửa, làm cho bớt sưng, nguyên cứu trên gốc vú chuột sống (tức không thể cứu trên đầu nhọn sợ kết quả chậm).

 Như bệnh đã sâu dùng thuốc rửa không bớt, dùng thang khác rửa cho tiêu, sau đó mới cứu, thấy hơi lửa lên đến ngực mới có kết quả. Bệnh tuy sâu, cứu đến hơn hai chục mồi, mãi mãi rời đứt tân gốc rễ. Lấy mảnh tre, gắp bốn chung quanh thịt chỗ đó, chọn ngày sắc trời dịu mát, lạnh thì cứu, kiêng thức ăn độc “Tập hiệu”, “Thiên kim” cứu lậu dò thì có nhiều huyệt.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 29, 2018, 10:43:48 AM
 31. Trường cường (bệnh ruột):

 - Xương cùng đầu dưới cột sống (chỗ cuối cùng của xương sống có tên là Quy vĩ, đúng giữa đó cứu 3 mồi, trị trường phong ỉa ra máu, khỏi ngay. Cần chổng ngược người thì mới cứu được).

 - Năm thứ trĩ lạnh ỉa ra máu, Tích trung cứu 100 mồi “Thiên dực”.

 “Hà Giáo Thụ Thương Bạ” có tật đó, hàng năm đều 1 lần cứu mà trừ tận gốc, “Thương Bạ Nhân” nói chuyện về phép đó, sau nhìn qua cách cứu huyệt đó, chữa trẻ em lòi dom, ỉa ra máu, đúng phép Kỳ Bá cứu trẻ em. Người ta sau này lấy phép đó mà cứu người lớn trường phong ỉa ra máu. Đúng bệnh của người lớn, trẻ em lúc đầu không khác là vì thế.

 5 thứ trĩ ra máu, mất phân (hồi khí 100 mồi, ở trên xương sống cùng dưới chỗ trắng, đỏ).

 - Trường cường: Chữa trường phong ỉa ra máu (“Đồng” xem Trĩ).

 Thuốc chữa trường phong thì rất nhiều, thường không có kết quả, tại sao thế? “Bản thảo diễn nghĩa” viết: Trường phong là trường trĩ, nếu biết là trĩ mà chữa thì không thể không khỏi. Cứu trường phong, Trường cường là yếu huyệt. Gần đây Lý Thương bị trường phong, thầy thuốc ở chợ lấy gậy đo giữa rốn, đem sang đốt sống, chỗ ngang rốn cứu thì khỏi. Tôi nhân đó cứu cho người trường phong đều trừ tận gốc (“Lục Thị Phương” chữa ỉa ra máu trừ tận gốc).

 32. Ruột rãn (trường tịch – có tích ở ruột, ruột giãn rộng ra):

 - Phục lưu: (xem: Lỵ), Thúc cốt, Hội dương: (xem: Ỉa chảy) Chủ trường tịch.

 - Trung đô: Trị trường tịch, quý sán, đau bụng dưới “Đồng”.

 - Tứ mãn: Trị trường tích, đau như cắt (xem: Tích tụ).

 - Kết tích lưu ẩm thành bọc tích, ngực tức đầy, ăn uống không tiêu, cứu Thông cốc 50 mồi “Thiên”.

 - Đại trường du: Chủ phong trong bụng kêu như sấm, Đại trường dẫn nước sôi bụng, trường tích ỉa lỵ, ăn không tiêu hóa, bụng dưới cắn đau, đái ỉa khó, không thể ăn uống được, cứu 100 mồi (3 lần).

 - Mọi thứ kết tích lưu ẩm thành bọc tích, ngực đầy tức, ăn uống không tiêu cứu Thông cốc 50 mồi, lại Vị quản 300 mồi (3 lần).

 - Đốt sống thứ 15 tên là Hạ cực du: Chủ bệnh trong bụng, đau lưng, Bàng quang hàn, tích ẩm, mót ỉa, cứu theo tuổi “Thiên dực”.

 - Hội dương: Chủ trong bụng có hàn đia ỉa, trường tích ỉa ra máu.

 - Thúc cốt: Chủ trường tích, đi ỉa.

 - Ưng song: Chủ ruột sôi, mót ỉa.

 - Dương cương: Chủ đi ỉa không hạn chế, đái vàng, đỏ, bụng sôi, mót ỉa.

 -Tam tiêu du:, Tiểu trường du, Hạ liêu, Ý xá, Chướng môn: Chủ ruột sôi, bụng chướng muốn mót ỉa “Thiên”.

 33. Đau ruột (xem thêm: Trường tích):

 - Thái bạch: Chữa đau ruột (“Giáp” xem: Sôi ruột).

 - Hãm cốc: Chủ đau ruột (“Thiên” xem: Sôi ruột).

 - Thương khúc: Chữa ruột đau như cắt (“Đồng” xem: Tích tụ).

 - Kiến lý: Chữa đau trong ruột, nôn ngược khí lên, tim đau, sưng mình “Minh”.

 - Khí xung: Trị nhiệt trong ruột (“Đồng” xem: Khí lên).

 - Đau ruột cũng có nhiều đầu mối: Nếu đau quá lắm là ung ruột, cấp nên uống ngay “Nội bổ thập toàn tán” (Thuốc bột), các thứ khác tùy tên gọi mà cứu.

 - Có bà cụ già, trong ruột thường tựa hồ như bị lý cấp hậu trọng, rất là khổ, tự bà ta nói không phải về già, hồi còn là mẹ trẻ đã có tật đó. Ấn vào Đại trường du rất đau, bảo về cứu ở đó mà khỏi.

 - Ung ruột là bệnh ở Tiểu trường, đi đái nhiều lần như lậu, hoặc chung quanh rốn mọc mụn, hoặc mủ từ rốn chảy ra. Cơ đầu khuỷu tay, cứu đúng đầu nhọn khuỷu, chỗ xương lòi cả hai bên đều 100 mồi thì dứt ra mủ, khỏi đứt.

“Hồ quyền nhục bổ thập toàn tán” chữa ung ruột thần hiệu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 30, 2018, 08:36:19 AM
34. Ruột sôi (sôi bụng):

 - Bất dung: Trị sôi bụng, hư (“Đồng” xem: Huyễn thích).

 - Tam gian: Chủ ngực tức, ruột kêu “Thiên”.

 - Vị du: Chủ bụng đầy mà kêu “Minh hạ” nói: Trong bụng kêu.

 - Tề trung: Chủ trong ruột thường kêu, xung lên tim.

 - Thiên khu: Chủ bụng chướng ruột kêu, khí xung lên ngực (lại đàn bà).

 - Âm đô: Chủ đầy vùng tim, khí nghịch, sôi kêu.

 - Thái bạch, Công tôn, Đại trường du, Tam tiêu du: (xem: Ỉa chảy) Chủ ruột kêu.

 - Âm giao: Chủ ruột kêu òng ọc như có tiếng nước.

 - Thượng liêm: Chủ ruột kêu, có cả gấp rút lẫn từ từ.

 - Lậu cốc: Chủ mạch kêu, mạch tim buồn, khí nghịch.

 - Ưng song: Chủ ruột sôi, mót ỉa.

 - Hãm cốc, Ôn lưu, Lậu cốc, Phục lưu, Dương cương: Chủ ruột kêu mà đau.

 - Hạ liêu: Chủ đàn bà ruột kêu, mót ỉa.

 - Sườn ngực chướng, ruột kêu đau như cắt, Thái bạch chủ trị “Giáp”.

 - Tam lý: (xem: Dạ dầy), Tam gian, Kinh môn: (xem: Ỉa chảy), Quan môn (xem: Tích khí), Tam âm giao (xem: Bụng chướng), Hãm cốc, Thủy phân, Thần khuyết (xem: Thủy thũng), Thừa mãn, Ôn lưu, Tam tiêu du, Đại trường du, Vị du (xem: Bụng chướng), Thiên khu (xem: Kinh nguyệt): Trị ruột kêu “Đồng”.

 - Chướng môn: Trị ruột kêu inh inh (“Thiên” giống thế), ăn không hóa, sườn đau không nằm, phiền nhiệt, miệng khô, không muốn ăn, ngực sườn đầy tức, thở suyễn, tim đau, thắt lưng “Hạ kinh”, cổ, bả vai, sườn đau, không thể xoay nghiêng.

 - Thượng liêm: Trị ruột kêu, khí chạy, đau do khí hậu không hợp.

 - Thương khâu: Trị bụng chướng, ruột kêu, không ỉa, Tỳ hư làm cho người ta không vui. Mình lạnh, hay thở dài, tim buồn, khí nghịch.

 - Phục lưu: Trị bụng kêu như sấm (xem: Cổ chướng).

 - Đốc du: Chữa bụng đau, bụng chướng, suyễn lên, khí nghịch “Hạ”.

 - Dương cương: Chữa ăn không xuống, trong bụng kêu như sấm, bụng đầy, ỉa chảy, tiêu khát, thân nóng, mặt và mắt vàng, không muốn ăn, uể oải “Hạ”. “Thiên” nói: Chủ ruột kêu (xem: Ỉa không cầm).

 -Tam tiêu du: Chữa bụng chướng ruột kêu.

 - Ruột kêu cùng khắp như sấm, ỉa lỵ, cứu Thừa mãn 50 mồi “Thiên”.

 - Thiên khu: Chủ bụng chướng ruột kêu, khí xông lên ngực, không thể đứng lâu được, bụng đau òng ọc, ngày mùa đông cảm nặng ở hàn thì ỉa chảy (xem: Ỉa chảy), ăn không hóa, ham ăn, mình sưng, sát rốn đau cấp. Trong bụng kêu như sấm, cứu Thái xung không hạn số mồi (“Thiên” xem: Khí lên).

 35. Thoát giang (lòi dom):

 - Bách hội: Chữa lòi dom, “Minh hạ” nói: Chữa người lớn trẻ em lòi dom. “Đồng” nói: Chữa trẻ em lòi dom lâu không khỏi.

 “Kỳ Bá” chữa trẻ em lòi dom, ỉa ra máu, kéo dài hàng năm không khỏi, cứu Quy vỹ 1 mồi, chỗ đầu chót xương sống là xương cùng.

 “Hoàng Đế” cứu trẻ em cam lị lòi dom (xem thêm: Lị) cứu trên đỉnh đầu, ở giữa xoáy tóc 3 mồi thì vào ngay “Thiên” ,hoặc xương Vỹ thúy 3 mồi, hoặc giữa rốn theo tuổi.

 - Hàn, lãnh lòi dom cứu Thúy cốt 7 mồi khỏi ngay, thần thật! Lại cứu giữa rốn theo tuổi, “Thiên dực” Hoành cốt 100 mồi, hoặc Quy vỹ 7 mồi.

 Có một người con gái nhỏ bị bệnh lị lòi dom, tôi truyền cho một phương: Dùng một nắm lá chè, 7 miếng gừng, bảo sắc mà uống thì khỏi. Nhưng không hiểu phương này ở đâu truyền đến, sau xem sách, đầu tiên biết gừng sống nhai sắc với chè, và “Công ba trị văn lược công lị phương” cũng thế, nên chép vào đây.

 36. Quặn bụng nôn nao (hoắc loạn chuyển cân) gân chùng hoặc co động (xem thêm: Chân, tay co):

 - Phàm quặn bụng, đau đầu, ngực tức, thở hít suyễn kêu to, cùng quẫn không thể thở được, huyệt Nhân nghinh chủ trị “Thiên”.

 - Cự khuyết: (“Minh” nói: Chữa hoắc loạn mê man), Quan xung, Chi câu, Công tôn, Âm lăng tuyền: Chủ quặn bụng.

 - Thái âm, Đại đô, Kim môn, Bộc tham: Chủ thổ tả quyết nghịch.

 - Thái bạch: Chủ quặn bụng, nghịch khí.

 - Ngư tế: Chủ Vị nghịch, thổ tả.

 - Thừa cân, Bộc tham: (xem: Thi quyết), Giải khê, Âm lăng tuyền: (xem: Sán) Trị quặn bụng.

 - Kim môn, Bộc tham, Thừa sơn, Thừa cân: Chữa quặn bụng, chuột rút “Thiên”.

 - Thừa sơn: Trị quặn bụng, chuột rút, ỉa khó “Đồng”.

 - Kim môn: Trị quặn bụng,chuột rút.

 - Khúc tuyền: (xem: Sán), Huyền chung (xem: Gối co), Dương phù (xem: Gối đau), Kinh cốt (xem: Chân tê), Vị du: Trị gân co (xem: Bụng chướng).

 -Bộc tham: (xem: Chân đau), Khiếu âm (xem: Không con), Chí âm (xem: Sưng nách): Chữa chuột rút.

 - Bễ quan: Trị đầu gân động (“Đồng” xem: Đau gối).

 - Phù khích: Trị tiểu trường nhiệt, đại trường kết, gân ngoài bắp đùi và ống chân co, khu khớp hông tê bại.

 - Khúc trì: Trị gân trùng ra, nắm vật gì không được, kéo cung không giương ra được, co ruỗi khó. Phong cánh tay và khuỷu sức nhổ như không.

 - Trung độc: Trị hàn khí tạm ở trong thịt, đau công lên xuống, gân bại tê dại.

 - Thừa cân: Trị bàn cánh tay trên chuột rút, cả cánh tay sưng, ỉa khó, đầu bàn chân nặng, buốt đau dẫn vào bụng dưới.

 - Ủy trung: (xem: Chân yếu), Phụ dương, Thừa sơn: (xem: Lưng, chân) chữa chân co động “Minh hạ”, sách của “Trương Trọng Cảnh” cứu gân chân co (xem: Lưng chân).

 “Kỳ Bá” chữa chuột rút gân ở chân, phát thì không chịu nổi. Cứu trên mắt cá chân 1 mồi, co gân trong cứu trong, co gân ngoài cứu ngoài.

 - Giải khê: Chủ đầu gối nặng, chân chuột rút, thấp bại “Thiên”.

 - Khiếu âm: Tứ chi chuột rút

 - Thái uyên: Chủ chuột rút tròng mắt, làm sốt, làm rét, cũng dẫn đau vào trong hố đòn.

 - Khâu khư: Chủ chân co, sưng đau, rung rinh không đứng được lâu, gân mu bàn chân co.

 - Ủy trung, Ủy dương: Chủ gân co, mình nóng.

 - Can du: Chủ gân nóng, rét, co rút “Kinh”, gân co dẫn đến bàn tay.

 - Tâm du, Can du: Chủ gân co dẫn đến bàn tay.

 - Chuột rút vào bụng, đau muốn chết, bảo bốn người kéo tay, chân cứu bên trái rốn 2 thốn 14 mồi (bị co tất cả), sách “Thiên” nói: Cứu trên rốn 1 thốn 14 mồi.

 - Chuột rút, cứu Dũng tuyền 6 – 7 mồi “Thiên”.

 - Chuột rút tứ quyết, cứu Nhũ căn chỗ phân đen trắng 1 mồi.

 - Nếu chân tay quyết lạnh cứu Tam âm giao 2 x 7 = 14 mồi.

 - Quặn bụng nôn nao, đã chết, còn hơi ấm, cứu Thừa cân 7 mồi, người chết sống lại. Lại lấy muối bỏ vào trong rốn cứu 2 x 7 = 14 mồi.

 - Thắt lưng, lưng trên không mềm mại, chuột rút, co, cứu đốt 21 theo tuổi.

 - Chuột rút ở cánh tay và trong ngực cứu chỗ thịt trắng (?) bàn tay 7 mồi. Lại cứu Chiên trung, Trung phủ, Cự khuyết, Vị quản, Xích trạch: Kiêm trị gân kể từ đầu đến chân thì khỏi.

 - Bụng chướng chuột rút, cứu trên rốn 1 thốn, thần hiệu từ 2 x 7 = 14 mồi.

 - Có người mình gập, không thể đi được, lại cũng có sưng đau trên đầu gối, động không được, tôi là cứu Dương lăng tuyền đều khỏi, đã hơn 100 người. Thần hiệu không gì sánh bằng! Có người thổ tả, chuột rút, tôi bảo cứu Thủy phân thì khỏi).

 - Chuột rút 10 ngón tay sưng co, không thể co duỗi, cứu trên mắt cá chân ngoài 7 mồi (xem thêm “Thiên kim”).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 30, 2018, 05:42:55 PM
 37. Ỉa mửa, quặn bụng, thổ tả (hoắc loạn thổ tả) (xem thêm: Chuột rút):

 - Phàm quặn bụng, ỉa ra không tự biết, trước lấy Thái khê, sau lấy Thái thương chi nguyên “Thiên”.

 - Tam lý: Chủ quặn bụng són ra, mất khí.

 - Kỳ môn: Chủ quặn bụng mót ỉa.

 - Xích trạch: Chủ trên mửa dưới ỉa đau, đau dưới sườn.

 - Thái bạch: Trị quặn bụng, ăn không hóa, hay ọe, ỉa có mủ máu.

 - Quan xung: Trị quặn bụng, trong ngực nghẹn hơi, không muốn ăn, khuỷu tay đau, không giơ được “Đồng”.

 - Nhân nghinh: Trị nôn ngược, quặn bụng, ngực tức, thở suyễn, không thở được.

 - Kỳ môn: Trị trong ngực phiền nhiệt, chạy như con cá lên xuống, mắt xanh mà ọe, quặn bụng dễ ỉa, bụng rắn chắc, suyễn to, không nằm được, dưới sườn tích khí.

 - Thượng quản: Trị quặn bụng dễ nôn, mình nóng, mồ hôi không ra được.

 - Ẩn bạch: Chữa mửa, ỉa (xem: Bụng chướng).

 - Trung quản: Trị quặn bụng, ỉa ra không tự biết.

 - Chi câu, Thiên khu: Trị ọe mửa (xem: Rốn đau).

 - Thái bạch: Trị khí nghịch, quặn bụng, bụng đau, lại nôn mửa, ỉa ra mủ máu (xem: Bụng chướng).

 - Âm khích: Trị đau tim, quặn bụng, tức ngực.

 - Thượng quản: Trị quặn bụng, đau tim, không thể nằm, dễ nôn “Minh”.

 - Cự khuyết: Trị sườn ngực đầy, quặn bụng, dễ nôn không dứt, khốn đốn, không biết gì nữa “Hạ”.

 - Nôn ngược, quặn bụng, nôn ra máu, cứu giữa lòng bàn tay 50 mồi “Thiên”.

 - Phàm hoắc loạn (quặn bụng), trước là đau tim, nôn, cứu Cự khuyết 7 mồi. Nếu bụng đầy trước, cứu Thái thương 2 x 7 = 14 mồi. Nếu ỉa trước, cứu Đại trường mô (cạnh rốn 2 thốn), nam trái, nữ phải. Nếu cả ỉa mửa không cầm, hai tay mạch tật, sác thì cứu Tế cốt xuống 3 thốn, lại rốn xuống 3 thốn đều 70 mồi. Nếu không cầm ỉa cứu Đại đô 7 mồi. Nếu ỉa dễ, phiền muốn chết, cứu Tử cung 2 x 7 = 14 mồi.

 - Hoắc loạn, thổ tả tốt nhất là phải chữa nhanh, nên uống Lại phục đơn, Trấn linh đơn. Nên cứu các huyệt Thượng quản, Trung quản, Thần khuyết, Quan nguyên, huyệt Thủy phân cũng cứu ngay không được chậm trễ. Thủy cốc không phân sẽ sinh ỉa chảy, huyệt này còn một tên là Phân thủy, có thể phân thủy cốc, cho nên tên như thế, hoặc kiêm cứu Trung quản, thuận Trung quản trước rồi sau Thủy phân cũng được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 30, 2018, 06:24:17 PM
 38. Nôn mửa (xem: Suyễn tấu):

 - Vị du: Chủ nôn mửa, co gân, ăn không xuống “Thiên”.

 - Thương khâu: Chủ Tỳ hư làm cho người bệnh hàn, không vui, hay thở dài, thường nóng lạnh buồn nôn.

 - Dương lặng tuyền: Chủ nôn đêm không có mồ hôi, dưới tim bâng khuâng (đàm đạm).

 - Thương khâu, U môn, Thông cốc: Chủ buồn nôn.

 - Thiên dung: Chủ ho ngược lên, nôn ra nước bọt.

 - Khúc trạch: Chủ nghịch khí, hơi ngược lên, nôn ra dãi.

 - Duy đạo: Chủ nôn ngược không dứt.

 - Đại chung, Đại khê: Chủ phiền tâm, đầy nôn.

 - Tuyệt cốt: Chủ bệnh nhiệt muốn nôn.

 - Du phủ: (“Minh hạ” nói: Không xuống thức ăn).

 - Thiên khu, Cự khuyết, Suất cốc, Thần tàng: Chủ nôn mửa tức ngực.

 - Vị du, Thận du, Thạch môn, Trung đình (xem: Phản vị).

 - Thiếu thương, Lao cung: Chủ nôn mửa.

 - Ẩn bạch: Chủ trong cách nôn mửa không muốn ăn.

 - Hồn môn, Dương cương: Chủ nôn mửa không dừng, nhiều nước dãi (nôn do giun đũa).

 - Cự khuyết, Hung đường: Chủ nôn ra đồ ăn.

 - Cách du: Chủ nôn ra đồ ăn, lại cứu Chướng môn.

 - Vị quản, Ngư tế: Chữa hoành, Cách du: Ăn uống vào là nôn, thân nóng, ra mồ hôi, nhổ bọt, nôn mửa ra máu, nhổ ra máu “Minh”.

 - Trung đình: (xem: Phản vị) Chữa nôn mửa “Minh”.

 - Vân môn: (xem: Khí lên) Chữa nôn ngược.

 - Thần tàng, Linh khư: Chữa nôn mửa, tức ngực (“Đồng” xem: Ngực sườn tức).

 - Thừa quang (xem: Đau đầu), Đại đô: (xem: Đầy bụng) Chữa nôn mửa.

 - Thái xung: Chữa nôn ngược, phát rét (xem: Sán).

 - Đại chung: Chữa nôn ngược, phát rét (xem: Sán).

 - Lao cung: (xem: Thương hàn) Trị khí nghịch, nôn, nôn khan, ọe.

 - Duy đạo: Trị nôn ngược không dứt, tam tiêu không điều, thủy thũng không muốn ăn.

 - Thượng liêu: Chủ nôn ngược.

 - Cách du: Trị nôn ọe, nhiều dãi, bọt (xem: Bả vai đau).

 - Suất cốc: Chủ nôn mửa không dứt (xem: Đàm).

 - Phế du: Chủ hơi lên (thượng khí), nôn mửa (xem: Thượng khí).

 - Ngọc đường: Chữa nôn mửa, hàn đàm, thượng khí.

 - Tâm du: Chữa nôn mửa ăn không xuống (xem: Cuồng chạy).

 - Trung đình (xem: Tức ngực), Du phủ: (xem: Suyễn), Ý xá: (xem: Bụng chướng): Trị nôn mửa.

 - Cách du: Trị ho ngược, nôn ngược, Cách vị: (“Minh” chép là nên), hàn đàm, ăn uống không xuống, ngực tức, chi sưng, sườn đau, bụng chướng, dạ dày đau dữ dội.

 - Đảm du: Chữa nôn mà không ra được đồ ăn (xem: Bụng chướng).

 - Phách hộ: Chủ nôn mửa, đầy tức khó chịu (xem: Khí lên).

 - Chiên trung: Trị nôn ra dãi.

 - Thái khê: Trị nôn mửa, trong miệng rẻo như kẹo, hay nấc.

 - Lư tín: Trị trẻ em nôn mửa, bọt dãi.

 - Khế mạch: Trị trẻ em nôn mửa ỉa dễ (xem thêm: Trẻ em kinh phong khế túng).

 - Trúc tân (xem: Cuồng), Thiếu hải: Trị nôn mửa bọt dãi, nôn mửa không dứt.

 - Liêm tuyền: Chữa thở suyễn, nôn ra bọt (“Minh” xem: Ngắn hơi).

 - U môn: Trị muốn nôn, ăn uống không xuống kiêm nhổ bọt nhiều, mửa ra dãi, nôn khan, nôn ra nước bọt “Hạ”.

 - Thượng quản: Chữa nôn mửa, ăn uống không xuống, bụng chướng đầy, tim đập hồi hộp, có khi nôn ra máu, bụng không thấy đau, đờm nhiều, mửa ra dãi.

 - Trẻ em mửa ra sữa, cứu Trung đình 1 mồi.

 - Ăn cháo, nước thuốc đều nôn, không giữ lại được, cứu Giản sử (“Thiên” xem: Nôn khan).

 - Mửa ngược, nôn không ăn được, cứu Tâm du 100 mồi, hoặc Hung đường 100 mồi, hoặc Cự khuyết 50 mồi.

 -Nôn mửa ban đêm ra mồ hôi, ợ chua, cứu Nhật nguyệt 100 mồi (3 lần), hoặc sao nửa cân muối, lấy vải bọc chùm vào chỗ đau: Chủ nôn mửa.

 - Nếu bụng trên đau, nôn mửa là hàn nhiệt tạm ở trường vị… Cứu Trung quản “Chỉ”.

 - Tam tiêu du: Chủ ăn uống nôn ngược (“Thiên” xem: Lao).

 - Ẩn bạch: Chữa nôn mửa “Minh”.

 - Tam tiêu du: Chữa mửa ngược lên (xem thêm: Bụng chướng).

  39. Nôn khan:

 - Cực tuyền, Hiệp bạch: Trị đau tim, nôn khan, phiền phức “Đồng”.

 - Thông cốc: Chữa nôn khan không ra được, lại trị lao, ăn uống kết ở cách “Minh”.

 - Đảm du: Chữa ngực sườn đầy tức, nôn không ra được, ăn uống không xuống.

 - U môn: Chữa ụa khan (“Hạ” xem: Mửa).

 - Nôn khan không dứt, cháo ăn vào và nước thuốc uống vào đều mửa ra không giữ được, cứu huyệt Gian sử ở tay 30 mồi. Nếu tứ quyết, mạch trầm tuyệt, không yên, cứu càng thông, đó là phép khởi tử (làm cho người chết sống lại) “Thiên”.

 - Nôn khan, Tâm là chủ: Xích trạch cũng hay, lại cứu dưới vú 1 thốn là 30 mồi. Quặn bụng nôn khan, Giản sử 7 mồi, chưa khỏi lại cứu nữa.

 “Thiên kim” nói: Gừng sống đối với thuốc nôn là thuốc thánh! Có chứng đó, sớm nhất nên thường dùng Gừng sống nấu nước uống hoặc giã, hoặc nhai sống lấy nước tự nhiên hòa rượu uống, đều khỏi.

 - Ẩn bạch: Chủ bụng đầy, hay nôn “Thiên”, nôn khan, cứu Tâm làm chủ, Xích trạch hay lắm, lại dưới rốn 1 thốn 30 mồi.

 - Phàm ụa làm người ta hoảng sợ, oán hờn. Thừa sơn cứu 7 mồi to bằng hạt lúa mạch, lại dưới rốn 4 ngón tay (Quan nguyên) 7 mồi.

 - Bị ụa cứu Chiên trung, Trung phủ, Vị quản đều mấy chục mồi.

 - Mửa cứu Xích trạch, Cự khuyết 7 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 31, 2018, 09:37:30 AM
 40. Nấc:

 - Lãi câu: Chủ nấc nhiều lần, sợ, hồi hộp, hụt hơi “Thiên”.

 - Hãm cốc: Chủ bụng rất đầy, hay nấc.

 - Cưu vỹ: Chủ nấc, suyễn tức, tức ngực, ho, nôn.

 - Thiếu hải: Chủ khí nghịch, thở hít, nấc, ụa, nôn.

 - Lao cung: Chủ khí nghịch, nấc không dứt.

 - Ho, nhổ bọt, nấc, muốn ho, hơi không ra, trước lấy Tam lý, sau lấy Thái bạch, Chướng môn.

 - Đại đôn: Chủ ụa, nấc, lại cứu Thạch quan.

 - Thái khê: Trị hay nấc “Đồng”.

 - Thần môn: Trị nấc nhiều lần, sợ, hồi hộp (xem: Tâm phiền).

 - Kỳ môn: Chữa sản hậu hay nấc.

 - Thái uyên: Trị nấc, nôn, khí ụa ngược lên.

 - Thiếu thương: Trị phiền tâm, hạy ụa tức dưới Tim, mồ hôi ra mà lạnh, ho ngược lên.

 - Ôn lưu: Trị thương hàn, ụa ngược lên, nấc.

 - Khí bế trong cách mà hàn, cứu dưới chỗ đám lông nách, gần chỗ xương sườn cong 50 mồi “Thiên”.

 - Nấc ụa, nôn ngược lên, cứu Thạch môn 100 mồi.

 41. Thương hàn, nôn ụa (cảm lạnh nặng mà nôn ụa, mọi thứ ụa):

 - Cự khuyết: Chủ thương hàn phiền tâm, hay nôn “Thiên”. “Giáp” nói: Chủ bụng trên chướng, nấc, phiền nhiệt muốn nôn, trong cách không lợi.

 - Giản sử: Chủ bệnh nhiệt phiền tâm, hay ụa, trong ngực bâng khuâng.

 - Ôn lưu: Chủ thương hàn nóng, rét, đều đau, ụa, chảy máu mũi.

 - Bách hội: Chủ mồ hôi ra mà nôn, lên cơn kinh.

 - Thương khâu: Chủ nóng lạnh, hay nôn.

 - Đại chùy: Chủ thương hàn, sốt cao, buồn nôn.

 - Thận du: Chủ đầu, mình nóng đỏ, muốn nôn “Thiên”.

 - Lao cung: Chủ nhiệt bệnh phiền tức, muốn nôn ọe “Giáp”.

 - Khúc trạch: Chủ thương hàn nghịch khí, nôn, ụa “Thiên”.
 
 “Tất dụng phương” bàn về ụa là muốn nói về ách nghịch. Châm cứu gặp cái đó có thể cứu được.

 - Nếu khí nghịch từ trong bụng đẩy lên, làm cho ở hầu họng có khí nghịch liền liền không thể ra được, hoặc đến mấy chục tiếng lên xuống không thể thở được, đó là do hàn làm thương vị quản, trước hết Thận khí hư, khí ngược lên, chịu ở trong dạ dầy, khó chữa gọi là ụa, nên dùng Thù du hoàn, cứu Trung quản, Quan nguyên 100 mồi, nếu chưa dứt thì cứu Thận du 100 mồi “Chí”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tám 31, 2018, 10:20:05 AM
 42. Thóa nhổ bọt:

 - Trung phủ: Chữa ho, nhổ bọt, nước mũi đục (“Đồng” xem: Phế khí).

 - Khố phòng: Chữa hay nhổ nước bọt đục, có máu mủ.

 - Chu vinh: Trị ho, nhổ nước mủ đông đặc (xem: Ngực sườn tức).

 - Thiếu thương: Chữa bụng đầy tức, nhổ bọt (xem: Sốt rét).

 - Bách hội: Trị nhổ nước bọt.

 - Thạch quan: Trị hay nhổ vặt, cột sống đau, không vui, nôn ra nước bọt “Minh hạ”.

 - Khố phòng: Chữa Phế hàn, ho hắng, nhổ ra mủ.

 - U môn: Trị nôn bọt, nước dãi, hay nhổ vặt “Đồng”.

 - Nhật nguyệt: Trị hay nhổ.

 - Thiên tỉnh: Trị tim ngực đau, ho hắng, khí xông lên, mửa ra mủ, không muốn ăn.

 - Tử cung: Trị mửa ra máu và thổ như keo trắng “Minh”.

 - Khúc trạch: Chủ thương hàn, khí nghịch, nôn, thổ “Thiên”.

 Danh y “Giả Hựu Lấc” nói: Tích chủ yếu là bệnh ở Tạng, tụ chủ yếu là bệnh ở Phủ. Tích là ăn uống kết thành bọc mà không tiêu. Tụ là đờm phục kết mà không hóa, đàm phục ở trên cách chủ về đầu mắt mà choáng, thường tự nhổ bọt dãi, hoặc đến sốt về chiều, dùng Bình vị tán, Ô kim tán. Câu bàn đó có lý nên tôi chép vào đây.

 43. Đau dạ dày (nóng rét):

 - Ngư tế: Trị Vị khí nghịch “Minh”.

 - Phân thủy: Trị Vị chướng không điều (xem: Bụng chướng) “Đồng”. nói: Vị hư chướng không muốn ăn.

 - Cách du: Trị dạ dày đau dữ dội. (“Đồng” xem: Nôn mửa).

 - Hạ quản: Trị bụng dạ không điều, đau bụng (“Minh” xem: Bụng rắn).

 - Thận du: Trị Vị hàn chướng (“Thiên” xem: Ăn nhiều).

 - Vị du: Trị hàn trong Vị (“Đồng” xem: Bụng chướng).

 - Tam lý: Trị trong Vị hàn, bụng trên chướng đầy, Vị khí không đủ, sợ mùi thức ăn, sôi ruột, đau bụng, ăn không hóa (“Minh hạ” cũng giống thế).

 - Hạ liêm: (xem: Ỉa như cháo loãng), Huyền chung: Trị Vị nhiệt không muốn ăn.

 - Tâm du: Chữa nhược trong Vị, ăn không xuống “Minh hạ”.

 - Thái uyên: (“Thiên” xem: Đau tim) Chữa Vị khí ngược lên, nhổ ra máu.

 - Chữa Vị, bổ Vị cứu Vị du 100 mồi.

 - Vị hàn, không ăn được, ăn nhiều, mình gầy, ruột kêu, bụng đầy, dạ chướng, dạ nhiệt, cứu Tam lý 30 mồi.

 - Phản, vị, ăn vào là mửa ngay, khí xông lên, cứu 2 bên vú xuống 1 thốn (lấy khỏi làm hạn mà cứu), lại cứu trên rốn 1 thốn là 20 mồi, lại cứu dưới mắt cá trong chân 3 ngón tay (bề ngang), huyệt hơi lệch về phía trước, 3 mồi. “Ngoại đài” nói: 1 ngón tay “Thiên dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 01, 2018, 10:14:39 AM
 44. Phản vị (dạ dày trả lại):

 - Phàm ăn uống không hóa, vào bụng lại ra, trước lấy Hạ quản sau lấy Tam lý, tả pháp.

 - Chướng môn: Chủ ăn uống không hóa, vào bụng lại ra (xem: Không muốn ăn).

 - Trung đình, Trung phủ: Chủ cách hàn ăn không xuống, nôn mửa lại ra. Lại chủ nôn ngược, mửa mà thức ăn lại không ra được.

 - Trung đình: Chữa sườn ngực đầy tức, đầy dưới Tim (“Đồng” – “Minh” giống như “Hạ”) ăn không xuống, nôn ngược mửa thức ăn trở lại.

 - Tam lý: Chữa vị khí bất túc, phản vị.

 - Vị du: (xem: Không ăn được) Chữa mửa ra thức ăn.

 - Ý xá: Chữa mửa ra thức ăn, không giữ được (“Hạ” xem: Lưng trên đau).

 - Mửa ngược đồ ăn không giữ được, ngày hôm nay ăn, ngày mai nôn ra, cứu Cách du 100 mồi.

 - Có một người bị nạn phản vị đã lâu, tôi lấy Chấn linh đơn cho uống, lại bảo uống Thất khí thang, xong rồi là ăn được. Nếu thêm Ngải tốt cứu thêm là nhất hạng.

 - Có một bà già bị nạn phản vị, ăn uống xong, đến tối là mửa hết ra, xem thì thấy khí chuyển vòng quanh rốn, tôi đánh dấu Thủy phân, Khí hải và hai bên cạnh rốn 2 huyệt, mới chỉ cứu Thủy phân, Khí hải đã khỏi ngay. Thần hiệu!

 45. Ăn không xuống (không hóa):

 - Hồn môn: Trị ăn uống không xuống, trị bụng kêu như sấm “Đồng”.

 - Tam tiêu du: Trị mửa ngược, ăn uống không xuống (xem: Bụng chướng).

 - Vị thương, Ý xá: (xem: Bụng chướng), Cách quan: Trị ăn không xuống (xem: Lưng trên đau).

 - Vị du: Chủ nôn mửa, gân co, ăn không xuống “Thiên”.

 - Đại trường du, Chu vinh: Chủ ăn không xuống mà hay uống.

 - Trung đình, Trung phủ: Chủ cách hàn ăn không xuống (xem: Phản vị).

 - Dương cương, Kỳ môn, Thiếu thương, Lao cung: Chủ ăn không xuống.

 - Tam tiêu du: Chủ thương hàn đầu đau, ăn không xuống, dạ yếu.

 - Tâm du: Trị vị nhược, ăn không xuống “Minh hạ”.

 - Cách du: Trị cách hàn, ăn uống không xuống, bụng sườn đầy, vị nhược, ăn ít, muốn nằm, mỏi mệt, không muốn cử động. Thân thấp không ăn được, sách “Thiên” nói: Chủ mửa ra thức ăn (xem: Nôn).

 - Dương cương: Chữa ăn xuống, bụng kêu như sấm, đái ỉa không hạn chế, nước đái vàng “Minh”.

 - Tử cung: (xem: Phiền tâm), Trung đình: (xem: Phản vị), Đảm du: (xem: Nôn) Trị ăn uống không xuống.

 - Tam lý: (xem: Vị), Chí thất: (xem: Đau lưng), Thận du: (xem: Lao) Chữa ăn không hóa.

 - Tam tiêu du: Chủ nước, chất bột không tiêu, bụng chướng, thắt lưng đau, mửa ngược “Minh”.

 - Phúc ai: (“Đồng” cũng giống), Thái bạch: (xem: Ỉa chảy) Chủ ăn không hóa “Thiên”.

 - Phàm ăn không hóa vào bụng lại ra, lấy trước Hạ quản sau lấy Tam lý, dùng phép tả.

 - Thạch môn: Chủ không muốn ăn, chất bột vào không hóa.

 - Thiên khu, Lệ đoài, Nội đình: Chủ ăn không hóa, không muốn ăn, 2 bên rốn đau.

 - Chướng môn: Chủ ăn không hóa (xem: Không muốn ăn).

 - Thượng quản, Trung quản: Chủ hàn ở trong, ăn quá no, ăn không hóa.

 - Trung đình: Chữa sườn ngực đầy tức, ăn không xuống (xem: Phản vị).

 - Vị quản, Tam tiêu du: Bụng dưới tích tụ, rắn và to như cái trống, vị chướng, ăn không tiêu “Thiên”.

 - Chí thất: (“Minh” Đau bụng) Chữa ăn không xuống.

-Thái bạch, Công tôn: (xem: Bụng chướng) Chủ ăn không hóa.

 - Trung phủ, Vị thương, Thừa mãn: (xem: Bụng chướng), Ngư tế: (xem: Bụng đau), Chu vinh: (xem: Ngực đầy tức): Trị ăn không xuống.

 - Trung quản: (xem: Bụng chướng), Tam âm giao: (xem: Bụng chướng) Trị ăn không hóa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 04, 2018, 09:20:15 AM
 46. Không thể ăn được:

 - Nhiên cốc: Chủ đau não (óc) không ăn được (“Đồng” xem: Đàm).

 - Phong long: Chủ không ăn được.

-  Trung cực: Chủ đói mà không ăn được.

 - Vị du: Chủ nôn mửa, gân co, ăn không xuống, đầy tức, bụng chướng, mửa thức ăn, không ăn được. Sách “Hạ” nói: Khí hàn trong vị, không ăn được, sườn, ngực đầy, thân gầy, không ăn, tức ngực, trên cách thì khí nghịch nóng, rét, cứu Đại trường du 27 mồi, trẻ em thì giảm đi “Thiên”.

 - Duy đạo: Chủ tam tiêu có thủy khí, không ăn được.

 - Cách du: Chủ thương hàn, muốn nằm, mệt mỏi, chẳng muốn làm gì, thâm thấp, không ăn được (“Đồng” giống thế).

 - Thạch môn: Chủ không muốn ăn, chất bột vào không hóa.

 - Suất cốc: Trị say rượu phát thành phong nhiệt, không ăn uống được mà nôn mửa “Giáp”.

 - Thiếu thương: Chữa không ăn được, trong bụng đầy hơi, ăn thức ăn không thấy mùi vị gì “Minh”.

 - Thủy phân: (xem: Đau bụng) Chữa không ăn được.

 - Tam lý: Chữa bụng đầy, không ăn được, vị khí bất túc, phản vị và ăn uống không tiêu (xem: Nóng rét).

 - Dũng tuyền: Chủ đau tim, không ăn được, trong họng đau không thể ăn vào (xem: Hư lao).

 - Tỳ du, Vị du: Chữa không muốn ăn.

 47. Không muốn ăn:

 - Phàm không muốn ăn: Đâm Nhiên cốc, thấy máu, làm cho người ta ăn ngay “Thiên”.

 - Ẩn bạch (xem: Mửa) , Nhiên cốc, Tỳ du, Nội đình: Chủ không muốn ăn.

 - Thiên khu, Lệ đoài, Nội đình: Chủ ăn không hóa, không muốn ăn, hai bên rốn đau cấp.

 - Trung phong: Chủ thân vàng, có nhiệt chút ít, không muốn ăn.

 - Chướng môn: Chủ ăn không hóa, vào bụng lại ra, nhiệt ở trong, không muốn ăn. Nếu nuốt mà thấy mùi thức ăn, nó làm hại bao dạ, thân vàng, buốt đau, gầy mòn.

 - Phế du: Trị khí lên làm nôn mửa, đầy tức, không muốn ăn “Đồng”.

 - Vị du, Tỳ du: Trị đau bụng, không muốn ăn: (xem: Đau bụng).

 - Địa cơ, Âm lăng tuyền, Thủy phân: (xem: Thủy thũng), U môn: (xem: Đau ngực), Tiểu trường du: (xem: Cước khí) Trị không muốn ăn.

 - Hạ quản: Chữa khí hàn ở lục phủ, không muốn ăn (xem: Đau bụng).

 - Hạ liêm: (xem: Ỉa như cháo loãng), Huyền chung: Chữa vị nhiệt không muốn ăn (xem: Gối co).

 - Âm kiều: Chữa bệnh đói mà không muốn ăn “Minh”.

 - Huyền chung: Chữa đầy bụng, trung tiêu có khách nhiệt.

 - Dương cương: (xem: Sôi ruột) Chữa không muốn ăn.

 - Thủy phân: Chữa vị hư chướng, không muốn ăn “Đồng”.

 Không muốn ăn, có nhiều loại, có nhiệt khách ở tam tiêu, không muốn ăn có vị nhiệt, không muốn ăn có vị hàn, cho nên tùy theo tên gọi mà dùng thuốc chữa, dùng phép châm cứu thì phải biết bổ tả mới được.

 Sử chép, chứng bệnh dương rất hư, mọi thầy thuốc đều cho là quệ (suy sụp). Thái Dương Công chẩn mạch cho là bại, gốc là ở sườn phải to như cái chén úp, làm cho người ấy khí ngược lên, suyễn, không ăn được. Mắc bệnh ấy rồi thì lấy Hóa Tễ Chúc mà uống sáu ngày, khí hạ thì bảo người ta uống thuốc viên khoảng trong ngoài sáu ngày thì bệnh khỏi. Vì thế, người ta không ăn được còn do bệnh bại, nếu chỉ nói chung là do vị hàn, nhiệt là không thể được.

 “Biển Thước” nói rằng: Phàm người ta có phong ở Tâm, cứu Can du, Tâm du là chủ tâm phong đầy, chướng bụng, ăn không tiêu hóa, tứ chi gầy trơ ra, không muốn ăn (xem: Trúng gió).

 - Khúc tuyền: Chủ không muốn ăn (xem: Không có con).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 04, 2018, 10:11:14 AM
 48. Thực khí (ăn thấy sợ mùi thức ăn và không thấy mùi vị gì):

 - Tam lý: Trị không ngửi thấy mùi thức ăn (xem: Vị thực khí).

 - Đại trữ: (xem: Lao khí) Trị thực khí.

 - Bách hội: (xem: Phong giản), Thiếu thương (xem: Không ăn được): Chữa nuốt đồ ăn thấy nhạt nhẽo vô vị.

 - Phàm thân nặng, không ăn được, ăn thấy vô vị, hư mãn dưới tim, thỉnh thoảng lại muốn nằm, đều châm Vị quản, Thái thương, uống Kiện trung Thang và Bình Vị Hoàn.

 - Có thuốc Chấn Vị Hoàn, tác dụng là ôn trung khai vị. Người bệnh xem ra ăn uống không được, uống dăm ba lần thì nghĩ đến ăn, bài thuốc gồm có: Phá cố chỉ nửa lạng, Nhục đậu khấu 4 cái,l àm thành bột nhỏ, đun Táo nhục, trộn to bằng hột Ngô đồng, uống với nước gạo rang vào lúc đói chừng 30 viên.

 49. Ăn nhiều:

 - Tỳ du: Chữa ăn uống nhiều mà mình gầy (“Đồng” xem: Bụng chướng).

 - Thận du: Chữa ăn nhiều mà mình gầy (“Minh hạ” xem: Lao).

 - Vị du, Thận du: Chủ vị hàn chướng ăn nhiều mà thân gầy.

 - Tỳ du, Đại trường du: Chủ ăn nhiều mà thân gầy (xem: Bụng chướng).

 Cháu gái tôi tự nhiên ăn xong là đói, lại ăn, lại đói, tôi giã nát Gừng sống ngâm thật đặc vào hai bát nước, cho uống thì khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 04, 2018, 05:51:10 PM
 50. Sốt rét (Tỳ hàn):

 Sách “Thiên kim” nói: Sốt rét là do phong sinh ra, mùa hạ thương thử, mùa thu làm “giai” (sách Tố vấn nói: Giai là do già vậy, cũng là sấu). “Dương Thượng Thiên” nói: 2 ngày một lần phát là giai ngược, thuyết này khác với “Tố vấn” và “Thiên kim”.
 
Sốt rét có mấy tên:

 + Trước rét sau nóng là: Hàn ngược.

 + Trước nóng sau rét là: Ôn ngược.

 + Nóng mà không rét gọi là: Đơn ngược

 +Nhiều rét gọi là : Mẫu ngược

 + Lâu ngày không khỏi gọi là: Lao ngược.

 + Mùa làm khí hậu biến đổi mà thành sốt rét là: Chướng ngược

 + Bệnh kết thành trưng giả (hòn khối) gọi là: Ngược mẫu cho đến Can, Phế, Tỳ, Thận, Tâm, Vị cũng đều có ngược.

 Hoặc mỗi ngày phát, hoặc cách ngày phát, hoặc làm tràn buổi sớm “Tố vấn, Thiên kim” mới bàn rõ.

 - Phương chữa sốt rét rất nhiều, duy có Tiểu Kim Đơn là hay nhất, tôi thường dùng chữa đều khỏi. Nhưng người ta không phải ai cũng có được thuốc đó, cứu cũng có thể làm cho bệnh đó không thể phát.

 - Người ở làng quê thường lấy Hạ niên thảo (Cỏ nhọ nồi) giã nát, đắp ở trên bàn tay 1 phu (tức 1 vỗ = bề ngang 4 ngón tay, tức là trên huyệt Giản sử). Ở giữa hai gân, lấy đồng tiền cổ áp vào, lấy vải buộc lấy, chẳng bao lâu lại nổi những nốt phồng nhỏ, gọi là thiên cứu, có thể khỏi sốt rét, tốt lắm huống hồ cứu. Làm theo thấy rất là hay!

 - Y hy: Trị ôn ngược, hài ngược (“Minh hạ” nói: Chữa sốt rét lâu không khỏi).

 - Yêu du, Trung quản: Trị ôn ngược, hài ngược.

 - Cách du: (xem: Đờm), Mệnh môn: (xem: Đau đầu), Đại khê: (xem: Ho ngược) Trị hài ngược.

 - Âm kiều: Trị sốt dữ độc (bạo ngược).

 - Thượng liêm: Trị hàn ngược.

 - Tam gian: Trị ngược, sốt rét, môi miệng khô, mình nóng suyễn, mắt đau gấp.

 - Chí âm: Trị ngược phát nóng rét, đầu nặng, tâm phiền “Hạ”.

 - Dịch môn, Hợp cốc, Hãm cốc, Thiên trì: Chữa “Giai ngược” nóng rét.

 - Thiên lịch: Chữa phát nóng rét (sốt rét lâu không khỏi mắt nhìn lờ mờ).

 - Đại chùy: Trị sốt rét lâu không khỏi.

 - Thiếu phủ: Trị hài ngược lâu không khỏi, tức tối, hụt hơi, buồn rầu, hoảng sợ người, cánh tay buốt, lòng bàn tay nóng, bàn tay nắm không duỗi.

 - Đào đạo: Trị hơi ngược, nóng rét từ từ.

 - Mệnh môn: Trị nóng, rét, hơi, ngược, thắt lưng và bụng đau dẫn vào nhau.

 - Túc lâm khấp: Trị ngược, mặt trời xế bóng (nhật tây) thì phát (“Thiên” cũng giống như “Đồng” nói: Trị sốt rét phát ban ngày).

 - Chữa trẻ em sốt lâu ngày không khỏi, cứu khoảng giữa ngoài của ngón cái, ngón hai chân, giữa chỗ lõm, đều 1 mồi (xem thêm ở “Hạ”).

 - Thái khê: (xem: Đau tim), Thiếu hải, Trung chữ: Chữa sốt rét lâu ngày.

 - Khâu khư: Trị sốt rét lâu ngày, rét run (“Thiên” giống như thế).

 - Hãm cốc: Chữa sốt rét.

 - Trung phong: Chữa hài ngược, màu xanh bủng. “Thiên” nói: Thở dài (thái tức), rét run, bụng dưới sưng, ăn vào thấy đau nhanh quanh rốn, chân lạnh ngắt, không muốn ăn, thân thể tê dại.

 - Dịch môn: Trị hơi ngược nóng rát, mắt hoa, đau đầu dữ dội thì tai điếc.

 - Uyển cốt: Chữa hài ngược, đau đầu, phiền muộn.

 - Thương dương: Trị nóng rét, hài ngược, miệng khô “Minh hạ” nói: Chữa sốt rét khô miệng.

 - Y hy: (xem: Vai, lưng đau), Trung quản, Bạch hoàn du: Chữa ôn ngược (xem: Thắt lưng, cột sống).

 - Thượng liêu, Thiên lịch: Trị ngược nóng rét.

 - Tam gian: Trị hàn ngược, môi khô, miệng khan, khí suyễn.

 - Tỳ du: Trị hài ngược nóng rét.

 - Có người bệnh sốt rét lâu ngày, mọi thứ thuốc đều không khỏi, hoặc bảo họ cứu Tỳ du thì khỏi. Lại một người nữa cũng bị sốt rét lâu ngày, nghe thế cũng cứu vào huyệt đó mà khỏi. Cái bệnh sốt rét thường do ăn uống mà bị, cho nên cứu Tỳ du làm cho khỏi.

 - Nội đình, Lệ đoài: (Mặt sưng), Công tôn: Trị hàn ngược không muốn ăn.

 - Kinh cốt: Trị ngược nóng rét, hay kinh (lên cơn kinh) không muốn ăn (“Minh hạ” cũng giống thế).

 - Thần môn: Trị ngược, tâm phiền, rất muốn được uống lạnh. Lúc ớn lạnh thì ở trong có chỗ nóng, họng khô không muốn ăn.

 - Hợp cốc, Dương khê, Hậu khê, Dương trì, Âm đô: Trị ngược mà mình nóng rét (“Minh hạ” nói: Giai ngược) và bệnh phiền tức khí ngược.

 - Thiên khu: Trị hàn ngược.

 - Liệt khuyết: Trị hàn ngược nôn ra nước bọt, hay cười toe toét (“Minh hạ” nói: Giai ngược, sắc mặt không ổn định).

 - Thiếu thương: Trị hài ngược rét run, đầy bụng (“Minh hạ” có phiền tâm hay ụa) nhổ nước bọt, môi khô, dẫn uống không xuống, bàn tay co, ngón tay đau rét run, hàm lập cập hầu kêu.

 - Kinh cừ: Trị ngược nóng rét, lưng ngực đều cấp tức, ngực thình thịch (“Minh” cũng giống thế).

 - Đại chùy, Yêu du: Chữa ôn ngược, hài ngược (“Minh” giống thế).

 - Đại trữ: Chữa sốt rét mà đau gẫy cổ, không thể cúi ngửa, đau đầu rét run.

 - Tiền cốc, Phong trì, Thần đạo: (xem: Đau đầu). Bách hội: Trị hài ngược.

 - Thượng tinh: Trị hài ngược, nóng rét run mồ hôi không ra “Thiên”.

 - Thiên lịch: Trị phong ngược, mồ hôi không ra “Thiên”.

 - Thiếu trạch: “Minh” nói: Đau đầu, “Đồng” nói: Nóng rét. Phục lưu, Côn lôn: Chủ sốt rét mồ hôi không ra.

 - Xung dương: Chủ ngược, trước rét rả rích, kéo dài rất lâu, sau mới nóng. Hết nóng, mồ hôi mới ra.

 - Nhiên cốc, Côn lôn: Chủ sốt rét nhiều mồ hôi. “Giáp” nói: Chủ ngược, mồ hôi nhiều, lưng đau không thể cúi ngửa, mắt như lồi ra, gáy đau như dần.

 - Liệt khuyết, Hậu khê, Thiếu trạch, Tiền cốc: Chủ ngược, nóng rét.

 - Thủy tuyền, Thái khê, Kinh cừ: Chủ sốt rét, ho nghịch, tim buồn bằn, không nằm được, nóng rét.

 - Đại lăng, Uyển cốt, Dương cốc, Thiếu xung: Chủ ngược làm nóng, làm rét.

 - Thiên khu: Chủ ngược, rét run, nóng dữ dội, nói nhảm.

 - Thái xung: Chủ ngược, nóng ít, rét nhiều, “Giáp” nói: Ngực buồn bằn, nôn dữ, nóng dữ, rét ít, muốn đóng cửa mà ở. Hàn quyết chân nóng.

 - Thương khâu: Chủ hàn ngược đau bụng.

 - Thiếu hải: Chủ ngược, lưng rét run. “Giáp” nói: Gáy đau, dẫn xuống khuỷu và nách. Dẫn đau từ thắt lưng vào bụng dưới, tứ chi không cất nhắc nổi.

 - Dương khê: Chủ ngược rất khổ, rét ho, nôn ra nước bọt.

 - Lệ đoài, Nội đình: Chủ ngược không muốn ăn, ớn lạnh.

 - Thiếu thương: Chủ hàm răng run lập cập.

 - Thương khâu, Thần đình, Thượng tinh, Bách hội, Hoàn cốt, Phong trì, Thần đạo, Dạ môn, Tiền cốc, Quang minh, Chí âm, Đại trữ: Chủ hơi ngược, nhiệt.

 - Âm đô, Thiếu hải, Thương dương, Tam âm giao, Trung trữ: Chủ ngược, mình nóng.

 - Liệt khuyết: Chủ ngược rất nóng.

 - Dương cốc: Chủ ngược, sườn đau không thở được.

 - Hiệp khê: Chủ ngược đau chân.

 - Xung dương, Thúc cốt: Chủ ngược chân duỗi ra, ống chân nhấc lên.

 - Phi dương: Chủ cuồng ngược, đầu váng đau, lên cơn kinh uốn vặn.

 - Ôn lưu: Chủ ngược mặt sưng đỏ.

 - Thiên tỉnh: Chủ ngược, khi ăn vào thì phát, đau tim, buồn rầu không vui.

 - Thiên phủ: Chủ bệnh ngược.

 - Y hy, Chi chính, Tiểu hải: Chủ phong ngược.

 - Tam lý, Hãm cốc, Hiệp khê, Phi dương: Chủ hài ngược, hụt hơi.

 Đại phụ tử 1 cái bào chế nhỏ ra, Gừng 1,5 lạng, lấy nước tự nhiên của nó, trộn vào vo viên bằng hạt đậu, mỗi ngày uống 15 viên vào lúc đói, chiêu bằng rượu. Tùy già trẻ mà thêm bớt, khách chữa sốt rét chỉ vài ba lần uống đều khỏi cả. Họ nói kiêm trị cả Tỳ, Vị, bệnh khỏi ở “Khương Phụ thang”. Tôi chép vào đây.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 04, 2018, 06:11:26 PM
 51. Đau là lách (xem thêm: Đau bụng trên):

 - Phủ xá: Trị sản tích, trong tỳ đau cấp theo sườn lên xuống là hại tim. Bụng chướng tích tụ quyết khí ở hai vú “Đồng”.

 - Thương khâu: Trị tỳ hư làm cho người ta không vui (xem: Sôi ruột) (“Thiên” xem: Mửa).

 - Tam âm giao: Trị bệnh tỳ nặng mình (xem: Bụng chướng).

 Tôi gặp một người bệnh đau lá lách đã lâu, uống thuốc chữa tỳ lại cổ chướng. Tôi theo đúng “Kỳ Vực Phương” dùng miến bọc lại hỏa bào bồng nga rẻ nạt (Bèo bồng ở mặt nước) nước và rượu, giấm đun uống, khỏi ngay. Xong rồi đi nói với người ta, người ta lại nói Cao lương khương tán nhỏ, nước gạo rang hòa vào uống, cũng làm cho khỏi. Sau “Trịnh Giáo Thụ” truyền một phương nói: Thảo quả, Diên hồ sách, Linh chi, gạo rang, nấu hòa vào uống, cũng làm cho khỏi.

 Thêm (?) hòa với rượu vài ba tiền, một là từ bàn tay dán đi. Thảo quả, Ngũ linh chi 4 vị bằng nhau tán nhỏ, đó cũng là thuốc bình ôn, có bệnh đó nên uống.

 - Hoặc như không mửa, không ỉa chảy, trong tim đau dữ dội, ngày nhẹ, đêm nặng, dùng Mơ muối khô, thêm trà sắc uống. Thần hiệu! Nên cứu, lấy Thượng quản, Trung quản, Hạ quản, Tỳ du, Tam âm giao.

Hết quyển 3


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 18, 2018, 03:19:09 PM
Quyển IV - Mục lục

1. Tâm thống (Đau tim)
2. Tâm hoảng hốt
3. Tâm sợ hãi
4. Tâm hay cười
5. Tâm khí
6. Tâm lo buồn
7. Thở than
8. Tâm bứt dứt
9. Đảm hư
10. Hay nằm
11. Không nằm
12. Mộng mị
13. Điên tà
14. Điên cuồng
15. Động kinh, co giật
16. Điên, động kinh
17. Điên tật
18. Kinh giản
19. Phong giản
20. Phong lao
21. Phong kinh
22. Phong choáng váng
23. Phong bại
24. Trúng phong
25. Trúng gió không nói
26. Phong một bên người
27. Đờm dãi
28. Nhổ ra máu
29. Suyễn
30. Phế khí
31. Ho hắng
32. Ho ngược lên
33. Ho ngược khí lên
34. Ít hơi
35. Bôn đồn khí
36. Bệnh hòn, hạch
37. Chứng có hòn
38. Tích tụ
39. Tích khí
40. Đau bụng
41. BỤng đầy
42. Bụng trướng
43. Bụng trên rắn to
44. Cổ chướng
45. Cổ phù nước.

"Nhân mạng là rất quan trọng, quý hơn nghìn vàng

Một phương thuốc mà chữa được còn quý hơn thế nữa"

Tôn Tư Mạo (581 - 682) - đời Đường


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 19, 2018, 11:07:12 AM
 1. Tâm thống (Tâm thống bao gồm cả tim và phần thượng vị, xin lưu ý phân biệt).

 - Tâm thực thì trong tim đau dữ dội, hư thì tim buồn bằn sợ sệt, cho nên không dám động nặng. Mất tri giác, lấy Nội quan mà chữa.

 - Phàm tự nhiên đau tâm, ra mồi hôi, chích Đại đôn ra máu thì khỏi ngay.

 - Tâm du, Chiên trung, Thông cốc, Cự khuyết, Địa thương, Thần phong, Khích môn, Khúc trạch, Đại lăng: Chủ đau tim.

 - Kỳ môn, Trường cường, Thiên bạch, Hiệp bạch, Trung phong: Chủ đau tim ngắn hơi.

 - Xích trạch: Chủ tim đau như gõ gõ vào. Tim buồn nhệu nhạo, ít hơi, không đủ thở.

 - Nhiên cốc: Chủ tim lơ lửng, ít hơi, không đủ thở.

 - Tim buồn bằn, đau, khí xông lên, kéo dẫn cả Tiểu trường, cứu Cự khuyết 2 x 7 = 14 mồi.

 - Thận du, Phục lưu, Đại lăng, Vân môn: Chủ tim đau như lơ lửng không dính vào đâu.

 - Giản sử: Chủ tâm lơ lửng như đói.

 - Chi câu, Đại khê, Nhiên cốc: Chủ tim đau như dùi đâm, quá lắm thì tay, chân lạnh đến khớp thì chết.

 - Hành gian: Chủ đau tim mà da bờn bợt như chết rồi, mùa đông không thở sâu được “Đồng”.

 - Cưu vĩ: Chủ tim lạnh, trướng tức, không ăn được, bí thở, nhổ ra máu, quyết, tim đau, hay ụa, tim sa xuống, thở dài.

 - Trung quản: Chủ đau tim, không thể cúi ngửa (“Giáp” nói: Mình lạnh, tim đau xông lên mặt, chết ngất không biết gì).

 - Lâm khấp: Chủ ngực bại, tim đau, không thể vặn nghiêng (“Giáp” nói: Không thở được, chỗ đau không nhất định).

 - Phúc kết (Xem : Rốn), Hành gian (xem: Đau bụng): Chủ đau nhói lên tim.

 - Thông lý: Chủ đau tim, buồn sợ lẫn lộn, điên, động kinh.

 - Kiến lý: Chủ đau vùng trên dạ dày đâm lên tim, không muốn ăn (“Minh” nói: Tim đau, mình sưng).

 - Chương môn: Chủ đau tim mà nôn.

 - Đại tuyền: Chủ đau tim, Phế trướng, khí ngược lên.

 - Cưu vỹ: Chủ tim lạnh, trướng đầy, không ăn được.

 - Đại đô, Thái bạch: Chủ ỉa dữ dội, đau tim, bụng trướng, tim đau dữ nhất.

 - Thượng quản: Chủ đau tim, có 3 thứ giun, nhiều dãi, không vặn nghiêng được.

 - Bất dung, Kỳ môn: Chủ tâm đau như cắt, ợ chua.

 - Thiếu xung: Chủ đau tim mà lạnh.

 - Thương khâu: Chủ dưới tim lạnh đau.

 - Ngực bại, tim đau, lấy Thiên tỉnh, Lâm khấp, hoặc cứu Chiên trung 100 mồi.

 - Chiên trung, Thiên tỉnh: Chủ tim ngực đau, tâm bụng có mọi bệnh.

 - Đau tim:  Cứu Địa thương, Can du (xem: Tâm đầy tức).

 - Kiến lý: Chủ đau tim (“Minh” xem: Khí lên).

 - Cách du: Trị đau tim, bại xung quanh, chỗ đau không nhất định (xem: Kinh nguyệt).

 - Ngư tế: Chữa tâm bại (“Minh” xem: Khí nghịch).

 - Người đàn bà họ Kinh, xưa làm người hầu. Bà ta mắc bệnh liền mấy ngày không ăn được, vì thế mà bị đau tâm, tỳ. Bệnh phát thì công lên giữa bụng, sau đó tim cũng ứng đến mức không thể chịu nổi, lấy thuốc uống thì càng đau thêm. Nếu như cứu, cứu khắp người không xuể. Bà không sợ, bảo con gái, ở các chỗ đau lấy kim châm hơ lửa mà chích nhẹ. Không kể là tim hay bụng, cứ chỗ nào đau thì châm. Tức thì muốn khỏi. Thần thay!

 - Chữa tim, bụng lạnh đau theo pháp Ngọc Bão Đỗ (Ngọc âm bụng) lấy Cát kim (…) 4 lạng, sao đến khi ra khói, bỏ vào nửa lạng phèn trắng (Bạch phàn), Cát cứng (Cương sa), Phấn minh (phấn sương) đều nửa đồng cân, mới cho nước lã vào đảo đều hơi ẩm là được. Lấy giấy gián kín trong cái bọc, khi thấy phát ra nóng, để trùm lên rốn, Khí hải, Thạch môn, Quan nguyên, để đại bổ bản nguyên (gốc của nguyên khí), hoặc để chỗ nào lạnh, mồ hôi ở đó ra thì khỏi (tôi đã tự dùng cho mình, thấy hay). Thuốc đó khô thì không nhiệt, có thể dùng hơn chục lần. Nếu sức thuốc đã hết, lại thêm phèn vào như cũ, làm nóng lên.

 Em tôi được chú tôi truyền cho nhiều thứ, có một phương trong đó chỉ dùng Cát kim, Bùn, Phèn, công hiệu cũng như thế. Không phải vì Cương sa, Phấn sương giá đắt mà không dùng.

 - Ngày xưa tôi bị tâm bại, phát thì đau, không chịu được, cấp dùng ngay một mảnh ngói vào trong đống lửa, đốt cho hồng khắp, lấy ra nhúng vào mễ thố (mẻ), rồi lấy ra bọc vào hai ba lần giấy, đặt vào chỗ đau, mất đứt. Nếu là lạnh lại càng dễ khỏi. Đó là ngày xửa ngày xưa truyền lại. Sau xem “Thiên kim phương” thấy có nói: Phàm tim bụng lạnh đau, sấy muối lửa bàn là, hoặc phân tằm sấy, đốt gạch đá, hấp bàn là, lấy mức ấm nóng bên trong là dừng, hoặc hấp đất cũng tốt. Thoạt đầu mới biết nhà tôi vẫn dùng, thì ra ở “Thiên kim phương”.

 Một hôm tôi bị tim đau dữ dội, cấp cứu Trung quản mấy mồi, thấy ở bụng dưới, phía hai bên có khí lạnh từ dưới đi lên đến chỗ cứu thì tan.

 Trong “Bản sự phương” chép “Vương Tự Hòa” bàn về “Tâm tung phi, tâm tung” (tim thổn thức, không phải là tim thổn thức) là nói đại lược.

 - Tên gọi Kiến lý, nối ngực, cách và giữa hai vú, hư mà có đàm thì động, là theo việc gặp phát một trận nhiệt là gọi như thế. Xét như là đúng cứu Kiến lý thì không phải, chỉ có Trung quản mới là yếu huyệt.

 - Linh đạo: Trị đau tim, nhổ ra máu kèm theo sợ hãi, điên cuồng, động kinh, khuỷu tay co, mất tiếng rất nhanh không nói được.

 - Hiệp bạch: Trị đau tim, nôn khan, phiền, đầy tức.

 - Cực tuyền: Trị đau tim, nôn khan.

 - Thái uyên: Trị tim đau nhổ ra máu, rét run, họng khô, nói nhảm, miệng giãn ra.

 - Âm khích (xem: Quặn bụng, hoắc loạn), Trung xung: Trị tim đau, đầy tức, lưỡi cứng.

 - Quyết âm du (xem: Ho ngược lên), Thần môn (xem: Phiền tâm).

 - Lâm khấp: Trị đau tim (xem: Kinh nguyệt).

 - Ngân giao: Trị mặt đỏ, tâm phiền đau.

 - Thiên tỉnh: Trị tim ngực đau (xem: Khí lên).

 - Hạ quản: Trị tim đau không thể chịu được.

 - Ngoại lăng: Trị tim như lơ lửng, mà đau ở phía dưới (xem: Bụng trướng).

 - Đại lăng, Thượng quản: Trị tim đau không chịu nổi (“Minh” nói: Không thể nằm được).

 - Chương môn: Trị thở suyễn mà đau tim (xem: Sôi ruột).

 - Dũng tuyền, Kiến lý: Trị đau phía dưới tim, không muốn ăn (“Hứa” nói: Tim đau là có dãi, nên châm Kiến lý).

 - U môn: Trị con gái đau tim, khí ngược lên, hay mửa, ăn không xuống.

 - Kỳ môn: Chữa các bệnh sau khi đẻ gây ra. Ăn không xuống, sườn, ngực đau, tâm đau như cắt, hay ợ.

 - Cự khuyết: Chữa mấy loại đau tim, đau lạnh, giun đũa gây ra đau tim, bụng to độc hại, hoắc loạn bất tỉnh “Minh”. “Đồng” nói: Trị giun đũa đau tim, bụng to độc hại.

 - Trung quản: Trị tim (…) không ăn được, phản vị, nôn nao, đau tim.

 - Khúc trạch (xem: Nhổ ra máu), Đốc du (xem: Đau bụng), Cách du (xem: Đàm ẩm): Chữa đau tim.

 - Dũng tuyền: Trị đau tim không muốn ăn.

 - Thiếu xung: Chữa đau đúng chỗ tim.

 - Tâm du: Chữa nóng, rét, tim đau, đau dẫn sang phía lưng. Ngực đầy tức, ho hắng không thở được, phiền tâm, nhiều nước dãi.

 - Cự khuyết: Chữa đau tim không thể chịu được, nôn ra máu, phiền trong tim “Hạ”.

 “Trương Trọng Văn” chữa tự nhiên tim đau không thể chịu được, nôn ra nước chua, lạnh (hơi vốn chứa ở trong – vả nguyên tàng khí). Cứu ở giữa nếp ngang trong của ngón cái và ngón thứ hai chân, đều 1 mồi, mồi như hạt lúa khỏi ngay.

 - Tim hối hận, nủng nủng (…) đau lâm râm phiền nghịch, cứu Tâm du 100 mồi “Thiên”.

 - Tim đau như dao, dùi đâm, khí lên cứu Cách du 7 mồi.

 - Tim đau, khí lạnh, cứu Long hàm 100 mồi (ở đầu Cưu vỹ lên trên 1,5 thốn) không được châm.

 - Tim đau, ác khí lên sườn đau gấp, cứu Thông cốc 50 mồi (tại dưới rốn 2 thốn)?

 - Tim đau thắt lại mạnh mẽ, dứt khí nhanh chóng, muốn chết cứu Thần phủ 100 mồi, ở chính giữa xương đuôi câu (Cưu vỹ).

 - Tim đau, ác phong mạnh mẽ, cứu Cự khuyết 100 mồi.

 - Tim đau, phiền khí, kết rắn chắc, cứu Thái dương 100 mồi.

 - Tim đau, cứu nếp gấp ngang cổ tay 3 x 7 = 21 mồi, lại cứu chỗ thịt trắng đỏ ở hai hổ khẩu 7 mồi “Thiên”.

 - Tim đau rắn, châm Côn lôn, Kinh cốt, châm mà không dứt lấy Nhiên cốc.

 - Vị tâm (giữa vùng dạ dầy) đau, lấy Đại đô, Thái bạch.

 - Tỳ tâm (giữa tỳ) đau, lấy Nhiên cốc, Thái khê.

 - Can tâm (giữa can) đau, lấy Hành gian, Thái xung.

 - Phế tâm (giữa Phế) đau, lấy Ngư tế, Thái uyên.

 - Tim không thể sờ ấn vào được, bứt dứt trong tim lấy Cự khuyết.

 - Tim đau lấy ba thứ sinh, nhiều nước dãi, không vặn nghiêng được, lấy Thượng quản.

 - Tim đau, mình lạnh, khó cúi ngửa, tim sa, xông ra mạnh mẽ, chết bất tỉnh, Trung quản chủ trị.

 - Tim đau như dùi, kim đâm, lấy Nhiên cốc, Thái khê.

 - Trong giữa bụng tự nhiên đau, lấy Thạch môn.

 - Hành gian, Âm khích: Chủ đau tim (xem: Kinh).

 - Gian sử: Trị tự nhiên đau tim, thường lên cơn kinh, mất tiếng không nói được, trong họng như mắc, hóc xương cá “Đồng”.

 - Khúc trạch: Trị đau tim, hay lên cơn co giật.

 - Khích môn: Trị đau tim, chảy máu cam, nôn ọe, sợ sệt, co giật, thần khí không đủ.

 - Thiên tuyền: Trị bệnh tim, sườn, ngực đầy tức, ho ngược lên, ngực bả vai, cạnh trong cánh tay đau.

 - Thái khê: Trị sốt rét lâu ngày. Ho ngược lên, tim đau như dùi đâm, chân tay lạnh đến khớp, thở suyễn, chết ngất.

 Đau tim có chín loại, như tâm tỳ đau, không phải là đau tim đâu. Đúng là đau tim thì chiều phát đêm chết, đêm phát chiều chết. Như “Nạn kinh sớ” đã chép rồi. Nhưng bệnh đó cũng có lý do “Sản Luận Thường” nói: Sản hậu đau tim, nếu nhầm thì có thể làm hại khi chữa, là hư cực độ mà tâm lạc rất hàn chuyển vào chính kinh của tâm, mới đúng là đau tim. Đó chính là một thuyết. (“Vu Thần Hạ Cơ” giận “Tử Phản” nói rằng: Tôi sẽ làm các anh mất hết khí lực, mạng chạy đi mà chết). “Tử Phản” vì thế mà một năm 7 lần mạnh chạy đi (…), do gặp bệnh tim rất tự nhiên, thì cũng tại là do dụng tâm mà thành bệnh (bị ám thị). Như vậy là tại sao? Bình thường nên giữ gìn cái tâm, làm cho bình yên, thì sẽ không có bệnh, sau đó lại thường uống Trấn linh đơn để bổ dưỡng cũng được. Nếu như bệnh đã thành thì buộc phải dùng đến châm cứu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 19, 2018, 11:42:43 AM
 2. Tâm hoảng hốt (xem thêm: Phế trúng gió).

 - Tâm du, Thiên tỉnh, Thần đạo (“Minh thượng, Hạ” giống nhau): Trị bị sầu hoảng (“Thiên” xem: Bi sầu).

 - Cuồng, kinh giật, hoảng hốt cứu Túc dương minh.

 - Cuồng điên, hoảng hốt cứu Não hộ.

 - Nói cuồng, hoảng hốt cứu Thiên khu (xem thêm: Cuồng).

 Tự nhiên trúng tà mị hoảng hốt (xem: Tà điên), tay trái ở sau quan, ở giữa xích âm thực (mạch xích bộ). Thận thực vậy, nếu hoảng hốt hay quên, mắt nhìn mờ mờ, tai điếc hay quên, hay kêu chán nản, châm Túc thiếu âm, trị âm.

 - Cự khuyết: Trị hoảng hốt, không nhận ra người (“Đồng” xem: Đàm).

 - Bách hội: Chữa tâm lực ít, quên trước, mất sau, tâm thần hoảng hốt “Minh hạ”.

 - Âm đô: Chữa tâm hoảng hốt “Thiên”.

 3. Tâm sợ hãi (Tâm kinh khủng).

 - Khúc trạch: Trị đau tim hay sợ “Đồng”.

 - Linh đạo: Trị buồn, sợ hãi (xem: Đau tim).

 - Hạ liêm: Trị sợ mạnh mẽ, nhanh chóng.

 - Ngư tế: Chữa tâm bại buồn, hãi (khủng).

 - Thiếu xung: Trị buồn hãi, hay sợ.

 - Thượng quản: Trị tâm phong, hồi hộp, hay sợ (“Minh” cũng giống thế, viết là tâm tung).

 - Thiếu phủ: Trị buồn hãi, tránh (sợ) mọi người (xem: Ưu sán).

 - Thần môn (xem: Tâm phiền), Lãi câu (xem: Sán).

 - Cự khuyết: Trị sợ, hồi hộp, ít hơi (xem: Cuồng).

 - Lương khâu: Trị sợ nhiều (…) đau vú.

 - Âm khích, Gian sử (xem: Đau tim), Nhị gian, Lệ đoài: Trị thường hay sợ. “Minh hạ” nói: Giản sử chữa sợ, hồi hộp (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

 - Ngũ lý: Trị sợ hãi (xem: Phong lao).

 - Kinh cốt (xem: Sốt rét), Đại chung (xem: Lậu), Đại lăng: Trị hay sợ hãi.

 - Bách hội (xem: Phong giản), Thần đạo (xem: Đau đầu), Thiên tỉnh (xem: Phòng bại), Dịch môn (xem: Cuồng): Trị sợ, hồi hộp.

 - Thông cốc (xem: Váng đầu), Chướng môn: Trị hay hãi (xem: Thủy thũng).

 - Thiên xung: Trị điên tật, phong kinh, sưng răng, hay sợ hãi.

 - Chi chính: Trị phong hư, sợ hãi, cuồng sợ sệt (“Minh hạ” nói: Chữa sợ hãi buồn rầu).

 - Khích môn: Trị sợ hãi, tránh (sợ) mọi người (xem: Tim đau).

 - Thần đình: Trị sợ hồi hộp, không ngủ yên được.

 - Não không: Trị não phong đau đầu, mắt mờ tim hồi hộp.

 - Tam gian, Hợp cốc, Lệ đoài: Chủ lưỡi thè lè ra, cổ khó chịu, hay sợ “Thiên”.

 - Khúc trạch, Đại lăng: Chủ dưới tim nhạt nhẽo, bâng khuâng (sách “Giáp” viết là Nội quan).

 - Thông lý: Chủ hồi hộp dưới tim (“Minh hạ” nói: Chữa buồn, hãi, sợ người).

 - Nhiên cốc (“Đồng” giống thế), Dương lăng tuyền (“Minh” giống thế): Chủ dưới tim sợ sệt, hãi hùng, như có người ám ảnh.

 - Đại chung, Khích môn: Chủ sợ hãi, sợ người, thần khí không đủ (bất túc).

 - Khí hải, Âm giao, Đại cự: Chủ sợ không nằm được.

 - Đại cự: Chủ hay sợ.

 - Lệ đoài: Chủ hay nằm mà dễ sợ (“Minh” cũng giống thế).

 - Dịch môn: Chủ hay sợ, nói nhảm, mặt đỏ.

 - Thiếu phủ: Chủ ợ nhiều, sợ hồi hộp, bất túc.

 - Thần môn: Chủ ợ nhiều, sợ hồi hộp, hơi không đủ.

 - Cự khuyết: Chủ sợ hồi hộp, ít hơi.

 - Âm kiều: Chủ sợ nằm, nhìn thấy quỷ.

 - Giải khê: Chủ điên, động kinh mà sợ.

 - Thiếu xung: Chủ thở dài, phiền, đầy tức, ít hơi, buồn sợ.

 - Hành gian: Chủ tâm đau, nhiều lần sợ, lòng buồn không vui.

 - Thủ thiếu âm, Âm khích: Chủ khí, sợ đau tim.

 - Thiếu xung: Chủ buồn hãi, sợ người, hay sợ.

 - Thần đình: Chữa sợ, ngủ không yên (“Minh” xem: Điên giản).

 - Khúc trạch: Chữa hay sợ.

 - Lương khâu (xem: Chân lạnh): Chủ rất sợ.

 - Khế mạch: Chữa trẻ em sợ hãi (xem: Điên, động kinh).

 - Âm kiều: Chữa đàn bà, sợ buồn không vui (xem: Kinh nguyệt). Lại chữa đại phong, nằm sợ, nhìn như thấy sao.

 - Phong phủ: Chữa thường buồn, sợ hãi hồi hộp “Thiên”.

 - Cưu vỹ: Chữa sợ, hồi hộp, thần khí hao tán.

 - Trẻ em khi ngủ sợ hãi, mắt nhắm không kín, cứu trên giữa nếp gấp khuỷu tay lên 3 phân, mỗi chỗ đều 1 mồi.

 - Trẻ em trong khi ngủ sợ mà co quắp, cứu trên đầu nhọn ngón cái, ngón thứ hai chân, cách móng như lá hẹ, mỗi chỗ đều 1 mồi.

 - Nhiên cốc: Chủ trẻ em hay sợ “Thiên”.

 - Kinh sợ, tim đập mạnh, yếu sức, cứu Đại hoành 50 mồi.

 - Thượng quản: Chữa sợ, hồi hộp (“Minh” xem: Tâm phiền).

 - Thiên tỉnh: Chữa sợ hãi, hồi hộp (“Minh hạ” xem: Buồn).

 - Lệ đoài: Chữa hay sợ (xem: Nằm).

 - Húc trung: Chủ hồi hộp, ngồi không yên chỗ (“Thiên” xem: Thượng khí).

 - Trường cường: Chủ trẻ em sợ hãi, mất tinh (xem: Kinh giản).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 19, 2018, 04:54:08 PM
 4.Tâm hay cười (hỷ tiểu) phụ: Giận

 - Thần môn, Dương cốc: Chủ cười như cuồng “Thiên”.

 - Lao cung, Đại lăng: Chủ hay cười không dứt (Xem: Điên cuồng).

 - Dương khê: Chủ nói cuồng, hay cười, thấy quỷ.

 - Thủy câu (xem: Điên giản “Đồng” cũng giống thế), cười vô ý thức không kể giờ giấc “Minh”.

 - Phục lưu (xem: Cột sống), Lao cung: Trị hay cáu giận (“Đồng” xem: trúng gió).

 - Liệt khuyết: Chủ hay cười (xem: Tứ chi quyết).

 - Lao cung: Trị buồn mà cười (“Đồng” xem: Trúng gió).

 - Đại lăng: Trị hay cười không nghỉ (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

 - Ngư tế: Chữa tâm bại buồn giận (“Minh” xem: Khí nghịch).

 - Can du: Chữa hay giận (“Hạ” xem: Mắt có màng).

 - Thân trụ: Chủ giận, muốn giết người (“Thiên” xem: Điên, động kinh, “Minh – Đồng” cũng giống thế).

 - Cuồng phong, chửi, đánh, chê trách người, tên gọi là Nhiệt dương phong, cứu huyệt Yến khẩu ở hai bên cạnh môi, chỗ khóe mép có da trắng đỏ, mỗi bên một mồi,lại cứu chỗ dưới bừu dái (âm nang phùng) 30 mồi “Thiên”.

 5. Tâm khí (hay quên, vô tâm, mất trí).

 - Tâm du: Chữa tâm khí loạn (“Minh” xem: Giản).

 - Bách hội (“Hạ” giống thế): Chữa vô tâm lực, quên trước, mất sau (xem: Phong giản).

 - Bách hội: Trị trúng gió, tâm phiền, sợ, hồi hộp, hay quên “Đồng”.

 - Thần đạo (xem: Đau đầu), U môn (xem: Đau ngực), Liêt khuyết, Cao hoang du: Chữa hay quên (xem: Lao khái).

 - Bách hội, Thiên phủ, Khúc trì, Liệt khuyết: Chủ ác phong, tà khí, nước mắt chảy ra mà hay quên “Thiên”.

 - Khỏe quên, chích Túc thiếu âm (xem: Hoảng hốt).

 - Tim đập mạnh, sức yếu, cứu Đại hoành 50 mồi (xem: Kinh).

 - Bách hội (xem: Phong giản), Cự khuyết (xem: Kinh giản): Chữa vô tâm lực “Minh”.

 - Thượng quản: Chữa buồn bằn trong tim (“Minh” xem: Tâm phiền).

 - Ủy dương (xem: Thi quyết): Trị mất trí “Đồng”.

 “Tần Thừa Tố” nói: Trung xung, chữa thần khí bất túc, mất trí “Minh Hạ”.

 - Nội quan: Chủ mất trí (“Thiên” xem: Đau tim).

 - Thông cốc: Chủ trong tim mê loạn (xem: Điên).

 - Cưu vỹ: Chữa trong tim khí muộn, không thích nghe tiếng người nói (“Minh” xem: Kinh giản).

 - Tâm du: Chữa trẻ em khí bất túc, không nói (xem: Miệng câm).

 * Ngày xưa tôi bị nạn tâm khí, phàm suy nghĩ quá nhiều thì dưới tâm đập mạnh, hoặc đến tự mình buồn, cảm khái, tôi đã cứu Bách hội. Tức là Bách hội trị vô tâm lực, quên trước, mất sau, nên gọi tên là thế (uống kèm Trấn tâm đan).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 20, 2018, 03:22:52 PM
 6. Tâm lo buồn (vu bi), khóc lóc (xem thêm: Điên tà)

 - Lậu cốc: Chủ tâm buồn (“Thiên” xem: Ruột kêu).

 - Thương khâu (xem: Ruột kêu): Trị tâm buồn “Đồng”.

 - Thiên tỉnh, Tâm du: (“Minh hạ” giống thế), Thần đạo: Chủ bi sầu, hoảng hốt, buồn thương, không vui.

 - Thiên tỉnh: Chủ đại phong, nhớ như thấy (mặc mặc), không biết là đau, buồn thương không vui (“Minh hạ” nói: Chữa sợ, hồi hộp, không vui).

 - Đai hoành: Trị đại phong, nghịch khí, lạnh nhiều mà hay sợ “Đồng”.

 - Chiếu hải (xem: Họng khô): Trị hay buồn không vui.

 - Nhật nguyệt: Trị thở dài, hay buồn, bụng dưới nóng muốn chạy, hay nhổ vặt, nói năng lộn xộn, tứ chi không gọn gàng “Minh hạ”.

 - Thiếu xung: Trị buồn hãi hay sợ (xem: Thương hàn).

 - Thiếu phủ: Trị phiền mãn, ít hơi, buồn hãi, sợ người, bàn tay nóng (“Minh hạ” giống thế), đùi, nách co nhanh, ngực đau, bàn tay co, không duỗi.

 - Chi chính: Chữa sợ hãi, buồn rầu “Minh hạ”.

 - Lao cung: Chữa buồn mà cười (“Đồng” xem: Trúng gió).

 - Tâm du (xem: Điên giản), Thần môn (xem: Tâm phiền), Giải khê (xem: Điên), Đại lăng (xem: Thương hàn không có mồ hôi): Trị sợ mà hay khóc.

 - Trẻ em dạ đề (khóc đêm) từ tối lên đèn đến gà gáy sáng thì dứt, cứu sau móng tay ngón giữa, huyệt Trung xung 1 mồi.

 - Trẻ em mới sinh không bú sữa, kêu nhiều (xem: Miệng mím ngậm) trước cứu Thừa tương 7 mồi, sau cứu Giáp xa 2 bên đều 7 mồi, mồi ngải như phân chim sẻ.

 - Gian sử: Chủ hay buồn (“Thiên” xem: Điên cuồng).

 - Thông lý (xem: Tim đau): Chủ hồi hộp, buồn.

 - Hành gian (xem: “Minh”): Chủ tim buồn.

 - Lao cung (xem: Điên cuồng): Chủ tim buồn.

 - Bách hội (xem: Hay quên): Chủ nước mắt chảy ra.

 - Âm kiều: Chữa đàn bà sợ, buồn “Minh”.

 - Lo chủ tâm cứu huyệt Tuyệt cốt (xem: Thương khí).

 - Bách hội: Chữa trẻ em sợ hay kêu gào (xem: Giản) lại hay chữa khóc.

 - Thủy câu: Trị làm khóc (“Đồng” xem: Giản kinh).

 * Mẹ đẻ Chấp Trung bệnh lâu ngày, tự nhiên nước mắt nước mũi không thể cầm được, biết là bệnh ở tâm rồi, cứu Bách hội mà khỏi. Chấp Trung phàm gặp lúc ưu sầu, thê lương, cũng cứu ở đó.

 7. Thở than (thán tức) - thở dài

 - Thiếu xung: Chủ thở dài, phiền mãn (bứt dứt, ngắn hơi, buồn sợ “Thiên”.

 - Hành gian: Chủ thở dài không được (xem: Đau tim).

 - Phàm ưa thờ dài, không muốn ăn, thường nóng rét, ra mồ hôi, bệnh đến mức hay nôn, nôn xong lại buồn tức, lấy Công tôn và Tỉnh du, thực thì trong ruột đau như cắt, quyết thì đầu mặt sưng lên, phiền tâm cuống cuồng, uống nhiều mà không muốn nằm, hư thì cổ trướng trong bụng đầy hơi, nóng đau, không muốn ăn, nôn nao, Công tôn chủ trị.

 - Thương khâu (xem: Sôi ruột), Nhật nguyệt: Trị thở dài hay buồn (“Đồng” xem: Buồn rầu).

 - Hành gian: Trị thở dài (xem: Miệng méo).

 - Khâu khư: Chữa sườn, ngực đau, hay thở dài, ngực đầy căng “Minh hạ”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 20, 2018, 04:07:45 PM
 8. Tâm bứt dứt

 - Thần môn: Trị sốt rét, tâm bứt dứt, muốn được uống lạnh, sợ rét thì muốn ở chỗ ấm, họng khô, không muốn ăn, đau tim hay ợ, hãi hùng, hồi hộp, hụt hơi, cánh tay lạnh, suyễn nghịch, mình nóng, cuống cuồng, buồn khóc, nôn ra máu, đái rớt ra “Đồng”.

 - Thượng quản: Trị trong tim nóng, bứt dứt.

 - Âm khích (xem: Sốt rét), Cự khuyết: Trị trong tim bứt dứt, tức đầy.

 - Ngọc đường: Trị tim buồn bằn (xem: Ngực đau).

 - Ngư tế, Thiếu thương (xem: Hay ợ), Công tôn (xem: Nói nhảm).

 - Giải khê (xem: Điên), Chí âm (xem: Đau đầu).

 - Hoàn cốt: Trị đau đầu tâm buồn bằn.

 - Dương khê: Chữa bệnh nhiệt tim bứt dứt.

 - Bách hội (xem: Phong), Cường gian, Thừa quang: Trị tâm bứt dứt (xem: Đau đầu).

 - Khúc sai: Trị trong tim phiền não, mồ hôi không ra.

 - Hoàn cốt: Chủ phong, sau đầu, sau tai, tim bứt dứt “Thiên”.

 - Quan xung: Chữa lưỡi cong, miệng khô, tim bứt dứt.

 - U môn: Trị tim bứt dứt, ngực đau (xem: Ngực đau).

 - Thiếu xung: Chữa tim buồn bằn, hơi đẩy lên “Minh”.

 - Tử cung: Chữa ngực sườn đầy tức, đau bại nhức xương, ăn không xuống, nôn ngược, hơi đẩy lên, tim buồn bằn.

 - Công tôn: Chủ tim buồn bằn (xem: Thở than).

 - Xích trạch, thiếu trạch: Chủ tim buồn bằn (xem: Sườn đau).

 - Phàm tâm hư thì tâm phiền, Nội quan trị chứng đó (xem: Tim đau).

 - Thông lý: Chủ tim buồn bằn (“Thiên” xem: Tim đau).

 - Cự khuyết, Tâm du: Chữa tim buồn bằn (“Minh” xem: Tim đau).

 - Thái nhất: Trị tim đau (“Đồng” xem: Điên cuồng).

 - Thượng quản: Chữa tâm phong, sợ hồi hộp (“Đồng” giống thế), không ăn được, trong tim buồn bằn, phát ụa.

 - Bách hội: Chữa tâm nóng, bứt dứt, tim buồn bằn (xem: Phong giản).

 - Cự khuyết: Chữa trong tim buồn bằn bứt dứt (xem: Phong giản).

 - Trung quản: Chữa trong tim bứt dứt (xem: Bôn đồn).

 - Tử cung: Chủ tim buồn bằn (xem: Hơi đẩy lên).

 - Khúc trạch: Chữa đau tim, ra máu thì dưới tim bâng khuâng, hay sợ, mình nóng, tim buồn bằn, miệng khô, khí ngược lên, nôn ra máu, có khi điên, động kinh, hay lắc đầu, mồ hôi trong ra không quá vai “Minh”.

 - Khúc sai: Chữa tâm buồn bằn (“Minh” xem: Gáy, cổ).

 - Tim buồn bằn, đau, cứu Cự khuyết 14 mồi (“Thiên” xem: Đau tim).

 - Bách hội: Trị tim nóng, bứt dứt (xem: Phong giản).

 - Tuyệt cốt: Trị phong, tâm buồn bằn (xem thêm: Trúng gió).

 - Ngư tế: Trị tâm bại (“Đồng” xem: Hơi đẩy lên).

 - Lâm khấp (Xem: Kinh nguyệt), Cách du: Chữa tim đau bại chung quanh (“Đồng” xem: Nguyễn tích).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 20, 2018, 04:12:12 PM
 9. Đảm hư - Đảm nhiệt

 - Trung phủ: Chữa đảm nhiệt, nôn ngược, hơi đẩy lên.

 - Đảm hư cứu Tam âm giao 20 mồi.

 10. Hay nằm (háo ngọa)

 - Tín hội (xem: Đau đầu, “Đồng” cũng giống thế), Bách hội (xem: Giản): Chữa ngủ nhiều “Minh”.

 - Âm kiều (Xem: Bụng dưới đau), Cách du (xem: Ăn không xuống): Chữa hay ngủ.

 - Thận du: Chữa thích ngủ một mình (xem: Lao).

 - Nhị gian: (“Hạ” giống thế), Tam gian: Chữa nằm nhiều, thích ngủ.

 - Lệ đoài: Chữa ngủ nhiều hay sợ (“Thiên” cũng giống thế).

 - Tỳ du: Chữa tứ chi nóng, bứt dứt, thích nằm, mệt mỏi, tứ chi không muốn động đậy “Hạ”.

 - Tam dương lạc: Chữa muốn nằm, mình chẳng muốn động cựa.

 - Ngũ lý (xem: Phong lao), Đại khê (xem: Thương hàn không có mồ hôi), Đại chung, Chiếu hải (xem: Lậu), Nhị gian: Chữa muốn nằm “Đồng”.

 - Cách du: Chủ thương hàn, muốn nằm “Thiên”.

 - Lệ đoài, Đại đôn: Trị muốn ngủ (xem: Bụng dưới đau).

 - Thiên tỉnh: Chủ muốn ngủ (“Thiên” xem: Tứ chi quyết).

 “Thiên kim” nói: Ăn nhiều, mình gầy, tên gọi là thực hối, trước lấy Tỳ du sau lấy Lý lặc. Lại nói: Phàm mình nặng không ăn được, ăn không biết ngon, hay nằm, đều châm Vị quản, Thái dương, uống Kiến trung thang, Bình vị hoàn. Người ngày hay muốn nằm mà bỏ bữa là tỳ khốn, muốn nằm bỏ mặc chẳng châm, làm sao lại chẳng cứu? tôi và người ta đã cứu Trung quản và Cao hoang đều đã không khốn, do đó là nói chung.

 11. Không nằm (bất ngọa)

 - Thần đình: Trị kinh sợ, hồi hộp, không ngủ yên được “Đồng”.

 - Khí xung (xem: Khí lên), Chướng môn: Trị không nằm được (xem: Sôi ruột).

 - Kỳ môn: Trị suyễn to, chẳng nằm được (xem: Nôn nao, hoắc loạn).

 - Thái uyên: Trị ho hắng, bứt dứt, giận không nằm được (xem: Ngực bại).

 - Bạch hoàn du: Trị thắt lưng, cột sống đau, không nằm được lâu (“Minh” nói: Chẳng biết ngủ nghê).

 - Ẩn bạch (xem: Bụng chướng), Thiên phủ (Xem: Trúng ác), Âm lăng tuyền (xem: Thủy thũng) trị không nằm được.

 - Thần đình: Chữa phong giản, hồi hộp, sợ chẳng ngủ yên được (“Minh” xem: Điên giản).

 - Thái uyên, Phế du (xem: Phế), Thượng quản (xem: Hoắc loạn, nôn nao), Điều khẩu (xem: Chân tê), Ẩn bạch (xem: Bụng trướng): Chữa không ngủ được.

 - Ý xá (xem: Lao), Hoàn khiêu: “Kỳ Bá” nói: Chữa nằm xuống không co duỗi, xoay chuyển được.

 - Đai chùy: Chữa nằm không yên (“Hạ” xem: Điên, động kinh).

 - Khí hải, Âm giao, Đại cự: Chủ sợ không nằm được “Thiên”.

 - Công tôn: Chủ không muốn nằm (xem: Thở than).

 - Tán chúc: Chủ không nằm được (xem: Điên cuồng).

 Người không nằm được cũng có do tâm khí làm ra, nên uống: Du Sơn Nhân Chân Tâm Đơn, viên đó lấy Toan táo nhân hơ, sao qua thì làm cho người ta ngủ được (chỉ mê nói, nếu đau đầu, co gân, kinh không nằm được gọi là Thận quyết đầu đau, nên cứu Quan nguyên 100 mồi, uống Ngọc Chân Nguyên.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 22, 2018, 11:06:03 AM
 12. Mộng mị (Tạp mộng)

 - Thương khâu: Trị mộng mị (“Đồng – Thiên” nói: Hay mộng mị).

 - Thiên dũ: Chữa đêm nằm mộng điên đảo, mặt xanh vàng không có màu sắc “Minh”.

 Trong giữa xích, sau quan ở tay trái mà âm tuyệt, không có mạch Thận, nếu ở chân nghịch lãnh, đâm lên đầu ngực, mộng vào trong nước thấy quý, hay mộng mị có vật màu đen đến nâng người lên, chích túc Thái dương, trị dương “Thiên”.

 Phàm nằm mê chết đột ngột, cắn thật đau ở gót chân và ngón chân cái. Lại cứu ở giữa chòm lông ở ngón chân cái 21 mồi “Tập hiệu”.

 Có người đàn bà đêm thường mê, đó là do hồi còn trẻ hầu người mẹ có bệnh, phải dụng tâm mà gây ra, sau uống Định Chí Hoàn, xong thỉnh thoảng vẫn mê, cứu 3 lần thì không phát lại, thuốc cũng không cần uống thêm thuốc.

 13. Điên tà (Quỷ tà, “Biển Thước” châm 13 quỷ huyệt, xem “Thiên kim”)

 - Hoàng Đế cứu thần tà quỷ mị (“Minh hạ” xem: Nói nhảm, “Kỳ Bá” chữa thần tà quỷ mị, cứu Giản sử).

 - Tán trúc: Chữa thần tà quỷ mị (xem: Cuồng)

 “Tần Thừa Tố” cứu Hồ mê (hố con cáo), thần tà và bệnh điên cuồng, chữa trị không khỏi, ghép hai ngón tay, lấy dây mềm buộc nhanh, cứu 3 mồi, mỗi ngải ở bốn chỗ, nửa mồi trên móng, nửa mồi trên da thịt, bốn chỗ phải cháy hết, một chỗ không cháy hết là bệnh không khỏi, thần hiệu! Trẻ em thai giản, sữa giản, kinh giản, theo đúng như thế cứu 1 mồi, ngải như lúa mạch.

 - Dương khê, Bổ tham, Ôn lưu: Trị nói cuồng, thấy quỷ (xem: Nói cuồng).

 - Cuồng tà, nói như quỷ, cứu Thiên song 9 mồi hoặc Phục thỏ 100 mồi “Thiên”.

 - Buồn rầu, khóc lóc, nói như ma quỷ, cứu Thiên phủ 50 mồi.

-Buồn khóc, nói như ma, hát khóc như quỷ, cứu Từ môn 50 mồi.

 Tự nhiên trúng tà mị, hoảng hốt run mím miệng, cứu Nhân trung dưới mũi và hai khớp gốc ngón chân tay cái. Để viên ngải nửa trên móng, nửa trên da thịt, mỗi chỗ đều 7 mồi, lại Tâm du 7 mồii, lại Tam lý 7 mồi.

 - Mê thấy quỷ cứu ở tóc vào 1 thốn 100 mồi, lại cứu Giản sử và giữa lòng bàn tay đều 50 mồi.

 -Hồ mị (mê) ghép ngón tay cái buộc lại, cứu chỗ ghép 21 mồi, thấy như con cáo kêu thì khỏi.

 - Phong phủ: Chủ bệnh tà ma, nằm mơ màng, không tự biết.

 - Tín thượng: Chủ bệnh tà ma, quỷ điên.

 - Xích trạch: Chủ bệnh tà ma, tứ chi sưng đau, mọi chứng vặt khác.

 Cuồng, động kinh, khóc ra nước mắt, cứu tay để ngược 30 mồi “Biển Thước” châm bệnh tà ma gồm 13 huyệt, xem “Thiên kim”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 24, 2018, 09:41:34 AM
 14. Điên cuồng (đi cuồng, nói cuồng)

 - Ôn lưu, Dịch môn, Kinh cốt: Chủ ngã cuồng “Thiên”.

 - Thần môn, Dương cốc: Chủ cười muốn cuồng.

 - Đại lăng, Lao cung: Chủ phong nhiệt hay cáu, trong lòng buồn vui lẫn lộn, nghĩ ham muốn, kêu bâng quơ, hay cười không dứt.

 - Phi dương, Thái ất, Hoạt nhục môn: Chữa điên cuồng, lè lưỡi.

 - Ôn lưu, Bộc tham: Chủ bệnh điên, lè lưỡi, hàm khua lập cập, nói nhảm, thấy quỷ.

 - Trường cường: Chữa điên phát như cuồng, da mặt đầy lên (“Minh hạ” nói: Chữa điên cuồng).

 - Lạc khước, Thính hội, Thân trụ: Chủ chạy lăng quăng, co giật, hoảng hốt.

 - Tán trúc, Tiều hải, Hậu đỉnh, Cường gian: Chủ điên phát co giật, chạy lăng quăng, không nằm được.

 - Xung dương, Phong long: Chủ cuồng, mắt nhìn lung tung mà đi (vọng hành), trèo cao ca hát, cởi áo mà chạy.

 - Thiên trụ, Lâm khấp: Chủ cuồng khác thường, nói nhiều không nghỉ, mắt ngược lên.

 - Chi chính, Ngư tế, Hợp cốc, Thiếu hải, Khúc trì, Uyển cốt: Chủ nói cuồng.

 - Hạ liêm, Khâu khư: Chủ nói cuồng khác thường.

 - Cự khuyết, Trúc tân: Chủ cuồng lạ thường, nói lung tung, giận chửi.

 - Dương khê, Dương cốc: Chủ lè lưỡi vênh cổ, nói lung tung.

 - Gian sử: Chữa sợ cuồng cuồng, hay buồn mặt đỏ, mắt vàng, mất tiếng, không nói (xem thêm “Thiên”).

 - Cân súc (“Hạ” giống thế): Chữa kinh giản, chạy lung tung, điên, cột sống co cứng, mặt chuyển thẳng lên “Minh”.

 - Dương cốc, Thân trụ (xem: Điên, động kinh), Não không, kinh cốt (xem: Đầu gối co): Chữa bệnh điên chạy rất khỏe.

 - Phong phủ: Chữa chạy cuống cuồng, muốn tự sát, mắt trợn ngược nhìn lung tung (Hạ” giống như thế).

 - Thúc cốt: Chữa điên cuồng (xem: Điên giản).

 - Tán trúc: Bất kể là thi quyết, điên tà, thần cuồng, mê, quỷ, đều chữa ở đấy. “Tần Thừa Tổ” dùng để chữa thần tà điên cuồng (xem: Quỷ tà).

 - Xung dương: Chữa cuồng lâu dài, trèo cao ca hát, cởi áo mà chạy “Đồng”.

 - Quang minh: Chữa đột nhiên cuồng (xem: Bệnh nhiệt không có mồ hôi).

 - Giản sử: Chữa tự nhiên cuồng, trong ngực bâng khuâng, sợ gió lạnh, nôn mửa, sợ sệt, ở trong lạnh, ít hơi, lòng bàn tay nóng, hạch sưng, khuỷu tay co (“Minh hạ” nói: Tự nhiên cuồng, hồi hộp, sợ).

 - Nhật nguyệt: Trị bụng dưới nóng, muốn chạy (xem: Tim lo buồn).

 - Ty trúc không: Trị phát cuồng nôn ra bọt dãi (xem: Hoa mắt).

 - Thái nhất: Trị bệnh điên, chạy cuồng, cuồng, tim buồn bằn, lưỡi thè lè ra “Đồng”.

 - Dương cốc: Chữa bệnh điên, chạy cuồng.

 - Tâm du: Chữa tâm trúng phong, chạy cuồng, phát giản, nói năng buồn bã, khóc lóc, tim ngực nhộn nhạo, đầy tức, mồ hôi không ra, kết tích, nóng rét, nôn mửa, ăn không xuống, ho nhổ ra máu (“Minh” giống thế).

 - Uyển cốt: Chữa chứng cuồng sợ hãi.

 - Cự khuyết: Trị phát cuồng, không nhận ra người, sợ, hồi hộp, ít hơi.

 - Khúc tuyền, Cao hoang du: Trị phát cuồng (xem: Lao khái).

 - Thần môn: Chữa mình nóng, cuồng, buồn khóc.

 - Dương giao: Chữa hàn quyết, sợ cuồng.

 - Thiếu hải: Chữa mắt hoa, phát cuồng, nôn mửa ra bọt dãi, cổ không quay được.

 - Chi chính: Chữa phong hư cuồng, sợ sệt (xem: Kinh hãi).

 - Đại lăng: Trị nói cuồng, không vui (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

 - Dương cốc: Trị nói lung tung, quay trái, quay phải, điên cuồng, co giật mắt hoa.

 - Dương khê: Trị cuồng, thấy quỷ “Đồng”.

 - Bộc tham: Trị điên giản, nói cuồng, thấy quỷ.

 - Thiên lịch: Trị tật điên, nói nhiều (“Hạ” giống thế).

 - Ôn lưu: Trị điên tật, nôn ra dãi, nói cuồng thấy quỷ (“Minh hạ” nói: Điên giản), thè lè lưỡi, hàm răng lập cập, nói cuồng.

 - Hạ liêm: Trị nói cuồng (xem: Kinh).

 - Trúc tân: Trị điên tật nói cuồng (“Minh hạ” nói: trẻ em điên tật thè lè lưỡi).

 - Công tôn: Trị tự nhiên mặt sưng, bứt dứt trong lòng, nói cuồng.

 - Thái uyên: Chủ nói cuồng (“Minh hạ” nói: giống thế) mồm phồng ra (xem: Đau tim).

 - Dịch môn: Trị hồi hộp, sợ, nói lung tung.

 - Dương cốc: Chữa lưỡi thè lè, cổ vênh, nói lung tung, không thể quay trái, quay phải, co giật váng đầu, đau mắt “Minh”.

 - Cân súc: Chữa chứng bệnh giản mà nói nhiều.

 - Cưu vỹ: Chữa điên giản, hát lung tung, lời nói không có lựa chọn.

 “Hoàng Đế” chữa quỷ tà mị và điên cuồng, cuồng ngôn vọng ngữ, hàn cứu ở giữa mặt trong môi trên, trên sợi thịt như dây đàn 1 mồi.
 
“Đồng” nói: Thủy câu trị lời nói không biết phân sang, hèn (xem: Điên giản).

 - Dạ môn (?): Chủ nói lung tung (“Thiên” xem: Kinh giản).

 - Nói cuồng hoảng hốt, cứu Thiên khu 100 mồi.

 - Cuồng tà, phát không thường, đầu tóc xõa xưỡi, kêu gào, muốn giết người, không sợ lửa nước, nói cuồng, nói nhảm, cứu Gian sử 30 mồi (cũng chữa: Kinh, hãi, ca, khóc).

 - Cuồng điên như quỷ nói: Cứu túc Thái dương 40 mồi.

 - Cuồng điên, sợ hãi, chạy càn, hoảng hốt, giận mừng, chửi mắng, cười cợt, hát khóc lời của quỷ, cứu Não hộ, Phong trì, Thủ dương minh, Thái âm, Túc dương minh, Dương kiều, Thiếu dương, Thái âm, Âm kiều, gót chân: Đều số mồi theo tuổi.

 - Chạy cuồng, đâm người, hoặc muốn tự sát, chửi rủa xưng thần, cứu khóe mép chỗ trắng đỏ phân ra 1 mồi, lại ở nếp gấp trong khuỷu tay 5 mồi, lại ở xương bả vai 3 mồi, báo cứu ở đó.

 - Thương Công pháp Thần Hiệu, tự nhiên nói lời của quỷ, lấy cái đai chõ, buộc kẹp hai ngón tay cái lại, lại cứu chỗ mảng sườn bên trái, bên phải, đúng chỗ đầu sườn sụp xuống. Ở hai chỗ cùng đốt lửa, đều 7 mồi, theo đó quỷ tự nói họ tên rồi xin đi, từ từ hỏi han rồi cởi tay ra.

 - Tự nhiên cuồng, nói lời của quỷ, châm ở ngón chân cái, chỗ dưới móng một ít là dứt ngay.

 - Nhân trung: Chủ tà bệnh không dứt lời và các tạp chứng. Phàm người trúng ác, trước hết bấm dưới mũi là vì thế.

 - Tà quỷ nói lung tung, cứu Huyền mệnh 14 mồi, huyệt ở bên trong môi miệng, giữa dây đàn, dùng dao thép cắt đứt rẩt tốt.

 - Trị Phế trúng phong, nói cuồng (xem: Trúng gió), cuồng tà nói như quỷ, cứu Thiên song, Phục thỏ.

 - Buồn khóc nói như quỷ, cứu Thiên phủ, Từ môn (xem: Điên tà).

 * Có một người học trò nói lung tung lạ thường, vừa muốn đánh người, bệnh đã mấy tháng rồi, ý tôi cho đó là bệnh tâm, là cứu Bách hội, vì Bách hội vốn chữa bệnh tâm. Lại nghi ngờ là quỷ tà, dùng phép cứu quỷ tà của “Tần Thừa Tổ”, gập hai ngón tay lại, dùng dây vải mềm buộc nhanh, chắc, để mồi ngay chỗ thịt và móng tiếp nhau, cứu 7 mồi, cả 4 nơi đều đốt lửa, mà sau đó khỏi (cách cứu xem: Điên tà).

 * Lại có hai nhà giầu cũng có con bị bệnh đó, cũng có nhà sư cứu huyệt đó mà khỏi (một cách nữa là sau gáy 1 thốn cứu 100 mồi).

 - Chạy cuồng, co giật, cứu Ngọc chẩm lên 3 thốn.

 - Cuồng chạy điên tật cứu sau gáy 2 thốn 20 mồi.

 - Chạy cuồng kinh giản, cứu Hà khẩu 5 mồi, tại giữa chỗ lõm sau cổ tay chỗ có động mạch là huyệt, chỗ đó cũng là Dương minh.

 - Cuồng chạy, điên giản, cứu Đại u 100 mồi.

 - Cuồng chạy, điên giản, cứu đầu chót 11 (Lý lặc) 30 mồi.

 - Cuồng chạy, hay giận, buồn khóc cứu Cự giác (còn viết là cảo giác = ) số mồi theo tuổi, huyệt ở trên xuống bả vai, sau lưng, tay quặt lại sau, không tới, ở trên huyệt Cốt nang, vê xoay thấy đau là đúng.

 - Cuồng chạy, sợ hoảng hốt, cứu Túc dương minh 30 mồi.

 - Cuồng chạy, chửi mắng, lạ thường, cứu Bát hội, số mồi theo tuổi, tại dương minh 5 phân.

 - Cân súc (“Đồng” giống thế): Chữa chạy cuồng.

 - Tam lý: Chủ bệnh tà kêu to, chửi mắng, chạy xa.

 - Cuồng chạy điên quyết như người chết, cứu chỏm lông ở ngón chân cái 9 mồi (“Dực” nói: Cứu Đại đôn).

 - Cuồng chạy có khí lạ, cứu Tuyệt cốt (xem: Thương khí).

 - Nói như quỷ, chạy cuồng, theo đúng phép trên mà cứu. Nếu thương hàn mà nói như quỷ, chạy cuồng, chỉ nên dùng Tứ vật thang gia Hoàng kỳ mấy phân. Khoảng 7 – 8 đồng cân nặng làm 1 lần uống. Một bát nước sắc còn 7 phần đem uống, cái bã ấy thì dùng 1 bát nước sắc còn nửa bát uống ngay theo đó. Tôi thường dùng là thần hiệu! cho nên phụ vào đây.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 25, 2018, 09:27:05 AM
 15. Động kinh co giật (Điên giản, khế túng) trẻ em khế túng

 - Mệnh môn: Chữa co giật, chữa co quặn ở trong (lý cấp) lưng bụng cùng dẫn đau “Đồng”.

 - Đại trữ: Trị co giật khí thực, tức sườn.

 - Ốc ế: Trị co giật tê bại (xem: Mình sưng).

 - Dương cốc: (xem: Nói cuồng “Minh” cũng giống thế): Trị co giật.

 - Khúc trạch: Chữa giật co khuỷu tay (“Minh” xem: Nhổ ra máu).

 - Thiếu trạch: Chữa co giật (khế túng).

 - Thừa cân: Chữa co giật, buốt gót chân “Thiên”.

 - Khúc trì, Thiếu trạch: Chủ co giật, điên.

 - Thân trụ: Chủ bệnh điên co giật, giận dữ muốn giết người, mình nóng chạy cuồng, nhìn thấy ma quỷ “Minh Thượng, Hạ” cũng giống thế.

- Thương khâu: Chủ động kinh co giật.

 - Tán trúc, Tiểu hải, Hậu đỉnh, Cường gian: Chủ khí lên động kinh thì co giật chạy cuồng.

 - Côn lôn: Chủ động kinh, co giật, miệng ngậm không há được.

 - Dương khê, Thiên tỉnh:Chữa sợ mà co giật, Giải khê: Chữa co giật mà sợ.

 - Thượng quản: Chữa co giật mà chảy nước bọt.

 - Cự khuyết, Chiếu hải: Chủ co giật, dẫn vào bụng, rốn, ngắn hơi.

 - Mệnh môn: Chủ co giật, co ở bên trong (lý cấp) lưng bụng cùng dẫn đau (“Đồng – “Minh” cũng giống thế).

 - Não hộ, Thính hội, Thính cung, Phong phủ, Ế phong: Xương buốt, choáng váng, cuồng, co giật, miệng mím, họng có tiếng kêu, chảy bọt ra, mất tiếng không nói được.

 - Ngũ xứ, Thân trụ, Ủy trung, Ủy dương, Côn lôn: Chủ cột sống vặn vẹo mạnh, co giật, điên tật đau đầu.

 - Lạc khước, Thính hội, Thân trụ: Chủ chạy cuồng co giật, hoảng hốt, không vui (xem thêm “Thiên”).

 -Á môn: Trị nóng rét, kinh phong, cột sống vặn vẹo, co giật, điên giật, nặng đầu “Đồng”.

 - Ngũ xứ: Trị đầu phong, hoa mắt, co giật, mắt trợn ngược lên không nhận ra người.

 - Cự liêu: Trị co giật, miệng méo (“Minh” cũng giống thế).

 - Thượng quan: Trị co giật, miệng ra nước bọt, mắt hoa, hàm răng không há, miệng mím.

 - Thiếu trạch: Trị cánh tay đau, co giật, ho hắng, gáy cổ co cứng không quay được.

 - Phụ dương (xem: Phong bại), Thiên tỉnh: Trị co giật (“Thiên” xem: Phong bại).

 - Uyển cốt: Trị kinh phong, co giật, năm ngón tay co quắp.

 - Đới mạch: Trị đàn bà co rút bên trong và co giật (xem: Bụng dưới đau).

 - Đại chùy: Chữa bệnh điên mà co giật, mình nóng, mắt hoa, gáy sưng, nằm không yên “Minh hạ”.

 - Lư tín: Chữa trẻ em phát động kinh, co giật nôn mửa ra đờm dãi, sợ hãi, mặt tím, mắt nhìn ngược lên mà không rõ.

  - Khế mạch: Chữa trẻ em phát động kinh, co giật nôn mửa, đái ỉa lỵ, không co giờ giấc, sợ hãi, gỉ mắt đùn ra, mờ mắt, con ngươi mắt không rõ (“Minh” cũng giống thế).

 - Tiền đỉnh: Chữa trẻ em kinh giản, phong giật, co giật (xem: Kinh giản).

 - Côn lôn: Trị trẻ em phát giản co giật.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 27, 2018, 05:57:57 PM
 16. Điên, động kinh (Thêm giản, ngoài ra xem phong giản).

 - Thiên trụ: Chủ tự nhiên giản nhanh, choáng váng, váng “Thiên”.

 - Tán trúc:, Tiểu hải, Hậu đỉnh, Cường gian: Chủ giản phát co giật, chạy cuồng.

 - Thương khâu: Chủ giản co giật.

 - Ty trúc không, Thông cốc: Chủ phong giản, điên tật, bọt dãi cuồng phiền.

 - Mệnh môn, Bộc tham: Chủ điên tật mà giản “Thiên”.

 - Thiên tỉnh, Tiểu hải: Chủ điên tật, dương giản, lè lưỡi để kêu, vênh cổ.

 - Huyền ly, Thúc cốt: Chủ điên tật, giáp dẫn, hay sợ dê kêu.

 - Cân súc, Khúc cốt, Âm cốc, Hành gian: Chủ kinh giản, chạy cuồng điên tật.

 - Liệt khuyết: Chủ nhiệt giản, sợ mà có chỗ nhìn.

 - Thủy câu: Chữa cười lung tung không có giờ giấc, điên giản cuồng ngôn vọng ngữ (“Hạ, Minh” giống thế). Tự nhiên cười, tự nhiên khóc, răng cắn không mở “Đồng”.

 - Tâm du: Trị phát động kinh, phiền khóc (xem: Chạy cuồng).

 - Cân súc: Trị kinh giản, chạy cuồng, điên tật, cột sống co cứng, mắt chuyển thẳng dọc lên.

 - Bộc tham (xem: Nói cuồng), Kim môn (xem: Thi quyết) trị điên giản.

 – Tích trung: Trị phong giản điên tà.

 - Thần môn: Trị 5 thứ giản của người lớn trẻ em .

 - Kim môn: Chữa trẻ em phát giản, há miệng, lắc đầu, thân uốn ngửa.

 - Tích du: Chữa phong giản, điên tà “Minh”.

 - Thần đình: Chữa sưng hơi (thũng khí) phong giản, điên phong, không nhận biết người, như dê kêu, thân vặn, uốn ván, xõa tóc, đầu ca, đuôi khóc, thường học theo tiếng người nói, sợ, hồi hộp, ngủ không yên.

 - Phế du, Bộc tham (xem: Thi quyết): Trị điên giản.

 - Thiếu hải: Chữa điên giản thè lè lưỡi, nước dãi ra kêu như dê.

 - Cuồng điên, phong giản, thè lè lưỡi, cứu Vị quản 100 mồi. Không châm.

 - Thương công pháp, cuồng giản không biết người, bệnh điên choáng váng, loạn, cứu Bách hội 9 mồi.
 
 “Nạ kinh sớ” nói: Chứng của bệnh cuồng không chịu nằm ngủ, chẳng ăn uống như bình thường, tự cho mình là bậc hiền trí, hát vui, đi, chạy, đó là dương khí thịnh làm như thế.

 Theo như “Kinh” nói: Trọng dương giả cuồng, đời nay cho đó là điên, bệnh điên phát thì cứng đơ, dễ ngã xuống đất, cho nên có lời nói điên quyết.

 Âm khí thịnh đại làm cho không đi đứng được mà đổ ngã vậy! Ngày nay gọi là bênh giản, cũng là nhầm vậy!

 Nếu như phân tích bệnh điên cuồng đúng là như thế, mà nhiều người không tin, vẫn truyền tập cái nhầm, khó mà sửa đổi được (trọng âm là điên).

 Phàm phát cuồng thì muốn chạy, hoặc tự cho mình là cao quý, xưng thần thánh, đều nên sẵn sàng cứu mới khỏi được lâu dài. Buồn khóc rên rỉ là tà, không phải là cuồng, theo đúng phương pháp chữa tà “Thiên”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 01, 2018, 03:52:01 PM
 17. Điên tật (xem thêm: Phong giản)

 - Giải khê: Chữa tật điên bứt dứt trong lòng, buồn khóc.

 - Á môn: Chữa điên tật, nặng đầu.

 - Hoàn cốt: Chữa điên tật, mặt phù thũng, răng sâu.

 - Thiếu xung: Chữa đau đầu, điên tật, phong kinh, lợi răng sưng, hay sợ.

 - Cân súc: Trị điên tật, cột sống cứng (xem: Điên giản).

 - Thân mạch, Hậu khê, Tiền cốc: Trị điên tật.

 - Hoạt nhục môn: Trị điên tật, nôn ngược mà lè lưỡi.

 - Lệ đoài (“Minh hạ” giống thế), Bản thần: Trị điên tật nôn ra bọt.

 - Phi dương: Trị điên tật lạnh đau.

 - Thừa sơn, Côn lôn: Chữa nóng rét, điên tật.

 - Xích trạch: Chữa bệnh điên không thể nhìn thẳng, bàn tay không đưa lên đầu được “Hạ”.

 - Giải khê, Dương kiều: Chủ bệnh điên “Thiên”.

 - Thần đình, Thượng tinh, Bách hội, Thính hội, Thính cung, Thiên lịch, Tán trúc, Bản thần, Trúc tân, Dương khê, Hậu đỉnh, Cường gian, Não hộ, Lạc khước, Ngọc chẩm: Chữa bệnh điên mà nôn.

 - Lệ đoài, Ngân giao, Thừa tương, Đại nghinh, Ty trúc không, Tín hội, Thiên trụ, Thương khâu: Chủ điên tật mà nôn ra bọt, nóng rét co giật dẫn theo.

 - Thừa tương, Đại nghinh: Chữa nóng rét, cứng đơ (quyết) thê thảm, hàm khua lập cập, điên co giật, miệng mím.

 - Nhu hội, Thân mạch: Chủ điên, tật khí ở nếp nhăn da dẻ.

 - Xích trạch, Nhiên cốc: Chủ điên tật, bàn tay không đưa lên đầu được.

 - Thiên lịch: Chủ điên tật, lắm lời, tai ù, miệng phình ra.

 - Não không, Thúc cốt: Chủ điên tật rất gầy, đau đầu.

 - Huyền ly, Thúc cốt: Chủ điên tật, hay sợ nghe tiếng dê kêu.

 -Thiếu xung: Chủ đau đầu, điên tật… dẫn thêm hay sợ.

 - Thông cốc: Chủ trong tim bâng khuâng, trống trải, dưới tim hồi hộp sợ hãi, trong họng nhạt nhẽo.

 - Phong trì, Thính hội, Phục lưu: Chủ nóng điên, ngã.

 - Hoàn cốt: Chủ điên tật, cứng đơ.

 - Khúc trì: Chủ điên tật (xem: Khế túng – co giật).

 - Cuồng điên: Cứu Vị quản (xem: Điên giản) hoặc cứu Cơ dương (xem: kinh giản).

 - Có người bị bệnh kinh giản, phát thời cứng đơ, ngã ra đất, rất lâu mới tỉnh, ý tôi cho rằng do dụng tâm nhiều mà gây ra, cho nên cứu Bách hội, lại nghi là đàm quyết gây ra cứng đơ mà ngã, cho nên cứu Trung quản thì bệnh có giảm bớt, nhưng chưa trừ tân gốc, sau xem mạch quyết “Hậu thông chân tử, hữu thụ dưỡng tiểu nhi, cẩn hệ Phong trì chi thuyết” nghĩa là có thuyết nói: khi nuôi dưỡng trẻ nhỏ phải che giữ huyệt Phong trì. Người ta lại tìm cứu bệnh giản, tất lấy huyệt Phong trì, cứu ở đó mà khỏi (đều ứng với bàn tay buốt đau, trẻ em giản, sợ hãi, cũng có thể cứu ở đó).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2018, 10:00:56 AM
 18 . Kinh giản – Động kinh do sợ, trẻ em kinh giản, cấp kinh phong, mạn kinh phong

 - Tín hội: Trị kinh giản, mắt ngước ngược lâu, không nhận ra người “Đồng”.

 - Cự cốt: Chữa kinh giản, mửa ra máu.

 - Cưu vỹ: Chữa tâm sợ phát giản, phát ra tiếng giống chim kêu, mửa ra máu, trong tâm khí làm bứt rứt, không muốn nghe thấy tiếng người, tâm đau, bụng trướng.

 - Thiếu xung: Trị kinh giản thè lè lưỡi, ra nước bọt.

 - Thúc cốt: Chữa kinh giản, điên cuồng, mình nóng rét, đầu đau mắt hoa “Hạ”.

 - Cân súc: Chữa kinh giản, cuồng chạy, bệnh giản nói nhiều, cột sống cứng, hai mắt ngược lên trợn trừng.

 - Khế mạch, Trường cường: Chữa trẻ em kinh giản, co giật, nôn mửa, đi ỉa, sợ hãi mất tinh, nhìn mờ không rõ “Thiên”.

 - Tín hội, Tiền đỉnh, Bản thần, Thiên trụ: Chủ trẻ em kinh giản.

 - Lâm khấp: Trị trẻ em kinh giản nhìn ngược lên (phản quan).

 - Tín hội: Chữa trẻ em giản suyễn, không thở được.

 - Tiền đỉnh: Chữa trẻ em kinh giản (“Minh hạ” giống thế, phong giản co giật, phát cơn thì trước đó ra nhiều mũi, đỉnh đầu sưng lên “Đồng”.

 - Khế mạch, Thần đạo, Lư tín: Trị trẻ em phát giản co giật (xem thêm: Trẻ em co giật).

 - Trường cường, Thân trụ: Chữa trẻ em kinh giật.

 - Trẻ em nếu chỉ bị gió, cứu Suất cốc (xem: Phong).

 Trẻ em trước sợ hãi kêu gào, sau lại phát kinh giản, cứu giữa xoáy tóc trên đỉnh đầu 3 mồi, và sau tại chỗ tĩnh mạch xanh.

 - Trẻ em kinh giản cứu Quỷ lục huyệt 1 mồi, ở chính giữa trong môi trên, trên sợi dây đàn ở đó, dùng dao thép cắt đứt ra càng tốt.

 - Trẻ em cấp kinh phong, cứu Tiền đỉnh 3 mồi, nếu không khỏi cần cứu hai đầu lông mày và huyệt Nhân trung. “Tần Thừa Tổ” cứu trẻ em kinh giản ở đó (xem: Quỷ tà).

 - Trẻ em hoãn kinh phong, cứu Xích trạch, mỗi bên đều 1 mồi.

 - Cuồng tà, kinh giản cứu Thừa mệnh 30 mồi, ở phía sau mắt cá trong đi lên 3 thốn, trên chỗ mạch đập, cũng cứu kinh chạy cuồng.

 - Cuồng điên phong kinh, quyết nghịch tim bứt dứt, cứu Cự dương 50 mồi.

 - Hành gian (xem: Điên cuồng): Chủ kinh giản “Thiên”.

 - Uyển cốt: Trị kinh phong (“Đồng” xem: Co giật).

 - Cân súc: Trị kinh giản (“Minh” xem: Điên cuồng).

 Cấp mạn kinh phong không phải là phong, cổ nhân gọi là âm dương giản, do thương hàn mà có âm, dương chứng. Dương giản như dương chứng, đáng trị bằng thuốc mát, âm giản như âm chứng, đáng trị bằng thuốc ấm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2018, 08:58:55 AM
 19. Phong giản (Động kinh do phong) 5 thứ giản

 - Thần đình: Chữa điên phong, không nhận biết người, kêu như tiếng dê (“Minh” xem: Điên giản).

 - Bách hội: Chữa phong giản, thanh phong, tâm phong, uốn ngửa, kêu như dê, hay khóc, nói năng lộn xộn, khi phát thời chết, nôn ra nước bọt, tâm nóng, bứt dứt đầu phong hay ngủ, tâm phiền sợ, hồi hộp, vô tâm lực, nói trước quên sau, ăn không biết ngon, uống rượu mặt đỏ, mũi tắc. “Minh hạ” nói: Chữa trèo lên cao mà hát, cởi áo mà chạy, uốn ngửa (giáo cung phản chướng) kêu như dê, thè lè lưỡi.

 - Bách hội: Trị phong giản, trúng phong, uốn ngửa, hay khóc, nói năng lung tung, phát cơn không giờ giấc, thịnh thì mửa ra nước bọt, tim bồn chồn, sợ hãi, hồi hộp “Đồng”.

 - Thần đình, Ty trúc không (xem: Hoa mắt): Trị phong giản, mắt ngước ngược lên, không nhận thức.

 - Cự khuyết: Chữa trong lòng phiền muộn, nhiệt phong, phong giản, nói bừa bãi, lãng quên, hoặc kêu hú, không ăn được, vô tâm lực (hay quên).

 - Hội tông: Trị da thịt đau, tai ù, phong giản.

 - Tích trung (xem: Điên), Dũng tuyền: Trị phong giản.

 - Tiền đỉnh: Chữa phong giản “Minh”.

 - Thượng quản: Chữa phong giản, đau nóng, có thể tả mà sau bổ.

 - Tích du: Chữa phong giản điên tà.

 - Mi xung: Chữa mắt của năm loại giản, đau đầu tắc mũi.

 - Dũng tuyền, Thần thông (xem: Đầu phong), Cường gian: Kỳ Bá nói: Chữa phong giản.

 - Thiên tỉnh: Chữa bệnh giản kêu như dê, thè lè lưỡi.

 Bệnh giản là ác tật của trẻ em, nếu không kịp thời chữa trị thì sẽ nguy khốn “Hạ”.

 * Trẻ em thực giản: Trước nóng sau rét, dần dần mới phát cứu ở trên huyệt Cưu vỹ 5 phân 3 mồi.

 * Trẻ em phong giản: Trước cong ngón tay như đếm vật gì đó rồi mới phát, cứu thẳng sống mũi lên vào chân tóc ở giữa 3 mồi.

 * Trẻ em trư giản: Như thi quyết (xác cứng) mửa ra nước bọt cứu Cự khuyết 3 mồi.

 * Trẻ em kê giản: Hay sợ mà uốn ngửa, tay quắp mà tự lắc, cứu Thủ thiếu âm 5 mồi, tại cổ tay lên nửa thốn vào chỗ lõm.

 * Trẻ em dương giản: Mắt trợn, lưỡi thè lè, kêu như dê, cứu khe lõm dưới mỏm gai đốt sống 9 là 3 mồi.

 * Trẻ em ngưu giản: Mắt nhìn thẳng, bụng chướng rồi mới phát cứu Cưu vỹ 3 mồi.

 * Trẻ em mã giản: Há mồm, lắc đầu, mình uốn ngửa, kêu như ngựa, cứu Bộc tham mỗi chỗ 3 mồi.

 - Mã giản há mồm: Kêu như ngựa, lắc đầu, uốn ngửa, cứu Phong phủ ở gáy và giữa rốn 3 mồi (“Thiên” đốt móng ngựa tán nhỏ, uống khỏi).

 - Ngưu giản: Mắt nhìn thẳng, bụng chướng, cứu xương Cưu vỹ và Đại chùy đều 3 mồi (“Thiên” đốt móng ngựa tán nhỏ, uống khỏi).

 - Cương giản: Hay giương mắt, thè lưỡi, cứu trên Đại chùy 3 mồi.

 - Trư giản: Hay mửa bọt dãi, cứu Hoàn cốt 2 bên đều 1 thốn (?) là 7 mồi.

 - Cẩu giản: Tay gập, bàn tay nắm, cứu hai lòng bàn tay, Túc thái dương. Tặc hô đều 1 mồi.

 - Kê giản: Lắc đầu uốn ngửa, hay sợ mà tự lắc, cứu các kinh dương ở chân đều 3 mồi.

 - Thần đình, Tích du: Chữa phong giản (xem: Kinh giản).

 - Tiền đỉnh: Chữa trẻ em kinh giản, phong giản (“Đồng” xem: Điên giản).

 Trẻ em tóc dựng ngược lên, gào, cười, mặt tối xạm, sắc không thay đổi là giản tật, hoặc mặt mũi xanh là lúc kinh nhỏ, hoặc mình nóng, đầu thường ra mồ hôi, hoặc mình nóng, mửa, nheo mắt (đồng tử thu nhỏ) mà suyễn, hoặc mình nóng, mắt nhìn thẳng, hoặc nằm sợ sệt mà kinh, chân tay rung lắc, nằm mơ cười, hoặc ý khí xuống mà giận lung tung, hoặc bú sữa khó, hoặc con ngươi dắt đen to hơn lúc thường, hoặc hay khiếm (thiếu sót trong cử chỉ). Mắt nhìn lên, hoặc mình nóng, đái khó, mắt nhìn không bình thường, hoặc mửa lị không dứt đau, quyết thời dấy lên, hoặc lè lưỡi (lộng thiệt) lắc đầu, các chứng có 20 điều, đều là bước đầu của giản.

 Thấy các chứng ấy, nên bấm móng ở dương mạch chỗ ứng cứu, bấm thì nên nặng tay, làm cho đứa trẻ khóc, rất nhanh và mếch ở chân hết hằn (tuyệt) cũng theo đúng phương và thang (?). Mắt nhìn thẳng, con người mắt động, bụng đầy kêu, ỉa ra máu, mình nóng, miệng mím không bú được, uốn ngửa, cứng xương sống, mồ hôi ra, phát sốt, không nằm được, chân tay rung giật hay sợ, đó là 8 điều của bệnh giản nguy cấp. Nếu có như thế không uống thuốc, thay móng tay bấm có thể cứu, đúng lúc đó thì cứu.
 
 “Từ Tự Bá” nói: Bệnh phong huyễn dấy lên từ tâm khí bất túc, trên ngực chứa thực nhiệt, đàm nhiệt cùng cảm mà động phong, phong tâm cùng loạn thì bứt dứt, mờ mịt, cho nên gọi là phong huyễn mậu (mờ mịt). Người lớn thì gọi là điên, trẻ em thì gọi là giản, phương đó mà chữa, vạn người chẳng có người nào không khỏi. Khi khốn cấp, không thể đo huyệt để cứu, lấy kim to mà châm không thể không khỏi, mới thọat đầu châm hết, cứu thêm rất tốt. Nghề tôi đã hơn 30 năm, số người cứu khỏi có đến hàng trăm, hàng nghìn, bệnh đó mà chết là vì không gặp Tự vậy. Tục mệnh thang chủ huyết phát đốn “khốn” buồn rầu vô chi. Miệng ra nước bọt, tứ chi uốn vặn, mắt ngược lên, miệng  không nói được. Trúc lịch 1 thăng 2 cáp, nước Sinh địa hoàng 1 thăng, Long xích tán nhỏ. Sinh khương, Phòng phong, Ma hoàng (bỏ đốt) mỗi thứ 4 lạng, Phòng kỷ, Phụ tử bào mỗi thứ đều 3 lạng, Thạch cao 10 lạng, Quế 2 lạng. Nước 1 đầu sắc lấy 3 thăng, chia làm 3 lần uống, có khi gia Phụ tử 1 lạng, Tử tô 5 cáp, Quất bì nửa lạng.

 Đó là lời bàn về phong suyễn, điên giản rất có lý, kèm thêm Hương phụ vào đấy (Còn có Bôn đồn thang xem rõ ở "Thiên kim").

 Những trẻ em giản không phải ở tâm khí bất túc (“Thiên kim” có: Phong, Thực, Kinh là 3 loại giản). “Bản sự phương” có: Âm dương giản, mạn tỳ phong là 3 chứng, mạn tỳ tức thực giản nên dùng Tích Tỳ Hoàn, Nhân Sâm Tán. “Hữu phương” có: Tam giản hoàn trị tiểu nhi trăm hai mươi loại giản kinh. Tuệ kinh giới 2 lạng, Phèn 1 lạng nửa sống nửa khô, tán nhỏ. Hồ trộn làm viên to bằng hạt lê, Chu sa làm áo, mỗi lần dùng 20 viên chiêu với nước gừng. Tôi nói: Mạn kinh dùng Lại Phục Đan, cấp kinh dùng Tam Giản Hoàn, thực giản dùng Tỉnh Tỳ Hoàn, cũng thế.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2018, 10:06:00 AM
 20. Phong lao (xem: Lao)

 - Đại trữ: Trị phong lao, khí ho hắng (“Minh” có chữa khí cấp), trong ngực ức, mình nóng mắt hoa “Đồng”.

 - Đại chùy: Trị phong lao thực.

 - Phong môn: Trị phong lao nôn ngược, khí lên, ngực lưng, trên đầu, suyễn khí, nằm không yên (“Minh” chép là đoản).

 - Bàng quang du: Trị phong lao, thắt lưng và cột sống đau.

 - Phụ phân: Trị phong lao, cánh tay và khuỷu tay tê bại.

 - Ngũ lý: Trị phong lao kinh, khủng, mửa ra máu, khuỷu tay cánh tay đau, hay nằm, tứ chi không động được.

 - Khúc tuyền: Trị phong mất tinh, thân thể cực đau, đái dễ, có mủ, âm hộ sưng, ống chân đau.

 - Quan nguyên, Bàng quang du: Chữa phong lao, đau lưng “Minh”.

 - Phục thỏ: Chữa phong lao bại nghịch, cuồng tà, đầu gối lạnh, khớp tay co rút, mình có nốt nhỏ chìm (ẩn chẩn), trướng bụng ít hơi.

 - Phong lao, Não hộ 5 mồi, châm 3 phân bổ “Thiên Dực”.

 - Cứu phong lao phát bối, ung thư, dùng một sợi chỉ gai, vuốt qua sáp, từ đốt thứ hai ngón tay giữa, đo đến xương ở cửa tim (tâm khảm cốt) cắt đứt dây ở đấy (cần giơ thẳng tay, đem vòng qua từ trước gáy cổ, xuống lấy giữa triền đến sau tim, so đầu cho bằng nhau, ngậm miệng bề ngang tại mép, vòng qua môi, lấy đó làm mức, cứu cân 7 mồi - Phòng châu gồm Tư pháp, Mã Tư pháp nói: Thần diệu).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2018, 03:47:50 PM
 21. Phong kinh (phong co giật), uốn ngửa, uốn ván

 - Lư tín: Trị kinh phong “Đồng”.

 - Đại nghinh: Trị kinh phong, miệng mím, răng đau, má sưng, lưỡi cứng không nói được.

 - Á môn: Trị nóng rét phong kinh, cột sống cứng, uốn ngửa, co giật.

 - Thiếu xung: Trị điên tật, phong kinh, răng lợi sưng, hay sợ.

 - Tỳ du, Bàng quang du: Chủ nhiệt co giật dẫn vào xương đau “Thiên”.

 - Thượng quan: Chủ co giật, chảy nước bọt ra, nóng rét, đau xương.

 - Thận du, Trung lữ du, Trường cường: Chủ nóng rét kinh, uốn ngửa (xem: Kinh nguyệt).

 - Trẻ em cứng mình uốn ván, cứu thẳng mũi lên. Vào trong mép tóc 3 phân, cứu 3 mồi. Thứ nữa, chỗ dưới Đại chùy 3 mồi “Minh hạ”.

 - Bách hội: Trị uốn ván (“Đồng” xem: Trúng gió).

 - Thượng liêu (xem: Tuyệt tự, không có con), Yêu du: Chủ cột sống uốn vặn “Thiên”.

 “Sản luận” nói: Kinh là miệng mím, lưng cứng mà thẳng, giống như phát giản, lắc đầu kêu như ngựa, mình uốn vặn, nên nhanh chóng để nước Tiểu Tục Mệnh Thang là thế (xem điều đó ở luận thứ 20). Lại nói: Sản hậu trúng gió như uốn ván, không có phép chữa (xem: Chương 18), sau có người chỉ dùng Kinh Giới Tuệ tán nát uống 2 đồng cân với rượu thì liền khỏi ngay. Nếu như cứu chưa chắc đã kiến hiệu ngay bằng thuốc.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2018, 04:04:55 PM
 22. Phong choáng váng – phong huyễn (xem thêm: Đầu mắt choáng váng, bàn thêm về phong giản)

 - Hoàn cốt: Chữa phong choáng váng, gáy đau, đầu cứng, nóng rét “Minh”.

 - Dương cương, Lâm khấp: Chữa tự nhiên không nhận biết người, phong choáng váng, mũi tắc.

 - Hậu đỉnh (xem: Đầu phong), Ngọc chẩm (xem: Mắt đau), Hàm yếm (xem: Đau lệch bên đầu) chữa phong choáng váng “Thiên”.

 - Dương cốc: Chủ phong choáng váng, sợ, tay nắm co (“Giáp Ất”: Tay nắm, chép là cổ tay đau) ra mồ hôi, thắt lưng và gáy co.

 - Thừa quang: Chữa phong choáng váng đau đầu, nôn mửa, tâm bồn chồn.

 - Thân mạch: Chữa ngồi mà như thấy ở giữa chiếc xe một bánh (đơn xe) (xem: Thắt lưng, chân).

 - Thần đình, Thượng tinh, Tín hội: Chủ phong đầu, choáng váng “Thiên”.

 - Thiên dũ, Tiền đỉnh: Chủ phong choáng váng (xem: Hạng phong).

 - Tán trúc: Chữa đầu mắt choáng váng.

 “Thiên kim phương” có ghi lời Từ Tự Bá rằng: Bệnh phong choáng váng bắt đầu từ ở tâm khí bất túc, trên ngực chứa góp nhiệt thực. Đàm cũng cảm mà động phong, phong và tâm cùng loại thì mờ mịt, bứt dứt, gọi là phong huyễn nâu, người lớn gọi là điên, trẻ em gọi là giản, tức là phong, huyễn. Điên giản gốc một tật, chẳng hiểu vì sao, người sau lại tách làm 3 môn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 03, 2018, 04:24:54 PM
 23. Phong bại (xem thêm huyệt Kiên ngung)

 - Thiên tỉnh: Chữa sợ hồi hộp, co giật, phong bại, khuỷu cánh tay đau, không cầm được vật gì “Đồng”.

 - Kiên trinh: Trị phong bại bàn tay, cánh tay đau không giơ lên được, trong vai nóng.

 - Xích trạch: Trị phong bại, khuỷu co, bàn và cánh tay không giơ lên được.

 - Tiêu lạc: Trị nóng, rét phong bại, gáy đau, vai và lưng co rút (“Minh” nói: Đầu đau, gáy lưng co rút).

 - Tất quan: Trị phong bại, phía trong đầu gối đau dẫn vào trong bánh chè, không thể co duỗi, hầu họng đau.

 - Phi dương: Trị phong bại mềm hoặc cứng đơ, nặng đầu, đau gáy, khớp đùi, mông, ống chân đau, co giật, phong bại, tê dại, có khi nóng rét, tứ chi không cử động được.

 - Dương phù (xem: Gối đau), Dương quan (xem thêm: Đau đầu gốc trị phong bại, tê dại).

 - Ủy trung (xem: Sống lưng, thắt lưng) chữa phong bại.

 - Thiếu hải (xem: Tràng nhạc) chữa phong bại.

 - Ủy trung (xem: Chân yếu), Hạ liêm: Chữa phong thấp bại (xem thêm “Minh” hàn bại).

 - Hoàn khiêu: Trị phong lạnh thấp bại (xem: Đau lưng) chữa tự nhiên thịt bại, không nhận biết người (xem: Trúng gió).

 “Kỳ Bá” nói rằng: Trúng gió đại pháp có 4, thứ 4 là phong bại. “Sào Thị” nói: Ba khí phong, hàn, thấp hợp lại mà thành bại. Phong nhiều thì là phong bại, chứng của phong bại là tất cả chỗ đa thịt đều đau, mà sau đó tay chân chẳng theo ý. Thầy thuốc gặp thì lấy theo đó mà cứu, nhanh chóng cùng với Tục Mệnh Thang theo đúng du huyệt đã nói mà cứu (xem rõ ở Thiên Kim).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 23, 2018, 10:11:24 AM
24.Trúng gió (trúng phong)

- Trúng gió, nóng, rét, xem bàn thêm về phong nửa người.

- Trẻ em nếu như là bệnh phong, mọi loại thuốc chữa không khỏi, cứu Suất cốc “Minh hạ”.

 “Hoàng Đế” chữa trúng gió, mắt ngược lên trên mà không nói được, cứu trên mỏm gai đốt sống 2 và 5, mỗi chỗ đều 10 mồi cùng châm lửa một lúc. Mồi to như nửa hạt táo, khỏi ngay.
 
 “Hoàng Đế” hỏi "Kỳ Bá": Trúng gió liệt nửa người cứu như thế nào? Đáp rằng: Phàm người ta trước khi chưa trúng gió khoảng một hoặc hai tháng, hoặc trước 3 tháng, không kể là lúc nào, tự nhiên trên ống chân tê nặng, buốt dại rất lâu mới hết, đó nên hiểu là chứng trúng gió, phải cứu ngay Túc tam lý, Tuyệt cốt 4 chỗ đều 3 mồi. Sau dùng Hành, Bạc hà, lá Đào, lá Liễu đun nước ngâm rửa đuổi hết phong khí theo vết cứu bỏng mà ra ngoài, vết bỏng cứu mùa xuân để mùa thu cứu, vết bỏng cứu mùa thu để mùa xuân cứu. Thường làm cho 2 chân có vết bỏng cứu là hay.

 Phàm những người không tin phép này, ăn uống không giữ gìn, rượu, gái quá mức, đột nhiên trúng gió đó. Tiếng nói thẳng rít (kiển, sáp), bán thân bất toại, nên 7 chỗ cùng đốt lửa 3 mồi, phong bên phải cứu bên trái, trái cứu phải, Bách hội, chân tóc mai trước tai, Kiên tỉnh, Phong thị, Tam lý, Tuyệt cốt, Khúc trì là 7 huyệt, thần hiệu! Theo đúng phép cứu, không thể không khỏi.

 Cứu trúng phong vào phủ, tay chân không theo ý, là như thấy tay chân tê hoặc đau, rất lâu mới khỏi. Nên nghĩ đó là chứng trúng, bệnh bên trái cứu bên phải, bệnh phải cứu trái. Vết bỏng cứu mùa xuân để mùa thu cứu, vết bỏng cứu mùa thu để mùa xuân cứu, làm cho hết phong khí “Tập hiệu”.

 Bách hội, Khúc tân, Kiên ngung, Khúc trì, Phong thị, Túc tam lý, Tuyệt cốt, cộng cả là 13 huyệt.

 Cứu trúng phong tạng, khí tấn, dãi lên, không nói được, cực kỳ nguy, đặt lửa xuống là khỏi ngay. Nếu như thấy chứng trong tim sợ sệt loạn bậy, thần khí không êm ái, hoặc tay chân tê, đó nên nghĩ là chứng trúng tạng, không cần hỏi phong hay khí, nhưng mà đúng thứ tự trên và dưới, tất cả đều cứu 5 mồi. Riêng có ngày cứu số mồi theo tuổi, phàm qua xuân, qua thu, thường cứu để tiết phong khí. Người có phong nên giữ gìn thì không lo ngại, có thể cứu Bách hội, Phong trì, Đại trùy, Kiên tỉnh, Khúc trì, Giản sử, Túc tam lý, cộng là 12 huyệt.

 “Tập hiệu phương” nói: Chữa phong không phải như Tục Mệnh, Phòng phong, vài phong cùng loại, những cái đó có thể phù trợ khi có bệnh tật, nếu như cứu nguy cấp, đốt Ngải là tốt. Lời bàn đó cũng đúng.

 Phạm Mặc Tử từ khoảng tháng Nhâm ngọ bị miệng mắt méo lệch, cứu Thính hội v.v… 3 huyệt thì khỏi. Tay chân phải tê, yếu, cứu Bách hội, Phát tế… 7 huyệt thì khỏi, khoảng tháng 8 năm mùi, khí tắc, dãi lên, không nói được, dùng Kim Hổ Đơn gia Nhị phấn (phấn trơn) uống đến 4 viên rưỡi mà khí không thông, dãi không xuống, thuốc từ trong lỗ mũi chảy ra, hồn vía bay lên mây, như rơi vào sông nước, trong phút chốc muốn chết, cứu Bách hội, Phong trì… cả hai bên cộng là 12 huyệt, mửa ra hơn một bát, rồi lại đi ỉa hơn chục lần, nằm ôm gối hơn nửa tháng (phục châm bấm nguyệt dư) thì yên hết. Sau này ông ta mới biết ý tứ có khác chút ít so với bình thường, trong tim sợ sệt lộn xộn, tức thì lại cứu Bách hội, Phong trì thì khỏi ngay.

 “Bản sự phương” nói: 12 huyệt là: Thính hội, Giáp sa, Địa thương, Bách hội, Kiên ngung, Khúc trì, Phong thị, Túc tam lý, Tuyệt cốt, Phát tế, Đại chùy, Phong trì, đúng thế mà khỏi ngay!

 Khí tắc, dãi lên, không nói được là chứng trúng vào tâm. “Sào Thị Bệnh Nguyên” thường bàn đến. Cổ phương tuy nói chẳng những bị ngã ngửa, bứt dứt ra mồ hôi… là chứng của trúng gió, sợ nói chưa hết. Phạm Công cứu làm cho khí thông được, đúng là sức cứu của Bách hội, còn như nôn ra hơn một bát, đi ỉa hơn chục lần, làm sao uống Kim Hổ Đan gia Nhị phấn có thể gây ra được? (“Tất Dụng phương” cấm người ta uống Kim Hổ Đan).

- Phong trì: Chữa đại nạn phong. Trước bổ sau tả. Nạn còn ít, châm nhẹ hơn “Minh”.

- Can du: Chữa trúng gió, đầy tức, ngắn hơi, ăn không được, ăn không tiêu, mửa ra máu, mắt mờ bế tắc.

- Âm kiều: Chữa thiên khô (khô quắt một bên), không đi được, đại phong, mạnh, nhanh không nhận biết người, nằm sợ, nhìn như thấy sao (sao trên trời).

- Lâm khấp: Chữa tự nhiên trúng gió không nhận biết người.

- Giải khê: Chữa phong, mặt phù thũng, màu đen, quyết khí xông lên, bụng trướng, đi ỉa, mót rặn, co giật, sợ hãi, đầu gối, đùi, ống chân sưng, chuột rút, mắt hoa, đầu đau.

- Lao cung: Chữa trúng phong, hay cáu, buồn, cười không nghỉ, tay bại.

- Nội quan: Chữa trúng phong, khuỷu tay co, thực thì tim đau, hư thì tim bứt dứt sợ sệt.

- Hoàn cốt: Phong, đầu và sau tai đau, tim bứt dứt, chân không khép lại được, không đặt được xuống đất, miệng lệch, đầu gáy co giật đau, hàm răng cấp, co kéo, Hoàn cốt chủ chứng đó.

- Tâm du: Chủ tâm trúng phong, nói năng buồn khóc (“Đồng” xem: Chạy cuồng).

- Bách hội: Trị phong giản, trúng phong uốn ván, hoặc hay khóc, nói năng lộn xộn, phát không có giờ giấc, thịnh thì mửa ra nước bọt, tim sợ, bứt dứt, hay quên “Đồng”.

- Côn lôn: Chủ cuồng, dễ thành phong “Thiên”.

- Âm kiều: Chủ bạo phong, không nhận biết người, teo một bên (thiên khô) không đi được.

- Chiếu hải: Chủ phong, im lặng không biết chỗ đau, nhìn như thấy sao trong mắt.

- Thiên tỉnh: Chủ phong, không biết chỗ đau, buồn thương không vui.

- Bách hội:Chữa phong xanh, phong tâm (xem: Phong giản).

- Kiên ngung: Trị phong lệch nửa người, phong nhiệt (xem: Trúng gió).

 “Kỳ Bá” nói rằng: Trúng phong đại pháp có 4: Một là thiên khô, hai là phong thi (da bị nóng, nổi nhiều hạt rất ngứa), ba là phong ý, bốn là phong bại. Tất cả các bệnh nhanh chóng tự nhiên thường là phong. Mới bị thường nhỏ bé, người ta không nhận ra, nên dùng ngay Tục Mệnh Thang, theo đúng du huyệt mà cứu, phong là lớn nhất của bách bệnh (“Kỳ Bá” nói: có 4, nói là rất nặng vậy).

 Phong nói chung thường từ bối du của ngũ tạng mà vào, các tạng bị bệnh thì Phế tạng là nhanh nhất, Phế chủ hơi thở, lại xông thẳng đến các tạng theo đó.

- Phế trúng phong là người ta nằm ngửa mà ngực tức đầy, ngắn hơi, khí dâng lên, bứt dứt, ra mồ hôi, chứng của Phế phong, xem từ hai bên dưới mắt, trên mũi đi xuống đến miệng mà mầu trắng là còn có thể chữa được, cứu nhanh ngay Phế du 100 mồi, cho uống Tục Mệnh Thang, trẻ em thì giảm đi nếu như cấp mà màu vàng, đó là Phế đã tổn thương, hóa làm huyết, không thể chữa trở lại được. Nếu như tà cấp, phong tà ở trong, làm mê mặc hoảng hốt, nói nhảm, nói cuồng hoặc ít hơi, cứu Phế du, Cách du và Can du mấy chục mồi, uống ngay Tục Mệnh Thang có thể cứu được, nếu bọt dãi ra mà không thu lại, đánh dấu cứu và uống thuốc.

Chư dương bị phong, cũng hoảng hốt, nói nhảm, tương tự như bệnh Phế, nhưng chậm, có thể qua thời gian dài mới chết.

- Can trúng phong là người ta chỉ có ngồi xổm, đầu không thể cúi thấp xuống được, vòng quanh mắt lên đến trán hơi có màu xanh là chứng của Can phong. Nếu như môi xanh mà mặt vàng, còn có thể chữa được, cần cứu ở Can du 100 mồi, uống thêm Tục Mệnh Thang.

- Tâm trúng phong là người ta chỉ có thể nằm ngửa, không thể vặn nghiêng, bứt dứt, loạn, ra mồ hôi. Đó là chứng của tâm phong, nếu môi không thay đổi, màu đỏ còn có thể chữa được. Cấp cứu ngay Tâm du 100 mồi, uống Tục Mệnh Thang.

- Tỳ trúng phong là người chỉ có thể ngồi xổm mà bụng đầy, khắp người vàng mà mửa ra vị mặn, nếu mồ hôi ra còn có thể chữa được, cứu ngay Tỳ du 100 mồi, uống Tục Mệnh Thang.

- Thận trúng phong là người ta ngồi xổm mà lưng đau, xem hai bên phải, trái sườn, chưa có màu vàng như bánh bằng bột thóc gạo, còn có thể chữa được, cứu ngay Thận du 100 mồi, uống Tục Mệnh Thang.

- Đại trường trúng phong, nằm mà ruột sôi không dứt cứu Đại trường du 100 mồi, uống Tục Mệnh Thang.

- Trong làng tôi có một người tự nhiên thấy bụng trên nóng lên rất dữ dội, kịp đến hiệu thuốc nói chứng trạng như thế, nhà thuốc cho rằng đó là chứng trạng của trúng phong mà không làm bệnh.

 Tôi một lần đến Di Lăng, thấy một Thái thú trong bụng đột nhiên bị nạn nóng dữ, chẳng tránh né gì chỗ đất có nước hay rượu, cứ trải chiếu mà nằm lên trên, rồi bảo người ta quạt, ngày hôm sau tự nhiên trúng gió, mấy ngày sau thì chết.

 Người ta đều mắc lỗi là nằm trên chiếu chỗ đất ướt mà quạt. Ở Phong Dương tại tỉnh Hồ Nam, có một bà già trong bụng cũng có nạn nóng, ban đêm ra nằm ở hè, ngày hôm sau trúng gió, tôi lấy Tiểu Tục Mệnh Thang đem cho uống, lại mời thầy thuốc đến chữa, mấy ngày thì khỏi.

- Đầu tiên biết người ta trúng gió, trong bụng thường nóng mà sau đó mới làm bệnh nên uống Tục Mệnh Thang.

- Lệnh rằng: Vương bị nạn phong, thầy thuốc là Thanh Châu Bạch Viên Tử lấy bài Phong Thang, Tục Mệnh Thang, Tứ Vật Thang, Hoàng Kỳ Kiến Trung Thang, Truật Phụ Thang gia Lúa tán, tất cả bỏ vào một chỗ  hòa đều rồi chia làm nhiều lần uống, mỗi lần uống một bát nước, ba quả táo, năm lát gừng, sắc còn bảy phần, bỏ bã uống âm ấm.

Từ đó về sau người ta uống đều khỏi cả.

- Truyện “Chu Hộ Tam Thang Tứ Tán Tử” dùng Tứ Quân Tử, Bài Phong, Tục Mệnh Thang thêm Lúa, gọi là Cấp Phong Chính Khí Quân Khí tán. Tất cả mọi bệnh phong không có chứng nào không khỏi.

- Can phong (xem: Chứng hậu) là miệng không nói được, thường cứu ở Nhân trung, thứ nữa cứu Đại chùy, thứ nữa cứu Can du 50 mồi, các chỗ còn lại cứu mồi theo tuổi. Ngờưi mắt mờ cứu thì được sáng, cứu từ 200 – 300 mồi thì tốt.

- Phàm tâm phong hàn, cứu Tâm du mỗi chỗ đều 50 mồi.

 “Biển Thước” nói rằng: Phàm người tâm phong, cứu hai bên Tâm du, mỗi bên 1,2 thốn, mỗi chỗ đều dăm bảy mồi.

 Đối với chỗ tâm là Can du có 2 huyệt chủ tâm phong bụng chướng, đầy, ăn không hóa, mửa ra máu, đau buốt, tứ chi gầy guộc, không muốn ăn, mũi có máu ra, mắt cứ mờ không rõ, đầu, vai, dưới sườn đau, đái cấp, cứu 200 – 300 mồi thì khỏi hẳn.

 “Biển Thước” nói: Tự nhiên trúng ác phong, tâm buồn bằn bứt dứt, độc muốn chết, cấp cứu nếp ngang ngón chân cái, số mồi theo tuổi, khỏi ngay.

- Nếu co gân không đi được, gân mắt cá trong co, cứu trên mắt cá trong là 40 mồi. Gân mắt cá ngoài co, cứu trên mắt cá ngoài 30 mồi, khỏi ngay.

- Nếu mắt đội con ngươi ngập vào phía trên, cứu phía sau hai khóe mắt 14 mồi.

- Nếu không nói được, cứu trên mỏm gai đốt sống lưng thứ 3 là 100 mồi.

- Nếu không nhận ra người, cứu ở đầu sườn cụt 7 mồi (“Lý lặc” ở sườn 11).

- Nếu mắt trợn miệng mím, bụng đau như cắt, cứu ở nếp ngang thứ nhất dưới bừu dái 14 mồi. Cứu tự nhiên chết cũng khỏi.

- Chữa đại phong, tự nhiên bị phong, các loại phong hoãn, cấp, tự nhiên phát động, không tự biết, hoặc bụng trên (tâm phúc) trướng đầy, hoặc liệt nửa người (bán thân bất toại), hoặc miệng mím không nói, bọt dãi tự ra, mắt nhắm, tai ù, hoặc thân người thẳng duỗi mà lạnh, hoặc bứt dứt, hoảng hốt, hay cáu không kiềm chế được, môi xanh, miệng trắng, mắt đội lên uốn ván. Ngay lúc mới phát bệnh cứu ngay Thần đình 7 mồi, thứ cứu Khúc sai, thứ nữa Thượng quan, thứ nữa Hạ quan, thứ nữa Giáp xa, thứ nữa Liêm tuyền, thứ nữa Tín hội, thứ nữa Bách hội, thứ nữa Bản thần, thứ nữa Thiên trụ, thứ nữa Đào đạo, thứ nữa Phong môn, thứ nữa Tâm du, thứ nữa Can du, thứ nữa Thận du, thứ nữa Bàng quang du, thứ nữa Kiên ngung, thứ nữa Chi câu, thứ nữa Hợp cốc, thứ nữa Giản sử, thứ nữa Dương lăng tuyền, thứ nữa Dương phù, thứ nữa Côn lôn, các huyệt kể trên đều cứu 7 mồi.

- Trị phong: Cứu Thượng tinh 200 mồi, Tiền đỉnh 240 mồi, Bách hội 200 mồi, Não hộ, Phong phủ đều 200 mồi.

- Trị đại phong cứu Bách hội 700 mồi.

- Trị trăm loại phong ở sau não, gáy, chỗ ngang Đại chùy, 2 cái lõm, đo là 2,3 thốn. Lấy theo thốn ngón tay của người bệnh mà đo, mỗi chỗ cứu 100 mồi.

- Trị phong ù tai, từ sau tai đo lên 8 phân rưỡi, hơi vào trong có cái lỗ, cứu tất cả các chứng phong đều được, cuồng cũng khỏi, hai bên trước sau Nhĩ môn đều 100 mồi.

- Chữa tự nhiên ác phong muốn chết, không nói được mà thịt bại, không nhận biết người, cứu mỏm gai đốt sống lưng thứ 5, tên là Tạng du 150 mồi, nếu 300 mồi càng tốt

- Đại trường du: Trị phong, trong bụng kêu như sấm, ruột giãn ra, dễ ỉa, ăn không tiêu hóa, bụng dưới cắn đau, đốt sống lưng đau cứng, hoặc khó ỉa đái, không thể ăn uống được, cứu 100 mồi, 3 ngày một lần báo.

- Dịch môn: Cứu 50 mồi, chủ phong.

- Tuyệt cốt: Cứu 100 mồi, trị phong mình nặng, tim bứt dứt, ống chân đau.

- Bách hội, Thiên phủ, Khúc trì, Liệt khuyết: Chủ ác phong tà khí, nước mắt chảy ra, hay quên.

- Dũng tuyền: Chủ phong nhập vào trong bụng.

- Thương dương: Trong tai sinh phong.

- Lâm khấp: Chủ đại phong, đau mắt (“Giáp” nói: khóe mắt ngoài đau).

- Quan xung: Chủ mặt đen, phong thấp.

- Giải khê: Chủ phong từ đầu đến chân, mắt, mặt đỏ.

 Giải thêm tên thuốc chữa phong: Tiến Trầm Hương, Bán Hạ Thang. “Phương” nói: Người trúng gió tâm, thận đều hư trăm mạch đều loạn, khí tán mà huyết trệ, uống Kim ngân, Châu sa, Não sa là thuốc mát, thì chân tay không giơ lên được, kinh lạc sẽ chết. Uống Phụ tử sống thì thêm phát hư nhiệt chuyển thành không nói được, hoặc ỉa ra máu tươi, theo đó làm thành phế tật.

 Muốn trị phong, trước hết chủ Tâm, ích khí khử đàm, tỉnh Tỳ rồi sau mới chữa phong, thì mười ca khỏi tám, chín, dùng Phụ tử bào chế là một cái, Trầm hương mấy phân, Nhân sâm nửa lạng, Bán hạ 2 đồng, Nam tinh 1 lạng, các thứ dùng nước nóng rửa 7 lần, tán nhỏ, mỗi lần uống xúc 2 đồng tiền to, nước 2 chén, gừng 10 lát, sắc còn đến 1 chén uống lúc đói bụng. Thần hiệu!

 * Đó là bàn về chữa phong có lý xin chép vào đây.

- Dịch môn: Chủ phong, hàn, nhiệt, nóng rét “Thiên”.

- Nội quan: Chủ trong bàn tay phong nhiệt.

- Giản sử: Chủ đầu mình phong nhiệt.

- Hậu khê: Chủ trong TTTg ngực lạnh như chứng trạng của phong.

- Phế hàn cứu Phế du 100 mồi.

-Thận hàn cữu Thận du 100 mồi.

- Đại hoành: Trị phong dịch khí hàn nhiều “Đồng”.

- Phàm trúng gió, dùng Tục Mệnh Thang, Bài Phong Thang, Thần Tinh Đan, Nhân Vú Tửu, lại gia cứu tất khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 23, 2018, 03:38:01 PM
25.Trúng gió không nói được - Trúng phong bất ngữ (Thêm trúng gió mím miệng)

- Xem chứng Tỳ phong, không ra tiếng, hoặc tay đưa lên, đưa xuống, phải cứu 10 đầu ngón tay, thứ là cứu Nhân trung, thứ nữa là Đại chùy, thứ là hai mạch ở trước Nhĩ môn, từ Nhĩ môn đi lên, đi xuống 1 thốn là đúng. Thứ hai là khớp ngón cái lên xuống, tất cả mỗi chỗ đều 7 mồi.

- Trị Tỳ phong cứu Tỳ du, hai bên cột sống mỗi chỗ 50 mồi, phàm người không định được Tỳ du thì theo các tháng ứng tứ quý, bệnh thì cứu Tạng du là Tỳ huyệt, phép đó rất hay.

- Phong ở Tỳ gọi chung là bát phong.

- Ổi thoái phong, bán thân bất toại, mất tiếng không nói được, cứu Bách hội, thứ là cứu Bản thần, thứ là Thừa tương, thứ là Phong phủ, thứ là Kiên ngung, thứ là Tâm du, thứ 5 là sách ở tay (thủ ngũ sách), thứ là Túc tủy khổng (lỗ tủy ở chân), thứ là Túc dương minh, đều mỗi chỗ là 500 mồi.

- Trúng phong mất tiếng không nói được, giãn trùng cơ bắp, không điều khiển được tay chân, trước hết cứu Thiên song 50 mồi, tý nữa lại chuyển cứu Bách hội 50 mồi, song lại cứu Thiên song 50 mồi. Nếu bắt đầu cứu Bách hội trước thì phong khí không tiết ra được, công vào trong ngũ tạng, dễ bí phục lại vẫn mất tiếng. Do đó trước lấy Thiên song, sau lấy Bách hội thì tốt, một lần cứu 50 mồi, tiết hết sức nóng của huyệt (hỏa thế), xem bệnh nhẹ hay nặng thì một chỗ là 300 mồi. Đại lược là phàm trúng phong, uống thuốc mà nặng thêm, chỉ cần các huyệt phong, tất cả đều cứu 3 mồi không thể không khỏi, rất thần! Lại có thể chữa bệnh tự nhiên muốn chết, không nói được, chữa Phế trúng phong không nói được.

 “Sào Thi” nói: Tỳ mạnh nối sang Vị ở sát cạnh họng liền với cuống lưỡi, tản ra dưới lưỡi, Tâm Tỳ bị phong và làm cho lưỡi cứng không nói được (cân của tâm dương gom lạc vào hàm má, kẹp lấy mồm, hư dương là chỗ phong hàn ở “khách” nhờ thì cân co, làm cho miệng mím không mở).

- Tự nhiên trúng gió miệng mím không mở, cứu Cơ quan (“Thiên Kim Dực” tên là Giáp xa) 2 huyệt, huyệt ở tại dưới tai 8 phân, lui về phía trước một ít, cứu 5 mồi thì nói được. Lại cứu theo số tuổi.

- Trị tự nhiên trúng gió, miệng lệch, lấy ống vi (cỏ đã cao lớn) dài 5 thốn, một đầu thọc vào trong lỗ tai, 4 bờ lấy các thứ dán kín không cho thoát hơi, đầu ngoài đặt mồi Ngải to bằng hạt đậu, cứu 7 mồi thì khỏi. Bị bên phải cứu bên trái, bị bên trái cứu bên phải (“Thiên Kim” không truyền, bệnh chi cũng cứu như vậy).

- Trúng gió cứu Mạch giao ở tay 3 mồi, trái cứu phải, phải cứu trái, mồi như phân chuột, để nằm ngang đốt hai đầu.

- Miệng méo chích huyệt Thừa khấp (xem: Khuâng mắt).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 23, 2018, 04:10:12 PM
26. Phong một bên người (Thiên phong, thiên khô, bán thân bất toại)

- Liệt khuyết: Trị phong một bên, miệng méo cổ tay yếu (“Minh hạ” ghi là Uyển lao) liệt nửa người, ho hắng, trong lòng bàn tay nóng, mắt nhắm không mở “Đồng”.

- Hạ quan: Trị phong một bên, miệng mắt méo, hàm răng lòi ra trắng.

- Thượng quan: Trị phong một bên, miệng mắt méo (“Minh” nói: Mắt méo khắp cả con ngươi), trong tai như có tiếng đàn (“Minh” giống thế).

- Hoàn cốt: Trị phong một bên, miệng mắt méo, cổ gáy đau không thể quay được, nước đái vàng đỏ, hầu bại, má sưng.

- Thừa tương: Chữa phong một bên, miệng méo, mặt sưng. (“Minh” giống thế).

- Xung dương (xem: Miệng méo), Địa thương: Trị phong một bên, miệng méo.

- Nghinh hương: Trị phong một bên, miệng méo, mặt ngứa, phù thũng, phong động rầm rầm, giun bò, môi sưng đau (“Minh” giống thế).

- Hoàn khiêu: Trị phong lạnh thấp bại, phong nổi nốt nhỏ, lẩn mẩn (chẩn) lưng và háng đau, không vặn mình được (“Minh hạ” giống thế).

- Kiên ngung: Trị phong một bên, bán thân bất toại, nhiệt phong có nốt mẩn (ẩn chẩn) cánh tay cong co (“Minh” nói: Tay không giơ lên đầu được), cánh tay bé, không có sức, gân cốt buốt đau, nên cứu phong lệch một bên, có thể tới 49 mồi, không nên nhiều quá.

- Khúc trì: Chữa phong một bên, bán thân bất toại, chích phong nổi mẩn, đau lạnh, thịt nhẽo ra không cầm được vật gì, mạch phong khuỷu tay bé không có sức.

- Dương lăng tuyền, Hoàn khiêu (xem: Đau gối), Khúc trì: Phong một bên, bán thân bất toại (“Minh hạ” giống thế).

- Hạ côn lôn (xem: Lưng chân), Ủy trung: Chữa bán thân bất toại “Minh”.

- Địa thương (xem: Méo mồm), Thừa sơn (xem: Chân yếu), Thượng liêm (xem: Cước khí), Hạ liêm (xem: Thấp bại) chữa phong một bên.

- Âm kiều: Chữa tay chân khô một bên (xem: Kinh nguyệt).

- Ổi thoái phong, bán thân bất toại, mất tiếng, cứu Bách hội (“Thiên” xem: Trúng gió mất tiếng).

- Bán thân bất toại, trai gái đều có bệnh đó, nhưng nam kỵ nhất là bên trái, nữ kỵ nhất bên phải. Nếu bị nạn đó rồi, thuốc phong không nên thiếu, dù là thời gian ngắn, thường làm cho trên người có nốt bỏng cứu cũng được. Tối kỵ phòng sự, hoặc có thể tu dưỡng như đạo Phật (Thích), mới có thể giữ cho toàn vẹn. Nếu cứu thì đáng cứu trước là Bách hội, Tín hội, thứ là Phong trì, Kiên ngung, Khúc trì, Hợp cốc, Hoàn khiêu, Tam lý, Tuyệt cốt, chẳng cần câu nệ theo kinh sách cũ nói là bệnh bên trái cứu bên phải, bệnh bên phải thì cứu bên trái, chỉ cần ấn chỗ nào đau đớn thì cứu ở đó, nếu như cứu hai bên cũng tốt, nhưng cần cứu từ trên xuống.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 24, 2018, 10:30:07 AM
27. Đờm dãi

- Cự khuyết: Trị bệnh nhiệt trong ngực, đàm ẩm (đờm do ăn uống), bụng trướng đau, hoảng hốt, không biết người “Đồng”.

- Thông cốc: Trị kết tích, lưu ẩm, đầy, tức ngực, ăn không hóa.

- Bất dung: Chữa đàm tích.

- Thiếu xung: Trị đàm lạnh (xem: Thương hàn).

- Suất cốc: Trị ở cách và dạ dày có đàm lạnh, rượu làm hại mà phát phong hàn làm cho hai bên góc não đau mạnh, không thể ăn uống, bứt dứt, đầy tức, mửa không dứt.

- Phù bạch: Trị đờm bọt đầy tức ở trong ngực, không thể thở, suyễn.

- Bản thần: Trị điên tật, mửa ra đờm dãi.

- Ty trúc không: Trị đờm dãi.

- Âm cốc: Trị đàm ở dưới (xem: Đau đầu gối).

- Cách du: Chữa đàm ẩm, ra mồ hôi, nóng rét, đau xương, hư trướng, đầy tức, đàm ngược (xem: Sốt rét “Minh”).

- Đảm du: Chữa đàm nôn, buồn bằn khó chịu (xem: Tâm trướng).

- Thượng quản: Chữa đờm nhiều, mửa ra dãi (“Hạ” xem: Mửa).

- Thông cốc: Kết tích, lưu ẩm (cứu).

- Hạ liêm: Trị dãi ra không biết (“Đồng” xem: Ỉa như cháo loãng).

- Thiếu hải (“M inh” giống thế), Lệ đoài (“Hạ” giống thế), Bản thần: Trị mửa ra bọt (xem: Điên cuồng).

- Ty trúc không, Thông cốc, Thương khâu: Chủ nôn ra nước bọt (“Thiên” xem: Điên giản).

- Lệ đoài: Chủ nôn ra nước bọt (xem: Phong giản).

- Ôn lưu: Trị nôn ra dãi (“Đồng” xem: Điên cuồng).

- Thượng quan: Trị nước bọt chảy ra (xem: Co giật).

- Lư tín: Trị trẻ em mửa ra bọt (xem: Co giật).

- Húc trung, Vân môn: Chủ dãi ra, hay nhổ vặt “Thiên”.

- KHố phòng: Chủ hay nhổ nước bọt (xem thêm: Khí đưa lên).

- Liêm tuyền: Tri nôn ra bọt (“Đồng” xem khí đẩy lên) (“Minh” nói: Chữa thở suyễn, nôn ra bọt (xem: Ít hơi).

* Chứng đờm dãi không phải chỉ có một là đủ, chỉ lao phổi có đờm là khó chữa, rất nên cứu huyệt Cao hoang du.

* Phàm người có nạn thủy, cứu Thủy chủ, loại bệnh mùa hè, trong miệng đầy nước “Kinh”. (“Nội kinh” nói rằng: Phế lai thừa Thận). Sau khi ăn mửa ra nước bọt, có thể cứu Phế du, lại cứu Tam âm giao, Kỳ môn, tả Phế bổ Thận, số mồi theo tuổi. Như vậy là đờm dãi có loại đó, lại đúng như phép đó, mà cứu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 24, 2018, 11:20:37 AM
28. Nhổ ra máu – Thóa huyết (Nôn ra máu, mửa ra máu)

- Phàm hư tổn bên trong (lại vết thương), nhổ ra máu, lấy Địa ngũ hội chủ chứng đó (“Đồng” giống thế), châm vào 3 phân, đặc biệt kỵ cứu “Thiên”.

- Phàm nhổ ra máu, tả Ngư tế, bổ Xích trạch.

- Nhiên cốc: Chủ ho, nhổ ra máu.

- Đại uyên (“Minh hạ” xem: Vị)., Thần môn: Chủ nhổ bọt có máu, rét run, nôn ra máu, hơi dấy lên.

- Hung đường, Thủ tâm, Tỳ du, Giản sử, Vị quản, Thiên khu, Can du, Ngư tế, Lao cung, Kiên du, Đại khê: Chủ nhổ ra máu, mửa ra máu.

- Tâm du, Can du, Khuyết bồn, Cự khuyết, Cưu vỹ: Chủ ho nhổ ra máu.

- Khố phòng, Trung phủ, Chu vinh, Xích trạch: Chủ ho nghịch, thở hít khí lên thường nhổ bọt đục và có máu mủ.

- Thượng quản (“Minh hạ” giống thế), Bất dung, Đại lăng: Chủ nôn ra máu.

- Khích môn: Chủ nôn ra máu, chảy máu mũi.

- Hành gian: Chủ ngắn hơi, nôn ra máu, ngực và lưng trên đau.

- Thái xung: Chủ sắc mặt và môi trắng, thỉnh thoảng lại nôn ra máu, con gái ra máu ri rỉ.

- Thủ thiếu âm khước: Chủ nôn ra máu.

- Tam lý: Chủ trong ngực ứ máu, đầy tức sườn, hoành cách đau, không thể đứng được lâu, đầu gối yếu lạnh.

- Thượng quản: Chủ đau vùng tim dưới cách, nôn ra máu.

- Bất dung: Chủ nôn ra máu, vai và sườn khô đau, miệng khô, tim đau cùng dẫn sang lưng trên đau, không thể ho, ho thì đau dẫn xuống thận.

- Thái uyên: Chủ nhổ bọt có máu, rét run, cuống họng khô.

- Đại lăng và Khích môn: Chủ mửa ra máu.

- Thần môn: Chủ nôn ra máu, khí đẩy lên.

- Hư lao, mửa ra máu, cứu Vị quản 300 mồi, cũng chủ lao, nôn nghịch, mửa ra máu, ăn ít, hay ho, hay nhổ bọt.

- Mửa ra máu cứu Hung đường 100 mồi, không châm.

- Mửa ra máu, bụng kêu như sấm, bụng đau, cứu Thiên khu 100 mồi.

- Mửa ra máu, nhổ ra máu, khí dấy lên ho nghịch, cứu Phế du số mồi theo tuổi.

- Mửa ra máu, buốt rát (như bị lột da) cứu Can du 100 mồi.

- Mửa ra máu, nôn ngược, cứu giữa lòng bàn tay 50 mồi (“Thiên Kim Dực” cứu Đại lăng).

- Phàm miệng mũi ra máu không dứt tên là Não nục, cứu Thượng tinh 50 mồi.

- Chiên trung: Trị nhổ ra mủ (“Đông” xem: Phế khí).

- Can du (xem: Ho nghịch), Thừa mãn (xem: Bụng trướng), Kiên trung du (xem: Hắng dặng) trị nhổ ra máu.

- Đại chung (xem: Lậu), Nhiên cốc, Tâm du (xem: cuồng chạy) chữa ho, nhổ ra máu.

- Thiên đột: Trị “lạc” nhổ ra máu mủ (xem: Phế).

- Khố phòng: Trị nhổ nước bọt đục và máu mủ (xem: Ngực, sườn đầy tức).

- Ốc ế: Chữa nhiều nước bọt đục và máu mủ (xem: Đờm).

- Cự khuyết: Chữa thở như võ sỹ, có khi nhổ ra máu (“Minh hạ” nói: Chữa nôn ra máu, tim buồn bằn).

- Thái uyên (xem: Đau tim), Thần môn (xem: Tim buồn bằn), Hành gian, Thái xung, Ngư tế: Chữa nôn ra máu.

- Khúc tuyền: Chữa nghịch khí nôn ra máu.

- Ngũ lý: Chữa mửa ra máu (Phong lao).

- Thái khê: Trị họng sưng, nhổ ra máu (cả “Đồng” và “Minh hạ” đều ghi: Chữa nhổ ra máu và nục huyết không dứt).

- Cự cốt: Chữa kinh giản, phá tâm, mửa ra máu “Minh”.

- Ngư tế: Chữa mửa ra máu, nhổ ra máu.

- Can du (xem: Trúng gió), Tử cung (xem: Nhổ bọt), Thạch môn (xem: Ho nghịch) chữa mửa ra máu.

- Khổng tối: Chữa thổ huyết, mất tiếng, sưng đau, Khúc trạch: Chữa đau tim, xuất huyết, nôn ra máu (xem: Tim bứt dứt), Phế du: Chữa chứng nhổ ra máu “Thiên”.

- Thừa mãn: Chữa cách khí mửa ra máu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 25, 2018, 09:57:49 AM
29. Suyễn – Hen (xem thêm: Ho hắng)

- Côn lôn: Chủ bụng đau đầy tức nhanh mạnh “Thiên”.

- Côn lôn: Chủ ho suyễn, đầy tức nhanh mạnh “Đồng”.

- Tam gian: Trị khí suyễn (xem: Ngược).

- Thần môn (xem: Tim bứt dứt), Ý xá: Trị suyễn nghịch (xem: Vai, lưng trên đau).

- Bất dung: Trị ho hen (xem: Huyễn tích).

- Thương dương: Trị ho hen, sưng các khe sườn (xem: Tức ngực) (“Minh hạ” nói: Ngực cách đầy, khí suyễn tức cấp).

- Đai chung: Trị ngực trướng thở suyễn (xem: Lậu).

- Kỳ môn: Trị suyễn to, không nằm được.

- Du phủ: Trị ho nghịch lên và suyễn (“Thừa” nói: Giống thế).

- Húc trung: Trị ho nghịch (“Minh hạ” gọi là hắng, tức là khái và thấu, khái là ho và thấu là hắng, ngày xưa có tiếng mà không có đờm là ho, có đờm mà không có tiếng là hắng, hen không ăn được (xem: Ngực sườn đầy tức).

- Thiên phủ: Trị khí nghịch, suyễn không thở được.

- Vân môn (xem: Ngực đầy tức), Nhân nghinh (xem: Ỉa mửa), Thần tàng: Trị ho nghịch, suyễn không thở được (“Minh” giống thế).

- Khí hộ: Chữa suyễn nghịch, khí lên.

- Bộ lang: Chữa thở suyễn không giơ tay lên được.

- Túc lâm khấp (xem: Kinh nguyệt) trị suyễn.

- Phách hộ, Trung phủ: Chủ suyễn khí cùng đuổi sau nhau (trung trục). “Thiên”.

- Thiên đột, Hoa cái: Chủ suyễn nhanh mạnh.

- Du phủ, Thần tàng:Chủ suyễn, không thở được.

- Thiên dung: Chủ suyễn, nôn ra nước bọt.

- Khúc trạch: Chủ ho suyễn (xem thêm: Khí lên).

- Lư tức: Chữa trẻ em giản, suyễn, không thở được, tai điếc “Minh”.

- Phách hộ: Chữa ho ngược lên mà suyễn (xem: Lưng trên đau).

- Phù bạch: Chữa suyễn không thở được (xem: Ho nghịch).

- Kinh cừ: Chữa lòng bàn tay nóng, sinh ho ngược khí lên, nhiều lần suyễn, bệnh nhiệt lâu ngày mồ hôi không ra, đơn (những nốt đỏ) nổi nhanh mạnh, suyễn nghịch đau vùng tim, muốn nôn.

- Trung phủ: (xem: Phế khí), Phách hộ: (xem: Đau lưng, Lặc đường: Chữa suyễn nghịch “Hạ”.

- Toàn cơ: Chữa ho ngược lên mà suyễn, trong hầu kêu.

- Tam gian: Chữa thương hàn khí nhiệt, mình nóng mà suyễn.

- Thiên đột: Chữa ho nghịch khí, suyễn “Hạ”.

- Phế du: Chữa Phế suyễn.

- Giải khê: Chữa suyễn thở gấp.

- Ngư tế: Chữa ho suyễn “Minh”.

- Chiên trung: Chữa ho hắng suyễn lên.

- Thủy đột: Trị suyễn thở không được.

- Phù đột: Chữa suyễn thở như gà nước kêu (xem thêm: Khí lên).

- Đầu duy: Chủ suyễn nghịch, đầy tức khó chịu, nôn nước bọt, chảy mồ hôi “Thiên”.

- Phế du (“Minh hạ” xem: Phế), Thận du: Chủ ho suyễn và 100 thứ bệnh hơi.

- Du phủ, Thần tàng: (xem: Khí lên), Thiên phủ: Chủ khí lên, suyễn không thở được.

- Phù đột: Chủ trong họng suyễn kêu.

- Thiên đột, Hoa cái: Trị suyễn nhanh mạnh.

- Thủy tuyền: Chủ ho ngược, ngực tức, suyễn không thở được.

- Kỳ môn: Chủ suyễn nghịch, nằm chẳng yên chỗ, dưới sườn tích tụ.

- Kinh cừ: Chủ ho ngược, khí lên mà suyễn, trong lòng bàn tay nóng.

- Thiếu thương, Đai lăng:Chủ ho nghịch, suyễn.

- Khúc trạch: Ho hen, chích ra máu thì khỏi ngay.

- Đại lăng: Chủ suyễn.

- Thiên phủ: Chủ suyễn không thở được.

- Liêm tuyền: Trị thở suyễn, Ngư tế: Chữa suyễn (xem: Nóng rét).

- Có người sang trọng bị nạn suyễn đã lâu, đêm nằm không được phải dậy mà đi. Mùa hè cũng áo giáp ở lưng và tim, tôi biết là bệnh Cao hoang, bảo cứu Cao hoang du mà khỏi.

 Cũng có người suyễn nhanh mạnh, tôi biết là đàm vướng, bảo lấy 7 – 8 đồng Hậu phác giã nhỏ, lấy 7 lát gừng, 1 bát con nước, sắc còn 7 phần uống, bã sắc lại uống không quá mấy lần mà khỏi.

 Nếu như không do đàm mà suyễn, thường cứu Phế du. Phàm có suyễn mà thở to là ẩn Phế du, không thể không có đau buốt, đều là nhầm mà châm Phế du, bảo cứu là khỏi.

 Cũng có trường hợp chỉ nhầm châm Phế du, không cứu mà cũng khỏi, vì bệnh đó có nông sâu.

 Em tôi leo núi, vì mưa phải chạy, một đêm khí muộn (buồn bằn, bứt dứt), mấy cũng không cầu cứu, khi thấy con bọ em út liền khóc, có ý muốn khác biệt, tôi nghĩ có “tâm bi”, lấy kim châm Bách hội, không khỏi, ấn vào Phế du, em tôi nói là đau như dùi đâm. Lấy hỏa chích nhẹ vào là khỏi ngay. Do đó cũng chữa người suyễn, thở to, chỉ nhằm chỗ Phế du mà không nhằm chỗ các huyệt khác. Riêng ấn Phế du không có đau buốt, sau đó mới điểm các huyệt khác là như thế.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2018, 09:01:19 AM
30. Phế khí – Phế phong

- Phế chứng, khí thương, dưới sườn đau nóng, cứu Âm đô, số mồi theo tuổi.

- Phế trướng, đầy tức sườn và bệnh nôn mửa, khí dâng lên, cứu Đại chùy và trên hai vú, ở khe sườn thứ 3, mỗi chỗ đều 7 mồi, Phế và Đại trường đều thực.

- Trung phủ: Chủ Phế nóng rét (xem: Khí lên).

- Chiên trung: Trị phế khí ho hắng, suyễn lên, nhổ ra mủ, không ăn được, trong ngực như tắc “Đồng”.

- Thiên đột: Trị phế ung, nhổ ra máu mủ, họng khô, dưới lưỡi co, hầu sinh mụn lở.

- Trung phủ: Trị ngực đau râm ran, đảm nhiệt, nôn nghịch  khí lên, ho nhổ bọt, nước mũi ra đục. Lưng, bả vai đau, phong ra mồ hôi, bụng trướng, ăn không xuống. “Minh hạ” nói: Phế cấp, tức ngực, ho nghịch, nhổ ra nước bọt đục, hay ợ, da đau.

- Thái uyên: Trị Phế trướng đầy, căng như trống (“Minh hạ” nói: Chữa trong ngực khí đầy không nằm được).

- Phế du: Chữa phế nóng rét, phế yếu, suyễn lên, ho hắng ra máu, ngực sườn đầy tức, không nằm được, không muốn ăn, mồ hôi không ra, lưng trên cứng nhanh chóng “Minh hạ”.

- Phàm phế có phong khí yếu tuyệt, tứ chi trướng đầy, tức, ho ngược, tức ngực, cứu Phế du mỗi chỗ 200 mồi.

- Thủy câu: Chữa mặt sưng, môi động rung rinh, phế phong, giống như giun bò. “Minh”.

- Phong trì: Chữa phế phong  (xem: Mặt sưng).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2018, 09:51:19 AM
31. Ho hắng (xem thêm: Ho nghịch)

- Tam lý: Chủ ho hắng, hay nhổ “Thiên”.

- Khuyết bồn, Chiên trung, Cự khuyết: Chủ ho hắng.

- Ngư tế: Chủ ho hắng, hen (xem: Nóng rét) lại chữa phế, tâm đau, ho dẫn vào trong xương cụt, vãi nước đái ra “Minh”.

- Phế du: Chữa phế đằng hắng (xem: Truyền thi).

- Thiếu trạch, Tâm du: (xem: Đau tim), Khố phòng: chữa ho hắng (xem: Khí nghịch).

- Thiên đột: Chữa ho hắng, ợ hơi lên, khí ở trong TTTg ngực, trong hầu như có tiếng nước.

- Liêm tuyền: Chữa ho hắng, ít hơi.

- Chiên trung: Chữa ho hắng, hơi lên, “Hạ” nói: Chữa ho hắng ngắn hơi  (xem: Phế ung).

- Kinh cừ: Chữa khí lên, ho hắng, trong ngực đầy hơi, hầu kêu, tứ chi không giơ lên được, dưới nách sưng “Hạ”.

- Giải khê: Chữa khí lên, ho hắng, suyễn, thở gấp, trong bụng tích khí đi lên đi xuống.

- Ngư tế, Liệt khuyết, Thiếu trạch (xem: Co giật), Khuyết bồn: Trị ho hắng “Đồng”.

- Xích trạch: Trị ho hắng, nhổ bọt đục (xem: Hầu, vai).

- Kiên trung du: Trị ho hắng, khí lên, nhổ ra máu.

- Đại trữ: Trị phong lao khí, ho hắng (xem: Phong lao).

- Phong môn: Trị suyễn khí, nằm không yên (xem: Phong lao).

- Phế du: Trị phế yếu, ho hắng (xem: Lao khái).

- Chiên trung: Trị phế khí, ho hắng (xem: Phế khí).

- Dũng tuyền: Trị đàn bà không có con, ho hắng, mình nóng “Minh hạ” ho hắng, ngắn hơi.

- Tiền cốc: Chữa ho hắng, ra máu cam, gáy cổ cứng.

- Thái khê: Trị choáng váng, tập quán ho hắng.

- Không muốn ăn, khí lên ho hắng, cứu Phế mô 50 mồi (“Thiên” xem: Khí lên).

- Hắng, cứu ở đầu xương vê tròn, ngoài nếp gấp ngang, phía trong khi gấp cánh tay, ấn có đau, cứu 14 mồi thì khỏi.

- Hắng, cứu ở dưới vú, chỗ đen trắng chia rõ ràng, mỗi chỗ 100 mồi, khỏi ngay, lại lấy cỏ Bồ (…) ở ngang đầu vú vòng tròn xung quanh, vây lấy thân mình, làm cho trước sau ngang nhau, đúng chỗ xương sống giãn ra, cứu 14 mồi…

- Liêm tuyền, Thiên tỉnh (xem thêm: Khí lên), Thái uyên: Trị ho hắng (“Đồng” xem: Không ngủ được).

- Hắng lâu dài rất nên cứu huyệt Cao hoang, thứ nữa thì nên cứu huyệt Phế du, tất cả theo chứng mà chữa, nếu hắng mạnh nhanh thì không cần phái cứu.

 * Có một người con trai, tự nhiên khí không ra dứt tiếng mấy ngày rồi, lấy tay ấn ở huyệt Chiên trung, thấy ứng, lại lấy kim lạnh châm nhanh mà khỏi. Bệnh mới không cần cứu sao mà thần như thế.

 “Thiên dực” 12 loại phong, phong nhập Phế thì ho nghịch lên mà ngắn hơi, lại có ho do Can thì châm Thái xung, ho do Tâm châm Thần môn, ho do Tỳ châm Thái bạch, Phế ho thì châm Thái uyên, Thận ho thì châm Thái khê, Đảm ho thì châm Dương lăng tuyền, lại lấy huyệt chỗ mỏm gai đốt thứ 5, trên mỏm gai đốt thứ 6, cứu số mồi theo tuổi (kiêm chủ khí lên).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2018, 10:27:46 AM
32. Ho ngược lên (Khái nghịch)

- Nhiên cốc, Thiên tuyền, Mãn cốc, Hung đường, Chướng môn, Khúc tuyền, Thiên đột, Vân môn, Phế du, Lâm khấp, Kiên tỉnh, Phong môn, Hành gian: Chủ ho nghịch “Thiên”.

- Duy đạo: Chủ ho ngược không dứt..

- Đai lăng: Chủ ho ngược, phát nóng rét.

- Đại lăng, Thiếu thương: Chủ ho ngược, suyễn.

- Đại tuyền: Chủ ho ngược, tức ngực, suyễn không thở được “Minh hạ” giống thế.

- Tam lý: Chủ ho ngược, hay mửa.

- Trung phủ: Chủ phế ho cấp, ho phía trước ngực đau.

- Tiền cốc: Chủ ho mà tức ngực.

- kinh cừ, Hành gian: Chủ hay ho.

- Hiệp bạch: Chủ ho, nôn khan, bứt dứt, đầy tức.

- Chi câu: Chủ ho, mặt đỏ mà nóng.

- Ho, thở, ợ, hay ho, khí không có chỗ ra, trước lấy Tam lý, sau lấy Thái bạch, Chướng môn “Thiên”.

- Khổng tối, Thiên tuyền (xem: Tim đau), Thái khê, Hành gian, Du phủ (xem: Suyễn), Thần phong (xem: Hay ợ), Phù bạch Chữa ho nghịch “Đồng”.

- Can du: Trị ho dẫn hai bên sườn đau gấp, không thở được, xoay sang bên khó khăn, dưới sườn và cột sống cùng dẫn mà gập ngược lại, mắt nhìn lên, mắt hoa, từ mi mắt đến đầu đau. Động kinh, cuồng, chảy máu cam, khỏi bệnh thì mắt mờ mờ, mắt sinh màng trắng, ho dẫn vào trong ngực đau, hàn sán, đau bụng dưới, nhổ ra máu, ngắn hơi (“Minh hạ” nói: Chữa ho nghịch, hai bên sườn tức bứt dứt).

- Ngư tế: Chữa ho đau dẫn vào xương cụt.

- Khiếu âm: Chữa sườn đau, ho ngược lên không thở được.

- Phù bạch: Chữa ho nghịch, sán tích, tức ngực, suyễn không thở được, ngực có lao “Minh”.

- Thái uyên: Chữa ho ngược, tim bứt dứt, không nằm được “Hạ”.

- Phép chữa ho ngược lên lâu ngày, dưới vú hơn một bề ngang ngón tay, ở trong khe lõm gian sườn thẳng ngang với vú. Đàn bà thì gập đầu vú lại làm mức đo, ngang đầu vú là huyệt, mồi lớn hơn hạt đậu xanh một ít, cứu 3 mồi, trai thì bên trái, gái thì bên phải, chỉ một chỗ, lửa đến thịt là khỏi ngay.

 “Lương phương” nói: Trong dòng họ có hoắc loạn, mửa, lị, tự nhiên phát ho nghịch dồn lên đến chỗ nguy hiểm. Với Phu Đình Trần Trung dụ bệnh thương hàn, ho nghịch dữ dội, khí đã chẳng cùng loại, đều cứu một cách mà khỏi.

 Phàm thương hàn và bệnh lâu ngày mà bị ho ngược lên đều là chứng ác, đổ thuốc mà không khỏi, cứu tất sẽ khỏi. Nếu không khỏi thì thường không cầu. (“Tất dụng phương” nói: Hạ là khắc nghịch, xem: Nôn ụa).

- Bệnh ho có 10 thứ: Ho phong, ho hàn, ho chi, ho cảm, ho quyết âm cùng với ngũ tạng. “Thiên kim” chép”: Phép châm rõ ràng, mà ho do thương hàn cũng là ác chứng. “Thí mật” nói: Giảm Tân Nhân bệnh thương hàn mà ho dữ, thầy thuốc bảo cùng sự khéo, phép càng làm thì nghiệm, cứu kinh ở dưới kết hầu, cứu 3 mồi thì khỏi. Đó là huyệt Thiên đột vậy. Thần thay! Thần thay!


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 29, 2018, 10:42:10 AM
33. Ho ngược khí lên (Khái nghịch thượng khí)

- Phách hộ, Ý xá, Y hy, kỳ môn: Gập cánh tay phải trên xương cạnh ngoài nếp gấp ngang giữa: Cảm, ho, ngược khí lên “Thiên”.

- Thiên dung: Chủ ho ngược khí lên, thở suyễn nôn ra nước bọt.

- Phách hộ, Trung phủ: Chủ phế hàn nhiệt, thở hít, không nằm được, ho ngược khí lên, nôn ra nước bọt, suyễn khí cùng nối đuổi theo nhau.

- Thiên đột, Hoa cái: (“Minh” nói: Suyễn không thể nói được) Chủ ho ngược khí lên, suyễn nhanh mạnh.

- Du phủ: (“Minh hạ” giống thế), Thần tàng: Chủ ho ngược khí lên, suyễn không thở được.

- Kinh cừ: Chủ ho ngược khí lên, suyễn, trong lòng bàn tay nóng.

- Phù đột: Chủ hô ngược khí lên, trong họng suyễn kêu.

- Khúc trạch: Ho suyễn, xuất huyết hết ngay, tự nhiên ho ngược khí lên.

- Tử cung, Ngọc đường, Thái khê: Chủ ho ngược khí lên, tim bứt dứt (“Minh” nói: Tử cung, Ngọc đường: Chủ ho ngược).

- Húc trung, Thạch môn: Chủ ho ngược khí lên, dãi ra, hay nhổ bọt vặt, thở  khí suyễn, hồi hộp, ngồi không yên chỗ.

- Khố phòng, Trung phủ, Chu vinh, Xích trạch: Chủ ho ngược khí lên, hay nhổ nước bọt đục và có máu mủ.

- Khí xá: Trị ho nghịch khí lên, có bướu ở cổ, hầu bại, họng sưng, cổ gáy cứng “Đồng”.

- Thủy đột: Trị ho ngược khí lên, hầu họng sưng ung, thở hít ngắn hơi, suyễn thở được.

- Quyết âm du: Trị nghịch khí nôn mửa, tim đau lưu kết, trong ngực phiền muộn.

- Phù đột: Trị hay ho, nhổ nước bọt, khí lên, thở suyễn, hầu như tiếng cuốc kêu (Thủy kê).

- Phách hộ: Trị bả vai và cánh tay đau, ho ngược khí lên, nôn mửa, buồn bằn bứt dứt.

- Khố phòng (xem: Sườn ngực tức tối), Ốc ế (xem: Nhổ ra máu).

- Cao hoang du: Chữa khí lên, ho nghịch (xem:Lao khái).

- Thiên đột: Trị ho ngược khí lên, ợ khí trong ngực, trong hầu như có tiếng cuốc kêu (Thủy kê). “Hạ” nói: Trong ngực khí vương vướng như hóc xương cá.

- Thiên khê (xem: Bệnh ngực), Trung phủ: Chủ nôn ngược khí lên (xem: Phế khí).

- Khí hải: Trị các bệnh về khí “Minh hạ” nói: Chữa khí của tạng công lên.

- Kinh cừ: Chữa ho hắng, khí lên nhiều lần không đủ.

- U môn: Trị khí nghịch, ho, con gái khí nghịch.

- Ngư tế: Chữa ngắn hơi, tim bại, buồn cáu, nghịch khí, cuồng lạ, Vị khí nghịch lên “Minh”.

- Kiến lý: Chữa nôn mửa, khí lên, tim đau, mình sưng.

- Quyết âm du: Chữa khí nghịch, nôn ngược, răng đau, lưu kết đầy tức ngực.

- Thạch môn: Chữa mình nóng rét, no nghịch khí lên, nôn mửa ra máu “Hạ”.

- Khố phòng: Chữa ngực sườn đấy tức, ho ngược khí lên, thở ra hít vào không đẫy nhịp.

- Kiến lý: Chữa nôn ngược khí lên.

- Khí hộ: Trị suyễn nghịch khí lên (xem: Hắng).

 * Phàm có khí lên, thường uống thuốc cũng khỏi được, cũng có châm cứu mà trừ được.

- Khí lên, ho hắng,ngắn hơi, khí đầy ăn không xuống, cứu Phế mô 50 mồi.

- Khí lên, ho ngược ngắn hơi, trăm thứ bệnh phong lao, cứu Kiên tỉnh 200 mồi.

- Khí lên, ngắn hơi, ho nghịch, ngực và bả vai đau, cứu Phong môn, Nhiệt phủ 100 mồi.

- Khí lên, ho ngược, ngắn hơi, tức ngực thường nhổ bọt, đờm lạnh rất lắm (ác lãnh đờm) cứu Phế du 50 mồi.

- Khí lên, khí bế, họng lạnh, ho ngược, vỡ tiếng, trong hầu nghi ngại? cứu Thiên cù 50 mồi.

- Khí lên, tức ngực, ngắn hơi, ho ngược, cứu Vân môn 50 mồi.

- Khí lên, ho ngược, ngực bại, bả vai đau cứu Hung đường 100 mồi  (ông châm).

- Khí lên, ho ngược, cứu Chiên trung 50 mồi.

- Khí lên, ho ngược, tức ngực, ngắn hơi, kéo lên bả vai đau, cứu Cự khuyết, Kỳ môn mỗi chỗ 50 mồi.

- Khí nghịch, hư lao, hàn tổn, buồn tủi, gân xương co đau, trong tim ho ngược, đi ỉa, đầy bụng, hầu bại, cổ gáy cứng. Trĩ, khí nghịch, trĩ có máu, âm bộ đau buốt gấp, mũi chảy máu, xương đau, đái ỉa vướng rít, trong mũi khô, buồn bằn, bứt dứt, chạy cuồng, khí lạ, gồm 22 bệnh đều cứu Tuyệt cốt 50 mồi.

- Phàm khí lên phát lạnh, trong bụng kêu như sấm, không ăn được, nôn ngược cứu Thái xung không hạn chế số mồi, đau cứu đến hết đau thì dừng.

- Khí lên, quyết nghịch cứu Hung đường 100 mồi, huyệt ở giữa hai vú (Chiên trung).

- Nôn mửa, khí lên cứu Xích trạch 3 hoặc 7 mồi.

- Kiên du: Chủ khí lên.

- Thiên phủ: Chủ khí lên, suyễn không thở được.

- Thiên trì: Chủ khí lên, hầu kêu.

- Dương khí đại nghịch, ứ lên đầy tức trong ngực, buồn bằn đúng ở vai khi thở, suyễn kêu, ngồi phủ phục, không thở được, lấy Thiên dung.

- Khí lên đau ngực lấy Liêm tuyền (Giáp - Ất).

- Thiên tỉnh: Trị khí lên, ho hắng “Đồng”.

- Liêm tuyền: Trị ho hắng, khí lên, thở suyễn, nôn ra nước bọt.

- Phong môn: Trị ho ngược khí lên (xem: Phong lao).

- Phế du: Trị khí lên, nôn mửa, đầy tức (“Minh” có chép: Chữa cột sống cứng, nóng rét), không muốn ăn, mồ hôi không ra.

- Ngọc đường: Trị khí lên (xem: Tức ngực)

- Vân môn: Trị khí xung lên tim (xem: Tức ngực).

- Khí xung: Trị đại nhiệt trong ruột, không thể nằm yên, bụng có nghịch khí công lên, bụng trướng đầy quá mức.

- Vân môn: Chữa nôn ngược khí lên, ngực sườn đau thấu sang bả vai “Minh”.

- Thiên đột, Chiên trung, Thiên trì, Giải khê, Kiên trung du: Chữa ho hắng, khí lên (xem: Gặp cảm ho hắng).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 29, 2018, 11:16:07 AM
34. Ít hơi (thiếu khí, ngắn hơi, không có hơi, kết khí)

- Nhiên cốc: Trị suyễn thở ra ít hơi “Đồng”.

- Thượng liêm: Trị tạng khí (“Minh” nói: Đại trường khí không đủ).

- Tam lý: Trị vị khí không đủ.

- Khí hải: Trị tạng khí hư bại, chân khí bất túc, các bệnh khí lâu ngày không khỏi đều cứu ở đó.

- Thiếu phủ (xem: Lo buồn), Bàng quang du (xem: Đái đỏ).

- Thiếu xung (xem: Thương hàn), Bộ lang (xem: Ngực sườn đầy tức), Giản sử (xem: Cuồng), Thận du (xem: Lao khái), Đại chung (xem: Lậu) Trị ít hơi.

- Chí âm: Trị ít hơi, khó nói (xem: Nóng rét).

- Thần môn: Trị ít khí không đủ thở (xem: Tim bứt dứt).

- Tiểu trường du (xem: Cước khí), Ngư tế, Đại lăng (xem: Thương hàn không có mồ hôi), Can du: (xem: Ho nghịch) Trị ngắn hơi.

- Ưng song: Trị ngực tức, ngắn hơi.

- Hành gian: Trị điên tật ngắn hơi.

- Phàm tức ngực, ngắn hơi, không có mồ hôi đều châm bổ thủ Thái âm để ra mồ hôi “Thiên”.

- Dũng tuyền: Chủ ngắn hơi (xem: Không có con).

- Chiên trung, Hoa cái: Chủ ngắn hơi không thở được, không nói được.

- Bộ lang, Âm đô: Trên cách không thông, thở hít ngắn hơi, thở suyễn.

- Đại bao: Chủ đại khí không thở được.

- Liêm tuyền: Trị ho hắng, ngắn hơi thở suyễn, nôn ra nước bọt, cắn hàm răng.

- Phong môn: Chữa ngắn hơi không yên (xem: Phong lao).

- Can du: Chữa ngắn hơi, không ăn (xem: Trúng gió).

- Phục thỏ: Chữa bụng trướng ngắn hơi.

- Can du: Chữa ngắn hơi “Minh hạ”.

- Ngắn hơi: Cứu Kiên tỉnh 200 mồi (“Thiên” xem: khí lên).

- Ngắn hơi, không nói được cứu Thiên tỉnh 100 mồi, hoặc Đại chùy số mồi theo tuổi hoặc Phế du, Can du, Xích trạch số mồi theo tuổi hoặc 100 mồi, hoặc chỗ mạch giao nhau giữa ngón út và ngón thứ tư 7 mồi, hoặc đầu các ngón tay hợp lại là 10 mồi.

- Ít tuổi mà phòng sự nhiều, ngắn hơi, cứu đầu Cưu vỹ 50 mồi, lại cứu cách muối giữa rốn 14 mồi.

- Mất khí, cứu dưới mỏm gai đốt sống thứ hai, số mồi theo tuổi.

- Ngắn hơi cứu Cự khuyết (xem: Khí lên).

- Vân môn, Phong môn, Nhiệt phủ, Phế mộ (xem: Khí lên), Cự khuyết, Kỳ môn: Chủ ngắn hơi (xem: Đau tim).

- Cự khuyết, Giải khê, Nhiên cốc, Xích trạch: Chủ ít hơi (xem thêm: Đứng đau).

- Cự khuyết: Trị ít hơi “Đồng”.

- Đảm du: Chữa bụng trên trướng đầy, mửa ngược lên mà ngắn hơi, ăn khó xuống mà không tiêu “Minh”.

- Tim đau như dùi, dao đâm, khí kết, cứu Cách du 17 mồi “Thiên”.

- Khí kết cứu Thái thương 100 mồi (xem: Đau tim).

- Thông cốc: Trị kết tích lưu ẩm (“Đồng” xem: Đàm).

- Mọi bệnh ở tim và bụng trên, bụng rắn, tim bứt dứt, buồn lo khí kết, rét lạnh, thổ tả, đau tim ỉa mửa, ăn không tiêu, sôi ruột dễ ỉa, cứu Thái thương 100 mồi.

- Kết khí ở trong họng, chỗ châm và cứu không tới, cứu Hoang mộ số mồi theo tuổi “Thiên”.

- Trung quản: Trị tập quán rét kết khí “Đồng” cách kết (xem: Nôn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 30, 2018, 10:11:03 AM
35. Bôn đồn khí – Phục lương, tức bôn

- Phàm khí quyết nghịch lên, khí công vào dưới hai bên sườn, dưới tim đau tức, thở hổn hển muốn tuyệt, đó là khí bôn đồn, tức thì làm gấp thuốc nước để ngâm hai tay hai chân bệnh có thể hết “Thiên”.

- Bôn đồn: Sưng bụng, cứu Chướng môn 100 mồi.

- Bôn đồn: Cứu Khí hải 100 mồi, hoặc Kỳ môn hoặc Chướng môn 100 mồi.

- Bôn đồn làm thương tim không thở được, cứu Trung cực 50 mồi.

- Bôn đồn lên xuống trong bụng và lưng cùng dẫn đau, cứu Trung phủ 100 mồi.

- Bôn đồn lên xuống, cứu Tứ mãn từ 1 đến 7 mồi.

- Kỳ môn, Âm giao, Thạch môn chủ bôn đồn (xem: Không có con).

- Bôn đồn, bụng sưng, Chướng môn chủ chứng đó.

- Bôn đồn khí lên giữa bụng đau, ống dái sưng trước là dẫn vào thắt lưng, sau là dẫn vào bụng dưới, lưng và khớp hông. Đau não, rắn đau, dẫn xuống vào âm hộ, không đái được, hai hòn dái co lại, lấy Âm giao chủ trị cả “Giáp”.

- Chướng môn (“Đồng” giống thế), Thạch môn (“Minh hạ” giống thế).

- Âm giao: Chủ bôn đồn khí lên.

- Kỳ môn: Chủ bôn đồn lên xuống (“Đồng” giống thế, xem: Hoắc loạn).

- Trung cực: Chủ bôn đồn lên làm hại tâm, quá lắm thì không thở được.

- Thiên khu: Chủ bôn đồn, chướng sán.

- Quy lai: Chủ bôn đồn, trứng dái co lên vào bụng, đau dẫn vào ống dái.

- Thiên khu: Chủ sán khí, bứt dứt, buồn nôn, mặt sưng, bôn đồn “Giáp”.

- Quan nguyên, Trung cực: Chủ đàn bà bôn đồn thương tâm.

- Thượng quản: Chủ trong tim bứt dứt, bôn đồn khí trướng đầy tức, không ăn được “Đồng”.

- Trung quản: Trị do đọc sách khí bôn đồn công lên, phục lương ở dưới tim, giống như cái chén úp, rét tích, kết khí (“Minh” nói: Bôn đồn khí như bứt dứt, phục lương khí như chén úp).

- Quy lai: Chữa bụng dưới bôn đồn (“Thiên” nói: Chủ bôn đồn, xem thêm: Đau âm hộ).

- Trung cực: Trị bôn đồn thương tâm, quá lắm thì không thở được, hoảng hốt, ngất sửu (thi quyết).

- Quan nguyên: Chữa bôn đồn, khí rét vào bụng dưới (“Thiên” giống thế), có khi muốn nôn, đái ra máu, nước đái vàng, ỉa không dứt “Minh hạ”.

- Khí hải: Chữa bôn đồn bụng rắn (xem: Lao).

- Kỳ môn: Chủ bôn đồn (xem: Sản hậu).

- Khí huyệt: Chủ khí chạy lên xuống, dẫn đau sang cột sống và thắt lưng.

- Quan nguyên, Trung cực, Âm giao, Thạch môn, Tứ mãn (xem thêm: Không có con), Kỳ môn (xem: Tật sau đẻ): Chủ đàn bà bôn đồn.

- Thượng quản: Trị khí phục lương, giống như chén úp (“Đồng” “Minh” giống thế).

- Trung quản: Trị khí phục lương (xem: Ở trên).

- Kỳ môn, Khuyết bồn (xem: Tức ngực), Cưu vỹ (xem: Tim đau): Chủ tức bôn (tích ở Phế gọi là tức bôn, ở phía sau to như cái chén úp).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 30, 2018, 10:27:50 AM
36. Bệnh hòn, hạch (huyền tích)

- Cách du: Chữa hòn hạch, khí thành cục đau ở cách “Minh”.

- Trẻ em có hòn, cứu chỗ dưới vú 2 thốn đều 3 mồi “Thiên”.

- Tam âm giao: Trị hòn hạch, bụng rét, cạnh trong đầu gối và đùi đau, khí nghịch lên, khó đái “Đồng”.

- Cách du: Trị bệnh nhiệt, mồ hôi không ra, trong bụng chứa hòn, người chán nản, muốn nằm, tứ chi mệt mỏi, không muốn cử động, thân thường thấp (ẩm, nhớp nháp) không ăn được, ăn thì tim đau bại, chung quanh mình đều đau.

- Tỳ du: Trị hòn hạch tích tụ (xem: Bụng chướng).

- Trung quản: Trị rét tích, khí kết.

- Hạ quản: Chữa hòn cục (xem: Bụng đau) “Minh” nói: Chữa bụng rất cứng, có hòn cục, mạch quyết, quyết động.

- Bất dung: Chữa bụng đầy tức và hòn hạch, không muốn ăn, bụng hư kêu, nôn mửa, ngực và lưng trên đều dẫn đau, ho hen, miệng khô, đờm thành hòn đau ở dưới sườn, giả sán ở sườn cụt.

- Lậu cốc: Trị hạch hòn, khí lạnh, bụng trên trướng tức, ăn uống được mà không béo.

- Tam lý, Thái khê: (xem: Thấu) Trị hòn hạch (“Minh hạ” nói: Chứng hàn).

- Phủ xá: Trị sán hòn (xem: Bại đau) và còn dùng để cứu Tiểu trường khí, khí hạch hòn, khi phát bụng đau như dao cắt, không chịu được và dàn bà khí huyết, bản tạng có hòn, chạy đi đau nhói (xem: Thận hư).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 31, 2018, 09:53:22 AM
37. Chứng có hòn - Chứng tích (xem thêm: Sán giả)

- Chứng giả cứu vào giữa chỗ sau mắt cá trong, số mồi theo tuổi, lại cứu Khí hải 100 mồi “Thiên”.

- Lạnh lâu dài và đàn bà có chứng giả, ruột sôi, ỉa dễ, cắn đau vòng quanh rốn, cứu Thiên khu 100 mồi “Thiên”, ba lần báo như thế không châm.

- Địa cơ: Chủ ỉa lỏng có cục ở bụng (đường giả).

- Âm lăng tuyền, Thái khê, Thái âm khích: Trị sán giả (xem: Sán giả).

- Bất dung (xem: Hạch hòn), Trung cực: Trị sán giả.

- Quan nguyên (xem: Đới hạ [tức khí hư]) trị đàn bà giả tụ (“Minh” nói: Chữa mọi bệnh giả tụ).

- Bàng quang du: Trị con gái giả tụ (“Minh” giống thế), đầu gối, chân không có sức.

- Khúc tuyền: Trị con gái huyết giả, âm như nước ấm làm mầu mỡ phía trong đùi (“Thiên” giống như thế, xem: Kkông có con).

- Bụng dưới to, rắn như cái mâm, cái bàn, ngực bụng trướng tức, ăn không tiêu, đàn bà giả tụ gầy mòn, cứu Tam tiêu du 100 mồi, 3 lần báo, giữa chỗ sau mắt cá trong, số mồi theo tuổi, lại cứu Khí hải 100 mồi.

* Chứng lạnh lâu và đàn bà có trướng tích, ruột sôi, ỉa dễ, đau cắn chung quanh rốn, cứu Thiên khu 100 mồi, 3 lần không châm.

- Trị giả tích (bị bên phải cứu bên trái, bị bên trái cứu bên phải) ở chỗ khuất đầu sườn 2 là chỗ cứu, đầu sườn 2 gần đầu sườn 3 hướng xuống chỗ thịt cách phía trước cũng là chỗ cứu. Ngày đầu cứu 3 mồi, ngày thứ cứu 5 mồi, ngày sau cứu 7 mồi, vòng quay trở lại từ đầu đến ngày thứ 10 thì dừng (duy chỉ kiêng tỏi), lại Quan nguyên 50 mồi, rốn lên 4 ngón tay 50 mồi.

- Tích tụ rắn tức, Chướng môn 50 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 31, 2018, 10:14:06 AM
38. Tích tụ

- Xung môn: Trị trong bụng tích lại đau đớn “Thiên”.

- Cách du, Âm cốc: Trị tích tụ (xem: Bụng đau).

- Thượng quản: Chủ dưới tim rắn, lạnh trướng.

- Huyền chung: Chủ trong bụng có tích đi lên đi xuống.

- Cao khúc: Chủ trong bụng tích tụ.

- Thái âm khích: Chủ trong bụng đầy, tích tụ.

- Bàng quang du: Chủ rắn kết, tích tụ.

- Rắn tức tích tụ, cứu Tỳ mộ (Chướng môn) 100 mồi (đầu sườn cụt).

- Dưới tim rắn, tích tụ lạnh trướng, cứu Thượng quản 100 mồi, 3 lần báo.

- Tích tụ rắn to như cái bàn, lạnh trướng, cứu Vị quản 200 mồi, 3 lần báo.

- Xung môn (xem: Bụng đầy), Phủ xá: Chữa bụng đầy, tích tụ “Đồng”.

- Cách du, Âm cốc: Chủ tích tụ “Thiên” (xem: Bụng đau).

- Huyền khu: Trị tích tụ đi lên, xuống, ăn chất bột không hóa, ỉa dễ, trong bụng tích lại “Đồng”, “Minh hạ” nói: Tích khí đi lên, xuống (Giải khê: Giống thế) đau khắp lưng bụng.

- Tỳ du: Trị tích tụ (xem: Hạch hòn).

- Thương khúc: Trị trong bụng tích tụ (“Thiên” giống thế) đau như cắt trong ruột, không muốn ăn.

- Tứ mãn: Trị dưới rốn tích tụ, sán hà, ruột rãn đau như cắt, rét run, bụng to có nước.

- Thông cốc: Trị kết tích lưu ẩm (xem: Đàm).

- Chướng môn: Chữa tích tụ khí “Minh”.

- Trung cực: Chữa khí lạnh tích tụ, có lúc xông lên tim, đói mà không ăn được “Hạ”.

- Tỳ du: Chủ tích tụ “Đồng” (xem: Bụng trướng).

- Trung quản: Chủ tích tụ “Thiên” (xem: Bụng trướng).

- Tích tụ, cứu Phế du hoặc Tam tiêu du (xem: Bụng trướng).

- Tỳ du: Chữa hoàng đản tích tụ (xem: Hoàng đản).

- Tạng phủ tích tụ, cứu Tam tiêu du.

- Bụng trên tích tụ, cứu Can du (xem: Bụng trướng).

- Kỳ môn: Chủ suyễn, nghịch, nằm không yên chỗ, ho, dưới sườn tích tụ “Thiên”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 31, 2018, 10:51:07 AM
39. Tích khí

- Lương môn: Trị dưới sườn tích khí (Kỳ môn giống thế, xem: Thổ tả), không nghĩ gì đến ăn uống, đại trường ỉa trơn, chất bột không hóa “Đồng”.

- Giải khê (xem: Ho hắng), Huyền khu: Trị tích khí đi lên, xuống (xem: Tích tụ).

- Quan môn: Trị tích khí, ruột sôi, tự nhiên đau, ỉa dễ, không muốn ăn, khí trong bụng chạy loanh quanh, đau gấp hai bên rốn.

- Khí hải: Trị khí kết thành hòn giống như chén úp (xem: Đau rốn).

- Âm giao: Chữa khi đau như dao đâm, làm thành hòn như chén úp “Minh” (xem: Đái đỏ).

- Chướng môn: Chữa khí tích tụ (xem: Tích tụ).

- Chiên trung: “Kỳ Bá” nói: Chữa tích khí thành ợ “Hạ”.

- Tam lý (xem: Bụng rắn), Bất dung: Chữa tích khí (xem: Bụng đau).

- Chướng môn: Chữa khí tích như đá (xem: Cổ trướng).

- Lương môn: Chữa trong ngực tích khí.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 31, 2018, 11:20:22 AM
40. Đau bụng (xem thêm: Đau tim)

- Khí hải: Chủ sán khí ở bụng dưới đi khắp ngũ tạng, trong bụng đau như cắt “Thiên”.

- Cách du, Âm cốc: Chủ bụng trướng, dạ dày đau mạnh mẽ (bạo thống), bụng tích tụ, cơ thịt đau.

- Cao khúc (có tên là Thương khúc): Chủ trong bụng tích tụ, có khi đau như dao cắt.

- Xung môn: Chủ khí lạnh đầy, trong bụng tích đau, còng quá mức (dâm lạc).

- Tứ mãn: Chủ bụng giãn đau như cắt.

- Thiên khu, Ngoại lăng: Chủ đau khắp trong bụng.

- Côn lôn: Chủ bụng đau, suyễn tức đầy nhanh mạnh.

- Phục lưu: Chủ bụng quyết đau.

- Cự khuyết, Thượng quản, Thạch môn, Âm kiều: Chủ trong bụng đầy, đau nhanh mạnh, ra mồ hôi.

- Đại khê: Chủ trong bụng cùng dẫn đau.

- Phong long: Chủ ngực đau như đâm, bụng cũng đau như dao cắt “Đồng” giống “Minh” (xem: Quyết nghịch).

- Cưu vỹ: Chủ da bụng đau, ra nước dãi.

- Hoang du: Chủ bụng đau như cắt.

- Khí xung: Chủ mình nóng, bụng đau.

- Trung cực: Chủ trong bụng nóng đau

- Hành gian: Chủ bụng đau mà nóng, đi lên, đầy tức dưới tim.

- Thủy phân: Chữa bụng sưng, không ăn được, ruột rắn, bụng đau, dạ dầy trướng, rắn cứng, không điều hòa “Minh”.

- Đại trữ: Chữa bụng đau.

- Thận du: Chữa đau bụng, nóng rét, ruột sôi, khí nghịch đau tim.

- Bất dung: Chữa bụng căng cấp, không ăn được, bụng đau như dao đâm…

 Sườn tích khí căng gấp (bành bành) “Hạ”.

- Thượng quản: Chữa bụng đau nhói “Đồng”.

- Thái bạch (Xem: Hoắc loạn), Ôn lưu, Tam lý (xem: Dạ dày).

- Hãm cốc: Trị đau bụng (xem:Thủy thũng)

- Phúc ai: Trị ỉa ra máu mủ, lạnh ở trong, ăn không hóa, đau trong bụng “Đồng”.

- Ngư tế: Chữa bụng đau, ăn không xuống.

- Hoang du: Trị bụng trên hàn sán, ỉa táo bụng đau như cắt.

- Địa cơ: Trị bụng sườn khí trướng (xem: Thủy thũng).

- Ngoại lăng: Trị bụng đau, khí của lục phủ hàn, chất bột không hóa, không muốn ăn, đái đỏ, bụng rắn cứng, hòn cục, ở trên rốn có quyết khí động, ngày càng gầy dần “Đồng”.

- Tỳ du: Trị bụng đau  không muốn ăn (xem: Hạch hòn).

- Tam tiêu du: Trị bụng đau, mót ỉa (xem: Bụng trướng).

- Bàng quang du: Trị bụng đau “Minh hạ” giống thế.

- Thiên khu: Trị đàn bà đau bụng (xem: Kinh nguyệt).

- Thạch quan: Trị đàn bà có ác huyết xông lên, bụng đau không thể chịu nổi (xem: Không có con).

- Vị du: Trị bụng đau (xem: Bụng trướng).

- Trung quản: Trị trong bụng đau quá lắm, làm thành mủ “Thiên” (xem: Bụng trướng).

- Trẻ em tự nhiên da bụng xanh đen, không chữa nhanh thì chết, lấy rượu và hổ phẩn đắp, khô thì lại đắp, lại cứu 4 bên rốn đều cách nửa thốn và dưới xương Cưu vỹ 1 thốn, tất cả đều 3 mồi “Tập hiệu”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2018, 10:07:44 AM
41. Bụng đầy – Tâm đầy trướng

- Phàm bụng đầy, đau, không thở được, nằm ngửa ngáy ngắn, co một gối, duỗi một chân, châm ở Khí xung 3 thốn, khí đến thì tả.

- Đại chung: Chủ bụng đầy mà khó ỉa.

- Hãm cốc (xem: Ợ hơi), Huyền chung: Chủ bụng đầy. “Thiên” nói: Trẻ em bụng đầy, không ăn được.

- Âm thị: Trong bụng đầy, mệt lịm, ít hơi.

- Thái âm khích: Chủ bụng đầy tích tụ.

- Xung môn: Chủ khí hàn, bụng đầy, trong bụng tích tụ đau.

- Ẩn bạch: Chủ bụng đầy, muốn nôn.

- Tam lý, Hành gian, Khúc tuyền: Trị bụng chẩn đầy.

- Thương khâu: Chủ bụng đầy, xoay hướng không tiện, dưới tim có lạnh đau.

- Lậu cốc: Chủ ruột sôi, mất sức, tim buồn, khí nghịch, bụng chẩn đầy nhanh.

- Cự khuyết, Thượng quản, Thạch môn, Âm kiều: Chủ trong bụng, đầy đau dữ dội mà ra mồ hôi.

- Kỳ môn: Chủ thương thực bụng đầy (xem: Đẻ).

- Lậu cốc: Chủ kết chứa đồ ăn thành hòn (xem: Ruột giãn)

- Thạch quan: Chủ tâm rắn đầy (xem: Đại tiện không thông).

- Âm đô: Chủ tâm đầy, khí nghịch, sôi ruột.

- Thính cung: Trị bụng trên đầy “Minh” “Đồng” giống thế.

- Xung môn: Trị bụng lạnh, đầy hơi (xem: Tích tụ).

- Đại đô: Trị bệnh nhiệt, mồ hôi không ra, tay chân lạnh ngắt, bụng đầy, muốn nôn, nóng bứt dứt, buồn bằn, mửa ngược lên, mắt hoa.

- Lệ đoài (xem: Ngất sỉu), Lậu cốc (xem: Hạch hòn): Trị bụng trên trướng đầy.

- Bụng đầy cứu Tuyệt cốt “Thiên” (xem: Khí lên).

- Cự khuyết: Trị bụng đầy

- Côn lôn: Chủ bụng đầy bạo phát (xem thêm: Bụng đau).

- Thái bạch: Chủ bụng đầy mà to (xem: Bụng trướng).

- Y hy (Xem ở môn: Máu cam, mũi), Tam lý: Chữa bụng đầy “Minh” (xem: Bụng to).

- Trung quản: Trị dưới tim đầy trướng, do ăn no quá làm hại, ăn không hóa, quặn bụng nôn nao, phân ra mà không tự biết, đau vùng tâm.

- Mọi bệnh ở bụng trên và đau vùng tâm cứu Thái dương “Thiên”.

- Bụng trên đau, sốt rét lâu ngày, cứu Can du.

- Đảm du: Chữa tâm trướng đầy “Minh” xem: Khí lên.

- Phủ xá: Trị bụng đầy “Đồng”.

- Tứ mãn: Trị bụng to có nước (xem: Thủy thũng).

- Thần đường: Trị ngực, bụng đầy (xem: Vai đau).

- Ngư tế: Trị bụng đau “Đồng” giống thế (xem: Thương hàn).

- Thạch môn:Chủ bụng đầy, sán tích “Thiên” (xem: Không có con).

- Thủy phân: Trị bụng sưng, không ăn được (xem: Bụng đau).

- Ý xá: Chữa bụng đầy, hư trướng (xem: Bụng trướng).

- Người có bệnh bụng trên đầy trướng, tôi chỉ thường lấy Hậu phác bẻ nhỏ, chừng 7 – 8 đồng cân (trẻ nhỏ thì giảm lượng), lấy gừng sống 7 lát, 1 bát con nước sắc còn 7 phần uống, bã sắc lại, không quá 5 – 6 lần thì đầy trướng hết, cái hiệu quả của châm cứu chưa chắc đã nhanh được như thế, do đó chép vào đây..

- Bụng đau, ấn mà đau, ấn mạnh hết đau, đó là khí thống, ấn nặng mà đau mà rắn là có tích, khí thốn không thể hạ càng đau. Chứng có hư hàn, Tiểu kiến trung thang trị bụng đau như thần “Phương lương”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2018, 11:10:31 AM
42. Bụng trướng: Thêm sườn ngực trướng, tâm trướng (xem: Bụng trên trướng đầy)

- Cách du: Chủ bụng trướng (xem: Bụng đau).

- Tỳ du, Đại trường du: Chủ bụng dưới trướng hơi, dẫn đau sang cột sống, ăn uống nhiều mà thân gầy mòn.

- Trung cực: Chủ bụng trướng do lạnh.

- Thượng quản: Chủ tim rắn, tích tụ lạnh trướng.

- Ẩn bạch: Chủ bụng trướng, thở nghịch, lại chủ trong bụng rét lạnh, khí trướng suyễn.

- Xích trạch: Chủ bụng trướng suyễn, run rẩy.

- Thiên khu: Chủ bụng trướng, khí xông lên ngực (xem: ruột kêu).

- Trung quản: Chủ bụng trướng, ỉa táo, lo nghĩ tổn thương, khí tích tụ, trong bụng rắn đau, làm mủ sưng chạy lên, xuống, qua lại.

- Đại khê: Chủ trong bụng sưng trướng.

- Kinh môn: Chủ nóng rét, trướng.

- Tam lý, Chướng môn, Kinh môn, Lệ đoài, Nội đình, Âm cốc, Lạc khước, Côn lôn, Thương khâu, Âm lăng tuyền, Khúc tuyền: Chủ bụng trướng đầy không thở được.

- Khí xung: Chủ trong bụng nóng, to, không yên, trong bụng có khí, bụng trướng bạo phát (“Minh hạ” nói: Lại rắn ở dưới rốn), dầy còng, dâm lạc.

- Kỳ môn: Chủ bụng to, rắn, không thở được, trướng bại, đầy, bụng dưới to hơn.

- Cự khuyết, Thượng quản: Chủ bụng trướng, bụng tim đầy.

- Ngũ lý: Chủ dưới tim trướng đầy mà đau, khí lên.

- Thái bạch (xem: lỵ), Công tôn: Chủ bụng trướng, ăn không hóa, cổ trướng, trong bụng khí đầy, to.

- Âm lăng tuyền: Chủ trong bụng có trướng, không muốn ăn, dưới sườn đầy, trong bụng thịnh nước, trướng nghịch không nằm được.

- Phàm đầu mắt ung thống, ngực sườn đầy tức, châm Hãm cốc ra máu khỏi ngay.

- Đại chung: Chủ ngực thở suyễn, trướng.

- Quan nguyên, Kỳ môn, Thiếu thương: Chủ dưới sườn trướng.

- Thạch môn: Chủ bụng trướng, cứng rắn, phù nước, chi đầy “Đồng”.

- Giải khê (xem: Trúng gió), Huyết hải (xem: Ra máu nhỏ giọt).

- Thương khâu: Trị bụng trướng (xem: Sôi ruột).

- Đảm du: Trị bụng trên trướng đầy, nôn không ra đồ ăn, miệng đắng, lưỡi khô, họng đau, ăn không xuống.

- Trung lữ du (xem: Tiêu khát), Y hy (xem: Vai và bả vai đau).

- Cách du: Trị bụng trướng (xem: Nôn mửa).

- Tỳ du: Trị bụng trướng dẫn lên ngực và bả vai đau, ăn uống thêm nhiều hơn mà mình càng gầy đi “Minh hạ” giống thế.

- Hoàng đản, sườn tức, ỉa rễ, mình mẩy nặng, tứ chi không khép lại được, hạch hòn đau bụng, không muốn nằm.

- Vị du: Trị vị hàn, bụng trướng, không muốn ăn (“Minh” giống thế), gầy mòn, bụng đau, ngực sườn, chi đầy, cột sống đau gân co.

- Tam tiêu du: Trị ruột sôi, bụng trướng, nước và chất bột không hóa, bụng đau, mót ỉa, mắt hoa, đau đầu, nôn ngược ăn không xuống.

- Thân trụ: Trị bụng trên cổ trướng (xem: Lao khái).

- Tam lý (xem: Dạ dầy), Huyền chung: Trị bụng trên trướng đầy (xem: Đầu gối co).

- Đại trường du: Trị bụng trướng, cạnh rốn đau như cắt, đái ỉa khó, ỉa như tháo cống, ăn không hóa, cột sống cứng không thể cúi ngửa.

- Trung liêu: Trị bụng cứng mà dễ ỉa.

- Dương cương: Trị bụng đầy trướng, ỉa đái dễ (“Minh hạ” giống thế), đái đỏ, rít, mình nóng, mắt vàng.

- Thái bạch: Trị mình nóng đầy, bứt dứt, bụng trướng, ăn không hóa, nôn mửa, tiết ra máu mủ.

- Ý xá: Trị bụng đầy trướng, ỉa trơn, bả vai đau, sợ gió lạnh, ăn uống không xuống, nôn mửa tiêu khát, mắt vàng.

- Vị chướng: Trị bụng hư trướng, phù nước, ăn không xuống, sợ gió, cột sống lưng trên không thể cúi ngửa.

- Trung phủ: Trị bụng trướng ăn không xuống (xem: Mạch khí).

- Trung quản: Trị thương hàn, uống nước quá nhiều, bụng trướng, khí suyễn.

- Âm cốc: Trị bụng trướng đầy, không thở được, đái vàng, đàn ông như có giun, đàn bà như có chửa.

- Thừa mãn: Trị sôi ruột, bụng trướng, suyễn lên, khí nghịch, ăn uống không xuống, thở bằng vai, nhổ ra máu.

- Đại đôn: Trị bụng trướng đầy.

- Tam âm giao: Trị bệnh tỳ mình nặng, tứ chi không nhấc lên được, bụng trướng, sôi ruột, ỉa lỏng, ăn không hóa.

- Ẩn bạch: Trị bụng trướng, suyễn đầy, không nằm được, nôn mửa, ăn vào thì tiết ra nhanh mạnh.

- Ẩn bạch: Chữa trong bụng có nóng rét, khí suyễn dấy lên, chảy máu cam không dứt, trong bụng trướng nghịch, ống chân nóng rét, không nằm được, khí đầy, trong ngực nóng thì tiết ra nhanh mạnh, trong cách nôn mửa không muốn ăn “Minh hạ”.

- Thượng quản: Chữa bụng trướng (xem: Mửa).

- Hư trướng, bụng sườn đầy tức, cứu Cách du 100 mồi, 3 lần báo “Thiên”.

- Ngực tức, bụng trên tích tụ thành báng đau, cứu Can du 100 mồi, 3 lần báo.

- Trong bụng khí trướng, dẫn đau vào cột sống, ăn uống nhiều mà thân gầy mòn, tên gọi là thực hối, trước lấy Tỳ du sau lấy Lý lặc.

- Tạng phủ tích tụ, trướng đầy, gầy mòn, không thể ăn được, lấy Tam tiêu du, số mồi theo tuổi.

- Trướng đầy bụng kêu như sấm, cứu Đại trường du 3 mồi, 3 lần báo.

- Trướng mãn, khí tụ lạnh, cứu Vị quản 100 mồi, 3 lần báo, tại Cưu vỹ xuống 3 thốn

- Bụng trướng đầy, xung quanh rốn kết đau, rắn, không thể ăn được, cứu Trung phủ 100 mồi, lại cứu Thủy phân (trên rốn 1 thốn).

- Trướng đầy giả tụ, khí hư ra đau, cứu Khí hải 100 mồi, cấm châm.

- Trướng đầy, khí giống như phù nước, bụng dưới rắn như đá, cứu Bàng quang mộ 100 mồi (tức Trung cực dưới rốn 4 thốn)

- Trướng đầy thân lạnh, giả tụ, ỉa dễ, cứu Thiên khu 100 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2018, 04:18:35 PM
43. Bụng trên rắn to - Tâm phúc kiên đại

- Hạ quản: Chữa bụng dạ không điều, bụng đau không thể ăn, đái đỏ, bụng rắn có hòn cục, mạch đập ngập ngừng “Minh”.

- Xung dương: Trị bụng rắn to, không ăn được, rét run “Đồng”.

- Kỳ môn: Trị bụng rắn cứng (xem: Hoắc loạn).

- Thứ liêu: Trị dưới tim rắn trướng.

- Thạch môn: Trị bụng rắn cứng (xem: Bụng trướng).

- Hoang môn: Trị chỗ khoảng trống dưới tim rắn to.

- Thủy phân: Trị bụng rắn như cái trống (xem: Phù nước).

- Chí thất: Trị bụng rắn nhanh.

- Âm lăng tuyền, Địa cơ (xem thêm: Phù nước), Hạ quản: Trị bụng cứng rắn (xem: Bụng đau).

- Bàng quang du: Chủ rắn kết tích tụ “Thiên”.

- Thượng quản: Chủ rắn dưới tim, tích tụ lạnh trướng.

- Hoang môn: Chủ dưới tim rắn to.

- Kỳ môn: Chủ bụng to rắn (xem: Bụng trướng).

- Xung dương: Chủ bụng to, không muốn ăn.

- Giải khê: Chủ bụng to nặng ở dưới, lại chủ quyết khí lên bụng to

- Tam lý: Chữa bụng đầy rắn có hòn, không ăn được, vị khí không đủ, phản vị, tích khí ở sườn ngực, bụng “Minh”.

- Thiên khu: Chữa bụng to, rắn “Hạ”.

- Thủy phân: Chữa bụng đau, dạ dầy trướng rắn, cứng “Minh”  (xem: Ỉa không thông tích như bụng đau).

- Thạch quan: Chủ bụng trên rắn đầy “Thiên”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 05:28:10 AM
44. Cổ trướng (bụng căng như cái trống, xem thêm: Bụng trướng)

- Thủy phân: Trị bụng rắn như cái trống, phù nước, bụng (“Minh” viết là ruột) kêu, dạ hư trướng, không muốn ăn, đau quanh rốn xông lên ngực, không thở được “Đồng”. (“Minh hạ” nói: Chữa cổ trướng, xem: Phù nước).

- Thần khuyết (xem: Thủy thũng, phù nước), Công tôn: Trị bụng hư trướng như cái trống.

- Phục lưu: Trị trong bụng kêu như sấm, bụng trướng như cái trống, tứ chi sưng, 10 bệnh nước (“Minh hạ” giống thế).

- Chướng môn: Chữa mình vàng, gầy mòn, tứ chi mệt mỏi, bụng trướng, hai bên sườn tích tụ khí như hai quả trứng bằng đá “Minh hạ”.

- Trung phong, Tứ mãn: Chủ cổ trướng (“Thiên” xem: Âm co lại).

- Thái bạch, Công tôn: Chủ bụng cổ trướng, trong bụng khí to đầy (xem: Bụng trướng).

- Tam âm giao, Thạch môn: Chủ thủy trướng, bụng dưới dạ dầy lên (xem: Phù nước).

 “Chân tuyền” nói: Phân thủy chủ cổ trướng, ruột sôi (thũng).

- Cổ trướng, cứu Trung phong 200 mồi

- Bôn đồn, khí lạnh, chỗ trong tâm có phục lương (giống như cái chén úp), kết lạnh các thứ khí, châm Trung quản 8 phân lưu 7 hơi thở ra, tả 5 hơi hít vào, rút kim nhanh, rồi tiếp theo cứu một ngày 14 mồi đến 400 mồi, kiêng giao hợp.

- Mọi bệnh ở tâm, bụng rắn đầy, bứt dứt, đau, lo nghĩ, kết khí rét lạnh, hoắc loạn, đau bụng trên, ỉa mửa, ăn không tiêu, sôi ruột, ỉa dễ, cứu Thái dương, Trung quản 100 mồi.

- Bắn dưới tim, tích tụ, lạnh nóng, bụng trướng, cứu Thượng quản 100 mồi “Thiên dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 06:38:31 AM
45. Phù nước – Thủy thũng (thũng vặt, thũng tứ chi, thạch thũng)

- Thũng nước khắp người, cứu ở ngón chân thứ hai lên 1 thốn, số mồi theo tuổi, lại cứu ở đầu nối ngón tay cái 7 mồi “Thiên”.

- Hư lao, phù thũng, cứu Thái xung 100 mồi, lại cứu Thận du.

- Phàm đầu mắt sưng thũng, ngực, sườn, chi thể đầy, chích Hãm cốc ra máu khỏi ngay.

- Hãm cốc, Liệt khuyết: Chủ mặt, mắt ung thũng.

- Dương lăng tuyền, Công tôn: Chủ đầu, mặt ung (thũng).

- Hoàn cốt, Cự liêu: Chủ khí ở đầu mặt làm cho sưng.

- Thiên khu, Phong long, Lệ đoài, Hãm cốc, Xung dương: Chủ mặt phù thũng.

- Trung phủ, Giản sử, Hợp cốc: Chủ mặt, bụng sưng.

- Giải khê: Chủ gió, mặt phù thũng màu đen.

- Khí xá: Chủ vai sưng không ngoái cổ lại được.

- Tam lý: Chủ nước làm trướng bụng, da sưng.

- Khúc tuyền: Chủ bụng sưng.

- Âm cốc: Chủ nóng rét, bụng sưng lệch một bên.

- Đại đôn: Chủ bụng to sưng, trướng, rốn bụng anh ách.

- Âm giao, Thạch môn: Chủ nước làm trướng, thủy khí đi trong da, bụng dưới đầy, đầy hơi, đái vàng.

- Ốc ế: Chủ mình sưng, da đau không thể đụng vào áo được, động kinh, tê bại (bất nhân).

- Quan môn: Chủ mình sưng, mình nặng.

- Thiên phủ: Chủ mình trướng, thở ngược lên, suyễn, hay nhổ bọt.

- Thượng tinh: Chủ đầu phong, mặt hư thũng “Đồng”.

- Tín hội: Trị mắt hoa, mặt sưng đỏ.

- Tiền đỉnh: Trị mắt hoa, mặt sưng đỏ, trẻ em sưng ở đỉnh đầu.

- Não hộ: Trị mắt vàng đầu sưng.

- Thủy câu: Trị thủy khí sưng khắp người (“Minh” nói: Nếu như là thủy khí, duy có thể châm được ở đó, nếu như châm thêm các huyệt chỗ khác nước hết thì chết).

- Vị thương: Trị thủy nước (xem: Bụng trướng).

- Liệt khuyết: Trị thủy khí (xem: Tràng nhạc).

- Thận du: Trị mình sưng (xem: Lao khí).

- Kiến lý: Trị bụng trướng, mình sưng.

- Thần khuyết: Trị phù nước, cổ trướng, ruột kêu như tiếng nước chảy.

- Trung cực, Thạch môn: Trị thũng nước (xem: Bụng trướng).

- Tứ mãn: Trị bụng to có nước (xem: Tích tụ).

- Chướng môn: Trị bụng sưng, cột sống cứng, tứ chi bị hại, lười (?)

- Dũng tuyền: Trị con trai bụng to như có giun, con gái như chửa, năm đầu ngón chân đau, chân không đặt xuống đất được (Âm cốc cũng giống như trên).

- Tam lý: Trị thủy khí (“Minh” giống thế).

- Phục lưu: Trị 10 bệnh về nước (xem: Cổ trướng).

- Duy đạo: Trị thủy thũng không muốn ăn (xem: Nôn mửa).

- Địa cơ: Trị đàn ông ỉa lỏng, bụng sườn trướng, thủy thũng, bụng rắn, không muốn ăn, đái khó.

- Âm lăng tuyền: Trị trong bụng lạnh không muốn ăn, đầy tức dưới cách, trướng nước, bụng rắn, suyễn ngược không nằm được, lưng đau, khó cúi ngửa.

- Hãm cốc: Trị mặt, mắt phù thũng và bệnh nước hay ợ, ruột kêu bụng đau.

- Phân thủy: Chữa bụng sưng, không ăn được, nếu là bệnh về nước cứu rất hay “Minh”. “Minh hạ” nói: Trị bệnh thủy thũng ở bụng, đau xung quanh rốn xông lên ngực không thở được. “Châu Quyền” nói: Chủ thủy khí phù thũng, cổ trướng, ruột kêu như sấm, có khí xông lên tâm (“Đồng” xem: Cổ trướng).

- Khúc cốt: Chữa bệnh thủy trướng “Hạ”.

- Trẻ em thủy khí (sưng) thũng khắp tứ chi, bụng to, cứu Thủy phân 3 mồi.

- Vị thương: Trị thủy thũng hư trướng, ăn uống không xuống, sốt rét “Thiên”.

- Thủy câu: Trị thủy thũng nhân trung đầy.

- Quan nguyên: Chủ đàn bà bụng dưới đầy nước như đá (xem: Không có con).

- Chướng môn: Chủ mình nhuận, mềm, thạch thủy mình thũng.

- Quan nguyên: Chủ đàn bà bụng dưới đầy (thạch thủy).

- Tứ mãn, Nhiên cốc: Chủ bụng lớn, thạch thủy.

- Khí xung: Chủ đại khí, thạch thủy.

- Phong long: Chủ tứ chi thũng, thân thấp (“Đồng – Giáp” giống thế).

- Phong long, Phục lưu: Chủ phong nghịch, tứ chi thũng.

- Liệt khuyết: Chủ mồ hôi ra, tứ chi thũng.

- Phục lưu: Trị tứ chi thũng “Đồng” (xem thêm: Cổ trướng).

- Thủy thũng chỉ châm Thủy câu, nếu châm thêm huyệt, nước ra hết thì chết, đó là điều cấm của “Minh đường” và “Đồng nhân”, thầy thuốc không thể không biết. Thường châm Thủy phân giết người nhiều lắm. Nếu như các huyệt khác cũng có thể châm khỏi được, đặc biệt là may mắn, không phải coi là phép vậy.

 Nếu dùng thuốc thì Vũ Dư Lương Hoàn là đệ nhất (xem: Ký hiệu phương), tôi thường thấy người ta uống nghiệm, chép vào sách này.

 Nếu như cứu Thủy phân thì nó đúng là yếu huyệt, Lý Lý Sinh trị thủy thũng, đem thuốc uống, rất lâu không có hiệu quả, đành chịu tạm dừng. Một hôm tự nhiên cứu Thủy phân và Khí hải, sớm ngày hôm sau xem mặt như xọp đi, tin rằng huyệt Thủy phân có thể trị được thủy thũng “Minh Đường” nói: Chắc chắn rằng nếu như là bệnh thủy thũng, cứu rất tốt, huyệt đó có thể phân thủy, không làm cho vọng hành (đi lung tung).

- Trăm bệnh thủy thũng đều cứu Thận du 100 mồi, Vị thương số mồi theo tuổi.

- Thủy thũng, cứu Hãm cốc số mồi theo tuổi.

- Thủy thũng, cứu Tam âm giao 100 mồi.

- Thủy thũng trướng, cứu Khúc cốt 100 mồi.

- Bụng to cứu Âm thị số mồi theo tuổi.

- Đầy Nhân trung, môi sưng, phù nước, cứu Tề trung (giữa rốn) và Thạch môn 100 mồi.

- Phòng về nước, cứu Thượng liêm số mồi theo tuổi.

- Thủy thũng không nằm được, cứu Âm lăng tuyền 100 mồi.

- Thạch thủy, Cứu Nhiên cốc, Khí xung, Tứ mãn, Chướng môn, Thủy phân: Trị thủy thũng, bụng đầy không ăn được, rắn cứng, ngày cứu 7 đến 400 mồi thì thôi. Kiêng châm, châm hết nước thì chết. Bệnh thủy cứu đều khỏi dứt “Thiên dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 09:49:58 AM
Mục lục quyển V

1. Đau rốn (Tề thống)
2. Đau mạng sườn trước ngực (Ung thống)
3. Ngực đầy tức (Hung hãm)
4. Ngực sườn đau
5. Cách đau (Cách thống)
6. Lưng trên đau (Bối thống)
7. Vai lưng trên đau buốt (Kiên, bối, toan thống)
8. Vai đau bại (Kiên bại thống)
9. Đau cánh tay
10. Nách đau (Hạ thống)
11. Lao cổ tay (Uyển thống)
12. Đau khuỷu tay
13. Bàn tay tê bại không hoạt động được
14. Ngón tay co (Thủ chi đoan)
15. Bàn tay nóng (Thủ nhiệt)
16. Chân tê bại không hoạt động được (Túc bại bất nhân)
17. Chân không đi được (Túc bất năng hành)
18. Chân nóng rét
19. Tạp bệnh ở chân
20. Cước khí
21. Chân yếu (Cước nhược)
22. Chân sưng (Cước thủy)
23. Tứ chi quyết (Chân tay cứng đơ)
24. Thi quyết
25. Đầu gối đau
26. Vùng thắt lưng và chân đau (Yêu cước thống)
27. Đau lưng dưới (Yêu thống)
28. Thắt lưng cột sống đau (Yêu tích thống)
29. Đau xương sống (Tích thống)
30. Nếp nhăn (Tấu lý)
31. Đau xương (Cốt thống)


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 10:25:40 AM
CHÂM CỨU TƯ SINH KINH (VƯƠNG CHẤP TRUNG)

QUYỂN V

1. Đau rốn (Tề thống)

- Trung cực: Chữa dưới rốn có hòn như chén úp “Minh” (xem: Lâm). “Đồng” nói: Kết như chén úp.

- Quan nguyên: Trị dưới rốn đau, đái đỏ rít, rơi rớt không biết, chỗ để đái đau rát như phải lửa, đái ra máu, đau sán, bạo phát, dưới rốn huyết kết, giống như cái chén úp (“Minh” giống thế), chuyển bào đái không được “Đồng”.

- Âm giao: Trị dưới rốn đau, con gái kinh kỳ kéo dài không dứt, khí hư ra, sau đẻ nước hôi không dứt, chung quanh rốn lạnh đau.

- Trung phong (xem: Ngược, sốt rét), Thủy phân (xem: Thủy thũng), Thần khuyết (xem: Ỉa chảy): Trị đau quanh rốn.

- Khúc tuyền: Chủ đau dẫn vào trong rốn (“Thiên” xem: Sán).

 Tôi ngày xưa khổ vì đau giữa rốn, khi đau thì ỉa chảy, lấy ngón tay giữa ấn vào đó thì dừng một ít, hoặc đúng lúc ỉa chảy cũng ấn vào đó thì không đau. Hôm đó cứu giữa rốn thì khỏi không đau nữa, sau lại thường hay ỉa lỏng, không khỏi, cứu đó thì dứt. Phàm rốn đau nên cứu Thần khuyết.

- Quan môn: Trị khí chạy loanh quanh, đau gấp hai bên cạnh sát rốn (xem: Tích khí).

- Hạ quản: Trị khí lạnh dưới rốn xông lên tâm, huyết kết thành hòn, giống như cái chén úp, đái đỏ và dít.

- Phúc kết: Trị đau quanh rốn, đâm lên tim (“Thiên” giống thế), bụng lạnh, tiết dễ, ho ngược lên.

- Thiên khu: Trị sát hai bên rốn đau như cắt, có khí xông lên tim làm buồn bằn, bứt dứt, nôn mửa, quặn bụng, nôn nao (“Minh hạ” nói: Khí lạnh đau rốn, xem: Lãnh khí). (“Thiên” nói: Mùa đông cảm hàn, đau rốn, xem: Ỉa chảy).

- Ngoại lăng: Chủ tâm như treo lơ lửng, dẫn xuống bụng đau rốn “Thiên” (xem: Đau bụng).

- Thượng liêm:Trị sát bên rốn và bụng đau (xem: Sườn đau).

- Tứ mãn: Trị dưới rốn đau như cắt (xem: Tích tụ).

- Phân thủy: Chữa thủy thũng, đau quanh rốn “Minh hạ”.

- Trẻ em rốn sưng, cứu khe lõm đốt xương sống sau lưng đối vị với rốn là 3 mồi.

- Nhiên cốc: Chữa trẻ em phong lỗ rốn, miệng không mở (“Đồng" giống thế), hay sợ.

- Đau chung quanh rốn, cứu Thiên khu 100 mồi (“Thiên” xem: Chưng giả)

- Cắn đau ở dưới rốn, cứu Quan nguyên 100 mồi (xem: Bụng nóng).

- Tề trung, Thạch môn: Chữa sán xung quanh rốn.

- Tề trung, Thạch môn, Thiên khu: Chữa sán ở rốn và chung quanh rốn.

- Lãi câu: Chữa tích khí ở trong rốn (“Thiên” xem thêm: Sán)


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 10:32:28 AM
2. Đau mạng sườn trước ngực – Ung thống (xem: Tim buồn bằn)

- Ngọc đường: Chữa ngực đầy tức, đau mảng sườn trước ngực (xem: Tim buồn bằn), TTTg ngực và xương sườn trước ngực đau.

- Tử cung: Trị TTTg ngực và xương sườn trước ngực đau.

- Đại khê: Chữa vú sưng, mảng sườn trước ngực mọng bóng lên (xem thêm: Đau trước ngực).

3. Ngực đầy tức – Hung mãn

- Ngực sườn đầy tức, ngực rùa, tức ngực, ngắn hơi, không có mồ hôi, đều châm bổ thủ Thái âm để ra mồ hôi (“Thiên” xem lại: Hoắc loạn).

- Thần đường: Chủ ngực, bụng đầy tức.

- Tam gian: Chủ ngực tức, ruột kêu.

- Dương khê, Thiên dung: Chủ ngực đầy tức không thở được.

- Khúc trì, Nhân nghinh, Thần đạo, Chướng môn, Trung phủ (“Minh hạ” giống thế). Lâm khấp, Thiên trì, Toàn cơ, Du phủ: Chủ đầy tức ngực.

- Dương giao: Chủ ngực đầy sưng.

- Cưu vỹ: Chủ ngực đầy, ho ngược lên.

- Đại tuyền: Chủ ngực đầy, thở ra kêu to.

- Cự khuyết, Giản sử: Chủ trong ngực bâng khuâng.

- Lương môn: Chủ trong ngực tích khí.

- Kỳ môn, Khuyết môn: Chủ trong ngực nóng, thở bí, dưới sườn có khí lên.

- Vân môn: Chủ trong ngực lên nhanh mạnh.

- Tâm du, Đại trữ: Chủ trong ngực uất.

- Nhiên cốc: Chủ rét trong ngực, mạch đại, bụng dưới trướng đâm lên tim.

- Sườn ngực đầy tức, cứu Kỳ môn (xem: Đau tim).

- Ngọc đường: Chữa ngực đầy, đau mạng sườn (xem: Tim buồn bằn).

- Chiên trung: Chữa nhọt trong ngực, khí tắc, khí đầy (xem: Ung phổi).

- Nhũ căn: Chữa dưới ngực đầy, bứt dứt.

- Dương giao (xem: Gối đau), Lâm khấp: Trị tức ngực.

- Ủy dương: Trị tức ngực, ngực thình thịch (“Đông” xem: Thi quyết).

- Toàn cơ: Trị da ngực đầy, tức đau (“Minh” giống thế), “Hạ” nói: Ngực sườn chi đầy.

- Du phủ: Trị tức ngực (xem: Suyễn).

- Thương dương: Trị trong ngực khí đầy, ho suyễn, chi thũng.

- Cách quan: Trị trong ngực nghẹn, bứt dứt (xem: Bả vai đau).

- Dương khê, Thần phong: Trị ngực tức, không thở được, ho ngược lên.

- Phế du: Trị khí đầy trong ngực, bả vai cong như rùa, lưng cứng, đầu mắt hoa, làm cho người ta mất nhan sắc.

- Nhiếp cân: Trị trong ngực đầy tức, bạo phát không nằm được, thở suyễn.

- Cách du: Trị ngực tức, chi thũng (xem: Nôn mửa).

- Vị du: Trị sườn ngực, chi đầy tức (xem: Bụng trướng).

- Dũng tuyền, Thần đường: Trị ngực, bụng đầy tức (xem: Vai đau).

- Trung đình: Trị ngực sườn, chi đầy tức, nghẹn tắc, ăn không xuống, nôn mửa, ăn lại ra.

- Vân môn: Trị hầu bại, ngực bứt dứt, khí xông lên tim, ho hen không thở được, dẫn vào trong ngực và bả vai đau, không xoay sang cạnh được.

- Chu vinh: Chữa sườn, ngực đầy tức, không cúi ngửa được, ăn không xuống, ho nhổ ra mủ đặc “Minh hạ” giống thế.

- Húc trung: Trị sườn ngực, chi mãn, ho ngược lên, suyễn, không ăn được “Minh” giống thế.

- Thần tàng:Trị ngực, sườn, chi đầy tức, ho ngược lên, suyễn không thở được, nôn mửa, ngực tức, không ăn được “Minh hạ” giống thế.

- Khí hộ: Trị ngực, sườn, chi đầy tức, suyễn nghịch, khí lên ngực, bả vai cấp (co rút), không thở được, không biết mùi vị thức ăn.

- Thực đậu: Trị ngực sườn, chi đầy tức, trong cách đau kêu như sấm, thường có tiếng nước.

- Linh khu: Trị ngực, sườn, chi đầy tức, đau dẫn vào trong ngực, không thở được “Minh” giống thế.

- Bộ lang: Trị ngực sườn, chi đầy tức, mũi tắc không thông, thở hít được ít hơi, thở suyễn, tay không giơ lên được “Minh” giống thế.

- Chướng môn: Trị ngực, sườn, chi đầy tức, ho ngược khí lên, hay nhổ nước bọt đục, có máu mủ.

- Kỳ môn: Trị sau đẻ mà ngực sườn, chi đầy tức (xem: Đau tim).

- Ngoại khâu: Trị sườn, ngực trướng đầy tức.

- Hiệp khê: Trị sườn, ngực, chi đầy, nóng rét, mồ hôi không ra.

- Vân môn: Chữa đau sườn, ngực tỏa ra sau lưng (xem: Khí lên).

- Hoa cái: Chữa ngực, sườn đầy, đau dẫn vào trong ngực.

- Tử cung (xem: Tim buồn bằn), Trung đình (xem: Phản vị), Dũng tuyền: Trị ngực, sườn, chi đầy tức.

- Thông cốc, Chướng môn, Khúc tuyền, Cách du, Kỳ môn, Thực đậu (“Minh hạ” giống thế). Hãm cốc, Thạch môn: Chủ ngực, sườn, chi đầy tức “Thiên”.

- Vị du, Tam lý, Tử cung, Hoa cái, Trung đình, Thần tàng, Linh khu, Hiệp khê, Bộ lang, Thương dương, Thượng liêm, Khí hộ, Chu vinh, Thượng quản, Lao cung, Dũng tuyền, Dương lăng tuyền: Chủ ngực sườn đầy tức.

- Đảm du (“Minh hạ” giống thế), Chướng môn: Chủ sườn đau không nằm được, tức ngực, nôn không ra.

- Tiền cốc: Chủ ho mà tức ngực.

- Dương khí ngược lên, đầy, tức ngực, lấy Thiên dung (xem: Khí lên).

- Phế du, Cự khuyết: Trị đầy tức ngực (xem: Khí lên).

- Đại tuyền: Trị ngực, sườn, chi đầy tức (“Đồng” xem: Đau tim)

- Thiên liêu: Trị ngực buồn bằn, bứt dứt (xem: Bả vai đau).

- Can du: Chữa hai bên sườn đầy tức “Minh” (xem: Ho).

- Phù bạch: Chữa tức ngực.

- Khố phòng: Chữa ngực và hai bên sườn đầy tức (xem: Ho).

- Thiên trì: Trị nóng, rét, ngực, cách đầy, tức, buồn bằn, đau đầu, tứ chi không nhấc lên được, dưới nách sưng, khí lên, trong ngực có tiếng, hầu kêu.

- Ưng song: Trị ngực tức, ngắn hơi.

- Hồn môn: Trị tức ngực, lưng trên đau (xem: Thi quyết).

- Trẻ em lưng rùa, nguồn gốc do thai nhiệt, công lên ngực, cách, do đó mà sinh ra, lại còn do người mẹ cho con bú, ăn miếng nóng và năm thứ cay, ngực chuyển thấy cao lên, cứu trước hai vú 1,5 thốn, lên hai hàng ở ba khe xương, tất cả là sáu chỗ, đều 3 mồi, xuân hạ thì từ dưới cứu lên, thu đông thì cứu từ trên xuống. Nếu không cứu đúng cách đó thì 10 ca chẳng cứu được lấy 1,2.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 08, 2018, 02:08:23 PM
4. Ngực, sườn đau – Hung lặc thống (Ngực đau bại)

- Bản thần, Lư tức: Chủ ngực sườn cùng dẫn đau, không quay nghiêng được “Thiên”.

- Thái bạch: Trị ngực, sườn trướng đau như cắt.

- Dương phù: Chủ ngực sườn đau.

- Hoàn khiêu, Chí âm: Chủ đau ở sườn ngực không nhất định, thắt lưng và sườn cùng dẫn đau gấp.

- Đại bao: Chữa đau trong sườn ngực.

- Phong long (xem: Bụng đau), Khâu khư: Chủ đau như đâm.

- Ngực sườn tức, tim đau, cứu Kỳ môn, số mồi theo tuổi.

- Nhũ căn: Chủ dưới ngực tức đau.

- Chiên trung: 100 mồi, Thiên tỉnh: Chủ ngực bại, tim đau.

- Đại tuyền: Chủ ngực và mảng sườn trước ngực đau.

- Phế du, Vân môn, Ẩn bạch, Kỳ môn, Hồn môn, Đại lăng: Chủ đau trong ngực.

- Thiếu xung: Chủ ngực đau, miệng nóng, trong ngực đau dẫn vào thắt lưng và lưng trên.

- Dưới tim lộn ngược lên, mắt không tươi sáng, cứu Thượng môn, số mồi theo tuổi, huyệt ở cạnh Cự khuyết, hai bên cách đều nửa thốn (Nhất nói 1 thốn).

- Kinh cừ, Khâu khư: Chủ ngực, lưng trên đau gấp, trong ngực căng.

- Đại khê: Trị ngực tức, đau, vú sưng, mạng sườn mọng, ho ngược khí lên, trong hầu có tiếng kêu “Đồng”.

- Can du: Trị ho dẫn vào trong ngực (xem: Ho ngược).

- Thiếu xung (xem: Thương hàn), Trung phủ: Trị ngực đau (xem: Phế cấp).

- Hoa cái: Trị ngực sườn tức đầy, đau dẫn vào trong ngực, ho ngược lên, suyễn không nói được “Minh hạ” giống thế.

- Tử cung: Trị ngực sườn chi tức đầy, TTTg ngực và xương sườn trước ngực đau, ăn uống không xuống, nôn ngược, hơi lên tim buồn bằn.

- Ngọc đường: Trị tức ngực, không thở được, suyễn, xương sườn TTTg ngực đau, nôn mửa ra đờm lạnh, khí lên tim buồn bằn.

- U môn: Trị trong ngực dẫn đau, dưới tim buồn bằn, bứt dứt, khí nghịch cấp ở trong, chi đầy tức, không muốn ăn, ho nhiều lần, hay quên.

- Phong long: Trị quyết nghịch, ngực đau như đâm, bụng đau như cắt “Minh” nói: Khí đâm không chịu nổi (xem: Tứ chi quyết).

- Thái uyên: Chữa nghịch bại, nghịch khí, hàn quyết, hay nôn ọe, uống nước thì ho hắng, buồn bằn, giận dữ, không thể nằm.

- Ngực bại dẫn sang lưng trên, có khi rét, Giản sử chủ chứng đó “Thiên”.

- Lâm khấp: Chủ ngực bại không thở được, đau không cố định.

- Ngư tế: Chủ bại trong ngực, không thở được.

- Phù bạch: Chủ ngực tức, ngực đau “Minh” (xem: Ho ngược).

- Du phủ: Chữa ho đau trong ngực.

- Ngực bại, cứu Hung đường (xem: Khí lên).

- Liêm tuyền (xem: Khí lên), Trung phủ: Chữa đau ngực (xem: Ho).

- Đảm du: Chữa ngực, sườn không thể xoay. “”Đồng – Minh” nói: Ngực sườn tức (xem: Nôn khan).

- Khâu khư: Trị ngực sườn tức đau, không thở được “Minh hạ” nói”: Ngực tức (xem: Thở rất to – Thái tức).

- Hạ liêm: Trị sườn, ngực, bụng dưới đau.

- Đại bao: Trị ngực sườn đau (xem: Khí lên).

- Thận du: Chủ hai bên sườn dẫn đau “Thiên”.

- Can du, Tỳ du, Chí thất: Chủ hai bên sườn cấp.

- Chi câu: Chủ sườn nách cấp đau.

- Trung quản, Thừa mãn: Chữa sườn đau, không thở được.

- Uyển cốt, Dương cốc: Chữa sườn đau, không thở được.

- Đảm du, Chướng môn: Chữa sườn đau, không nằm được.

- Khiếu âm: Chữa sườn đau, ho ngược.

- Xích trạch, Thiếu trạch: Chủ ngắn hơi, tim buồn bằn.

- Quan nguyên, Kỳ môn, Thiếu dương: Chữa dưới sườn trướng.

- Cực tuyền: Trị dưới sườn tức đau “Đồng”.

- Cách du (xem: Nôn mửa), Trung lữ du (xem: Tiêu khát), Khiếu âm (xem: Ho ngược), Dương cốc, Lư tín: Trị sườn đau (xem: Nóng rét).

- Can du: Trị hai bên sườn đau cấp (xem: Ho ngược).

- Uyển cốt: Chữa đau dưới sườn, không thở được.

- Thận du: Chữa sườn tức dẫn vào bụng dưới đau (xem: Lao khái).

- Thượng liêm: Trị ỉa lỏng như cháo loãng, bụng sườn tức đau, chạy cuồng bên cạnh rốn, bụng đau, ăn không hóa, thở suyễn không đi nổi.

- Thái khê: Trị bụng, sườn đau liền cột sống, tay chân quyết lạnh.

- Vân môn: Chữa ngực sườn đau tản sang lưng trên.

- Hoa cái: Chữa ngực sườn đau (xem: Tức ngực).

- Tam lý: Chữa sườn cách đau.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 08, 2018, 02:32:09 PM
5. Cách đau – Cách thống (năm thứ nghẹn, nghẹn hơi, khí cách)

- Thừa mãn, Nhũ căn: Chữa cách khí “Minh” (xem: Nghẹn).

- Chiên trung: Chữa ngực cách buồn bằn, ho hắng, ngắn hơi, hầu kêu “Hạ”.

- Cách du: Chữa cách đau (xem:Hạch hòn).

- Thương dương: Chữa ngực, cách đầy hơi.

- Túc lâm khấp: Chữa ngực cách tức, bứt dứt “Hạ” (xem: Đau má) khí tụ trong ngực, cách đau, hay mửa, cứu Quyết âm du số mồi theo tuổi “Thiên”.

- Ẩn bạch (xem: Nôn mửa), Cự khuyết: Chữa trong quyết không lợi “Minh hạ” giống thế.

- Thực đậu “Đồng” giống thế: Chủ trong cách kêu như sấm, thường có tiếng nước kêu óc ách “Minh hạ” nói: Chữa ở cách kêu, thường có tiếng nước.

- Có hơi trong cách, cứu Cự khuyết du, số mồi theo tuổi.

- Thiên trì: Trị ngực cách, tức buồn bằn “Đồng” (xem: Tức ngực).

- Chiên trung: Trị cách khí, nôn mửa ra bọt dãi.

- Suất cốc (xem: Đàm), Cách du: Trị cách vị có hàn đàm (xem: Nôn mửa).

- Phù đột: Chủ nghẹn khí “Thiên” (xem Hầu kêu).

- Thiên đột: Chữa hóc khí “Minh hạ” (xem: Đầu gáy sưng).

- Chướng môn: Chủ nghẹn (xem: Tích khí).

- Trung đình: Trị ngực, sườn, chi tức nghẹn “Đồng”.

- Đại chung: Trị ăn nghẹn không xuống (xem: Lậu).

- Quan xung (xem: Hoắc loạn), Thiên đột: Trị trong ngực khí nghẹn (xem: Đờm ngược khí lên).

- Chiên trung: Trị trong ngực như tắc “Minh hạ”. Kỳ Bá nói: Tích khí thành nghẹn khô.

- Thiên đột (xem: Hắng), Quan xung (xem: Thổ tả): Trị nghẹn khí.

- Nhũ căn: Chữa cách khí, đồ ăn không xuống, bệnh nghẹn. Chữa sốt rét lâu ngày, khí ở lưng, bứt dứt, khí trong ngực nghẹn “Hạ”.

- Thần đường (xem: Xương sống), Trung phủ (xem: Phế khí): Chữa hay nghẹn “Hạ”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 09, 2018, 09:17:27 AM
6. Lưng trên đau – Bối thống (xem thêm: Vai, lưng, lao khái)

- Kinh cừ, Khâu khư: Chủ ngực và lưng trên cấp “Thiên”.

- Phụ phân: Trị lưng trên dẫn lên đầu “Minh hạ” nói: Dẫn lên hàm.

- Cách quan, Trật biên, Kinh cốt: Chủ lưng trên lạnh dữ (ác hàn) mà đau, cột sống cứng khó cúi ngửa.

- Côn lôn: Chủ cột sống cứng, lưng trên và xương cụt nặng.

- Cách du: Trị lưng trên đau, lạnh dữ, cột sống cứng, khó cúi ngửa, ăn uống không xuống, nôn ựa, nhiều bọt dãi, nghẹn bứt dứt.

- Ý xá: Chữa lưng trên đau, phong hàn dữ, ăn không xuống, nôn mửa “Minh hạ” nói: Có ngực sườn trướng tức.

- Cự cốt: Trị lưng trên và cánh tay đau, trong ngực có huyết ứ, vai và lưng trên không gập duỗi được mà đau.

- Phách hộ: Trị lưng trên và cánh tay đau (xem: Khí lên).

- Thần đường: Trị lưng trên và xương sống cứng cấp (xem: Ngực, sườn tức).

- Đại chùy: Trị khí hậu không hợp, lưng trên, cánh tay như bó buộc phát sinh cấp.

- Thừa cân: Trị lưng dưới và lưng trên bắt buộc phải cấp?

- Bất dung: Trị ngực sườn và lưng trên cùng dẫn đau (xem: Hạch hòn).

- Kinh cừ: trị ngực và lưng trên bó buộc phải cấp? ngực tức căng.

- Ngư tế: Trị bại, đau chạy ở ngực và lưng trên (xem: Nóng rét).

- Phách hộ: Chữa bả vai và lưng trên bứt dứt “Hạ” giống thế. “Hạ” nói: Chữa ở bả vai và cánh tay đau cấp, lưng trên khí không thể dẫn, không ngoái cổ được, ho ngược lên, suyễn.

- Vị du: Chữa khí trong lưng trên đi xuống, cột sống đau, bụng sôi “Hạ”.

- Chí thất: Chữa lưng trên đau, không cúi ngửa được.

- Lưng trên đau cứu Cự khuyết hoặc Hung đường “Thiên”.

- Phế du: Chữa lưng trên còng như lưng rùa, sinh thời bị phong làm cho xương tủy bị như vậy, cứu Phế du, Tâmdu, Cách du mỗi chỗ đều 3 mồi.

- Y hy: Chữa ôn ngược, hàn ngược, bệnh ngược, lưng trên bứt dứt, khí tức, bụng trướng, choáng váng “Minh”, trong ngực đau, dẫn vào lưng trên và thắt lưng “Thiên” (xem: Ngực sườn).

- Liệt khuyết: Chữa ngực và lưng trên rét run (xem: Vai đau bại).

- Ngư tế: Chữa bại chạy ở ngực và lưng trên “Đồng” (xem: Nóng rét).

- Vân môn: Chữa ngực, sườn đau tản ra lưng trên “Minh” (xem: Khí lên).

 Lưng trên đau là do làm mệt gây ra, những người có nghề khéo, ví dụ như kẻ sỹ và con gái khắc khổ thường có nạn đó (học trò đọc sách, con gái kim chỉ, đều do khắc khổ mà thành đau lưng trên, lao về sắc cũng bị nạn đó. Tốn Cảnh Công là thế, duy chỉ có Cao hoang là yếu huyệt, tôi thường lấy Cao hoang ở cạnh, cách xương sống là 4 thốn 5 phân, ấn vào hơi đau, ấn đó đau dữ, bảo lấy mồi ngải nhỏ cứu 3 mồi, tức thì hết đau. Một hôm lại đau liền trên vai, đi cứu, chỗ đau trên vai hết, mới biết “Thiên Kim Phương” chỗ A thị huyệt. Lại tin mẹ Trung gặp nhiệt, chỗ huyệt Cao hoang ra mồ hôi lạnh, mấy năm trời, châm cứu mà khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 09, 2018, 04:48:44 PM
7. Vai, lưng trên đau buốt – Kiên bối toan thống (xem thêm: Lưng trên đau)

- Phù bạch: Trị vai và lưng trên không giơ lên được “Đồng”.

- Thần đường: Chữa vai, lưng trên liền với ngực đau, không thể cúi ngửa “Minh hạ”.

- Thương dương: Trị vai, lưng trên cấp dẫn vào khuyết bồn đau (xem: Hàm sưng).

- Y hy: Trị ôn ngược, vai và lưng trên đau (xem: Mũi chảy máu cam).

- Trung phủ: Chữa vai và lưng trên đau (xem: Phế khí).

- Thần đường: Trị vai đau, ngực bụng tức, nóng, rét, xương sống và lưng trên đau cấp “Minh” giống thế.

- Tam tiêu du: Chữa vai và lưng trên cấp, thắt lưng và cột sống cứng, không cúi ngửa được.

- Dũng tuyền: Chữa vai, lưng trên, cổ gáy đau “Thiên”.

- Thiên dũ, Khuyết bồn, Thần đạo, Đại trữ, Thiên đột, Thủy đạo, Cự cốt: Chủ vai và lưng trên đau.

- Cách du, Y hy, Kinh môn, Xích trạch: Chủ vai và lưng trên lạnh, cạnh trong bả vai đau.

- Thiên trụ: Trị vai và lưng trên đau muốn gẫy “Đồng”.

- Can du: Chữa vai đau “Minh” (xem: Thắt lưng).

- Khúc viên: Trị vai đau, bại chung quanh “Minh” giống thế, vai và xương cánh tay như bó buộc đau đớn “Đồng”.

- Kiên ngoại du: Trị vai bại, đau nóng mà lạnh đến khuỷu “Minh” giống thế. “Hạ” nói: Chữa vai đau, phát nóng rét, dẫn lên gáy cứng.

- Kiên tỉnh: Chữa cổ gáy không ngoái lại được, vai và xương cánh tay bứt dứt, hai bàn tay không đưa lên đầu được, hoặc do và đập mà bị hại.

- Vân môn (xem: Ngực tức), Bỉnh phong: Trị vai đau không giơ lên được.

- Kiên trinh: Trị trong vai đau nóng (xem: Phong bại).

- Thiên tông: Trị trong đầu xương bả vai đau.

- Thiên song: Trị vai và cánh tay đau dẫn vào gáy, không thể ngoái cổ được "Minh hạ” giống thế.

- Tiền cốc: Chữa xương cánh tay, bả vai và ngón út đau.

- Dưỡng lão: Chữa vai muốn gãy ra “Hạ” (xem: Cánh tay đau).

- Thiên tỉnh: Chữa vai đau không thể gập duỗi.

- Khúc trì, Thiên liêu: Chữa vai nặng đau, không thể giơ lên.

- Cự cốt: Chữa trong vai đau, không thể động đậy “Minh hạ” giống thế, vai, cánh tay không thể gập duỗi.

- Kiên ngoại du: Chữa bả vai đau mà lạnh đến khuỷu.

- Hâu khê: Chữa vai và bắp thịt vai đau (cơ đen ta).

- Tiền dạ: Chữa vai và trước nách đau cùng dẫn tới ngực.

- Thiên liêu: Chữa vai khuỷu tay dẫn đau lên cổ gáy, nóng rét đau trong hố đòn, mồ hôi không ra, trong ngực buồn bằn bứt dứt “Đồng”.

- Chướng môn: Chữa quyết nghịch, vai và cánh tay không giơ lên được.

- Thanh linh: Trị vai và cánh tay không giơ lên được, không thể mặc được áo.

- Kiên liêu: Trị vai nặng, không thể giơ cánh tay lên.

- Cự cốt: Chữa vai, chót tay không thể gập duỗi (xem: Đau lưng trên).

- Cự liêu: Trị vai dẫn vào ngực cánh tay đau (xem: Tay đau).

- Nhu du: Chữa nóng rét, vai sưng dẫn vào trong bả vai đau, cánh tay buốt không có sức.

- Chi câu: Chữa vai, cánh tay đau buốt nặng (xem: Cách).

- Uyển cốt: Chữa vai, cánh tay đau.

- Quan xung: Chữa vai, cánh tay đau buốt.

- Thiên tông: Chủ vai nặng, cánh tay đau.

- Chướng môn: Trị vai quyết nghịch, cánh tay không nhấc lên được.

- Thanh linh: Trị vai, cánh tay không giơ lên được, không thể mặc áo.

- Quan xung: Trị vai cánh tay buốt nặng.

- Chi câu: Trị vai cánh tay buốt nặng “Minh hạ” (xem: Nách).

- Liêt khuyết: Chủ vai, lưng trên rét run, khí ít không đủ thở, hàn quyết hai tay chéo nhau mà mắt mờ không nhìn rõ, thực thì vai và lưng trên nóng. Lưng trên ra mồ hôi, tứ chi sưng nhanh mạnh, hư thì vai lạnh run, không đủ hơi để thở.

- Thiên tỉnh: Chữa gáy, cổ, vai, lưng trên đau (xem: Khuỷu tay đau).

- Lưng trên và thắt lưng đau cứu Tam tiêu du.

- Đại chùy: Chữa lưng trên và cánh tay đau cấp (xem: Lao).

- Hạ tiêu du: Chữa lưng trên đau, mình nóng.

* Vai và lưng trên đau buốt, mọi nhà châm cứu đã biết tùy theo bệnh để châm cứu, hoặc đau trước ở trên lưng trên, rồi kéo dẫn lên vai, đó là Cao hoang làm bệnh. “Thiên kim – Ngoại đài” khẳng định rằng ấn vào đó tự thấy dẫn vào trong vai đau là đúng, khi cứu Cao hoang du thì vai và lưng trên tự nhiên không đau. Tôi thường đau vai và lưng trên, đã cứu Cao hoang du thì khỏi, lại cứu Kiên tỉnh 3 mồi, từ đó biết rằng tuy cứu Cao hoang mà chỗ khác cũng không thể không cứu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 09, 2018, 05:04:58 PM
8. Vai đau bại – Kiên bại thống (tê dại không giơ lên được)

- Thiên tỉnh: Chữa vai đau, yếu bại, không vận động được, không thể gập duỗi, thịt vai tê, không biết đau.

- Khúc viên: Chữa bại xung quanh xương bả vai.

- Kiên trinh, Kiên ngung, Quan xung: Chủ nóng trong vai, đầu không ngoái lại được.

- Khúc trì, Thiên liêu: Chữa vai nặng đau, không giơ lên được.

-Thanh lãnh tuyền, Dương cốc: Chủ vai không giơ lên được, không mặc được áo.

- Thiên tỉnh: Chữa khuỷu tay đau dẫn lên vai, không gập duỗi được (xem: Khuỷu tay).

- Kiên ngoại du: Chữa vai bại.

- Khúc viên: Chữa  bại chung quanh vai (xem: Vai, lưng trên).

 * Hai đầu vai lệch nhau thường không phải tự nhiên, tôi thường thấy người trúng gió, xương cánh tay lòi trắng ra, không nối liền với vai, phần lớn có chữa mà không khỏi. Và mới thấy trên vai lạnh đau, trước hết cứu huyệt Kiên ngung. Tôi hồi trung niên, một lần gặp tháng rét, trên vai lạnh nhiều, thường lấy hai lòng bàn tay úp vào nhau xoa, đêm nằm thường mang tất tay, giữ gìn cẩn thận mới không lạnh, sau cứu Kiên ngung thì khỏi. Huyệt Kiên ngung có quan hệ với hai lòng bàn tay, huyệt Hoàn khiêu có quan hệ với hai chân, không thể không cứu ở đó.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 10, 2018, 03:31:08 PM
9. Đau cánh tay – Tý thống (Cánh tay không có sức)

- Khúc trì: Chữa khuỷu, cánh tay một bên nhỏ “Minh hạ” (xem: Khuỷu).

- Kiên ngung: Chữa cánh tay nhỏ đi, không có sức, buốt đau, cánh tay lạnh mà trùng, trễ ra “Minh”.

- Tý nhu, Kiên ngung: Chữa cánh tay nhỏ đi, không có sức, bàn tay không giơ được lên đầu.

- Thiếu hải (xem: Tràng nhạc), Nhũ căn, Thính cung: Chữa đau cánh tay.

- Trung trữ, Khổng tối, Chi chính, Trửu liêu: Chữa khuỷu cách tay buốt đau (xem: Đau khuỷu tay).

- Giản sử: Chữa cánh tay sưng đau, gập duỗi khó “Hạ”.

- Kiên liêu: Chữa vai nặng, không giơ lên được, cánh tay đau.

- Biển cốt (tức Kiên ngung): Chữa trong vai nóng, ngón và cánh tay đau.

- Nhũ căn: Trị cánh tay sưng “Đồng”.

- Thái uyên: Trị cạnh trong cánh tay đau.

- Cự liêu: Chữa thắt lưng đau dẫn vào bụng dưới, vai đau dẫn vào ngực và cánh tay co cấp, bàn tay không giơ được đến vai.

- Tý nhu (xem: Tràng nhạc), Trửu liêu: Chữa cánh tay không giơ lên được (xem: Khuỷu tay).

- Thính cung: Chữa cánh tay đau.

- Khổng tối: Chữa cánh tay quyết đau, có thể châm.

- Dương cốc: Trị cạnh ngoài cổ tay, cách tay đau, không giơ lên được.

- Dạ môn (xem: Họng sưng), Tiền cốc: Trị cánh tay không giơ lên được.

- Dương trì: Trị do tổn thương gẫy ở cổ tay, nắm vật không được, vai và cánh tay đau không giơ lên được.

- Cực tuyền: Trị cánh tay, khuỷu tay quyết lạnh.

- Thanh lãnh uyên: Trị bắp thịt vai nhẽo ra, vai và cánh tay không thể mặc được áo.

- Dưỡng lão: Trị vai muốn gẫy, cánh tay như rời ra (“Minh hạ” chép là bàn tay), cánh tay đau không thể tự xuống.

- Nhu du: Trị cánh tay buốt không có sức (xem: Vai đau).

- Chướng môn: Trị quyết nghịch, vai và cánh tay không giơ lên được.

- Cự cốt: Chữa vai và cánh tay không thể gập duỗi, mà đau đớn (xem: Vai đau).

- Nhu hội: Trị cánh tay đau không thể giơ lên được, khí thũng, đau trong ống.

- Kiên ngung: Trị bàn tay và cánh tay co cấp (xem: Phong nửa người).

- Xích trạch, Kiên trinh: Trị phong bại bàn tay và cánh tay không thể giơ lên được.

- Hợp cốc: Trị cánh tay yếu mệt.

- Dương khê: Trị cánh tay không giơ lên được (xem: Khuỷu tay).

- Thiên tông, Ngũ lý: Chữa cánh tay đau.

- Hậu khê: Trị cánh tay đau cấp.

- Khiếu âm, Uyển cốt: Trị cánh tay không duỗi.

- Phụ phân: Trị cánh tay không thể hoạt động được (xem thêm: Khuỷu tay).

- Cự cốt, Tiền cốc: Chủ cánh tay không giơ lên được.

- Xích trạch, Quan xung, Ngoại quan, Khiếu âm: Trị cánh tay không giơ lên được tới đầu.

- Tiền dạ: Chủ cánh tay co cấp, bàn tay không giơ lên được.

- Thần môn, Thiếu hải: Chủ cánh tay co, màu sắc khô sác, lao khí, mất tinh.

- Vai và cánh tay đau, không đưa lên đầu được, cứu Kiên ngung 100 mồi.

- Dạ môn: Chủ cánh tay đau.

- Kiên liêu, Thiên tông, Dương cốc: Trị cánh tay đau, khuỷu tay co.

- Tiền cốc, Hậu khê, Dương khê: Chủ cánh tay nặng đau, khuỷu tay co.

- Thái tuyền, Kinh cừ: Chủ cạnh trong cánh tay đau.

- Uyển cốt, Khúc trì, Tiền cốc, Dương cốc: Chủ cánh tay và cổ tay, cạnh ngoài cổ tay đau như rời ra.

- Uyển cốt, Thiên tông: Chủ vai và cánh tay đau (xem: Vai, lưng trên đau).

- Liệt khuyết: Chủ bàn tay, cánh tay, mình nóng.

- Hậu khê, Tam lý, Khúc trì: Chữa cánh tay đau “Minh” xem: Khuỷu tay đau.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 10, 2018, 04:18:07 PM
10. Nách đau - Hạ thống

- Túc lâm khấp: Trị tức ngực, trong hố đòn và nách sưng (“Minh hạ” giống thế), mã đao sang (mụn nhọt ở cổ) phá thành dò hay cắn môi, sưng ở trong, ống chân sưng buốt, mắt hoa, khớp xương đau, rét run “Đồng”.

- Khâu khư: Chữa dưới nách sưng, mệt xỉu, ngồi không đứng dậy được, đau trong khu mông, mắt sinh màng che, đùi và ống chân buốt, chuột rút, đau sóc, bụng dưới rắn, nóng rét, cổ sưng.

- Y hy: Chữa nách bó buộc co rút mạnh dẫn vào sườn đau.

- Thiên phủ: Chữa đùi, nách co rút cấp (xem: Buồn lo).

- Thiếu hải: Chữa khuỷu tay và nách sưng, bụng dưới đau, tứ chi không giơ lên được.

- Chi câu: Trị vai, cánh tay buốt nặng, sườn nách đau, tứ chi không giơ lên được.

- Thiên trì (xem: Nách đau), Đảm du, Ủy dương (xem: Thi quyết), Dương phù (xem: Đầu gối đau): Trị sưng dưới nách.

- Gian sử: Trị trong bàn tay nóng, nách sưng, khuỷu tay co (xem: Cuồng).

- Địa ngũ hội, Dương phụ, Thân mạch, Ủy dương, Thiên trì, Lâm khấp, Hiệp khê: Chủ sưng dưới nách.

- Đại lăng: Chủ khuỷu tay co, nách sưng.

- Lâm khấp: Chủ sưng dưới nách, tức trong ngực.

- Khâu khư, Dương kiều: Chủ nách sưng, nóng rét, sưng cổ.

- Thiếu hải: Chữa dưới nách có hạch lao (Lao dịch: Ổ gà).

- Thừa cân: Chủ nách sưng (xem: Trĩ).

* Dưới nách sưng đau, mụn nhọt ở dưới nách, rất nên chữa sớm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 10, 2018, 04:25:35 PM
11. Lao cổ tay – Uyển lao

- Khúc trì, Uyển cốt: Chủ cổ tay cấp “Thiên” (xem: cánh tay đau).

- Dương khê: Chữa cạnh ngoài cánh tay đau, cổ tay đau không giơ lên được “Minh”.

- Liệt khuyết: Chữa lao cổ tay, cánh tay, khuỷu tay đau “Đồng” nói: Bàn tay, cổ tay không có sức.

- Thiên lịch: Chữa cánh tay trên, cổ tay, khuỷu tay buốt đau khó gập duỗi.

- Ngoại quan: Chữa khuỷu tay, cổ tay nặng buốt.

- Hậu khê: Chữa khuỷu tay, cánh tay, cổ tay nặng (xem thêm: Bàn tay co).

- Thông lý: Chữa khuỷu tay, cổ tay buốt nặng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 12, 2018, 09:08:37 AM
12. Đau khuỷu tay – Trửu thống (Trửu co không hoạt động được)

- Tiền cốc, Hậu khê, Dương khê: Chủ khuỷu tay co.

- Ngư tế, Linh đạo: Chủ khuỷu tay co, đầy tức.

- Đại lăng: Chủ khuỷu tay co, nách sưng.

- Trung lữ du, Y hy: Chủ nách co.

- Khúc trì: Chủ đau trong khuỷu tay (xem: Cánh tay).

- Khúc trì, Uyển cốt, Nhu hội, Chi câu, Trửu liêu: Chủ khớp khuỷu bại, cánh tay buốt nặng, nách đau cấp, khuỷu tay khó gập duỗi.

- Trung xung: Chủ khuỷu tay đau, không thể tự mặc áo.

- Giản sử: Chủ cạnh trong khuỷu tay đau.

- Khúc trì, Tam lý, Quan xung, Trung trữ, Dương cốc, Xích trạch: Chủ khuỷu tay đau, có khi rét.

- Khúc trì: Chủ khuỷu tay đau (xem: Tứ chi quyết).

- Kiên ngoại du: Chủ khuỷu tay lạnh (xem: Vai lưng trên đau).

- Thiên tông: Trị cạnh ngoài và sau  khuỷu tay đau “Đồng”.

- Thiên liêu: Trị vai và khuỷu tay đau (xem: Vai và lưng trên đau).

- Trửu liêu: Trị khớp khuỷu phong bại, cánh tay đau không giơ lên được, gấp duỗi cong cấp “Minh hạ” nói: Khuỷu cánh tay buốt nặng, tê bại không hoạt động được.

- Ngư tế: Chữa khuỷu tay co, chi tức.

- Linh đạo (xem: Đau tim), Xích trạch, Thiếu hải (xem: Nách sưng): Trị khuỷu tay co (xem: Phong bại).

- Chi chính, Nội quan (xem: Trúng gió), Dương khê: Trị co giật cong quắp, khuỷu cánh tay không giơ lên được.

- Cực tuyền: Trị khuỷu cánh tay quyết lạnh.

- Khiếu âm (xem: Hầu bại), Thủ tam lý: Trị bàn tay, khuỷu tay, cánh tay không co duỗi.

- Hậu khê: Trị cánh tay, khuỷu tay co quắp.

- Phụ phân: Trị khuỷu tay, cánh tay không hoạt động được (xem: Phong lao).

- Uyển cốt: Trị khô một bên, khuỷu cánh tay không co duỗi được.

- Ngũ lý (xem: Phong lao), Thiên tỉnh (xem: Phong bại), Hạ liêm: Trị khuỷu cánh tay đau.

- Xung dương (xem: Miệng méo), Khúc trì: Trị đau trong khuỷu tay.

- Ngư tế: Chữa khuỷu tay co, cánh tay tức, trong hầu khô, khát, khí lên “Minh”.

- Thiên lịch (xem: Cổ tay), Tam lý: Chữa khuỷu tay, cánh tay buốt nặng, gập duỗi khó “Hạ”.

- Trung chữ: Chữa khủy tay, cánh tay buốt đau (xem: Bàn tay co).

- Thái uyên: Chữa khuỷu tay.

- Khúc trì: Chữa khuỷu tay đau, gập duỗi khó, bàn tay không giơ lên được, phong một bên, bán thân bất toại, nắm vật không được, kéo cung không mở, khuỷu cánh tay một bên nhỏ đi.

- Khổng tối: Chữa khuỷu cánh tay quyết đau, co duỗi khó, bàn tay không nắm được.

- Chi chính: Chữa khuỷu cánh tay co, khó gập duỗi, bàn tay không nắm được, đau hết 10 ngón tay.

- Trửu liêu: Chữa khuỷu cánh tay buốt nặng, không thể gập duỗi, tê bại, không thể hoạt động được.

- Thiên tỉnh: Chữa khuỷu tay đau dẫn lên vai, không thể gập duỗi, gáy, cổ và vai, lưng trên đau, cánh tay yếu không thể hoạt động được.

- Dịch môn: Chữa khuỷu tay đau không thể đưa lên, xuống.

- Liệt khuyết: Chủ đau trong khuỷu tay.

 * “Giáp - Ất” kinh nói: Ngũ lý ở khuỷu tay lên 3 thốn, giữa mạch lớn. “Ngọc Thiên Thoát Trửu” nói: Khớp cánh tay, đó là khớp ở dưới của cánh tay, “Mật tử” sách sử về giắc, sách về người giúp việc quan, mà xiết ở khuỷu, đúng là khớp cánh tay, gặp lấy ở đó mà tìm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 12, 2018, 09:27:39 AM
13. Bàn tay tê bại, không hoạt động được – Thủ ma bại bất nhân

- Trung phong: Trị thân thể không hoạt động được “Đồng”.

- Thiếu thương: Chủ bàn tay không hoạt động được “thiên”.

- Kiên trinh: Chủ bàn tay tê, không giơ lên được.

- Nội đình: Chủ tứ chi quyết, tay chân bứt dứt.

- Liệt khuyết: Chủ tứ chi quyết hay cười.

- Khúc trì, Chi câu, Nhu hội, Uyển cốt, Trửu liêu: Chủ khớp bại.

- Khúc trì, Thiên tỉnh, Ngoại quan: Chủ cánh tay yếu không hoạt động được.

- Bạch hoàn du: Chữa tay chân không hoạt động được “Minh hạ” (xem: Cột sống).

- Khúc trì: Chủ bàn tay không giơ lên được. Lại chủ bàn tay không nhấc vật nặng được, cổ tay cấp, đau trong khuỷu tay, khó gập duỗi.

- Giản sử: Chủ bàn tay đau.

- Dương khê: Chủ cạnh ngoài cánh tay đau, cổ tay không giơ lên được.

- Lao cung, Thái tuyền, Kinh cừ, Liệt khuyết: Chủ lòng bàn tay nóng, đau trong khuỷu, Trung xung, Thiếu xung: (“Minh” giống thế).

- Lao cung: Chữa lòng bàn tay đầy mụn nhọt, bàn tay bại (“Đồng” nói: Bàn tay bại, da bàn tay nổi những mảnh trắng) “Minh”.

- Phụ phân: Chữa bàn tay, cánh tay không hoạt động được (xem: Phong một bên người).

- Trửu liêu, Thiên tỉnh: Chữa khuỷu cánh tay không hoạt động được “Minh hạ” (xem: Khuỷu tay đau).

* Có một người sang trọng, ngón tay giữa co, xong rồi thì ngón nhẫn và ngón út cũng co, thầy thuốc làm cứu ở vai, hông, Khúc trì, Chi câu mà khỏi. Chi câu ở sau cổ tay lên 3 thốn, hoặc cứu phong tật thường chẳng cứu Chi câu, chỉ Hợp cốc mà thôi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 12, 2018, 03:35:34 PM
14. Ngón tay co – Thủ chi đoan (xem: Bàn tay tê)

- Dưỡng lão: Chủ bàn tay không lên xuống được “Thiên”.

- Âm giao: Chủ tay chân bó buộc co lại (câu loan).

- Thái lăng: Chủ bàn tay co không duỗi được.

- Tâm du, Can du: Chủ cân cấp cùng dẫn bàn tay (xem: Chuyển gân, chuột rút).

- Thiếu thương: Trị bàn tay co, ngón tay đau “Đồng”.

- Thiếu phủ: Trị trong lòng bàn tay nóng, đùi nách co cấp, trong ngực đau, bàn tay co không duỗi ra được.

- Thiếu xung: Chữa bàn tay cong không duỗi ra được “Minh Đường Thượng” nói: Trị bàn tay co không duỗi, dẫn lên mắt đau.

- Ngoại quan: Chữa khuỷu tay, cổ tay bưốt nặng, co duỗi khó, 10 ngón tay đau, không nắm vào được. “Minh hạ - Đồng nhân” nói: Khuỷu cánh tay không gập duỗi được, 5 ngón tay không nắm được vật.

- Hậu khê: Chữa khuỷu tay, cổ tay, cánh tay nặng, khó gập duỗi, đau hết năm ngón tay, không thế xiết (kéo ra, hoặc giằng co, co kéo).

- Trung chữ: Chữa khuỷu tay, cánh tay buốt đau, 5 ngón tay không thể nắm lại được. “Đồng nhân” nói: Trị họng sưng, khuỷu tay cánh tay đau, 5 ngón không thể co duỗi.

- Uyển cốt, Trung chữ: Chủ 5 ngón tay xiết, không thể gập duỗi.

- Thái lăng: Chủ bàn tay xiết, bé một bên.

- Xích trạch: Chủ xiết đau, ngón tay không thể duỗi.

- Trị ngón tay, chân xiết đau không chịu được: Cứu đầu chót ngón 7 mồi, khỏi ngay.

- Uyển cốt: Trị động kinh, 5 ngón tay xiết “Đồng”.

- Biển cốt: Chữa cánh tay, ngón tay đau “Minh hạ” (xem: Ngón tay đau).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 14, 2018, 10:48:31 AM
15. Bàn tay nóng – Thủ nhiệt (Bàn tay lạnh, bàn tay trong vắt)

- Trẻ em khi ăn đau đầu và ngũ tâm nhiệt, cứu Y hy mỗi chỗ 1 mồi “Minh hạ”.

- Nội quan: Chủ trong bàn tay phong nhiệt “Thiên”.

- Trung xung, Thiếu xung, Thái tuyền “Minh hạ” giống thế, Lao cung, Kinh cừ, Liệt khuyết: Chủ lòng bàn tay nóng, khuỷu đau.

- Đại khê: Chủ chân tay lạnh đến khớp.

- Khúc trạch: Chủ bàn tay trong vắt, nghịch khí.

- Cự khuyết: Chủ bàn tay trong vắt.

- Kinh cừ, Liệt khuyết (xem: Phong một bên), Thiếu xung (xem: Thương hàn, Trung đình (xem: Đau tim), Giản sử (xem: Cuồng).

- Thái uyên: Chữa lòng bàn tay nóng.

- Giản sử: Chữa nóng trong lòng bàn tay.

- Trung xung: Chữa lòng bàn tay nóng (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

- Dương lăng tuyền: Trị chân lạnh (xem: Đầu gối).

- Đại đô: Trị tay chân nghịch lãnh (xem: Bụng đầy tức).

- Thiếu thương: Chữa lòng bàn tay nóng (xem: Ngón tay co).

- Phong long: Chữa quyết nghịch (xem: Thi quyết).

- Nội đình, Chướng môn: Trị quyết nghịch.

- Hành gian: Trị tứ chi lạnh.

- Khúc trì, Kiên ngoại du: Chủ khuỷu tay lạnh “Thiên” (xem: Khuỷu).

- Đại khê: Chủ chân tay lạnh (xem: Bụng sườn đau).

* Ngũ tâm nhiệt, chứng của trẻ em thương thực đó, người lớn cũng thế. Nếu như bàn tay, chân lạnh, mát quá khớp, chứng ác đó cần biết, gặp thì sớm tùy chứng mà châm. Mát là do hàn “Lễ Ký” nói: Đông ôn nhi hạ thanh, châm cứu là đủ rồi, theo cách ở tứ chi quyết.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 14, 2018, 11:04:21 AM
16. Chân tê bại, không hoạt động được (Ma bại bất nhân)

- Chí âm: Chủ phong hàn bắt đầu từ ngón chân út, mạch bại trên dưới “Thiên”.

- Âm lăng tuyền: Chủ chân bại đau.

- Trung đô: Chủ chân thấp bại không đi được.

- Dương phụ, Dương giao, Dương lăng tuyền: Chủ khu hông và xương đầu gối bại, không họat đông được.

- Dương quan, Hoàn khiêu, Thừa cân: Chủ ống chân bại không hoạt động được.

- Yêu du, Phong phủ: Chủ chân không họa động được.

- Bàng quang du, Đại khê, Thứ liêu: Chủ chân mát không hoạt động được. Dương quan: Chủ ống chân bại (xem: Tạp bệnh ở chân).

- Phù khích: Trị vùng hông không hoạt động được “Đồng” (xem: Tạp bệnh ở chân).

- Bàng quang du: Trị bàn chân không hoạt động được.

- Bạch hoàn du: Chữa tay, chân không hoạt động được “Minh hạ” (xem: Cột sống).

- Thượng liêm: Trị tay chân không hoạt động được “Đồng” (xem: Phong một bên người).

- Độc tỵ, Bễ quan, Dương lăng tuyền: Chủ đầu gối không hoạt động được (Liệt Tử chép: Phát kỳ Thận tắc bất túc, bất năng hành. Nghĩa là: Cái chân không đi được, cái Thận có bệnh, vậy phải cứu Thận du, nếu không khỏi nên cứu thêm Hoàn khiêu, Phong thị, Độc tị, Tất quan, Dương lăng tuyền, Âm lăng tuyền, Tam lý, Tuyệt cốt). Nhưng mà ấn sơ qua, có đau đớn tức là chỗ bị bệnh, cứu đó không thể không khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 15, 2018, 08:28:58 AM
17. Chân không đi được – Túc bất năng hành (Không đứng được, không khép vào được)

- Tam âm giao: Chữa không đi được “Minh hạ”.

- Thượng liêm: Trị thở suyễn, không đi được (xem: Đau sườn).

- Hợp dương: Chữa đặt bước khó (xem: Đau thắt lưng, cột sống).

- Thiên trụ, Hành gian: Chủ chân không chịu nổi mình “Thiên” và “Đồng” cũng thế.

- Kinh môn: Chủ thắt lưng đau, không đứng được.

- Nhiên cốc: Trị ống chân buốt không thể đứng lâu được “Đồng” (xem: Mất tinh).

- Thừa sơn: Chữa run bật lên, không đứng được (xem: Thắt lưng, bàn chân).

- Lậu cốc: Chữa không đứng được lâu “Minh hạ” (xem: Chân nóng rét).

- Phi dương: Chữa chân tay nặng, không ngồi xuống đứng lên được, bước đi không thu gọn, đầu bàn chân buốt nặng, run, không thể ngồi lâu.

- Phụ dương: Chữa không đứng lên được, ngồi xuống không đứng lên được (xem: Thắt lưng và gót chân đau).

- Thân mạch: Chữa ống chân lạnh, không đứng lâu được, ngồi giống như ngồi trên cái xe một bánh (choáng váng) “Đồng” (xem: Thắt lưng, bàn chân).

- Trung đô: Chủ không đi được (Quang minh cũng thế), không đứng dậy được.

- Tam lý: Chủ không đứng được (xem thêm: Nóng lạnh).

- Phù bạch: Chữa chân chậm chạp, không thu gọn được “Thiên”.

- Tam lý, Xung dương, Bổ tham, Phi dương, Phục lưu, Hoàn cốt: Chữa chân yếu, bước đi không gọn.

- Hạ liêm: Chữa co giật, bại mu bàn chân, không co về được (xem: Ung vú).

- Phong long (xem: Tứ chi quyết), Tỳ du: Chữa tứ chi không thu về được “Đồng” (xem: Bụng trướng).

- Chi câu: Trị tứ chi không thu về được.

- Khúc tuyền, Đại cự: Chủ tứ chi không thu về được (xem thêm: Tứ chi quyết).

- Tam lý: Chủ không đứng được lâu (xem: Nhổ ra máu, hư tổn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 15, 2018, 08:45:39 AM
18. Chân nóng, rét

- Chí âm: Chủ phong hàn bắt đầu từ ngón chân út.

- Thận du, Kinh cốt, Nhiên cốc: Chủ chân lạnh, Âm thị: Chủ trong Phục thỏ (cơ Tứ đầu đùi) trên đầu gối lạnh.

- Hành gian: Chủ quyết, dưới chân nóng.

- Trung đô: Chủ dưới chân nóng, ống chân lạnh, không đứng lâu được, thấp bại không đi được.

- Tam lý, Điều khẩu, Thừa sơn, Thừa cân: Chủ dưới chân nóng không đứng  lâu được.

- Ủy trung: Chữa chân nóng, quyết nghịch, tức, lấy máu ở kinh đó khỏi ngay “Đồng”.

- Dũng tuyền: Trị dưới chân nóng, suyễn, tức đầy, nhiệt quyết. Tề Vượng bị nạn đó, châm Dũng tuyền mà khỏi.

- Chí âm: Trị nóng ở dưới.

- Nhiên cốc: Trị một chân nóng, một chân lạnh (xem: Không thể đứng được).

- Đại đô: Chữa chân tay nghịch lãnh (xem: Bụng đầy).

- Ẩn bạch (xem: Thi quyết), Thái xung: Trị chân lạnh (xem: Đái khó).

- Trung phong: Trị chân nghịch lạnh (xem: Ngược).

- Dương lăng tuyền: Trị chân lạnh, không có màu máu (xem: Đau đầu gối).

- Phục lưu: Chủ ống chân lạnh không ấm lên được “Thiên”.

- Lậu cốc: Chữa chân nóng, đùi lạnh đau, không thể đứng lâu, tê bại không thể hoạt động được “Minh hạ”.

* Sử ký ghi rằng: Tề Đắc Vương có Á mẫu bị chân nóng bứt dứt. Thái Thương Công nói rằng: Nhiệt quyết, châm ở lòng bàn chân ba chỗ, bệnh khỏi hết. Bị bệnh do uống rượu quá say.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 18, 2018, 10:50:16 AM
19. Tạp bệnh ở chân – Túc tạp bệnh

- Bổ tham: Chữa gót chân đau không đặt xuống đất được, bàn chân yếu, chuột rút.

- Phù khích: Trị gân bàn chân và đùi cấp, khu hông không hoạt động được.

- Phụ dương: Trị khu hông đùi, ống chân đau (xem: Phong bại).

- Phi dương: Chữa ngón chân cái không gập duỗi được (xem; Lịch tiết phong = Thấp khớp).

- Kinh cừ: Trị lòng bàn chân đau “Đồng” (xem: Nhiệt bệnh không có mồ hôi).

- Trúc tân: Trị đầu bàn chân đau.

- Thừa cân: trị đầu bàn chân buốt (xem: Chuột rút).

- Dũng tuyền: Trị kết nhiệt ở trong tim, chân không đặt xuống đất được. “Minh hạ” nói: Chữa đau các ngón chân, không thể dẫm xuống đất. “Thiên” nói: Dũng tuyền, Nhiên cốc: Chủ đau hết ở năm ngón chân, không thể đi đất được.

- Tam âm giao: Chữa chân yếu không đi được (xem: Đầu gối và bàn chân đau).

- Thượng liêm: Chữa bàn chân nặng, không đi xuống đất được (xem: Cước khí).

- Côn lôn: Chữa bà chân nặng, sưng không đi được.

- Nhiên cốc: Chữa mu bàn chân sưng không đi được.

- Trung đô: Chủ ống chân lạnh (xem: Chân nóng rét).

- Tuyệt cốt: Cứu 100 mồi, trị phong mình nặng, ống chân lạnh (xem: Trúng gió).

- Điều khẩu, Đại khê: Chữa ống chân lạnh “Minh” (xem: Chân tê).

- Lương khâu: Chữa co giật, ống chân đau, bại lạnh, đầu gối đau không gập duỗi được.

“Nạn Kinh Sớ” nói: Ỗng chân lạnh, Thận chủ xương, có bệnh trước hết lạnh ở ống chân, gặp thì lấy đó mà cầu.

- Nhiên cốc: Chân không yên, ống chân buốt không thể đứng lâu được “Thiên”.

- Dũng tuyền, Thái xung: Chủ ống chân tê buốt.

- Chí dương: Chủ ống chân đau, tứ chi nặng, ít hơi khó nói.

- Thừa sơn, Thừa cân: Chủ bàn chân, ống chân buốt, bàn chân cấp, gót chân, gân bàn chân đau cấp.

- Hoàn khiêu, Nội đình: Chủ ống chân đau, không thể gập duỗi.

- Dương quan: Chủ ống chân bại, không hoạt động được.

- Chí dương: Chủ ống chân buốt “Đồng” (xem: Nóng rét).

- Bàng quang du: Chữa ống chân lạnh, không thể gập duỗi.

- Khâu khư: Chữa cổ chân không thu lại được, ống chân một bên nhỏ “Minh”.

- Phục lưu: Chủ ống chân lạnh “Thiên” (xem thêm: Lạnh).

- Hoàn khiêu, Thúc cốt, Giao tín, Tam âm giao, Âm cốc: Chủ trong khu hông đau không thể giơ lên được.

- Lâm khấp, Tam âm giao: Chủ trong hông đau, không đi được, da ngoài chân đau.

* Phàm đau trong khu hông, không giơ lên được, lấy hào kim để lạnh mà lưu, lấy mặt trăng sinh tử làm số, khỏi ngay.

- Khâu khư: Chủ khu hông và bàn chân đau.

- Dương phụ: Chủ khu hông không hoạt động được (xem: Chân tê bại).

* Bệnh đầu gối trở lên nên cứu Hoàn khiêu, Phong thị.

* Bệnh đầu gối và dưới đầu gối, nên cứu Độc tỵ, Tất quan, Tam lý, Dương lăng tuyền.

* Bệnh từ mắt cá chân trở lên, nên cứu Tam âm giao, Tuyệt cốt, Côn lôn          .

* Bệnh từ mắt cá chân trở xuống, nên cứu Chiếu hải, Thân mạch, nhưng cần ấn chỗ nào buốt đau chỗ đó mới hiệu quả.

- Bễ quan: Chữa đầu gối lạnh, không hoạt động được, bại yếu không gập duỗi được.

- Lương khâu: Chữa ống chân đau lạnh, bại, đầu gối đau, không thể gập duỗi được.

- Huyền chung: Chữa đùi và đầu gối với ống chân tê bại, khó gập duỗi. “Hạ” lại nói: Đầu gối, ống chân liền với thắt lưng đau, gân co cấp, chân đi không gọn, ngồi không dậy được.

- Lãi câu: Chân lạnh ống chân đau buốt, gập duỗi khó (xem: Sán).

- Cự hư: Chữa ống chân buốt đau, gập duỗi khó, không thể đứng lâu được. “Châu Quyền” nói: Chủ đại khí bất túc, phong một bên, luẩn quẩn ở đùi, chân không theo ý.

- Phong thị: Chữa ống chân tê, đầu gối đau (xem: Thắt lưng và chân).

- Tam lý: Chữa tứ chi sưng đầy, đùi, gối buốt đau.

- Tam âm giao: Đau cạnh trong đùi gối, đái khó, mình nặng, chân yếu không đi được.

- Kinh cốt: Chữa đùi, đầu gối, ống chân không co duỗi được, bệnh điên chạy cuồng.

- Phụ dương: Chữa đùi, gối, ống chân buốt (xem: Thắt lưng, chân).

- Thừa sơn: Chữa chân buốt, đầu gối nặng (xem: Thắt lưng, chân).

- Dương lăng tuyền: Chữa cạnh trong chân và đùi đau, không hoạt động được, khó gập duỗi.

- Phong thị: Chủ hai đầu gối đau, co, dẫn lên bó buộc ở mạng sườn, đơn què, hoặc xanh, hoặc úa, khô hoặc hầm như gỗ mục.

- Tuyệt cốt: Chữa xương đầu gối, ống chân lỏng lẻo, đu đưa buốt, bại không hoạt động được.

- Bễ quan: Chủ đầu gối lạnh, không hoạt động được, yếu bại không gập duỗi được “Minh” cũng thế.

- Độc tỵ: Chủ đầu gối không hoạt động được, khó quỳ.

- Quang minh: Chủ yếu què, ngồi không đứng dậy được, tay chân một bên nhỏ, không ngồi lâu được.

- Tất quan: Chủ cạnh trong đầu gối đau, dẫn vào xương bánh chè không thể gập duỗi.

- Khúc tuyền, Lương khâu, Dương quan: Chủ gân co, đầu gối không thể gập duỗi, không đi được.

- Khúc tuyền: Chủ đầu gối không thể gập duỗi được.

- Giải khê, Điều khẩu, Khâu khư, Thái bạch: Chủ đầu gối, đùi thẳng, cẳng chân buốt, chuột rút.

- Thượng liêm: Chủ phong thủy đầu gối sưng “Thiên”.

- Trung phong: Chủ gối sưng (xem: Thận thấp).

- Giải khê: Trị đầu gối, đùi, cẳng chân sưng “Đồng” (xem: Phong).

- Phục lưu: Chủ cạnh sau chân cấp, không thể đi ở phía trước.

- Thừa sơn, Thừa cân: Chủ gân ở chân đau cấp.

- Côn lôn: Chủ chân như dính lại, chân như rời ra “Đồng” chép là: liệt.

- Kinh cốt, Thừa sơn, Thừa cân, Thương khâu: Chủ cân co.

- Bàng quang du: Chữa bó buộc cấp (xem: Tạp bệnh ở chân).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 18, 2018, 04:00:35 PM
20. Cước khí

Có người học trò cần cù, một lòng chỉ chú ý vào học tập. Ngồi, đi, đứng lâu ở chỗ đất thấp, gió lạnh lại kích nhập vào kinh lạc, bất giác thành bệnh. Gió độc theo đó trúng vào người, hoặc trước hết trúng vào 10 đầu ngón chân, ngón tay, do mồ hôi ra làm cho mở lỗ chân lông. Hoặc trúng vào lòng bàn chân, hoặc trúng vào mu bàn chân trước, hoặc trúng đầu gối trước rồi xuống ống chân. Nếu muốn phòng để không thành bệnh, thì lúc mới đầu cứu ngay chỗ đó vài chục mồi. Nếu chỉ cứu mà không uống thuốc tán, uống thuốc tán mà không cứu thì nửa khỏi, nửa chết. Tuy có khỏi chỉ một vài năm sau lại phát động, nếu thấy triệu chứng sẽ đúng phép châm cứu và uống thuốc tán thì mười người khỏi cả mười.

Bắt đầu cứu Phong thị, sau cứu Phục thỏ, thứ nữa Độc tỵ, thứ nữa Tất nhãn (một phép kỵ cứu), thứ nữa Tam lý, thứ nữa Thượng liêm, thứ nữa Hạ liêm, thứ nữa Tuyệt cốt, phàm là 8 chỗ.

Một là: Phong thị 100 mồi, nếu nhẹ thì có thể dưới 100 mồi, nặng thì một chỗ có thể 5 – 6 trăm mồi.

Hai là: Phục thỏ 100 mồi, có thể 50 mồi.

Ba là: Độc tỵ 50 mồi cũng có thể 100 mồi.

Bốn là: Tất nhãn.

Năm là: Tam lý 100 mồi.

Sáu là: Thượng liêm 100 mồi.

Bảy là: Hạ liêm 100 mồi.

Tám là: Tuyệt cốt.

Tất cả các huyệt đó, không cần thiết một lần cứu đủ số mồi, có thể mỗi ngày cứu 1 lần, trong vòng ba ngày cứu đủ số mồi là tốt.

Phàm bệnh một chân thì cứu một chân, bệnh hai chân thì cứu hai chân, phàm yếu chân đều cứu hai chân. Có một phương nói: Như lấy chân ác sẽ cứu Tam lý và Tuyệt cốt, các huyệt ở một chỗ hai chân ác, hợp là bốn chỗ cứu, số mồi nhiều ít tùy theo bệnh nặng nhẹ. Đại khái tuy nhẹ không thể dưới 100 mồi, không khỏi thì nhanh chóng cứu lần nữa, cứu nhiều càng tốt.

Một thuyết nữa nói: Cứu Tuyệt cốt là tối yếu, người có bệnh chân yếu không cứu ngay, nếu bệnh truyền vào bụng, bụng sưng to lúc này cần cứu ngay Đại pháp. Tùy theo các du và các quan, các khớp, bụng, lưng cứu bằng hết rồi cho uống Bát Phong Tán, thường khỏi. Thấy bệnh vào bụng, nếu người bệnh không đau quá lắm, không nên tất cả mọi chỗ đều cứu nhiều, chỉ cần cứu các huyệt ở giữa ngực, bụng, và các huyệt ở hai chân cũng khỏi. Cũng theo đúng “Cựu pháp” nói: Lương khâu, Độc tỵ, Tam lý, Thượng liêm, Hạ liêm, Giải khê, Thái xung, Dương lăng tuyền, Tuyệt cốt, Côn lôn, Âm lăng tuyền, Tam âm giao, Túc thái âm, Phục lưu, Nhiên cốc, Dũng tuyền, Thừa sơn, Thúc cốt, tất cả là 18 huyệt.

Cựu pháp thương cứu: Bách hội, Phong phủ, Du, Mộ của ngũ tạng, lục phủ, khoảng thời gian ngắn lại cứu, sẽ thấy khí đi lên, do đó khí không lên có thể dùng phép này…, hai chân 8 huyệt “Tào Thị” gọi tên là 8 xung, có hiệu với khí ở dưới cùng, đó là 10 đầu ngón chân, tên gọi là Khí đoan. Ngày cứu 3 mồi, còn đó có bát xung, có thể cứu 7 mồi, khí lên thì ngừng ngay.

Phàm cứu Bát xung thì làm mồi nhỏ.

- Thượng liêm: Trị cước khí công lên “Đồng”. “Thiên kim” nói: Cước khí là một loại bệnh rất nên châm. Nếu châm mà không cứu, hay chỉ cứu mà không châm cũng không phải là lương y. Châm cứu với thuốc, thuốc mà không châm cứu cũng không phải là lương y. Lời bàn đó rất đúng.

- Nếu thấy cước khí, nhanh chóng mà cứu Phong thị, Tam lý 100 – 200 mồi để tả khí độc của phong thấp. Nếu thấy nóng bứt dứt, không được cứu, gốc đó có nhiệt, cứu thì lại trợ thêm cho phong, thức ăn thì đại kiêng là rượu, miến và đổ biển tươi và kỵ phòng sự. Không như thế thì uống thuốc vô ích. Sử ghi nói rằng: Cước khí có hai loại, Phong thấp nên tả không nên bổ, chỉ nên lấy thang Trầm Hương tả (xem: Ký hiệu phương).

“Thiên Kim Phương” đã ghi phép cứu rõ như thế… Chỉ Mê Phương nói: Nếu thấy nóng bứt dứt thì không được cứu, phàm cứu cước khí: Tuyệt cốt, Tam lý là yếu huyệt.

Tôi ngày xưa có tật đó, nếu tránh được ẩm thấp thì mấy năm không làm bệnh. Nếu phải vào nơi ẩm thấp thì bệnh phát liền liền, sau đó thường phải kiêng nơi ẩm thấp. Có vị quan bị nạn cước khí lâu ngày, uống nhiều Bát vị hoàn mà khỏi. Nếu bị cước khí xung tim duy có thuốc đó có thể chữa được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 19, 2018, 10:08:10 AM
21. Chân yếu – Cước nhược

- Ủy trung: Chữa chân tay yếu không có sức. Phong thấp bại, gân cấp, bán thân bất toại “Minh”. Mảng thắt lưng và xương cùng nặng, Ở trong khoeo chân gân cấp, bán thân bất toại “Hạ”.

- Tam lý: Chữa chân yếu.

- Thừa sơn: Chữa chân yếu, không có sức, chân nặng, phong một bên, bán thân bất toại.

- Có người bị nạn chân yếu mà gầy đét, sau cứu Tam lý, Tuyệt cốt mà chân khỏi được như cũ, khi biết tranh châm cứu của “Hoàng Quân”, có nói huyệt Tuyệt cốt trị lành ở chân thần hiệu. Lại có một ông quan cùng thời bị sưng chân, cứu bỏng huyệt Thừa sơn thì khỏi ngay..

“Đơn phương” có nói: Phong độc, chân bại yếu, Kiên tỉnh và Đại chùy, Phong thị và Tam lý cứu trăm mồi không cần tròn.

“Thiên kim” cứu chân yếu gồm tám huyệt, bệnh một chân cứu một chân, bệnh hai chân cứu hai chân (xem: Cước khí), phàm chân yếu cứu hai chân, hoặc cứu Phong thị, Độc tỵ, Tam lý, Tuyệt cốt cũng hiệu quả (huyệt Kiên tỉnh không được cứu nhiều).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 19, 2018, 10:32:09 AM
22. Chân sưng – Cước thũng

- Dương kiều: Chữa cước khí, thận khí “Minh”.

- Thượng côn lôn: Chữa ác huyệt, phong khí sưng đau, chân sưng.

- Thừa sơn: Chữa cước khí, sưng đầu gối (xem: Thắt lưng và chân).

- Tiểu trường du: Chữa chân sưng, ngắn hơi, không muốn ăn “Minh” nói: Không ăn, phiền nhiệt, nhọt đau.

- Nhiên cốc: Chữa đau mu bàn chân, sưng không thể đi được.

Mẹ của Chấp Trung thường bị bệnh kéo dài, giữa mùa hạ tự nhiên sưng chân, ngày xưa truyền rằng mùa hạ “Lý” ở chân, không ưa ngải, chích huyệt Tam lý hơi thấy máu, làm mấy lần, chỗ sưng đó mất đi. Chấp Trung ngày xưa bị nạn sưng chân cũng làm vậy thấy hiệu quả lạ lùng, cũng hỏa châm, chích ở đó, ngày hôm sau thũng cũng tiêu đi, sao mà nhanh thế, sau đó thường cứu ở đấy.

Phàm trị chân sưng, trước lấy Tam lý, sau lấy Dương kiều cũng được.

Lại nữa, tôi bị bệnh cước khí, khe nối các ngón loét, chỉ có lấy trà cám ngâm mà khỏi, ngày khác lại loét mà sưng, dùng trà cám không khỏi, dần dần sưng đến mu bàn chân, tôi cho rằng đúng là cước khí, giấu lỗi lo đó, chống gậy mà đi, không ngờ gặp cửa hàng bán thuốc, họ trông thấy và bảo: Có thể lấy bụi ở dưới cỏ trải giường ngâm đi. Theo như lời, tôi ngâm mà khỏi. Thứ đó không đáng một đồng tiền nào, mà có thể khỏi được, điều đó thật bất ngờ vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 19, 2018, 11:08:21 AM
23. Tứ chi quyết (Tay chân cứng đơ, xem thêm: Chân tê bại)

- Nội đình: Trị tứ chi quyết nghịch, bụng trướng “Đồng”.

- Chí dương: Trị tứ chi nặng (“Minh hạ” cũng thế), đau.

- Chướng môn: Trị quyết nghịch, tứ chi lười không động đậy (xem: Thũng nước).

- Sàng tiến hạ trầm (?).

- Cách du: Trị tứ thời lười nhác (xem: Hạch hòn).

- Cực tuyền, Nhật nguyệt (xem: Buồn rầu), Tỳ du: Trị tứ chi không gọn (xem: Bụng trướng).

- Chi câu (xem: Nách đau), Tiểu hải, Phụ dương (xem: Phong bại).

- Thiên trì (xem: Cách đau), Tam âm giao: Trị tứ chi không giơ lên được (xem: Bụng trướng).

- Đại cự: Trị khô một bên, tứ chi không giơ lên được (xem: Bụng dưới trướng).

- Thận du: Trị trong thắt lưng và tứ chi mệt (xem: Lao khái).

- Xích trạch: Trị tứ chi sưng bạo phát, ngắn hơi (xem: Hầu bại).

- Tam lý: Trị tứ chi sưng tức.

- Đại đô: Chữa tay chân nghịch lãnh, tứ chi sưng (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

- Phong long: Chữa quyết nghịch, khí đâm lên ngực, đau không chịu được, trong bụng như có dao, có nhọt, đái ỉa khó, tứ chi không gọn, mình mẩy lười nhác, đùi gối buốt bại, gập duỗi khó “Minh hạ”.

- Thái khê: Chủ tay chân lạnh đến khớp.

- Nội đình: Chủ tứ chi quyết, tay chân bứt dứt, quyết nghịch, đau não, bụng trướng, da đau, tứ chi quyết, chân tay bứt dứt “Thiên”.

- Liệt khuyết: Chủ tứ chi quyết, hay cười.

- Chướng môn: Chủ tứ chi dã rời hay cáu.

- Chiếu hải: Chữa tứ chi mỏi mệt (dâm lạc).

- Khúc tuyền, Phụ dương, Thiên trì, Đại cự, Tiều hải, Chi câu, tuyệt cốt, Tiền cốc: Chủ tứ chi không giơ lên được.

- Ngũ lý, Tam dương lạc, Tam gian, Lệ đoài, Thiên tỉnh: Chủ ham nằm, tứ chi không muốn động đậy.

- Hành gian: Trị tứ chi nghịch lãnh “Đồng”.

- Thái khê: Chữa tay chân quyết lạnh (xem: Bụng sườn đau).

-Tứ nghịch lấy Hiệp khê (xem: Thương hàn).

- Đại đô: Chữa tay chân nghịch lãnh (xem: Tức bụng).

Có người học trò bị nạn thương hàn âm trướng, tay chân rất lạnh, lấy lửa hơ cũng không ấm lại được, tôi đem Lý Trung Thang cho uống, tức thì mồ hôi mà khỏi, tay chân tự ấm áp. Các chứng tay chân quyết nghịch khác, đúng theo từng chứng mà cứu chữa.

- Tứ quyết mạch trầm tuyệt, cứu Gian sử ở tay sẽ thông, phép khởi từ “Nôn khan”.

- Tứ quyết cứu Nhũ căn (chuột rút).

Người bệnh cuồng si, chân tay quyết nghịch, làm bệnh cuồng, chữa không khỏi “Danh Y Lục” viết: Đó là kinh khủng tự gây ra, sợ quá hại Tâm, hãi quá hại Thận, lo nghĩ qua tổn thương thần chí, thần bất túc thì cuồng si, chí bất túc thì khủng, khủng thì Thận khí lưu tích, chân không gọn lại được. Cũng do tích khí, kinh khủng mà hại Thận vậy (quỷ bắn, tự nhiên chết, gỗ Xương bồ giã lấy nước đổ vào miệng khỏi ngay).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 20, 2018, 09:59:20 AM
24. Thi quyết – Thây cứng đơ

- Bách hội, Ngọc chẩm: Chủ tự nhiên bắt đầu cứng ngã, thấy ác phong hàn “Thiên”.

- Thông thiên: (“Minh” cũng giống thế), Lạc khước: Chủ bắt đầu tạm cứng ngã.

- Đại trữ: Chủ cứng ngã, không thể đứng lâu, buồn bằn, tức tối, lý cấp (co kéo ở trong), không nằm yên trên chiếu.

- Ẩn bạch, Đại đôn: Chủ tự nhiên quyết, không biết người ở xung quanh, mạch động như cũ.

- Kim môn: Chủ thi quyết, chết rất nhanh chóng.

- Trung cực, Bổ tham: Chủ hoảng hốt, thi quyết, buồn bằn đau đớn.

- Nội đình: Chủ 4 chi quyết, tay chân bứt dứt, đau não, bụng trướng, da đau, làm cho người ta như thế lâu dài.

- Liệt khuyết: Chủ tứ chi quyết, hay cười.

Tà khách ở các lạc Thủ Túc Thiếu Âm, Thái Âm, Túc Dương Minh, năm mạch đó đều hợp vào trong tai, lạc trên ở góc trái, năm lạc đều kiệt, làm cho thân người ta mạch động như cũ. Giống như cái thây, châm cạnh trong ngón chân cái, phía trên móng cách bằng một cái lá hẹ, sau châm lòng bàn chân, sau lại lấy ở bên trên móng ngón giữa mỗi chỗ một hựu (?). Sau lấy cạnh trong ngón cái, cách xương đoài, mỗi chỗ đều một hựu, hết ngay, nếu không hết, nhổ tóc bên góc trái bằng một ô vuông nhỏ đốt cháy thành than hòa vào một chén rượu đổ vào miệng, khỏi ngay.

- Phong long: Chủ quyết nghịch, chân tự nhiên xanh, đau như đâm, bụng đau như dao cắt, khó ỉa, tim buồn bằn, cuồng, thấy quỷ, tự nhiên mặt và tứ chi sưng.

- Bàng đình: Ở khe sườn 4 dưới nách, cao thấp ngang bằng với vú, sau vú hai thốn, giữa chỗ lõm, tên tục là Chú thị (Giơ nách lên mà lấy huyệt), châm 5 phân, cứu 50 mồi, chủ tự nhiên trúng ác, thây bay trốn chủ, ngực sườn đầy tức.

- Cửu húc trung phủ: Tại Bàng đình, Chú thị xuống 3 thốn, châm vào 5 phân, cứu 30 mồi, chủ ác phong, tà khí trốn ở trong thây, ở trong có ứ huyết.

- Thiên phủ: Chủ tự nhiên trúng ác phong, tà khí bay thây, lời quỷ độn ở dưới. (Gồm ở “Thiên”).

- Ẩn bạch: Trị tự nhiên thi quyết, không biết người (“Minh” cũng giống thế), chân lạnh không thể ấm “Đồng”.

- Trung cực: Trị hoảng hốt, thi quyết (xem: Ôn mạch) “Minh hạ” nói: Thi quyết không biết người.

- Đại đôn: Trị thi quyết giống như chết.

- Bổ tham: Trị thi quyết như trúng ác, hoắc loạn, điên giản, nói cuồng, thấy quỷ.

- Lệ đoài: Trị thi quyết, miệng mím, khí đứt hết (tuyệt) giống như trúng ác quyết, trong bụng trướng tức (“Minh” nói: Thi quyết như chết, không biết người).

- Kim môn: Trị điên giản thi quyết, gầy sút nhanh.

- Ủy dương: Trị nách sưng căng, mất khí, mình nóng, bay thây, độn chú, yếu, cứng đơ.

- Hồn môn: Chữa thi quyết chạy, ngực đau liền sang lưng “Minh hạ”.

- Bổ tham: Chữa điên tật, thi quyết, hoắc loạn, mê giản.

- Tán trúc (xem: Cuồng), Hòa liêu: Chữa thi quyết.

- Thiên phủ: Chữa tự nhiên trúng ác quỷ, không thể nằm yên (cấm cứu “Đồng”).

- Phàm thi quyết mà chết, mạch động như cũ, đó là dương mạch rơi xuống, âm mạch lên tranh, khí bế làm ra thế, châm Bách hội 3 phân, chườm ở đầu và chườm hai bên phía dưới sườn. Lại lấy muội bếp màu đen to bằng hòn đạn lớn, hòa với nước thành sền sệt mà uống. lại châm đầu ngón chân giữa cách móng bằng cái lá hẹ, lại châm ở cạnh trong phía dưới móng ngón chân cái 3 phân “Thiên”.

- Thủy câu: Trị tự nhiên trúng ác “Đồng”.

- Phàm năm thứ thi: Phi thi, Độn thi, Phong thi, Trầm thi, Thi trú, ngay nay đều lấy một phương mà chữa chung hết. Trạng thái đó là bụng đau, trướng cấp, không thở được, hơi xông lên tim, ngực, công sang hai bên cạnh sườn, hoặc co dẫn vào thắt lưng, lưng trên.

Cách chữa chứng đó: Cứu sau vú 3 thốn, trai bên trái, gái bên phải, có thể tới 27 mồi, không dứt thì tăng thêm số mồi, lấy khỏi làm mức dừng “Thiên”. Lại lấy hai đầu ngón tay cái đều cứu 7 mồi, lại cứu ở dưới tim 3 thốn là 10 mồi, lại lấy dưới vú 1 thốn tùy bệnh bên trái hay bên phải, số mồi ở đó phải nhiều. Lại lấy sợi dây nhỏ đo trong hai đầu vú nạn nhân, gập đôi lại cắt đứt ở giữa, lại lấy từ đầu vú đo ra hai hướng ngoài làm cho đầu dây đúng vào khe sườn, cứu 3 mồi hoặc 7 mồi, trai bên trái, gái bên phải.

Tự nhiên “Chú” (khí hậu không phù hợp) công ngược lên tim, cứu mỏm gai đốt sống thứ 7, số mồi theo tuổi, lại lấy ở dưới tim 1 thốn, cứu 3 mồi, lại ở nếp gấp khuỷu tay, cứu số mồi theo tuổi.

Các loại “Thực chú” (ăn uống không phù hợp) cứu ở đầu nhọn ngón út, số mồi theo tuổi, trai bên trái, gái bên phải.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 20, 2018, 03:20:48 PM
25. Đầu gối đau – Tất thống

- Tam lý: Trị đầu gối, ống chân buốt đau “Đồng”.

- Dương giao: Trị hầu bại, mặt sưng, hàn bại, đầu gối ống chân không gọn lại được.

- Điều khẩu: Trị đầu gối, ống chân lạnh buốt đau, chân chậm, đi không gọn, thấp bại, dưới chân nóng “Đồng”.

- Âm cốc: Trị đầu gối đau như dùi, không thể gập duỗi.

- Bàng quang du: Trị chân, đầu gối không có sức (xem: Giả, tích).

- Hợp dương: Chủ đầu gối, đùi nặng.

- Âm giao: Trị thắt lưng đầu gối bó buộc, cong.

- Bễ quan: Trị đầu gối lạnh (“Minh” cũng thế) không thể hoạt động được, yếu, cứng đơ, gân mạch phía trong đùi cấp.

- Dương lăng tuyền: Trị đầu gối cấp, không gập lại được, chân lạnh không hoạt động được. Phong một bên, bán thân bất toại, chân lạnh không có mầu máu.

- Kinh cốt: Trị đầu gối đau, không gập duỗi được.

- Lương khâu: Trị hàn bại đầu gối không thể co duỗi.

- Dương quan: Trị phía ngoài đầu gối đau, không thể gập duỗi được, phong bại không thể hoạt động được.

- Độc tỵ: Trị đau trong đầu gối, không hoạt động được, khó quỳ xuống, đứng lên. Đầu gối, xương bánh chè sưng nhọt lớn (ung thũng), không vỡ thì có thể chữa được, đã vỡ mủ ra là không thể chữa được.

- Tam âm giao:Trị cạnh trong đùi, gối đau (xem: Hạch hòn).

- Giao tín: Chữa cạnh trong đầu gối, ống chân đau.

- Khúc tuyền (xem: Sán), Tất quan: Trị phía trong đầu gối đau (xem: Phong bại).

- Huyền chung: Trị tâm, bụng trướng tức, vị nhiệt không muốn ăn, đầu gối, ống chân đau, gân co, chân đi không gọn, ngồi không được lâu.

- Tất nhãn: Trị đầu gối lạnh, đau không dứt “Minh”, kỵ cứu.

- Phục thỏ: Chữa đầu gối lạnh (xem: Phong lao).

- Phong long: Chữa đùi, đầu gối buốt đau (xem: Thi quyết).

- Hợp dương (xem: Xương sống): chữa đầu gối và đùi nặng “Thiên – Đồng” nói: Chủ đầu gối, cẳng chân buốt.

- Hiệp khê, Dương quan: Chủ cạnh ngoài đầu gối đau.

- Tất quan: Chủ cạnh trong đầu gối đau dẫn vào xương bánh chè, không thể gập duỗi, liền từ bụng dẫn lên đầu đau.

- Trung phong: Chữa đầu gối sưng, phía trước mắt cá trong đau.

- Thái xung: Chủ phía trong đầu gối, phía trước mắt cá trong đau.

- Độc tỵ: Chữa ở trong đầu gối đau, không hoạt động được.

- Quang minh: Chủ đầu gối đau, ống chân nóng, không đi được, tay chân nhỏ một bên. “Minh hạ” nói: Chữa ống chân buốt, bại, không hoạt động được.

- Khí xung: Chữa lưng đau, không thể cúi ngửa (xem: Kinh nguyệt).

- Tam lý: Chủ đầu gối yếu đau (xem: Nhổ ra máu).

- Phong thị: Chữa đầu gối buốt.

- Thừa sơn: Chữa đầu gối nặng (xem thêm: Thắt lưng, đầu gối).

* Em tôi đi một vài dặm đường, đầu gối đã đau buốt không đi được nữa, phải ngồi một chỗ xoa bóp rất lâu rồi mới đi được. Sau đó cho uống nhiều Phụ tử mà khỏi (?).

* Tôi về mùa đông, đầu gối cũng đau buốt, cứu Độc tỵ mà khỏi, do đó thuốc và cứu không thể bỏ một bên nào.

- Nếu cứu Tất quan, Tam lý cũng được. Nhưng ấn huyệt đó có đau buốt tức là chỗ bị bệnh cứu ở đó.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 22, 2018, 10:06:59 AM
26. Vùng thắt lưng và chân đau – Yêu cước thống (xem thêm: Thắt lưng và đầu gối)

- Phàm thắt lưng và chân nặng đau, châm Ủy trung cho ra máu, các loại mẩn ngứa lâu ngày cũng đều khỏi ngay.

- Thứ liêu: Chủ thắt lưng xuống đến chân không hoạt động được “Thiên”.

- Âm thị: Chữa thắt lưng và chân như nước lạnh “Minh” (xem: Sán).

- Thừa sơn: Trị lưng dưới lưng trên đau, đầu bàn chân đau, run rẩy không đứng được, đầu gối trở xuống sưng.

- Thân mạch: Trị thắt lưng đau không thể nhắc được mình mẩy, cẳng chân lạnh “Minh” (xem: Sán) không thể đứng lâu được, ngồi như trên xe một bánh (choáng váng).

- Côn lôn: Chữa thắt lưng và mảng sườn cùng đau (“Thiên” chép là: Căng gót chân), sưng, không thể đi xuống đất được.

- Hạ côn lôn: Chữa thắt lưng đau, phong một bên, bán thân bất toại, chân nặng đau, không đi xuống đất được. “Minh”.

- Bàng quang du: Chữa thắt lưng và chân không hoạt động được (xem: Cột sống).

- Bổ tham: Chữa thắt lưng đau, không nâng được vật gì.

- Thừa sơn: Chân nặng, chân yếu “Hạ”.

- Địa cơ: Chữa thắt lưng đau, không thể cúi ngửa, chân đau bại, khó gập duỗi.

- Phong thị: Chữa bại lãnh, bàn chân ống chân tê, đùi và đầu gối đau, thắt lưng và xương cùng nặng. Ngồi dậy khó, gân co cấp không thể gập duỗi.

* Trương Trọng Văn chữa thắt lưng nặng đau, không thể xoay, ngồi dậy khó và lạnh bại, gân chân co, không thể gập duỗi, cứu ở hai đầu nếp gấp khoeo bên phải, bên trái tổng là 4 chỗ, mỗi chỗ 3 mồi, lần cứu ở một chân, 2 mồi lửa đốt cùng một lúc, lửa vào mới đến thịt da, bắt đầu thấy rát, lại để hai người hai bên cùng thổi, đến khi tắt lửa. Giờ Ngọ, ngải tốt đem đến cho người ta, yếu tạng phủ tự hành đông một đôi hồi, hoặc tạng phủ chuyển như sấm kêu, khỏi ngay (Đoạn này lủng củng). Thần hiệu!

- Thượng liêm: Trị thắt lưng, đùi, tay chân không hoạt động được (xem: Phong một bên người).

- Dương phụ: Chữa thắt lưng lúng lính như ngồi trong nước, da ở đầu gối sưng, gân co, đau hết các khớp, chỗ đau không nhất định, dưới nách sưng đỏ, tràng nhạc (mã đao), hầu bại, đầu gối, cẳng chân buốt, phong bại không hoạt động được.

- Âm giao: Trị thắt lưng, đầu gối co quắp (xem: Sán).

- Nhân Thọ Cung bị nạn ở chân. Vâng mệnh phụng châm, châm ở Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Cự hư, Hạ liêm, Dương phụ thì dậy đi được.

- Chữa chân bại, ống chân đầu gối đau, thắt lưng và chân co gấp, chân lạnh, không thể đứng lên được, chân tay chìm nặng, ngày càng thấy gầy còm, đó gọi tên là bệnh Phục liên, nên cứu Huyền chung (Tuyệt cốt), đã một lần cứu mà khỏi (xem thêm: Thấp bại ở “Thiên kim”).

- Ôn thận thang ở “Thiên Kim Dực” chủ về cột sống, đầu gối chân phù thũng không theo ý Phục linh, Can khương, Trạch tả mỗi thứ đều hai lạng, Quế tâm hai lạng bẻ ra, mỗi lần uống 4 – 5 đc, nước 2 chén, sắc còn 3 phần chén thì uống, ngày vài ba lần.

* Đó là bệnh thắt lưng, chân cũng phải uống thuốc, không thể chuyên dựa vào phép cứu mà thôi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 23, 2018, 09:24:03 AM
27. Đau lưng dưới – Yêu thống (cứng lưng, gập lưng)

- Âm bao: Chữa thắt lưng và xương cùng đau dẫn vào bụng dưới (“Minh hạ” nói: Thắt lưng đau liền với bụng dưới, sưng, đái khó), tiểu rớt không cầm “Đồng”.

- Cự liêu: Chữa thắt lưng dẫn đau vào bụng dưới (xem: Bàn tay đau).

- Bào hoang: Trị thắt lưng đau, rét dữ, bụng dưới rắn cấp, còng bế, không đi đái được, lưng dưới lưng trên đau.

- Trật biên:Trị thắt lưng đau không thể cúi ngửa được. Nước đái đỏ rít, thắt lưng và mảng xương cùng nặng không nhấc lên được “Minh” cũng thế.

- Ủy trung: Chữa thắt lưng nặng không nâng được chi thể (xem: Thắt lưng, cốt sống).

- Bạch hoàn du: Chữa thắt lưng và xương hông đau, chân, đầu gối không thoải mái.

- Kiên tỉnh: Trị do ngã làm thương, thắt lưng và hông đau.

- Yêu du: Trị thắt lưng và hông đau, cột sống cứng không quay được.

- Mệnh môn: Chủ lưng dưới và bụng cùng dẫn đau.

- Phế du: Chủ lưng dưới, lưng trên cứng đau.

- Âm lăng tuyền (xem: Thủy thũng), Đại trường du: Trị lưng dưới đau “Minh” cũng thế.

- Hạ liêm: Trị lưng dưới đau, không thể xoay sang hai bên được.

- Dương phụ: Trị lưng dưới đau như ngồi trong nước.

- Âm thị: Chữa lưng dưới như nước lạnh (xem: Sán).

- Dũng tuyền: Trị lưng dưới đau, ỉa khó.

- Kinh môn: Chữa lưng dưới đau, không cúi ngửa được, nóng rét, chân trướng dẫn lên lưng trên không thể thở được.

- Can du (xem: Lao), Khí hải du, Trung lữ du (xem: Cốt sống): Chữa lưng dưới đau.

- Bào hoang: Chữa ác phong khí, lưng dưới, lưng trên tự nhiên đau. “Hạ” nói: Lưng đau không thể chịu được, khó cúi ngửa, rét dữ, đi đái rít.

- Côn lôn: Chữa lưng dưới và xương đuôi nặng, không muốn dậy, cúi ngửa khó, sợ nghe tiếng người “Hạ”.

- Phong thị: Giống Côn lôn.

- Thận du: Chữa lưng dưới đau, không thể cúi ngửa, xoay sang cạnh khó “Hạ”.

- Yêu du: Chữa lưng dưới đau, không thể đứng lên, từ thắt lưng xuống đến chân không hoạt động được, ngồi xuống đứng lên khó. Thắt lưng, cột sống cứng rất nhanh, không thể cúi ngửa, thắt lưng nặng như đeo đá, khó cử động.

* Trương Trọng Văn cứu lưng dưới đau, tứ chi nóng rét, thắt lưng đau không thể cúi ngửa được, mình vàng, bụng tức, ăn thì nôn, cuống lưỡi cứng đơ, cứu trên mỏm đốt sống lưng 11 và hai bên cạnh 1,5 thốn, ba chỗ đó mỗi chỗ đều 7 mồi “Thiên”.

- Yêu du, Bàng quang du, Trường cường, Khí xung, Thượng liêu, Hạ liêu, Cự liêu: Chủ lưng dưới đau.

- Tam lý, Âm thị, Dương phụ, Lãi câu: Chữa lưng dưới đau không thể ngoái lại sau.

- Thân mạch, Thái xung, Dương phụ: Chủ lưng dưới đau không thể nhắc được.

- Ủy dương, Ân môn, Thái bạch, Âm lăng tuyền, Hành gian: Chủ lưng dưới đau không thể cúi ngửa “Đồng” cũng thế.

“Giáp” nói: Ủy dương, Ân môn chủ lưng dưới đau, cúi được mà không ngửa được.

- Thúc cốt, Phi dương, Thừa cân: Chủ lưng dưới đau như gẫy.

- Dương phụ: Chủ lưng dưới như có cái búa ở trong, sưng đau không thể ho, ho thì gân co cấp, mọi chỗ đau trên dưới không nhất định, nóng rét.

- Dũng tuyền: Chủ lưng dưới đau, khó ỉa “Giáp”.

- Kinh môn: Chủ lưng dưới đau không thể đứng lâu được “Giáp”.

- Thắt lưng và cột sống đau, nên châm quyết ở đầu gối và thắt lưng, câu ở trong viết là: Lạc mạch xanh, đỏ ra máu càng khỏi “Thiên”.

- Lưng đau không thể cúi ngửa, bảo nạn nhân đứng thẳng, lấy cái gậy trúc chống xuống đất, đo đến rốn thì chặt cây trúc đó, lại đo sang cột sống sau lưng, cứu trên chỗ đầu cây gậy. Số mồi theo tuổi, cứu xong giấu cái gậy không cho người bệnh biết.

- Lưng dưới đau, cứu giữa nếp ngang trên gân gót chân, chỗ thịt rõ trắng đỏ, 10 mồi thì khỏi. Lại cứu Túc cự dương ở dưới mắt cá ngoài chân. Lại cứu Yêu mục giáo 7 mồi. Tại bên trên xương cụt sang bên trái, bên phải là nó. Lại cứu Bát giáo và trên mắt cá ngoài, hơi vào giữa xương.

- Lưng dưới tự nhiên đau, cứu phía trên xương cùng 7 mồi và hai bên phải trái cách 1 thốn mỗi chỗ 7 mồi.

- Cột sống thắt lưng đau, cứu Tiểu trường du 50 mồi (xem: Hư tổn), lưng dưới lưng trên đau, cứu Tam tiêu du số mồi theo tuổi (xem: Lao).

* Có người đàn bà bị bệnh đã lâu ngày mà lưng dưới rất đau, huyệt Yêu nhỡn cấm cứu, thầy thuốc lấy kim đặt vào lửa cho nóng, châm thẳng vào chỗ đau, mới đầu chưa vào sâu, thế mà hết đau ngay. Thế mới biết cái thuyết ”hỏa bất phụ nhân – lửa chẳng phụ người” có thể tin được.

* Hứa Chi Khả, do ở Hoài Nam có lụt lớn, tự nhiên trong bụng như có nước kêu, chữa đã khỏi rồi, từ đó đau lưng không thể gập duỗi thật đáng lo. Đó tất là do hơi nước nhập vào kinh lạc mà bị, đã cứu Thận du 3 x 7 = 21 mồi, uống My Nhung Hoàn (viên bằng nhung nai) mà khỏi (Tôi nói: Lưng dưới đau không thể gập duỗi, cứu Thận du là khỏi, không uống My Nhung Hoàn cũng có thể khỏi được).

* Em tôi đau lưng, đi lại rất khó khăn, tôi dùng hỏa châm hơ hơi nhanh đâm vào huyệt Thận du thì đi bộ như cũ, mới thì không cứu.

* Thường thường có người lưng dưới lưng trên còng xuống, đến tìm điểm cứu, ý tôi là bệnh gân làm ra như thế. Lấy điểm Dương lăng tuyền, bảo về cứu thì khỏi (cân hội là Dương lăng tuyền). Đây là lưng dưới đau, không thể chỉ chuyên cố chấp ở Thận du mà không cứu các huyệt khác.

- Phong trì: Chữa lưng dưới cứng (xem: Ngực tức).

- Thúc cốt: Trị lưng dưới như gẫy, đầu ngón chân như kết lại, tai ù, gió ác lạnh hoa mắt, gáy cứng không thể ngoái lại, khóe mắt đỏ loét.

- Bạch hoàn du: Chữa lưng dưới và cột sống co đau (xem: Cột sống và lưng dưới đau).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 23, 2018, 10:23:25 AM
28. Thắt lưng, cột sống đau – Yêu tích thống (xem: Lưng trên đau)

- Ủy trung: Chủ lưng dưới đau, kẹp hai bên cột sống lên đến đầu “Thiên”. Phàm thắt lưng, cột sống nặng đau, chích ra máu kể cả mẩn ngứa lâu dài cũng khỏi ngay.

- Đại chung: Chủ thắt lưng, cột sống đau.

- Tiểu trường du, Trung lữ du, Bạch hoàn du: Chủ thắt lưng, cột sống sán.

- Thứ liêu, Bào hoang, Thừa cân: Chủ thắt lưng cột sống đau, ác hàn.

- Hợp dương: Chủ thắt lưng cột sống đau dẫn vào trong bụng, âm hộ và bắp đùi nóng, đầu gối, cẳng chân buốt lạnh, bước đi khó.

- Thừa phù: Chủ thắt lưng, xương sống, xương đuôi, mông, đùi âm hộ lạnh đau.

- Dũng tuyền: Chủ thắt lưng, cột sống cùng dẫn vào nhau như dời ra.

- Chí thất, Kinh môn: Chủ thắt lưng đau, cốt sống cấp “Minh hạ” cũng thế.

- Tỳ du, Tiểu trường du, Bàng quang du, Yêu du, Thần đạo, Cốc trung, Trường cường (“Minh hạ” cũng thế). Đại trữ, Cách quan, Thủy phân: Chủ thắt lưng, cột sống cứng cấp.

- Yêu du: Chữa thắt lưng và hông đau. Thắt lưng cột sống cứng không xoay được “Minh”.

- Bạch hoàn du: Chữa thắt lưng cột sống co đau, ỉa đái không dễ, một trăm thứ bệnh về thắt lưng. Hông đau, không thoải mái, trong thắt lưng lạnh, không ngủ được. “Hạ” nói: Chữa thắt lưng cột sống cứng cấp, không thể cúi ngửa, ngồi xuống đứng lên khó khăn, tay chân không hoạt động được, nước đái vàng, thắt lưng và xương đuôi nặng không nâng lên được.

- Chí thất, Bào hoang: Chữa thắt lưng và cột sống đau cấp, ăn không tiêu, bụng rắn cấp.

- Bàng quang du: Chữa xương sống cứng cấp, từ thắt lưng đến chân buốt nặng “Hạ”.

- Thần đường: Chữa thắt lưng, cột sống cứng cấp, nghịch khí công lên, có khi nghẹn.

- Đại chung (xem: Lậu): Trị thắt lưng và cột sống cứng đau.

- Chí thất: Trị thắt lưng và cột sống cứng đau, ăn uống không tiêu, bụng rắn cấp.

- Kinh cốt (xem: Chân buốt), Trung lữ du: Trị thắt lưng cột sống không thể cúi ngửa (xem: Tiêu khát). “Minh hạ” nói: Chữa thắt lưng đau, không thể cúi ngửa, kẹp hai bên cột sống đau, trên dưới ấn đều ứng cả. Từ sau gáy đến huyệt đó đều cứu. Khỏi ngay.

- Phục lưu: Chữa bên trong cột sống dẫn đau (“Minh hạ” nói: Thắt lưng đau dẫn vào cột sống), không thể cúi ngửa, đứng lên, ngồi xuống, mắt mờ mờ, hay cáu, lắm lời, lưỡi khô, nước dãi tự ra, chân yếu, đi không gọn, ống chân lạnh không ấm.

- Kinh cốt: Trị gân co, cẳng chân buốt, khu đùi đau, gáy cứng, thắt lưng, cột sống không thể cúi ngửa.

- Ủy trung: Trị thắt lưng giáp xương sống nằng nặng chìm chìm, đái rơi sót, thắt lưng nặng không nhắc lên được. Lại nói bệnh sốt mồ hôi không ra, chân nóng cứng đơ, nghịch tức, đầu gối không gập duỗi được, lấy máu ở kinh đó khỏi ngay.

- Thừa phù: Trị thắt lưng, cột sống dẫn đau như rời ra. “Minh hạ” nói: Chữa xương sống, thắt lưng, xương đuôi, đùi và thắt lưng lạnh đau.

- Ân môn: Trị thắt lưng, cột sống không thể cúi ngửa. Nâng vật nặng mà ác huyết trú ở đó, cạnh ngoài bắp đùi sưng.

- Chương môn (xem: Ruột kêu), Thứ liêu: Trị thắt lưng không thể xoay được (xem: Sán).

- Huyền khu: Trị cột sống thắt lưng cứng “Minh” cũng thế, không thể gập duỗi.

- Tam tiêu du: Trị vai, lưng trên cấp, cột sống, thắt lưng cứng “Minh hạ” cũng thế, không thể cúi ngửa.

- Bàng quang du: Trị xương sống thắt lưng đau.

- Bạch hoàn du: Trị xương sống thắt lưng co đau, đái ỉa không dễ, thắt lưng và hông đau, chân và gối không thoải mái, sốt rét thể nóng (ôn ngược), xương sống thắt lưng lạnh đau, không thể nằm yên, lao tổn, phong hư.

* Sử ký ghi: Thái Dương Công thưa với Tống Kiến rằng: Vua có bệnh đã 4 – 5 ngày, thắt lưng và xương sườn không thể cúi ngửa, lại không thể tiểu tiện, bệnh đã nhập vào Thận nhưng chưa ảnh hưởng tới ngũ tạng, bệnh nay mới ở tạm âm Thận, do đó gọi là Thận bại. Tống Kiến thưa rằng: Kiến ngày trước đã có đau cột sống, thắt lưng, điều trị nhiều không khỏi, sau làm Nhu Thang Bảo uống, 18 ngày mà bệnh khỏi, bệnh của tôi do bê vật nặng mà thành rồi nhập vào Thận, cứu Thận du có thể được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 25, 2018, 09:09:16 AM
29. Đau xương sống – Tích thống (xem thêm: Xương sống, thắt lưng, phong khí phản trướng)

- Ngũ hổ, Thận du, Ủy trung, Ủy dương, Côn lôn: Chủ xương sống cứng, gẫy ngược lại, co giật, điên tật “Thiên”.

- Cách quan: Chủ xương sống cứng (xem: Lưng trên đau).

- Côn lôn: Chủ cột sống cứng, lưng trên, xương đuôi nặng.

- Kinh môn, Thạch quan: Chủ xương sống, chi gãy ngược lại.

- Âm cốc: Chủ cạnh trong cột sống đau.

- Chí dương: Chữa xương sống cứng cấp “Minh”.

- Chướng môn (xem: Thủy thũng), Cách du (xem: Lưng trên đau), Vị thương (xem: Bụng trướng), Đại trường du: Chữa cột sống cứng, không thể cúi được “Đồng”.

- Vị du: Chữa cột sống đau “Đồng” (xem:Bụng trướng). “Minh hạ” cũng thế.

- Tỳ du, Đại trường du: Chủ trong bụng khí trướng, dẫn sang xương sống đau.

- Ăn nhiều mà mình gầy, tên gọi là Thực hối, trước lấy Tỳ du sau lấy Lý lặc “Thiên”.

- Bàng quang du: Chữa xương sống cứng cấp (xem: Xương sống thắt lưng).

- Ỉa dễ như tháo cống màu trắng đỏ, xương sống thắt lưng đau, cứu Tiểu trường du 50 mồi (xem: Nóng rét).

- Khí huyệt: Trị khí chạy lên xuống, dẫn sang sống lưng đau (xem: Kinh nguyệt).

- Yêu du: Chủ bí kinh nguyệt, đái đỏ, xương sống cứng, gãy ngược lại, mồ hôi không ra.

- Trung lữ du: Trị thận hư, tiêu khát, sống lưng đau không thể cúi ngửa (xem: Tiêu khát) “Minh hạ” nói: Kẹp hai bên xương sống đau, trên dưới ấn đều ứng đau cả, từ sau gáy đến huyệt đó đều cứu, khỏi ngay (xem: Xương sống, thắt lưng).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 25, 2018, 09:27:20 AM
30. Nếp nhăn – Tấu lý (lỗ chân lông)

- Phụ phân: Trị vai và lưng trên cấp, phong lạnh, nếp da nhăn, cổ gáy cứng đau không thể ngoái lại được.

- Dương bạch: Trị nếp nhăn ở da lưng trên rét run, mặc nhiều áo mà không ấm “Đồng”.

- Thứ liêu: trị nếp da trên lưng lạnh.

- Can du: Chữa ở trong nếp da đau “Minh hạ”.

- Thứ liêu: Chữa thắt lưng xuống đến chân không hoạt động được, nếp da ở trên lưng lạnh, nước đái đỏ, lậu (lâm), dưới tim rắn trướng. (xem: Sán).

* Sử ký lời Biển Thước rằng: Tật ở nếp da nhăn, chườm nước nóng tới được ở huyệt mạch, kim đá tới được, ở da ruột rượu mạnh đến được, xương tủy (bệnh ở xương tủy ,lúc thoạt đầu tiên cũng là từ ở lỗ chân lông. “Nếp nhăn da”……………. (tối nghĩa). Tuy không phải là thánh nhân chữa ở chỗ không có bệnh cũng là người chữa cái tướng của bệnh (?).

- Tề Nguyên Hầu đã lấy thuốc làm lợi hay muốn chữa không có bệnh làm công lao, mà tự nhiên đến chỗ không thể cứu. Chẳng kể Tề Hầu như thế người ta đều như thế cả, tôi theo lời Biển Thước, ở cuối đoạn tấu lý da người ta cũng làm cho thầy thuốc đáng trị người ta ở tướng của bệnh vậy (Tối nghĩa).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 26, 2018, 10:18:41 AM
31. Đau xương – Cốt thống (xương tủy)

- Cách du (xem: Đờm), Tử cung, Ngọc đường (xem thêm: Tim buồn bằn): Chữa đau xương “Minh”.

- Thượng quản: Chủ dẫn vào xương đau “Thiên” (xem: Điên, động kinh).

- Xương đau: Cứu Tuyệt cốt 5 mồi (xem: Khí lên).

- Thương khâu: Chủ xương bại, tức, buồn bằn.

- Cách du: Chủ da thịt xương đau (xem: Thương hàn, nóng rét).

- Thái bạch: Trị xương đau (xem: Thương hàn đau đầu).

- Phục lưu: Chữa xương nóng rét (xem: Nóng rét).

- Xương tủy lạnh, cứu Thượng liêm 70 mồi “Thiên”.

- Cốt hội Đại trữ (cấm cứu), bệnh xương chữa ở đó, tủy hội Tuyệt cốt, bệnh tủy chữa ở đó (Nạn sớ).

* Bệnh ở xương tủy, Tần Việt Nhân viết “Tư mệnh vô nội chi hà” nghĩa là: Chủ quản tính mạng không thể nào khác, thì xương tủy có bệnh, bệnh cũng lo thay. Điều thứ 81 “Nạn sớ kinh” nói: Cốt hội (Đại trữ) bệnh xương chữa ở đó. Tủy hội (Tuyệt cốt) bệnh tủy chữa ở đó, là hướng cho phép châm cứu, có thể không châm cứu sao được. Nhưng “Minh Đường Thượng Kinh” nói: Đại trữ cấm cứu, mà “Đồng Nhân Kinh” nói: Có thể cứu 7 mồi.

“Minh Đường Hạ Kinh” nói: Có thể cứu 5 mồi. “Tố vấn” cũng thế, các kinh ghi giống nhau, duy chỉ có “Minh Đường” ghi là kỵ ,mà thôi, cho nên cứu cũng được, huồng hồ “Minh Đường” nói chắc chắn rằng: Huyệt cấm cứu có thể cứu 3 mồi, mồi ngải nhỏ có thể cứu  từ 7 đến 17 mồi cũng được, cứu cả huyệt Thượng liêm, Tuyệt cốt càng tốt.

Hết quyển V


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 26, 2018, 10:38:31 AM
Mục lục quyển VI

1. Tai kêu
2. Tai đau
3. Tai điếc
4. Nhọt trong tai
5. Đau mắt
6. Mắt nhìn lên
7.Nước mắt chảy ra
8. Mắt hoa
9. Mắt không sáng
10. Mắt có màng che
11. Mắt đỏ
12. Mù xanh
13. Miệng, mắt méo
14. Miệng câm, mất tiếng
15. Lưỡi cứng
16. Miệng giãn
17. Sâu răng
18. Miệng, lưỡi khô đắng
19. Răng, miệng cam, có mụn
20. Răng cắn
21. Răng đau
22. Mũi tắc không lợi
23. úi có thịt thở
24. Chảy nước mũi
25. Mũi đau
26. Mũi chảy máu cam
27. Hầu họng sưng đau
28. Hầu, họng kêu
29. Hầu, họng khô
30. Hầu bại
31. Môi má sưng đau
32.Cổ, gáy cứng
33. Đầu phong
34. Đầu đau
35. Đau não
36. Đầu quay tít
37. Đầu sưng
38. Đỉnh đầu sưng đau
39. Mắt sưng
40. Mặt đau


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 28, 2018, 09:59:12 AM
1. Tai kêu – Nhĩ minh

Thượng quan, Hạ quan, Tứ bạch, Bách hội, Lư tức, Ế phong, Nhĩ môn, Hàm yếm, thiên song, Dương khê, Quan xung, Dịch môn, Trung trữ: Chủ tai kêu, điếc.

- Thiên dung, Thính hội, Thính cung, Trung trữ: Chủ tai điếc, o, o như ve kêu.

- Uyển cốt, Dương cốc, Kiên trinh, Khiếu âm, Hiệp khê: Chủ hàm đau dẫn vào tai o, o nghe không được.

- Tiền cốc, Hậu khê: Chủ tai kêu, lại lấy Thiên lịch.

- Thái lăng, Thương dương: Chủ trong tai phong điếc, kêu. Châm 1 phân, lưu 1 hô (hơi thở ra), cứu 3 mồi, trái lấy phải, phải lấy trái, như khoảng một bữa ăn “Minh hạ” nói: Chữa tai kêu, điếc.

- Bách hội: Trị tai kêu, tai điếc “Đồng”.

- Lạc khước: Chữa đầu xoay vòng tròn theo cảm giác, tai kêu “Đồng”.

- Phù bạch: Chữa tai kêu o, o, không nghe thấy gì.

- Hòa liêu: Chữa tai kêu râm ran (xem: Răng tụ cấp).

- Thượng quan: Trị tai kêu như tiếng ve (xem: Phong một bên).

- Nhĩ môn: Trị trong tai như ve kêu.

- Thính hội, Thính cung: Trị tai như ve kêu (xem: Tai điếc).

- Khế mạch: trị đầu phong, tai kêu.

- Thiên lịch, Dương khê, Thương dương (xem: Bệnh nhiệt, không có mồ hôi), Lạc khước (xem: Đầu xoay tròn), Uyển cốt, Tiền cốc: Trị tai kêu.

- Hàm yếm (xem: Phong huyễn): Chữa tai kêu “Minh”.

- Kiên trinh: Chủ tai kêu, không nghe được “Giáp” xem thêm: Thương hàn nóng rét.

- Hàm yếm: Chữa tai kêu (xem thêm: Thiên đầu thống).

Người ta khi bị tai kêu, thầy thuốc đều cho là thận hư gây ra, tất nhiên là đúng như thế, nhưng cũng có người dụng khí mà bị, dụng tâm mà bị, không thể nói chung như thế được. Nếu muốn tránh bị bệnh này, vừa không dùng đến khí, không dùng đến tâm. Hoặc tai hơi kêu nho nhỏ, chỉ dùng ống lá hành đặt vào trong tai, làm cho khí thấu, tự không kêu nữa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 28, 2018, 10:02:58 AM
2. Tai đau - Nhĩ thống

Thượng quan, Hạ quan, Tứ bạch, Bách hội, Lư tức, Ế phong, Nhĩ môn “Minh hạ” giống thế. Khúc trì, Hàm yếm, Thiên song, Dương khê, Quan xung, Dịch môn, Trung trữ: Chủ tai đau.

- Thiếu thương: Chủ đau trước tai.

- Khế mạch, Hoàn cốt: Chủ đầu phong, sau tai đau (xem: Đầu phong, đau đầu).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 28, 2018, 10:28:37 AM
3. Tai điếc – Nhĩ lung

- Thiên dũ: Chủ tai không thông.

- Tứ độc: Chủ tai điếc bạo phát “Thiên”.

- Ngoại quan, Hội tông: Chủ trong tai ình ình, điếc không nghe thấy.

- Thương dương: Chủ trong tai phong điếc, kêu (xem: Tai kêu).

- Thiên dũ: Chủ tai không thông “Minh hạ” nói: Chữa bạo điếc.

- Thượng quan: Chủ tai kêu, điếc (xem: Tai kêu).

- Thương dương (xem: Bệnh nhiệt không có mồ hôi). Dương cốc “Minh” cũng thế, Bách hội: Trị tai kêu, tai điếc “Đồng”.

- Thúc cốt (xem: Lưng còng), Ế phong, Thượng quan, Hậu khê, Lư tín: Trị tai điếc.

- Phong trì: Trị tai tắc.

- Thận du: Trị tai điếc thận hư (xem: Phong lao).

- Thính hội: Trị tai điếc, trong tai như ve kêu.

- Thính cung: Trị tai điếc như có vật chẹn tắc, không nghe được, trong tai thào thào “Minh” nói: Nung nung, thào thào, ve kêu.

- Ngoại quan, Thiên song “Minh hạ” cũng giống thế: Trị tai kêu, điếc không nghe được.

- Khiếu âm: Trị tự nhiên điếc không nghe tiếng người.

- Tam dương lạc, Dịch môn: Trị tai bạo điếc (xem: Sốt rét).

- Tứ độc: Trị bạo khí, tai điếc.

- Trung trữ: Trị đầu đau, tai điếc.

- Hội tông: Trị tai điếc (xem: Phong giản).

- Hiệp khê: Trị má, hàm sưng, tai điếc, ngực đau không thể xoay, chỗ đau không nhất định “Minh hạ” nói: Chữa tai kêu, điếc.

- Phù bạch: Chữa tai điếc (“Đồng” chép là kêu), thào thào không nghe được “Minh”.

- Ngọc trẩm: Chữa tai điếc (xem: Mắt đau).

- Thượng quan: Chữa tai điếc, như ve kêu “Hạ” nói: Tai kêu, điếc.

- Lư tức: Trị trẻ em tai điếc (xem: Suyễn).

- Nhĩ môn, Ế phong, Não không: Chữa tai kêu, điếc “Hạ”.

- Ngoại quan, Thính hội: Chữa tai ình ình, điếc, không nghe được.

- Ống vỏ vi (cây lau) cứu bệnh ở tai (xem: Trúng gió không nói).

- Kiên trinh: Chữa tai điếc “Thiên”.

- Tai điếc châm Túc thiếu âm (xem: Tâm hoảng hốt).

- Thiên dũ: Chữa bạo điếc “Minh” (xem: Tràng nhạc).

- Tai điếc có dùng khí mà bị, khí khoái (sướng nhanh) thì thông thương hàn, dùng áo chật bị tắc nghẽn, bệnh chậm khỏi. Người ở quê dùng Trát Nhĩ Thảo (lấy nước tươi), dùng Tân La Bạch Thảo nấu cháo ăn cũng nghiệm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 28, 2018, 10:36:49 AM
4. Nhọt trong tai – Đình nhĩ

- Hạ quan: Trị nhọt trong tai, có nước mủ chảy ra “Đồng”.

- Nhĩ môn: Trị tai có nước mủ chảy ra, sinh mụn nhọt, tắc tai, tai kêu “Minh” có chữ long là điếc, như tiếng ve, nặng không nghe thấy.

- Phong trì: Trị tai điếc, tắc.

- Thính cung: Trị tai như có vật tắc.

* Nhọt trong tai ra mủ, Thượng quan: Ngày cứu 3 mồi đến 200 mồi “Thiên dực”.

* Có hai người đàn bà, tai ra mủ đã lâu, tôi lấy Tấn phân đem đốt cho khô nước, rồi nghiền nhỏ, gẩy từng ít một vào trong tai, thấy tai nặng dần mà khỏi. “Bản Sự Phương” Hồng Liên Tán chỉ dùng Bạch phàn (Phèn chua) đốt mà dùng.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 29, 2018, 09:58:48 AM
5. Đau mắt – Mục thống

- Dương bạch: Chủ đồng tử mắt (con ngươi) đau ngứa “Thiên” (xem: Không sáng).

- Thái xung: Chủ khóe mắt đau (lại nói: Trị đàn bà).

- Thái xung, Dương cốc, Côn lôn: Chủ mắt đau cấp, sưng đỏ.

- Khúc tuyền: Chủ mắt đau sưng đỏ.

- Dương khê, Dương cốc: Chủ mắt đau đỏ.

- Hiệp khê: Chủ khóe mắt ngoài đỏ đau, nghịch hàn chảy nước mắt, mắt ngứa.

- Nhị gian: Chủ khóe mắt.

- Phong trì, Não hộ (“Minh” cũng thế), Ngọc chẩm, Phong phủ, Thượng tinh: Chủ mắt đau không thể nhìn.

- Trước lấy Y hy, sau lấy Thiên dũ, Phong trì, Chiếu hải: Chủ mắt đau nhìn như thấy sao.

- Thiên trụ, Đào đạo, Côn lôn: Chủ mắt như lồi ra (xem: Đầu đau).

- Tam gian (“Minh” cũng thế), Tiền cốc: Chủ mắt cấp đau.

- Dương bạch: Chữa đầu, mắt đau, mắt có nhử “Đồng”.

- Mục song: Trị đầu mặt phù thũng, đau dẫn ra phía ngoài mắt, trên khóe đỏ đau, tự nhiên đầu xoay, mắt nhìn mờ mờ, nhìn xa không rõ.

- Thượng tinh, Não hộ: trị đau tròng mắt, mắt không thể nhìn xa.

- Ngọc chẩm: Trị mắt đau không thể nhìn (“Minh hạ” nói: Mắt đau như lòi ra). Chữa ở trong mắt co kéo, đau cấp, mắt gối thì đầu nặng, gáy đau, phong choáng váng mắt đau, đầu lạnh, nhiều mồ hôi, tai điếc, mũi tắc.

- Thiên trụ: Trị đầu phong, mắt như lòi ra “Minh”.

- Tâm du, Âm kiều: Chữa mắt đau.

- Phi dương, Dương cốc: Chữa đầu váng, mắt đau.

* Trẻ em dăm ba tuổi, hai mắt cứ đến mùa xuân, thu thì sinh ra màng trắng chùm lên con ngươi, đau không thể chịu được, cứu trên khớp đốt sống lưng 9 (đỉnh mỏm gai 9) một mồi.

* Trẻ em nhiệt độc phong thịnh, mà tròng mắt đau, cứu ở đầu khớp gốc ngón giữa tay 3 mồi, tên là Lã tiêm.

- Tứ bạch: Chủ mắt đau, không có nước mắt, mắt không sáng “Thiên”.

- Ngân giao: Chủ mắt đau, không sáng.

- Hạ liêm: Chủ đau mắt.

- Mắt đau cấp không thể nhìn xa, cứu Dương cương số mồi theo tuổi.

- Tiền cốc: Chủ mắt đau (xem: Nước mắt).

- Phong ngứa đỏ đau, cứu Nhân trung 2 mồi.

- Thông lý, Bách hội, Hậu đỉnh: Chữa đầu mắt đau (xem thêm: Đầu đau).

- Côn lôn: Chủ mắt như bị lồi ra “Thiên” (xem: Sốt rét ngược).

- Đào đạo: Trị đầu nặng, mắt nhắm “Đồng – Minh” cũng thế.

- Đại nghinh: Trị mắt không nhắm được (xem: Mặt sưng).

- Phong môn: Trị thương hàn, mắt nhắm (xem: Tạp bệnh thương hàn).

- Thiên trụ: Trị mắt nhìn mà nhắm.

- Não không: Trị đầu phong mắt nhắm “Minh - Đồng” nói: Não phong đầu đau.

- Thiên phủ: Chữa đầu váng, mắt nhắm, nhìn xa mờ mờ.

- Mục song: Chữa đầu váng, mắt nhắm, nhìn xa mờ mờ “Thiên”.

- Thừa tương: Chủ mắt nhắm, mình ra mồ hôi.

* Mắt hơi rít đau, hoặc hai bên sinh hạt châu nhỏ như hạt gạo, nhổ ngay lông mí đi, tự nó khỏi, không cần châm cứu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 01, 2018, 09:59:40 AM
6. Mắt nhìn lên – Mục thượng quan (Khuông mắt động)

- Thân mạch: Chủ mắt nhìn ngược lên, nếu như đỏ đau, bắt đầu từ khóe mắt trong “Thiên”.

- Dương bạch, Thượng tinh, Bản thần, Đại đô, Khúc tuyền, Hiệp khê, Tam gian, Tiền cốc, Tán trúc, Ngọc chẩm: Chủ hệ mắt cấp, mắt cắm ngập lên trên.

- Ty trúc không, Tiền đỉnh: Chủ mắt cắm ngập lên trên, ghét gió lạnh.

- Thần đình (xem: Phong giản), Tín hội (xem: Kinh giản): Trị mắt ngược lên, không nhận biết người.

- Can du: Trị mắt nhìn lên (xem: Ho nghịch).

- Cân súc: Chữa mắt xoay lên, mắt trợn “Minh hạ” (xem: Không sáng) trị mắt đội tròng, cắm ngược lên trên, mắt ngược, mắt đội (xem: Trúng gió).

- Thừa khấp “Đồng” (xem: Nước mắt): Chủ khuông mắt động, cùng dẫn xuống cổ và miệng. “Giáp Ất” nói: Khuông mắt động, cùng dẫn thêm với đầu và miệng méo, giãn ra, không nói được.

- Quyền liêu: Trị miệng méo, mặt đỏ, mắt vàng, khuông mắt động không dứt, má sưng, răng đau.

- Địa thương: Trị khuông mắt động không dứt, mắt không nhắm được (xem: Miệng méo).

- Tán trúc: Trị khuông mắt động (xem: Mắt không sáng).

- Mắt không sáng, chảy nước mắt, mắt hoa mờ, con ngươi ngứa, nhìn xa mờ mờ, sớm tối không thấy, khuông mắt động (giống Thừa khấp), châm Thừa khấp.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 01, 2018, 10:18:45 AM
7. Nước mắt chảy ra – Mục lệ xuất

- Dịch môn “Minh hạ” nói: Mắt rít, mờ mờ, đầu đau chảy nước mắt.

- Tiền cốc, Hậu khê, Uyển cốt, Thần đình, Bách hội, thiên trụ, Phong trì, Tâm du, Thiên dũ: Chủ nước mắt chảy ra.

- Can du: Chủ nước mắt chảy ra, nhiều nhử mắt (xem: Mắt có màng).

- Hiệp khê: Chủ nước mắt chảy ra, mắt ngứa (xem: Mắt đau).

- Thừa khấp: Chủ nước mắt ra.

- Hành gian (xem: Miệng méo). Thần đình: Trị nước mắt chảy ra “Đồng” (xem: Nước mũi).

- Lâm khấp: Trị nhiều nước mắt (xem: Màng).

- Ngận giao: Trị mắt có nước và nước nhử mắt, khóe mắt trong đỏ, ngứa đau, sinh màng trắng.

- Phong trì: Trị nước mắt ra, thường nhiễm khí.

- Tình minh: Trị khí mắt lạnh, ra nước mắt (xem: Màng mắt).

- Thừa khấp: Trị khuông mắt lạnh, ra nước mắt (xem: Miệng méo).

- Đầu duy: Trị phong ra nước mắt (xem: Khuông mắt).

- Uyển cốt: Trị nước mắt lạnh sinh màng.

- Hành gian, Ngư tế: Chữa nước mắt chảy ra “Minh”.

- Tâm du: Chữa mắt mờ mờ, nước mắt chảy ra "Thiên".

- Tình minh: Chủ mắt nhìn xa không rõ, ác phong ra nước mắt, ghét lạnh, đau đầu, mắt hoa mờ, khóe mắt trong đỏ đau, nhìn xa mờ mờ không thấy, khóe mắt ngứa đau quá mức, da màng trắng trắng “Thiên”.

- Chảy nước mắt dễ, châm Thừa khấp (xem: Khuông mắt).

- Tiền cốc: Chủ mắt đau, chảy nước mắt, quá lắm thì mắt như lòi ra.

- Hành gian: Trị nước mắt chảy ra (xem: Miệng méo).

* Tôi dùng mật gấu thật, trị mắt đỏ, khuông, màng, chảy nước mắt… đều trừ được cả. Thần hiệu!


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 02, 2018, 09:13:16 AM
8. Mắt hoa – Mục huyễn

- Thông cốc: Trị đầu nặng mắt hoa, hay co giật, dẫn vào chảy máu mũi, cổ gáy đau, mắt mờ mờ “Đồng”.

- Thần đình (xem: Nước mũi). Thượng quan (xem: Điên, động kinh), Dũng tuyền, Y hy (xem: Vai và lưng trên đau), Thúc cốt (xem: Lưng gù), Ngư tế, Đại đô (xem: Bụng trướng) trị mắt hoa.

- Bản thần: Trị mắt hoa, cổ cứng đau gấp, ngực sương cùng dẫn đau, không thể xoay sang hai bên được.

- Phi dương (xem: Lịch tiết phong – Thấp khớp), Phế du: Trị đầu mắt hoa (xem: Tức ngực).

- Can du: Trị mắt hoa, đau đúng theo hàng lông mày (xem: Ho ngược lên).

- Ty trúc không: Trị mắt hoa, đau đầu, mắt đỏ, nhìn vật mờ mờ, phong giản, mắt đội lên, không nhận biết người, lông mi mắt đảo, phát cuồng, mửa ra bọt dãi, phát không có giờ giấc.

- Chi chính, Tam tiêu du: Trị mắt hoa, đầu đau (xem: Bụng trướng).

- Thiên phủ: Trị mắt hoa mờ mờ.

- Phong trì: Trị mắt hoa, khô, đầu đau (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

- Phong môn: Trị mình nóng mắt hoa (xem: Phong lao).

- Lâm khấp: Trị mắt hoa, xương chẩm, hộp sọ đau, ác hàn.
 
- Phong phủ: Trị đầu đau, cổ gáy cấp, mắt hoa.

- Thần đình: Trị đầu phong, mắt hoa, chảy nước mắt.

- Thượng tinh: Trị mắt hoa “Minh hạ” cũng thế: Trị tròng mắt bằng nhãn cầu, không thể nhìn xa.

- Tiền đình, Ngũ xứ: Trị đầu phong, mắt hoa. Mắt dội lên (xem: Điên, động kinh).

- Lâm khấp: Trị mắt hoa, mũi tắc, mắt sinh màng trắng, khuông mắt động không ngừng.

- Tiền quan: Chữa phong mắt đỏ, đầu đau, mắt hoa, mắt rít “Minh”.

- Tứ bạch “Đồng” cũng thế, Dũng tuyền, Đại trữ: Chữa đầu đau, mắt hoa.

- Thúc cốt: Chữa đầu đau, mắt hoa “Hạ” nói chữa cơ thịt động.

- Tiền cốc: Trị mắt hoa lắm lắm.

- Tán trúc: Chữa đầu mắt phong choáng váng, đầu lông mày đau, chảy máu cam, mắt mờ mờ không nhìn được xa “Hạ”.

- Tín hội: Chữa đầu mắt choáng.

* Kỳ Bá chữa xoay trong đầu, mắt hoa và đau một bên đầu không chịu nổi, kéo mắt mờ mờ không nhìn được xa, cứu khóe nhỏ ở hai mắt thằng lên mép tóc, mỗi chỗ một mồi, khỏi ngay.

- Suất cốc: Chủ phong say rượu phát sốt, hai mắt choáng đau “Thiên”.

- Đại đô: Chủ mắt hoa.

- Thừa tương, Tiền đỉnh, Thiên trụ, Não không, Mục song: Chủ mắt hoa, phải nhắm mắt lại, mắt như lòi ra.

- Thiên trụ, Đào đạo “Minh hạ” cũng thế, Côn lôn: Chủ mắt hoa, mắt như lòi ra.

* Lại nói chứng nhiều mồ hôi, mắt như lòi ra, gáy như bị đập, Côn lôn chủ chứng đó.

- Đại đôn: Chủ mắt không muốn nhìn, thở dài.

- Thần đình, Thủy câu: Chủ đầu đau, mắt không thể nhìn.

- Thừa khấp: Chủ mắt hoa (xem: Mắt nhìn không rõ).

- Thông lý, Bách hội: Chữa đầu mắt choáng váng, đau “Minh”.

- Hậu đỉnh: Chữa mắt choáng, đau “Hạ” (xem thêm: Mắt có màng).

- Lâm khấp, Trung trữ: Trị mắt hoa “Đồng” (xem thêm: Mắt có màng).

- Hàm yếm: Chủ mắt hoa “Thiên” (xem thêm: Đau một bên đầu).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 03, 2018, 04:47:37 PM
9. Mắt không sáng – Mục bất minh (Mắt mờ mờ, mắt mờ, mắt chột)

- Thận du, Thiên lịch, Hậu đỉnh: Trị mắt mờ mờ “Đồng”.

- Tán trúc: Trị mắt mờ mờ, nhìn vật không rõ, trong mắt đỏ (“Minh” chép là nóng), đau, mắt không máy động. Lại nói: 3 lượt lấy kim có cạnh nhỏ mà đâm ở đó, mắt rất sáng (Đại minh).

- Dưỡng lão, Hợp cốc, Khúc sai “Minh” cũng thế: Trị mắt nhìn không rõ.

- Kiên trung du: Chữa nóng, rét, mắt nhìn không rõ.

- Phong trì (xem: Mắt đau), Ngũ sứ: Trị mắt không sáng.

- Mục song: Trị tự nhiên xoay trong đầu, mắt mờ mờ, nhìn xa không rõ. Lại nói: Mắt ba lần châm không sáng (?).

- Phục lưu (xem: Xương sống), Can du: Trị đứng dậy mắt mờ mờ (xem: Ho ngược lên).

- Đầu duy: Trị đau một bên đầu, mắt nhìn vật không rõ.

- Tam lý: Trị mắt không sáng, người ta tuổi trên 30 không cứu Tam lý làm cho khí xông lên mắt sáng, lại nói: Làm cho khí xông lên, mắt mờ, do Tam lý hạ khí vậy.

- Thủy tuyền: Chữa đàn bà mắt mờ mờ không thể nhìn xa.

- Hàm yếm: Chữa mắt không nhìn thấy “Minh” (xem: Choáng váng).

- Tán trúc (xem: Đầu phong), Thận du “Hạ” (xem: Lao), Côn lôn: Chữa mắt mờ mờ.

- Hậu đỉnh: Chữa mắt không sáng, ác phong hàn, đầu mắt choáng đau “Hạ”.

- Can du: Chữa mắt sinh màng trắng (Giải khê cũng thế), ngắn hơi, nhổ bọt có máu, mắt nhìn ngược lên, hay cáu cuồng, chảy máu cam, mắt mờ mờ.

- Lạc đường (?): Chữa mắt vàng, nhìn xa mờ mờ.

- Thiên dũ: Chủ mắt không sáng “Thiên”.

- Thiên trụ, Đào đạo, Côn lôn: Chủ mắt không sáng, mắt như lòi ra.

- Thừa khấp: Chủ mắt không sáng, nước mắt chảy ra, mắt hoa, mù, manh, con ngươi ngứa, nhìn xa mờ mờ đêm, chiều không thấy (Giáp Ất).

- Dương bạch: Chữa con người mắt đau, ngứa, nhìn xa mờ mờ, đêm chiều không nhìn thấy.

- Thận du, Vị du, Tâm du, Bách hội, Nội quan, Phục lưu, Đại tuyền, Uyển cốt, Trung trữ “Minh hạ” cũng thế. Tán trúc, Tình minh, Ủy trung, Côn lôn, Thiên trụ, Bản thần, Đại trữ, Hàm yếm, Thông cốc, Khúc tuyền, Hậu đỉnh, Ty trúc không: Chủ mắt mờ mờ không sáng, ác phong hàn “Thiên”.

- Phong trì: Chủ mắt đau, không thể nhìn (xem: Mắt đau).

- Can hư mắt không sáng, cứu Can du 200 mồi, trẻ em châm trước có thể cứu 7 – 14 mồi.

- Trẻ em cai sữa mắt không sáng, cứu Kiên trung du mỗi chỗ đều 200 mồi “Minh”. Sách Thiên Kim Phương đoạn cấm nguồn gốc làm cho người ta mù nói rằng: Ăn sống năm thứ cay, tiết nhiệt ăn uống, châm ở đầu ra máu quá nhiều, mắt nhìn xa tột độ, ban đêm đọc sách chăm chú, ở lâu chỗ có lửa, cờ bạc không nghỉ, sau khi đã hết ngày (tối đêm….) lại đọc sách, uống rượu không biết đã, ăn cháo miến nóng, chép sách nhiều năm, đục chạm tỷ mỉ, khóc lóc quá nhiều, tình dục không hạn chế, nhiều lần nhìn mặt trời, mặt trăng, ban đêm xem trăng sao, mắt nhìn xem núi, khe, cây có đến tột độ (có 18 việc). Lại có phi ngựa đuổi cầm thú (…) quả cảm mạo phong sương, đuổi thú ngược gió ngày đêm không nghỉ. Tất cả là cớ để hại mắt vậy (Quá lủng củng).

- Đúng là đọc sách, cờ bạc quá độ mà bệnh mắt gọi là Can lao….(một đoạn quá lủng củng).

“Bản sự phương” nói: Đọc sách làm thương Can, tổn mắt đúng là như thế. Tấn Phạm Minh thường khổ vì đau mắt, gặp Trương Châm cầu chữa. Châm đùa rằng: Dừng bớt đọc sách là một, giảm suy nghĩ là hai, chỉ chuyên nhìn bên trong là ba, hạn chế xem xét bên ngoài là bốn, buổi sáng dậy sớm là năm, đêm đi ngủ sớm là sáu. Phàm sáu thứ đó sắc bằng lửa thần, quạt cho xuống hơi giấu vào trong ngực bảy ngày sau đó nạp mọi phương thốn, sửa đi một lúc, gần có thể nhiều cái lông mí, nhìn xa một thước thùy (gốc cây:..) uống mãi không thôi, động xem ngoài tường vách, không những mắt sáng mà cũng sống lâu. Đúng như thế mà làm đi.

Không thể cho rằng đó là đùa cợt, cũng là một phương lạ, đó là khuyên răn người ta có lý, ghi tạm đủ để lại cho người sau (Quá lủng củng).

- Mắt mờ cứu Đại chùy mấy khớp thứ 10 gặp Tích trung cứu 200 mồi, lấy nhiều làm tốt, rất nghiệm “Thiên”.

“Minh đường” nói: Người ta trên 30 tuổi, nếu như không cứu Tam lý làm cho khí thông lên mắt sáng “Hạ” nói: Mắt mờ.

“Thiên Kim Phương” nói: Đọc sách, cờ bạc quá mức bị bệnh mắt tên là Can lao. Ngoài việc nhắm mắt ba năm không nhìn, không thể khỏi được, nhưng tự tả Can và làm mọi cách cuối cùng là vô hiệu. Tức là cái mắt không thể để cho nó mệt mỏi được. Người xưa đã có nhiều cách giữ gìn. Bành Chân Nhân tuổi già thường bị bệnh mắt, chẳng tích sách ban đêm, ngước mắt nhìn chăm chú thì thấy mờ mờ tối. Nhắm mắt lại, theo đó làm lại, kết quả công phu đó mà nhìn tỏ tường. Từ Chân Nhân “Giáp” thường bị bệnh mắt, ngồi ngay thẳng trong buồng tối, vận tròng mắt xoay 81 lần, nhắm mắt tập trung vận không kể số, mà thấy quang tự hiện giống như một cái vòng bằng vàng, trừ hẳn được cái mờ tối. Thi Chân Nhân tự Kỳ Cá cũng nói: Vận tròng mắt trừ mờ mắt (đó là Bão Phác Tử) đều là phép dưỡng cả. Nếu như dùng thuốc thì Địa hoàng hoàn, Dương can hoàn… và dùng Đương quy, thược dược, Hoàng liên các vị bằng nhau, tán nhỏ lấy nước tuyết đun thành nước đậm đặc, nhân còn nóng mà rửa nhiều lần, rất là tốt (xem: Ký Hiệu Phương).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 05, 2018, 10:57:35 AM
10. Mắt có màng che – Mục ế mạc

- Màng trắng, mắt quyết (nhìn trừng trừng), mắt nhìn xuống.

- Chí âm: Chủ mắt có màng “Thiên”.

- Khâu khư: Chủ mắt có màng không thấy con ngươi.

- Hậu khê: Chủ khóe mắt toét, có màng, lại chủ mắt đỏ có màng.

- Tiền cốc, Kinh cốt: Chủ trong mắt có màng trắng.

- Kinh cốt: Chủ mắt trắng trở lại, màng trắng bắt đầu từ khóe mắt trong.

- Can du, Thượng tinh, Phong trì, Tình minh, Ngân giao, Thừa khấp, Tứ bạch, Cự liêu, Đồng tử liêu: Chủ mắt chảy nước mắt, nhiều dử, khóe mắt trong đỏ, đau, ngứa, sinh màng trắng.

- Thừa quang: Trị mắt sinh màng trắng “Đồng”.

- Lâm khấp: Chữa mắt sinh màng trắng, nhiều nước mắt, lại trị mắt choáng, sinh màng trắng.

- Tình minh: Trị màng trắng co kéo, màng mộng đậy lên đồng tử.

- Khâu khư (xem: Nách sưng). Đồng tử liêu: Trị trong mắt có màng (xem: Thanh manh).

-Trung trữ: Trị mắt choáng sinh màng mộng.

- Lâm khấp, Uyển cốt, Ngận giao (xem thêm: Chảy nước mắt), Can du (xem: Ho ngược lên), Tứ bạch (xem: Mắt hoa), Quan xung, Tiền cốc: Chữa mắt sinh màng trắng.

- Chí âm:Trị mắt sinh màng trắng.

- Thái uyên: Trị mắt sinh màng trắng “Minh hạ” cũng thế, khóe mắt có gân đỏ, đau dẫn vào trong hố lõm vai.

- Dương khê: Trị mắt bị phong đỏ, toét, có màng.

- Giác tôn: Trị mắt sinh màng da.

- Chí âm: Chữa mắt có màng mờ mờ.

- Hợp cốc: Chữa mắt không sáng, sinh màng trắng “Hạ”.

* Trương Trọng Văn chữa phong ở mắt, tự nhiên sinh màng mộng, hai mắt đau không chịu nổi, cứu khớp gốc ngón tay giữa, trên giữa chỗ nhọn đầu khớp, cứu 3 mồi như hạt lúa, bệnh bên trái cứu bên phải, bệnh bên phải cứu bên trái.

- Tiên cốc: Chữa trong mắt có màng trắng “Thiên”.

- Giải khê: Chủ màng trắng lấp con ngươi không nhìn thấy.

* Mắt tự nhiên sinh màng, cứu giữa nếp ngang khớp đốt ngón tay cái 3 mồi. Bệnh bên trái cứu bên phải, phải cứu trái.

- Can du, Giải khê: Chữa mắt sinh màng trắng “Minh hạ” (xem: Mắt không sáng).

- Thủy câu: Chủ mắt nhìn giương ra.

- Thượng quan (xem: Thanh manh), Thiên lịch: Chủ mắt nhìn xuống mờ mờ.

* Tôi du học ở Hội Khê, cả buổi sớm xem sách báo, giờ Thìn mới ăn, lâu ngày bị bệnh mắt rít, chán ngán bỏ đi chơi. Người cùng nhà dặn lấy muối sạch lau chùi mắt mấy lần mà hết bệnh. Muối tinh sạch có thể chữa mắt, đúng thế cổ phương đã dùng muối sạch lau chùi răng, nhân vốc tay rửa mắt mà mắt sáng (Minh tinh là cái tinh túy của muối ăn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 06, 2018, 08:59:32 AM
11. Mắt đỏ - Mục xích

- Huyền ly: Trị khóe mắt thay đổi đỏ, đau “Đồng”.

- Tán trúc: Trị mắt đỏ, đau (xem: Mắt không sáng).

- Phong trì: Trị khóe mắt trong đỏ đau, khi phát làm cho tai tắc, mắt không sáng.

- Côn lôn, Thái uyên, Dương khê: Trị mắt đỏ (xem: Màng).

- Hiệp khê: Chữa khóe mắt ngoài đỏ, mắt hoa.

- Dịch môn: Trị mắt đỏ, rít “Thiên” nói: Chủ mắt rít, co rút.

- Nội quan: Trị mắt đỏ, chi tức.

- Mục song (xem: Mắt đau), Đại lăng: Trị mắt đỏ (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

- Thượng tinh, Can du: Chủ khóe mắt trong đỏ, đau ngứa “Thiên”.

- Chi câu: Chủ con gái xương sống cấp, mắt đỏ.

- Thân mạch (xem: Mắt đau), Thái xung, Khúc tuyền, Dương khê (xem: Mắt đau): Chủ mắt đỏ đau, sưng.

- Thúc cốt “Thiên” cũng thế, Kinh cốt: Trị khóe mắt trong đỏ, toét “Đồng”.

- Tiền quan: Chữa phong đỏ mắt “Minh” (xem: Mắt hoa).

* Trẻ em hai, ba tuổi, tự nhiên hai khóe mắt đều đỏ, cứu sau khe ngón cái và ngón trỏ 1,5 thốn, giữa chỗ lõm trong hố khẩu, mỗi bên 3 mồi.

- Mắt đỏ đau, bắt đầu từ khóe mắt, lấy Âm kiều “Thiên”.

- Tình minh (xem: Nước mắt), Hậu khê, Mục song (xem: Mắt đau), Đồng tử liêu: Chủ mắt đỏ (xem: Màng).

- Can lao, tà khí mắt đỏ, cứu Dương cương 100 mồi.

- Phong ngứa, đỏ cứu Nhân trung (xem: Mắt đau).

- Não hộ, Đảm du, Ý xá, Dương cương: Trị mắt vàng “Đồng” (xem thêm: Bụng trướng).

- Trung quản, Thái lăng: Chủ mắt vàng, rét run “Thiên”.

- Lao cung: Chủ hoàng đản, mắt vàng “Đồng” cũng thế.

- Thanh linh: Trị mắt vàng.

- Kỳ môn: Trị mắt xanh mà nôn “Thiên” cũng thế.

- Thái tuyền: Chủ lòng trắng ở trong mắt xanh ra “Thiên”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 06, 2018, 09:20:01 AM
12. Thanh manh – Quáng gà, mắt cam

- Thương dương, Cự liêu, thượng quan, Thừa quang, Đồng tử liêu, Lạc khước: Chủ thanh manh, quáng gà, mắt không nhìn thấy.

- Kỳ môn, Thái tuyền: Chủ mắt xanh (xem: Mắt đau).

- Lạc khước: Chủ thanh phong nội trướng, mắt không nhìn thấy.

- Cự liêu: Chữa thanh manh, mắt không nhìn thấy, nhìn xa mờ mờ, màng trắng che đồng tử.

- Đồng tử liêu: Trị thanh manh, mắt không nhìn thấy, nhìn xa mờ mờ, trong mắt có màng mộng, đầu đau, khóe mắt ngoài đỏ đau.

- Thương dương: Trị thanh manh, bị bên trái lấy bên phải, bị bên phải lấy bên trái (xem: Hàm sưng).

* Trẻ em mắt rít, sợ gió giống như thanh manh, cứu Trung trữ mỗi chỗ đều 1 mồi “Minh”.

* Trẻ em cam mắt cứu Hợp cốc, mỗi chỗ 1 mồi.

- Tình minh: Trị cam mắt “Đồng”, trẻ em quáng gà, cam mắt. “Minh” nói: Chữa mắt mờ, quáng gà, nước mắt lạnh.

- Can du: Chủ bệnh nhiệt, sai lệch. Sau khi ăn năm thứ cay, thường bị nạn mắt mờ như quáng gà “Thiên”.

* Trẻ em quáng gà, đêm không nhìn thấy vật, cứu ở đầu cạnh trong nếp ngang ngón tay cái, sau móng tay 1 thốn, chỗ bờ thịt trắng, mỗi chỗ 1 mồi. “Đơn phương” nói: Lấy máu não chim sẻ chấm khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 06, 2018, 10:01:50 AM
13. Miệng mặt méo – Khẩu nhãn oa (xem thêm trúng gió, phong một bên người, không nói được)

- Thừa khấp, Tứ bạch, Cự liêu, Thượng quan, Đại nghinh “Đồng” cũng thế, Quyền cốt, Cường gian, Phong trì, Nghinh hương, Thủy câu: Chủ miệng méo lệch, không nói được “Thiên”.

- Giáp xa, Quyền liêu: Chủ miệng lệch, đau, ác phong hàn, không thể nhai. Miệng méo lệch, Hoàn cốt chủ chứng đó “Giáp”.

- Thủy câu, Ngân giao: Chủ miệng không giữ được nước bọt, méo lệch.

- Thượng quan, Hạ quan: Trị phong một bên, miệng mắt méo (xem thêm: Phong một bên).

- Thừa quang: Trị miệng méo, mũi nhiều nước trong, chảy máu cam, đầu đau.

- Liệt khuyết, Hoàn cốt: Trị miệng méo (xem: Phong một bên).

- Ế phong: Chủ miệng méo (“Minh hạ” chép là môi) lệch, hàm trễ như rời ra, miệng mím không mở, lưỡi cứng không nói được, má sưng hàm răng đau.

- Thừa tương: Chủ phong một bên, miệng méo “Minh hạ” cũng thế.

- Cự liêu: Trị điên, động kinh, méo miệng.

- Quyền liêu: Trị miệng méo, khuông mắt động (xem: Khuông mắt).

- Thừa khấp: Chủ miệng mắt méo lệch, khuông mắt, mặt động nhè nhẹ kéo miệng mắt. Mắt nhìn mờ mờ, nước mắt lạnh, khóe mắt đỏ đau “Minh” cũng thế.

- Địa thương: Trị phong một bên, miệng méo, mắt không nhắm được, mất tiếng không nói, ăn uống rơi vãi, nước dãi rơi rớt, khuông mắt động không dừng. Bệnh bên trái cứu bên phải, bệnh bên phải cứu bên trái. Nếu như miệng chuyển méo nhiều lại cứu Thừa tương 7 X 7 = 49 mồi sẽ khỏi.

- Hành gian: Trị miệng méo, tứ chi lạnh, họng khô, phiền khát, mắt trợn, chảy nước mắt, thở dài.

- Thông cốc: Chữa gần như méo miệng, ăn uống hay nôn, đột nhiên câm không thể nói được “Minh hạ” cũng thế.

- Thái uyên: Chữa miệng lệch (xem: Đau tim).

- Ôn lưu, Thiên lịch, Nhị gian “Minh hạ” nói: Miệng mắt méo lệch.

- Nội đình: Trị miệng méo.

- Xung dương: Trị phong một bên, miệng mắt méo, khuỷu tay sưng, răng sâu đau, phát nóng rét.

- Hòa liêu (xem: Nước mũi): Chữa miệng lệch.

- Liệt khuyết “Hạ” cũng thế, Địa thương (xem: phong một bên): Chữa miệng méo.

- Cự liêu: Chữa mặt bị phong hàn, sưng trên sống mũi, điên, động kinh, miệng giãn ra.

- Địa thương: Chữa phong một bên, miệng méo, mất tiếng không nói được, không uống được nước, ăn thì rơi vãi.

* Mạch ở khuông mắt động, cứu mạch trúng phong (?).

* Miệng mắt méo lệch, như là bệnh về bên phải, đó là mạch trúng phong ở bên trái cứu bên phải, mồi như hạt lúa mạch, mỗi chỗ 14 mồi.

* Nhiều lần cứu để lấy hết phong khí, Thính hội, Giáp xa, Địa thương, mỗi huyệt đều hai chỗ ở hai bên.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 06, 2018, 10:34:44 AM
14. Miệng câm, mất tiếng – Khẩu á ám

- Hợp cốc, Thủy câu: Chủ câm “Thiên” (xem: Câm).

- Thừa khấp (xem: Miệng méo), Địa thương “Minh” cũng thế, Đại nghinh, Ngư tế, Thông lý (xem: Phong kinh): Chữa không thể nói.

- Não hộ: Chủ câm, không thể nói được (xem: Điên, động kinh).

- Khổng tối, Á môn: Chữa mất tiếng “Minh hạ”..-Phong phủ “Hạ” cũng thế, Thừa tương “Hạ”: Chữa câm không nói.

- Ế phong, Thông lý: Chữa bạo câm, không nói được “Hạ”.

- Thính cung “Minh” cũng thế: Trị mất tiếng “Đồng”.

- Giáp xa: Trị mất tiếng (xem: Miệng mím ngậm).

- Âm khích: Trị mất tiếng không thể nói.

- Gian sử (xem: Cuồng), Hợp cốc: Chủ câm không thể nói được “Thiên” (xem” Ngậm miệng).

- Thiên vạc: Trị bạo câm, khí vướng “Minh hạ” nói: Bạo câm, họng sưng, ăn không xuống, hầu kêu “Đồng”.

- Linh đạo (xem: Đau tim), Thiên đột “Minh hạ”, Thiên song “Minh hạ” cũng thế: Trị bạo câm không nói được, miệng ngậm (xem Má sưng).

- Chi câu (xem: Miệng ngậm), Thông cốc (xem: Miệng méo), Tam dương lạc: Trị bạo câm “Minh hạ” cũng thế.

- Giáp xa: Trị hàm răng không mở, miệng ngậm không nói (“Minh hạ” cũng thế), mất tiếng, khớp răng đau, hàm má sưng “Minh” cũng thế.

- Nhật nguyệt: Trị lời tiếng không chỉnh (xem: Buồn).

* Trẻ em 5, 6 tuổi không nói, tâm khí bất túc, cuống lưỡi không có sức gây ra chuyển khó, cứu Tâm du 3 mồi, hoặc hai mắt cá chân đều 3 mồi “Thiên” (Mắt cá ngoài – Người dịch).

- Liêm tuyền “Minh” cũng thế, Nhiên cốc “Giáp Ất” chép là Thông cốc, Âm cốc: Chủ sưng dưới lưỡi, khó nói, lưỡi dãn, ra nước dãi.

- Phong phủ: Chủ lưỡi chậm, câm “Minh hạ” cũng thế,  không nói được, lưỡi cấp, khó nói.

- Chi câu, Thiên song, Phù đột, Khúc tân, Linh đạo: Chủ bạo câm không thể nói được.

- Phục lưu: Chủ lưỡi cong không thể nói được.

- Thông lý: Chủ không nói được.

- Ngư tế: Chủ kinh, co giật, khí lên, mất tiếng, không nói được.

- Á môn: Trị cổ gáy cứng, lưỡi chậm, không nói được “Đồng”. “Minh” nói: Mất tiếng không thể nói, lưỡi cấp.

- Á môn còn có tên là Thiệt hoành, Thiệt yếm, huyệt đó là chỗ đốc mạch và Dương duy hội nhau, vào nối liền gốc lưỡi. Do đó cuống lưỡi nối liền ở đó. Phàm bệnh chậm không nói nên chữa ở đó.

- Liêm tuyền: Trị sưng dưới lưỡi, khó nói, lưỡi chùm ra, chảy nước dãi, ho hắng, khí lên, thở suyễn nôn ra nước bọt, miệng ngậm, gốc lưỡi co rút, ăn khó xuống.

- Liêm tuyền có tên là Thiệt bản, cái gốc rễ của lưỡi, do đó nó có thể chữa: Sưng dưới lưỡi, khó nói, lưỡi trùng ra, chảy nước dãi, gốc lưỡi co rút. So với “Thiên Kim Phương” nhìn chung là giống nhau, phàm các chứng trên đều nên chữa ở đó.

- Đại nghinh: Trị lưỡi cứng, không thể nói.

- Ế phong: Chủ không nói được “Thiên” (xem: Điên, động kinh).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 06, 2018, 10:56:09 AM
15. Lưỡi cứng – Thiệt cường (lưỡi thè lè, trùng thiệt)

- Trung xung: Trị lưỡi cứng “Đồng” (xem: Tim đau).

- Âm cốc: Trị lưỡi trùng ra, chảy nước dãi, phiền nghịch, đái khó, bụng dưới cấp, dẫn đau vào âm bộ, đau cạnh trong đùi.

- Thiên đột: Trị dưới lưỡi cấp (xem: Nhổ ra máu).

- Nhiên cốc: Trị lưỡi trùng ra.

 - Giải khê: Trị miệng đau, đục khoét vào lưỡi “Thiên”.

- Thiên đột: Chủ mạch nổi sát cạnh lưỡi xanh.

- Ngư tế: Trị trên lưỡi vàng “Đồng” (xem: Nóng rét).

- Khiếu âm: Trị lưỡi cứng.

- Liêm tuyền: Trị cuống lưỡi co rút (xem: Không nói được).

- Dương cốc: Chữa thè lè lưỡi, nghẹo cổ “Minh” (xem: Nói cuồng), trẻ em thè lè lưỡi, trị trẻ em lưỡi cứng, ngậm vú không được “Hạ” (xem: Miệng mím).

* Trị trẻ em trùng thiệt (lưỡi đôi), lưỡi có một lớp rộp lên, sưng trông như hai lưỡi đè lên nhau, cứu Hành gian số mồi theo tuổi, lại cứu trên mắt cá ngoài chân 3 mồi.

- Hoạt nhục môn (xem: Cuồng), Thiếu hải (xem: Điên giản), Ôn lưu: Chữa thè lè lưỡi. (xem: Cuồng).

- Đai nghinh: Chữa lưỡi cứng “Đồng” (xem: Câm).

- Trúc tân (xem: Nói cuồng), Thái nhất: Trị lưỡi thè lè (xem: Điên cuồng).

- Xung quan: Chủ lưỡi cong “Thiên” (xem: Phiền tâm).

- Dương khê (xem: Điên cuồng), Nhị gian (xem: Co giật), Phi dương, Ôn lưu (xem: Điên cuồng): Chủ lưỡi thè lè.

- Á môn: Chủ lưỡi cứng.

- Phong phủ: Chủ lưỡi cấp.

- Âm cốc: Chủ lưỡi co giật.

- Liêm tuyền: Chủ lưỡi trùng ra, gốc lưỡi co rút (xem thêm: Miệng câm).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 10:26:02 AM
16. Miệng giãn – Khẩu hoãn, trễ hàm

- Địa thương, Đại nghinh: Chủ miệng giãn không gọn, không nói được (xem: Miệng mím).

- Trễ hàm, cứu đốt sống thứ 5, mỗi ngày 14 mồi đủ 3 ngày chưa khỏi thì cứu Khí xung 200 mồi, ở giữa hầu xuống trước ngực, giữa xương ức là huyệt, cũng có tên là Khí đường, lại cứu Tam âm giao 100 mồi. 3 lần báo.

- Thông lý: Chủ nhiều lần trễ duỗi đều đều (xem: Đau tim), Hạ quan, Đại nghinh: Chủ trễ miệng, răng lợi dưới đau.

- Nội đình: Chủ hay dẫn duỗi đều đều, nhiều lần trễ, sợ nghe tiếng người “Đồng” cũng thế.

- Lậu cốc: Chủ trễ mà cứng (xem: Ruột sôi).

- Thái uyên: Chủ nhiều lần trễ, không thể được (?) (xem: Phong kinh).

- Kinh cừ: Chủ nhiều lần trễ (xem: Ho ngược lên).

- Phong trì: Chủ chảy nhiều nước mắt, trễ , nhiều khí.

- Tỳ du: Chủ hoàng đản, hay trễ, không muốn ăn “Thiên” cũng thế.

- Xung dương: Chủ thương hàn bệnh, rét run mà trễ.

- Ế phong (xem: Miệng méo) “Hạ” cũng thế, Thông cốc: Trị trễ miệng (xem: Miệng méo).

- Phong phủ: Trị lưỡi chậm “Thiên”.

- Á môn: Trị lưỡi chậm (xem: Miệng câm).

- Côn lôn: Chủ miệng ngậm.

- Ế phong: Chủ không nói được “Thiên” (xem: Điên, động kinh).
 
*Trẻ em hay trễ môi (phong giản) lấy Thượng quan (xem: Thượng quan môn).

* Có người đàn bà tạng táo, buồn khóc nhiều lần bị trễ môi “Kim quỹ” có Đại Táo Thang, nếu hợp uống cũng khỏi (phương xem ở Bản sự).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 10:40:12 AM
17. Sâu răng - Xỉ ngung

- Giác tôn: Chữa răng không cắn được vật, sâu đau sưng “Minh”.

- Nhĩ môn: Chữa răng sâu.

- Tam gian, Dương cốc, Xung dương (xem: Mồm méo), Nội đình, Lệ đoài, Tứ độc, Dịch môn, Dương cốc, Thượng quan: Trị răng sâu đau “Hạ” giống thế.

- Thiếu hải: Trị răng đau, sâu, lại trị răng lạnh, não phong đau đầu.

- Đoài đoan, Mục song, Chính doanh, Nhĩ môn: Trị môi, mép cứng, răng trên sâu, đau “Thiên”.

- Hợp cốc, Thiên lịch, Tam dương lạc “Minh hạ” nói: chữa đau răng, Nhĩ môn: Trị sâu răng.

- Tam gian, Đại nghinh, Chính doanh: Trị răng sâu, đau.

- Hoàn cốt: Trị răng sâu, đau (xem: Điên tật).

- Đoài đoan, Tam gian, Xung dương, Thiên lịch, Tiểu hải, Hợp cốc, Nội đình, Phục lưu: Chủ răng sâu.

- Khúc tân: Chủ răng sâu.

- Hạ quan, Đại nghinh, Ế phong, Hoàn cốt: Chủ răng lợi sưng đau.

* Chuyện rằng: Mất môi thì răng lạnh, là nói về trước răng không có răng vậy, thuyết văn nói: Sâu,mọt răng là nói răng sâu mọt mà đau, nhưng không có sâu mọt mà đau là phong hàn đã vào trong não tủy đó. “Tố vấn” nói: Đại hàn đến xương tủy làm cho đầu đau, răng cũng đau, gặp phải thì lấy đó mà chữa.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 10:58:47 AM
18. Miệng lưỡi khô đắng, nóng hôi – Khẩu thiệt càn khổ

- Đảm du, Thương dương, Tiểu trường du: Chủ miệng lưỡi khô, ăn không xuống.

- Lao cung, Thiếu trạch, Tam gian, Thái xung: Chủ miệng nóng, miệng khô, miệng loét.

- Thái khê, Thiếu trạch: Chủ họng khô, miệng nóng, nước bọt như keo.

- Khúc trạch, Chướng môn: Chủ miệng khô.

- Thiếu âm: Chủ lưỡi cong, miệng khô.

- Dương lăng tuyền: Chủ miệng đắng, trong họng vướng.

- Quan xung (xem: Tâm phiền): Chủ lưỡi cong họng khô (xem: Hầu bại).

- Khúc trạch: Chủ mình nóng, phiền khát, miệng khô “Đông”.

- Tam gian (xem: Sốt rét), Phế du (xem: Lao khái), Bất dung (xem: Hạch hòn), Chướng môn (xem: Ruột kêu), Thương dương (xem: Sốt rét), Khiếu âm (xem: Hầu bại), Đoài đoan: Trị miệng khô.

- Đảm du: Trị miệng đắng, lưỡi khô (xem: Bụng trướng) “Minh hạ” nói: Miệng lưỡi khô ăn không xuống.

- Phục lưu (xem: Xương sống), Đại chung (xem: Lậu), Xích trạch: Trị lưỡi khô (xem: Hầu bại).

- Hạ liêm: Trị môi khô, nước dãi ra không biết (xem: Ỉa như cháo).

- Thiếu xung (xem: Thương hàn), Đại chung: Trị trong miệng nóng (xem: Lậu).

- Can du, Khúc trạch (xem: Nhổ ra máu), Thiếu trạch: Chữa miệng khô “Minh”.

- Khúc trạch: Chữa miệng khô (xem: Thương  hàn).

- Lao cung: Chữa người lớn, trẻ em trong miệng tanh hôi, ngực sườn chi tức “Đồng”. “Thiên” nói: Chủ trẻ, già trong miệng sưng, tanh hôi. “Minh hạ” nói: Trẻ em lợi loét hôi (xem: Cam miệng).

- Thiếu xung: Chữa miệng nóng, họng chua (xem: Thương hàn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 11:53:08 AM
19. Răng miệng cam, có mụn – Khẩu xỉ cam sang

- Thừa tương: Trị răng miệng có cam trùng làm mụn “Đồng”, trong miệng mọc mụn “Minh”.

* Miệng trẻ em có trùng trong mụn, lợi loét hôi hám xông ra khó chịu cho người xung quanh, cứu Lao cung 3 mồi “Hạ”.

- Thiên xung: Trị răng lợi sưng.

- Giác tôn: Trị răng lợi sưng, trẻ em cam cấp làm thành mụn (xem: Mụn ở dưới).

* Sử ký: Tề đại phu bị bệnh sâu răng, Thái Thương Công cứu ở mạch Thái dương bên trái, làm ngay Khổ Sâm Thang, ngày ho ra ba đận, trong ngoài dăm sáu ngày thì hết bệnh. Bị phong mà nằm há miệng, ăn mà không ho (?) (xem: Sâu răng).

- Hoàn cốt: Chủ hàm răng cấp (trúng gió).

- Ế phong: Trị hàm răng đau (xem: Miệng méo).

- Hạ quan: Trị trễ hàm (xem: Phong một bên).

- Thủy câu (xem: Điên tật), Thượng quan (xem: Răng đau), Giáp xa (xem: Miệng méo): Trị khớp răng không há “Đồng”.

- Hòa liêu: Trị hàm răng dẫn cấp, đầu nặng đau, trong tai thều thào, hàm, má sưng.

- Thính hội: Trị hàm răng trễ ra rõ ràng, cách nhau 3 thốn . “Minh” nói: Hàm răng cấp đau, không thể nhai (xem thêm: Trúng gió, phong một bên người).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 03:48:26 PM
20. Răng cắn – Xỉ cấp (Miệng ngậm – xem thêm: Trúng gió)

- Thiên dung, Liêm tuyền, Phách hộ, Khí xá, Y hy, Phù đột: Chủ ho ngược lên, thở suyễn, nôn ra nước bọt, răng cắn “Thiên”.

- Nhiên cốc: Trị trẻ em sơ sinh phong lỗ rốn, miệng cắn, ủy quyết ỉa như tháo cống “Đồng”.

- Khúc tân “Minh hạ” (xem: Gáy cổ): Trị miệng cắn không nói được (xem: Hàm má).

- Thiên song (xem: Má sưng), Ế phong: Trị miệng cắn (xem: Miệng méo).

- Liêm tuyền: Trị miệng cắn, lưỡi cứng co (xem: Lưỡi cứng).

- Hợp cốc (xem: Môi má), Liệt khuyết (xem: Phong một bên), Giáp xa (xem: Miệng câm), Hòa liêu: Trị miệng cắn không mở.

- Đại nghinh: Trị phong co giật, miệng cắn (xem: Phong kinh).

- Chi câu: Trị miệng cắn không mở, bạo câm không nói được.

- Ngoại quan, Nội đình, Tam lý, Thương khâu, Đại tuyền: Chủ răng cắn má lệch “Giáp” nói: Miệng lệch, châm Đại tuyền, dẫn nhi hạch.

- Ngận giao, Thượng quan, Đại nghinh, Ế phong: Chủ miệng cắn không mở, dẫn vào trong mũi.

- Hợp cốc, Thủy câu (“Minh hạ” cũng thế): Chủ môi mép không gọn, câm không nói được, miệng cắn).

- Thương khâu, Khúc tân: Chủ miệng cắn “Thiên”.

- Thừa tương: Chủ phong ở mặt, miệng không mở, miệng sinh mụn nhọt “Minh hạ” nói: Chữa miệng cắn.

- Liêm tuyền: Chữa răng cắn (xem: Ít khí).

- Đoài đoan: Chủ miệng ngậm, hàm gõ vào nhau “Hạ”.

- Ế phong: Chữa miệng cắn không mở.

- Hòa liêu: Chữa miệng không thể mở và thây cứng đơ (Thi quyết).

* Trẻ em sinh ra trong vòng 2 đến 7 ngày, miệng ngậm không bú sữa, kêu nhiều là khách phong (phong ở tạm) ở trong rốn, đi theo đến đường kinh của hai tạng Tâm, Tỳ làm cho lưỡi cứng, môi co giật, không ngậm được vú. Bệnh đó ngày nay chữa bằng phương thuốc, không trông mong khỏi cả mười, đại để là trừ khách phong cứu Thừa tương 7 mồi, sau đó cứu Giáp xa 2 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 04:20:37 PM
21. Nha đông – Răng đau

- Đai nghinh, Quyền liêu, Thính hội, Khúc trì: Chủ răng đau, ác hàn “Thiên”.

- Phù bạch: Chủ răng đau, không nói được.

- Dương cốc, Chính doanh: Chủ răng hàm trên đau.

- Dương cốc, Dịch môn, Thương dương, Nhị gian, Tứ độc: Chủ răng hàm dưới đau.

- Giác tôn, Giáp xa: Chủ răng không thể cắn được “Minh” cũng thế.

* Phong răng đau, cứu trên mắt cá ngoài, trước xương cao, chỗ mạch giao nhau 2 mồi. Lại lấy dây đo ngón tay giữa đến nếp ngang cổ tay phía sau bàn tay, chia làm 4 phần, đo về phía sau nếp ngang, đúng vào chỗ giữa cánh tay, cứu 2 mồi thì khỏi, tùy theo trái phải.

* Có một bà lão bị nạn răng đau, người ta dậy lấy hai bàn tay giao nhau, lấy đầu cùng của ngón tay giữa làm huyệt cứu 7 mồi, mãi mãi không đau lại. Sợ là huyệt Ngoại quan vậy huyệt ở Thủ Thiếu Dương, cách phía sau cổ tay 2 thốn giữa chỗ lõm.

* Vợ một người lái đò nhiệt Tỳ cũng khổ vì đau răng. Người ta cứu ở huyệt gần mắt cá ngoài tay, trước đó một tý, suốt mãi về sau không đau. Nhưng chẳng biết Thiên Kim Phương đã nói là trên mắt cá ngoài, không biết là mắt các ngoài chân hay mắt cá ngoài tay, mong thức giả phân biệt cho đúng.

- Ế phong: Trị hàm răng đau “Đồng” (xem: Miệng méo).

- Đại nghinh: Trị răng đau, má, hàm sưng (xem: Kinh phong).

- Khúc tân: Trị má, hàm sưng dẫn vào hàm răng không há được (xem: Má hàm).

- Chính doanh: Chữa răng, hàm đau, môi méo co cứng, răng sâu đau.

- Dương khê, Huyền ly, Thủ tam lý: Trị răng đau (xem: Đầu).

- Thương dương: Trị răng đau, ác hàn, môi mép co cứng (xem: Hàm sưng).

- Đoài đoan: Trị răng lợi đau.

- Tiểu hải: Chủ nóng rét, răng lợi sưng, phong choáng váng, gáy cổ đau.

- Thượng quan “Đồng” cũng thế: Chữa phong đau răng, hàm răng không mở, miệng mím, nhai thì kêu “Minh”.

- Quyết âm du: Chữa răng đau (xem: Ho ngược lên).

* Cách cứu đau răng ở Lương Phương, tùy theo đầu nhọn vai trái, vai phải chỗ có nạn, hơi gần phía sau, giữa chỗ xương nối, giơ tay một góc nhỏ mà lấy huyệt, đúng giữa chỗ lõm xương rời ra, cứu 5 mồi. Chính tôi cứu nhiều người đều khỏi, cứu xong gáy đau nhiều, lâu lâu mới trở lại như cũ, mãi mãi về sau không phát lại. Tôi bị đau răng chữa hàng trăm cách đều không khỏi, sau dùng cách đó mà khỏi.

* Tân Soái ngày xưa bị bệnh thương hàn mới khỏi, ăn mơ xanh liền đó là đau răng dữ dội, có đạo nhân làm cách cứu như sau: Gấp ngón tay cái cứu 3 mồi ở chỗ lõm sau khớp gốc, mới cứu thấy răng ngứa, cứu lại thấy răng có tiếng động, 3 mồi thì dứt đau. Nay đã 20 năm không đau lại, sợ là huyệt Dương khê vậy. “Đồng” nói: Trị đau răng, mạch Thủ Dương Minh vào giữa cặp răng, đau bên trái, cứu bên phải, đau bên phải cứu bên trái.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 04:46:03 PM
22. Mũi tắc không thông – Tỵ tắc bất lợi (không ngửi thấy mùi thơm thối)

- Khúc sai, Thượng tinh, Nghinh hương, Tố liêu, Thủy câu, Ngận giao, Thông thiên, Hòa liêu, Phong phủ: Chủ mũi tắc thở suyễn không lợi. Mũi méo lệch, nhiều nước mũi, chảy máu cam, có mụn trong mũi.

- Thừa linh: Chủ mũi tắc, thở suyễn không thông (xem: Mũi chảy máu cam).

- Lệ đoài, Kinh cốt, Tiền cốc: Chủ mũi không thông lợi, nước mũi vàng.

- Ngận giao: Chủ thịt thở, trĩ mũi.

- Thiệt trụ: Chủ không biết thơm thối.

- Trung quản: Chủ trong mũi khô, hôi.

- Mi xung: Chữa đầu đau, mũi tắc “Minh”.

- Ngọc trẩm (xem: Mắt đau), Bách hội (xem: Phong giản), Minh đường (xem: Nước mũi), Dương cương, Lâm khấp (xem: Phong choáng váng): Chữa mũi tắc.

- Nghinh hương: Chữa mũi không ngửi thấy thơm thối.

- Phong phủ: Chữa mũi không thở được.

- Thiên dũ: Chữa mũi tắc không biết thơm thối “Hạ”.

- Chí âm: Trị mũi tắc (xem: Đầu nặng).

- Thượng tinh, Bách hội, Tín hội “Minh” cũng thế, Thừa quang: Trị mũi tắc không biết thối.

* Mũi tắc cứu Tín hội, đến ngày thứ 4 thì giảm dần, ngày thứ 5 thì khỏi ngay lập tức “Đồng”.

- Lâm khấp: Trị mắt hoa, mũi tắc.

- Tiền cốc, Ngân giao: Trị mũi tắc bất lợi.

- Thừa linh: Trị máu cam thở không được.

- Lâm khấp, Thông thiên: Trị mũi tắc.

- Bộ lang: Trị mũi tắc không thông “Minh” cũng thế.

- Tố liêu: Trị mũi tắc thịt thở (trị mũi tắc nhục) không tiêu, nhiều nước mũi, sinh mụn.

"Án Đồng Nhân” nói: Huyệt Tố liêu, các phương thiếu cách chữa (?), sáchThiên Kim cũ trị tắc mũi, thịt thở không tiêu, nhiều nước mũi, Thiên Kim sách in sau chỉ nói: Chủ mũi méo lệch nhiều nước mũi, chảy máu cam có mụn. Lại nói: Chủ mũi tắc thở, suyễn không lợi. Tại sao bản cổ, kim lại khác nhau thế.

- Lệ đoài: Chủ ác phong, mũi không lợi.

- Thủy câu: Chủ không biết thơm thối “Thiên” (xem: Nước mũi).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 04:58:48 PM
23. Mũi có thịt thở - Tỵ hữu tức nhục (Trĩ mũi)

- Ngận giao: Chủ trong mũi có thịt thở. Trong mũi, đầu, trán, sống mũi đau. Trong mũi có mụn ăn mòn “Thiên”.

- Khúc sai: Chủ chảy máu cam có mụn (xem: Tắc mũi).

- Não không: Chủ nhọt trong mũi (xem: Mũi đau).

- Thịt thở trong mũi, cứu Thượng tinh 200 mồi, lại cứu hai bên cạnh Thượng tinh cùng cách 3 thốn, mỗi chỗ 100 mồi.

- Nghinh hương: Trị mũi có thịt thở không biết thơm thối, chảy máu cam “Đồng”.

- Tố liêu: Trị thịt thở không tiêu, nhiều nước mũi, mọc mụn.

- Hòa liêu: Chảy máu cam, có mụn “Minh” (xem: Nước mũi).

- Cự liêu: Trị trên sống mũi sưng, ung đau (xem: Miệng méo).

* Đơn Phương có nói: Chó đầu đen, phương thốn vuông một tấc, Đinh hương nửa tiền xúc, nghiền nhỏ thổi vào mũi, thịt thở hóa làm nước.

Cẩu đầu thôi phương thốn
Đinh hương bán tiền chủy
Ty nghiễn xung tỵ trung
Tức nhục hóa vị thủy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2018, 05:27:28 PM
24. Chảy nước mũi – Tỵ di xuất (mũi khô, mũi khịt)

Trẻ em nhiều mũi là bị lãnh phong rõ rệt và Phế hàn, cứu Tín hội 3 mồi “Minh”.

- Minh đường: Chữa đầu phong nhiều nước mũi.

- Hòa liêu: Chữa mũi, miệng lệch, mũi ra nhiều, chảy nhiều nước trong không dừng, chảy máu cam, có mụn “Hạ” cũng thế.

- Côn lôn: Chữa mũi chảy máu cam, nhiều nước mũi.

- Phong môn: Chữa mũi chảy máu cam không dứt, mũi chảy nước trong “Hạ”.

- Hòa liêu: Trị nước mũi trong chảy như tháo, mọc mụn “Đồng”.

- Thông thiên, Thừa quang: Trị miệng méo, mũi nhiều nước trong (xem thêm: Miệng méo).

- Tiền đỉnh: Trị trẻ em mũi nhiều nước trong (xem: Giản).

- Thần đình: Trị đầu phong, mắt hoa, mũi ra nhiều nước trong không dứt, chảy nước mắt.

- Thần đình, Tán trúc, Nghinh hương, Phong môn, Hợp cốc, Chí âm, Thông cốc “Thiên” (?).

- Khúc sai: Chủ mũi méo lệch, nhiều nước mũi (xem: Mũi tắc).

- Phục lưu: Chảy nước dãi, mũi đau.

- Thủy câu, Thiên dũ: Chủ mũi không gọn, nhiều nước mũi, không biết thơm thối.

- Lệ đoài, Kinh môn, Tiền cốc: Chủ nước mũi vàng “Thiên” (xem: Mũi tắc).

- Tố liêu: Trị nhiều nước mũi “Thiên”, trong mũi ngứa, mũi chảy máu cam.

* Phàm 22 bệnh đều cứu Tuyệt cốt 50 mồi (xem: Khí lên).

* Mẹ Chấp Trung bị bệnh mũi ngứa kéo dài, có khí lạnh, bệnh khỏi lại bị lại, lại khỏi cứ lặp đi lặp lại, sau vì cứu Tuyệt cốt mà khỏi. Chấp Trung cũng bị nạn đó, ngẫu nhiên thấy chỗ huyệt Tuyệt cốt hơi đau mà đốt Ngải ở đó thì thấy mũi ngứa cũng mất đi. Sau xem Thiên Kim Phương nói Tuyệt cốt làm mũi mất ngứa. Nếu như nước mũi nhiều, nên cứu Tín hội, Tiền đỉnh. Bệnh người lớn và trẻ em không khác gì nhau vậy.

- Phong môn, Ngũ xứ: Chủ lúc lúc lại khịt khịt không dứt “Thiên”.

 -Hàm yếm: Chữa hay khịt “Minh”.

- Phong môn: Trị nhiều nước mũi “Đồng” (xem: Thương hàn). Bản Sự Phương cho rằng: Biết có thể tự mình ăn uống xong tất khịt, uống Táo Cao Hoàn thì khỏi (muốn tạm khịt thì thêm áo ở trên gáy là khỏi).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 10, 2018, 09:20:48 AM
25. Mũi đau – Tỵ thống (xem thêm: Mũi có mụn)

- Não không, Khiếu âm: Chủ ống mũi ung phát làm nhọt trong mũi “Thiên”.

- Phục lưu: Chủ ra nước dãi, đau trong mũi.

- Cự liêu: Trị mặt phong hàn, sưng trên cánh mũi, mảng sườn trước ngực đau “Đồng”.

- Can du: Chủ buốt trong mũi “Thiên”.

- Ngận giao: Chủ đau trong trán, chỗ sống mũi gãy (xem: Thịt thở).

- Cự liêu: Chữa trên sống mũi sưng ung đau (xem: Miệng méo).

* Quỷ kích mũi ra máu, cứu Nhân trung và Thủy phân, thêm Tam âm giao (xem: Quỷ kích).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 10, 2018, 10:19:13 AM
26. Mũi chảy máu cam – Tỵ nục

- Thần đình: Chủ chảy máu cam “Thiên” (xem thêm: Nước mũi).

- Khúc sai: Chủ chảy máu cam có mụn (xem: Mũi tắc).

- Thừa linh “Đồng” cũng thế, Phong trì, phong môn, Y hy, Hậu khê: Chủ chảy máu cam, tắc, thở suyễn không thông.

- Trung quản, Tam gian, Thiên lịch, lệ đoài, Thừa cân “Đồng” cũng thế, Kinh cốt, Côn lôn, Thừa sơn, Phi dương, Ẩn bạch: Chủ đầu nóng chảy máu cam.

- Kinh cốt “Đồng” cũng thế, Thân mạch: Chủ máu cam không dứt, ra quá nhiều.

- Khích môn: Chủ chảy máu cam, nôn ra máu.

- Ẩn bạch, Ủy trung: Chủ chảy máu cam, ra quá nhiều không dứt.

- Dũng tuyền: Chủ máu cam ra không dứt.

- Thủy câu, Thiên dũ: Chủ ra máu cam, không thở được và máu cam không dứt “Giáp - Ất".

- Thiên phủ: Trị máu cam không dứt, châm 4 phân “Đồng”.

- Thượng liêm, Hậu khê, Phong phủ: Trị mũi chảy máu cam.

- Á môn: Trị mọi thứ dương nhiệt, khí thịnh, chảy máu mũi không dứt.

- Thông thiên: Trị chảy máu mũi, nặng đầu.

- Hòa liêu, Đoài đoan, Lao cung: Trị máu cam không dứt.

- Khúc tuyền, Ẩn bạch, Y hy (xem: Vai lưng trên đau).

- Âm khích, nghinh hương: Trị chảy máu mũi (xem: Thịt thở).

- Thiên lịch, Hợp cốc, Thượng gian “Minh hạ” cũng thế, Côn lôn, Thông cốc: Trị chảy máu cam (xem: Choáng váng).

- Khúc tuyền: Trị máu cam, thở ra suyễn, bụng dưới đau công lên hầu họng.

- Đại khê (xem: Nhổ ra máu), Phong môn (xem: Ra nước mũi), Lệ đoài, Não không: Chữa chảy máu cam không dứt.

- Hòa liêu: Chữa máu cam, có mụn (xem: Nước mũi).

- Tán trúc: Chữa máu cam “Hạ” (xem: Đầu phong).

- Cự liêu: Chữa trên sống mũi sưng, ung đau (xem: Miệng méo).

* Trị miệng mũi ra máu không dứt (Não nục), cứu Thượng tinh 50 mồi “Tập hiệu”.

* Từ Đức Chiêm dậy rằng: Chứng chảy máu cam, cấp cứu ở mép tóc sau gáy, khoảng giữa hai khe gân là 3 mồi, khỏi ngay. Cái huyết tự đó đã vào não chạy vào trong mũi, thường thì người ta lấy bông buộc chặt ở sau gáy có thể dứt chảy máu cam tốt nhất. Cứu đó đúng là khỏi không nghi ngờ gì “Lương”.

* Mẹ đẻ Chấp Trung đột nhiên bị nạn chảy máu cam, lấy ngay thuốc uống. Những thuốc mọi người uống rất nghiệm thì đều không nghiệm, nhân xem Tập Hiệu Phương (gốc để làm ra Thiên Kim Phương) nói: Mũi ra máu không dứt có tên là Não nục, cứu Thượng tinh 50 mồi. Đầu tiên nghi trên đầu không nên cứu nhiều, chỉ cứu 7 mồi mà dứt, ngày sau lại bị, lại cứu 14 mồi mà khỏi.

* Có người mũi thường ra máu mủ, tôi bảo cứu Tín hội cũng khỏi, thế là biết rằng Tín hội và Thượng tinh đều chữa mũi chảy máu cam.

* Mũi chảy máu cam cứu Tuyệt cốt “Thiên” (xem: Khí lên).

- Tiền cốc: Trị chảy máu cam “Đồng” (xem: Ho).

- Y hy: Trị ôn ngược (sốt rét), vai, lưng trên đau, mắt hoa, mũi chảy máu cam suyễn nghịch, bụng chướng, cạnh trong vai và cánh tay đau, không thể cúi ngửa.

- Phong môn: Trị mũi chảy máu cam (xem: Thương hàn).

* Khi chảy máu cam thì ngứa ngứa, cứu nếp ngang ngón chân cái, giữa chòm lông 10 mồi, nếu kịch liệt thì 100 mồi. Chảy máu cam không ngừng cứu ở đó, lại thêm chữa dái sưng “Thiên”, lại cứu Phong phủ 4 mồi, không dứt thì lại cứu lại, hoặc cứu Dũng tuyền 100 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 10, 2018, 10:48:38 AM
27. Hầu họng sưng đau – Yết hầu thũng thống, sinh nhọt

- Phong phủ: Trị hầu hong đau “Đồng”.

- Đảm du: Trị họng đau, không ăn được (xem: Bụng trướng).

- Phong phủ “Minh” cũng thế, Thiên song, Lao cung: Chủ hầu họng đau “Thiên”.

- Trung trữ, Chi câu, Nội đình “Thiên” nói: Trong họng dẫn đau.

- Dũng tuyền, Đại chung: Chủ trong họng đau, ăn không thể vào.

- Giản sử: Chủ trong họng như có ách (có vật gì chiếm lấy cuống họng) “Đồng” (xem: Như hóc).

- Tất quan: Chữa hầu họng đau “Đồng” (xem: Hầu họng đau).

- Thiên song: Trị hầu đau “Minh hạ” cũng thế.

- Thủy đột: Chủ hầu họng sưng.

- Tiền cốc, Chiếu hải, Trung phong: Chủ họng sưng một bên không thể nuốt “Thiên”.

- Trung phong: Chủ hầu sưng (xem: Dương vật mềm rụt).

- Nhiên cốc, Đại khê: Chủ sưng trong cuống họng, khí chạy ở hầu họng không nói được.

- Hầu sưng, ngực sườn, chi đầy tức, cứu Xích trạch 100 mồi.

- Nhân nghinh: Trị hầu họng sưng thũng (xem: Ho ngược khí lên).

- Đại khê (xem: Nhổ ra máu), Trung trữ: Trị họng sưng.

- Toàn cơ: Trị hầu, họng sưng bại, nước bọt không xuống được.

- Dịch môn: Trị bên ngoài họng sưng, hàn quyết, cánh tay đau, không thể đưa lên xuống.

- Nhiên cốc: Trị trong họng sưng.

- Thủy đột, Khí xá: Trị trong họng sưng (khí lên).

- Thiên đốt: Trị trong hầu sinh mụn, không ăn được “Đồng – Minh” nói: Chữa trong hầu có mụn lở.

- Toàn cơ: Chữa hầu bại, họng sưng (sưng đỏ như mụn) nước bọt không xuống được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2018, 09:57:31 AM
28. Hầu, họng kêu – Hầu yết minh

- Phù đột, Thiên đột, Đại khê: Chủ hầu kêu, khí ngược lên mạnh mẽ, vướng hóc.

- Thiếu thương, Đại xung, Kinh cừ: Chủ kêu trong hầu.

- Ngư tế: Chủ trong hầu khô.

- Họng lạnh, tiếng vỡ rè rè cứu Thiên cù (Thiên đột) 50 mồi (xem: Khí lên).

- Thiên đột, Phù đột: Trị trong hầu như tiếng gà nước kêu “Đồng”.

- Thiên đột: Trị trong hầu làm thành tiếng (xem: Đau ngực), trong hầu kêu như tiếng gà nước “Minh” (xem: Hắng). Lại nói trong hầu kêu hấp, hấp (xem: Cổ sưng).

- Đại chung (xem: Lậu), Đại bao: Chủ hầu kêu (xem: Cách đau).

- Dương lăng tuyền, Thiên trì (xem: Khí lên), Chiên trung: Chữa hầu kêu “Minh hạ” (xem: Cách đau).

* Trẻ em trong hầu kêu, nuốt sữa không dễ, cứu Toàn cơ 3 mồi.

- Dịch môn, Tứ độc: Chủ thở hít ngắn hơi, trong hầu như có thịt thở,.

- Thiếu phủ, Lãi câu: Chủ trong họng có khí, giống như thịt thở “Đồng” cũng thế.

- Nhiên cốc, Thái khê: Chủ sưng trong họng, khí chạy lên hầu họng.

- Phong trì: Chủ hầu họng cùng dẫn, gáy co không gọn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2018, 10:05:17 AM
29. Hầu họng khô – Yết hầu can

- Cực tuyền, Thái uyên (xem: Đau tim), Thiên lịch (xem: Hầu bại), Thái xung (xem: Sán), Thiên đột: Trị họng khô “Đồng” (xem: Nhổ ra máu).

- Ngư tế: Chủ hầu khô khan, rét run, hàm khua lập cập, ho dẫn đau vào cưu, vãi đái, nôn ra máu.

- Hành gian: Trị họng khô, phiền khát (xem: Miệng méo).

- Thần môn: Trị họng khô, không muốn ăn (xem: Phiền tâm).

- Chiếu hải: Trị cuống họng khô “Minh” cũng thế. Tứ chi mỏi, hay buồn không vui.

- Thiếu xung: Trị họng buốt (xem: Thương hàn) “Thiên” cũng thế.

- Ngư tế: Chữa hầu khô quá “Minh” (xem: Đau khuỷu).

- Thái khê, Thiếu trạch, Thái xung, Trung phong:Chủ cuống họng khô.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2018, 10:37:06 AM
30. Hầu bại

* Hầu bại nói chung, trong sườn bạo nghịch, trước lấy huyệt Xung mạch sau lấy Tam lý, Vân môn, các huyệt đều tả. Lại lấy đầu chót ngón tay út, chích ra máu khỏi ngay “Thiên”.

- Tam lý, Ôn lưu “Minh hạ” cũng thế, Khúc trì, Trung trữ, Phong long “Đồng” cũng thế: Chủ hầu bại không nói được.

- Thần môn, Hợp cốc, Phong trì: Chủ hầu bại.

- Hoàn cốt, Thiên dũ, Tiền cốc: Chủ hầu bại, gáy sưng, không thể cúi ngửa, má sưng dẫn vào sau tai.

- Toàn cơ, Cưu vỹ: Chủ hầu bại, họng sưng, nước bọt không xuống.

- Thiên vạc, Khí xá, Cách du: Chủ hầu bại, hóc nghẹn, trong họng không tiêu được, ăn uống không xuống.

- Dũng tuyền “Minh” cũng thế, Nhiên cốc: Chủ hầu bại, vướng ở trong họng mà nóng rét.

- Thiên dung, Khuyết bồn “Minh” cũng thế, Đại trữ, Cách du, Vân môn, Xích trạch, Nhị gian, Lệ đoài, Dũng tuyền, Nhiên cốc: Chủ hầu bại, họng vướng, nóng rét.

- Tam gian “Minh – Đồng” cũng thế, Dương khê: Chủ hầu bại, họng như bị hóc.

- Thiên đột: Chủ hầu bại, họng khô cấp.

- Đại lăng, Thiên lịch: Chủ hầu bại, họng khô.

- Quan xung “Đồng” cũng thế, Khiếu âm, Thiếu trạch: Chủ hầu bại, họng như bị hóc.

- Thiên đột: Chủ hầu bại, họng khô cấp.

- Đại lăng, Thiên lịch: Chủ hầu bại, họng khô.

- Quan xung “Đồng” cũng thế, Khiếu âm, Thiếu trạch: Chủ hầu bại, lưỡi co, miệng khô.

* Hầu bại, khí nghịch, ho hắng, trong miệng có bọt dãi, cứu Phế du 7 mồi, cũng có thể số mồi theo tuổi hoặc đến 100 mồi.

- Dương trì, Dương giao (xem: Đau gối), Lệ đoài, Hạ liêm, Nhiên cốc, Kinh cừ, Hoàn cốt, Cách du, Khuyết bồn, Khí xá (xem: Ho ngược lên), Vân môn (xem: Tức ngực), Dương khê, Hợp cốc, Ôn lưu, Trung phủ, Phù bạch: Trị hầu bại “Đồng”.

- Đại trữ: Trị hầu bại, buồn bằn, tức.

- Thiên dung: Trị hầu bại, nóng rét, trong họng như hóc xương cá.

- Thiên vạc: Trị hầu bại, họng sưng, không ăn uống được, ăn không xuống, hầu kêu.

- Tiền cốc: Trị hàm sưng, hầu bại.

- Nhị gian: Trị hầu bại, hàm thũng, vai và lưng trên đau, rét run.

- Khúc trì: Trị  hầu bại, nó không được.

- Khiếu âm: Trị hầu bại, lưỡi cứng, miệng khô, khuỷu tay không giơ lên được.

- Thiếu trạch: Trị hầu bại, lưỡi cúng, miệng khô, tâm bứt dứt.

- Thái lăng: Trị hầu bại, miệng khô, mình nóng, đầu đau, ngắn hơi, ngực sườn đau.

- Phù bạch: Chữa nóng rét hầu bại “Minh”.

- Cách du, Kinh cừ: Chữa hầu bại.

- Nhị gian: Chữa hầu bại, họng  như có vật gì làm tổn thương, tự nhiên rét run “Hạ” nói: Hầu bại, họng sưng, nằm nhiều, hay nhổ bọt.

* Trẻ em hầu bại nhanh chóng, cứu Thiên đột 1 mồi “Hạ”, có thầy thuốc nói: Thuốc không xuống hầu, lấy ống trúc cong đổ thuốc.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2018, 11:04:01 AM
31. Môi má sưng đau – Thần giáp thũng thống

- Hợp cốc: Chủ môi mép không gọn “Thiên” (xem: Miệng giãn ra).

* Môi chụm lại cứu Hổ khẩu, nam tả, nữ hữu, lại cứu Thừa tương 3 mồi.

- Tam gian: Chữa môi, miệng khô “Minh” (xem: Sốt rét).

- Hại liêm: Trị môi khô dãi chảy ra “Đồng” (xem: Ỉa như cháo loãng).

- Quang minh (Đồng” cũng thế) Túc lâm khấp (Minh hạ” cũng thế): Chủ hay cắn vào má.

- Cự liêu, Thiên song: Chữa má sưng đau “Minh” cũng thế.

- Kinh cốt, Dương cốc: Chủ tự cắn vào môi.

- Uyển cốt: Chủ hàm đau (xem: Tai kêu).

- Nghinh hương: Chủ môi sưng đau “Đông” (xem: Phong một bên).

- Chính doanh: Trị răng đau, môi mép cứng cấp.

- Thượng quan: Trị vòng quanh môi mép động (xem: Mặt sưng).

- Ưng song, Thái xung: Chủ môi sưng.

- Hiệp khê (xem: Tai điếc), Hòa liêu (xem: Khớp răng), Giáp xa: Trị hàm, má sưng, miệng ngậm mím.

- Khúc tân: Trị má, hàm sưng, dẫn vào hàm răng đau không há được, đau gấp, miệng mím, không nói được.

- Hoàn cốt: Trị má sưng.

- Thủ tam lý: Trị má, hàm sưng (xem: Phong kinh).

- Ế phong: Trị trễ hàm, má sưng (xem: Miệng méo).

- Uyển cốt, Dương cốc: Trị gáy cổ sưng nóng rét.

- Chi chính: Trị hàm sưng.

- Thủ tam lý: Trị má, hàm sưng, tràng nhạc.

- Thiếu thương: Trị quai hàm sưng (quai bị, tuyến nước bọt).

* Thành Quân Xước tự nhiên quai hàm sưng như cái đấu, Chân Quyền châm huyệt đó khỏi ngay.

- Thương dương: Trị má, hàm răng sưng đau, ác hàn, vai lưng trên cấp dẫn cùng với hố đòn đau, mắt thong manh, cứu 3 mồi trái lấy phải, phải lấy trái, sau khoảng thời gian một bữa ăn thì khỏi ngay.

- Hoàn cốt: Chủ má sưng “Thiên” (xem: Hầu bại).

- Tán trúc: Chủ má đau (xem: Đau mặt).

- Giác tôn: Chủ cổ, môi mép cứng (xem: Răng sâu).

- Túc lấm khấp: Chữa ngực, cách tức buồn buồn, dưới nách sưng, hay cắn vào má “Minh hạ”.

-Thủy câu: Chữa mắt sưng, môi động rung rinh, phế phong, giống như giun bò “Minh”.

* Lý Lập Hướng xưng Vũ Đức Trung, ra châu Lộ Châu, Quyền đem “Minh đường” mới soạn bảo tôi: Khi có sử châm. Thành Quân Xước tự nhiên cổ sưng như mấy cái đấu, trong hầu bế tắc, giọt nước cũng không xuống, đã 3 ngày. Tôi xin Quyền cứu, châm ở ngón tay trỏ bên phải, sau độ một bữa ăn, hơi đã thở thông. Ngày hôm sau ăn uống như cũ “Thiên Kim Dực”.

* Ân Đồng Nhân nói: Huyệt Thiếu thương ở cạnh ngón tay cái, cách gốc móng tay như lá hẹ, Thành Quân Trắc quai hàm sưng to như cái đấu v.v… Châu Quyền châm ở đó khỏi ngay. Bệnh tạng tả khác một ít, công hiệu rẩt giống nhau.

Nhưng “Lý” nói: Đầu ngón tay trỏ “Đồng Nhân” nói: Đầu ngón tay cái, chưa biết thế là thế nào. Nếu châm Thiếu thương thì đúng là đầu ngón tay cái. Tôi vẫn giữ lại cả hai để đợi thức giả (chờ người hiểu biết hơn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2018, 06:01:19 PM
32. Cổ gáy cứng – Cảnh hạng cường

- Uyển cốt, Dương cốc: Trị cổ, gáy sưng, nóng rét “Đồng”.

- Khâu khư: Trị cổ sưng (xem: Nách sưng).

- Đại nghinh: Trị nóng lạnh, cổ sưng, tràng nhạc.

- Tiêu lạc (xem: Phong bại), Khiếu âm: Trị cổ đau (xem: Ung thư).

- Phong môn: Trị thương hàn, cổ gáy cứng (xem: Thương hàn tạp bệnh).

- Kinh cốt: (xem: Chân tê), Đại trữ: Trị cổ gáy cứng, không thể cúi ngửa (xem: Sốt rét) “Minh” cũng thế.

- Phách hộ (xem: Lao khái), Kiên tỉnh: Trị cổ gáy không thể quay (xem: Vai đau).

- Thiên dũ, Hậu khê: Trị gáy cứng không thể quay.

- Hoàn cốt: (xem: Phong một bên), Hàm yếm: Trị cổ gáy đau.

- Bản thần: Trị cổ, gáy cứng đau (xem: Mắt choáng).

- Phong trì: Trị sốt rét lâu ngày, cổ gáy đau không thể quay.

- Thông thiên: Trị cổ gáy khó xoay sang bên.

- Giáp xa, Đại chùy, Khí xá (xem: Ho ngược lên), Não không: Trị cổ gáy cứng không thể ngoái.

- Thiên trụ: Trị cổ gáy co gân, không thể quay.

- Nhân nghinh: Trị ở gáy khí bứt dứt, sưng, ăn không xuống.

- Hậu đỉnh, Ngoại khâu: Trị cổ, gáy đau, ác phong hàn.

- Ngận giao, Phong phủ: Chữa cổ gáy co, không thể quay (xem: Mắt choáng).

- Tý nhu (xem: Tràng nhạc), Cường gian: Trị cổ gáy cứng (xem: Đầu đau).

- Thiếu trạch “Minh” cũng thế, Tiền cốc, Hậu khê, Dương cốc, Hoàn cốt, Côn lôn, Tiểu hải, Tán trúc: Chủ gáy cứng không thể ngoái lại “Thiên”.

- Tiên lạc, Bản thần, Thông thiên, Cường gian, Phong phủ, Á môn, Thiên trụ, Phong trì, Ngận giao, Thiên xung, Đào đạo, Ngoại khâu, Thông cốc, Ngọc chẩm: Chủ gáy như bị đánh không thể quay phải trái.

"Minh” nói: Thiên trụ (xem: Mắt choáng), Cường gian (xem: Đau đầu): chữa gáy như bị đánh.

“Hạ” nói: Thiên trụ chữa gáy như bị đánh (xem: Đau não).

- Thiên dung, Tiền cốc, Giác tôn, Uyển cốt, Chi chính: Chủ cổ gáy sưng không thể ngoái lại được.

- Thiên dung: Chủ cổ gáy sưng không thể nói được.

- Phi dương, Dũng tuyền, Hàm yếm, Hậu đỉnh: Chủ cổ gáy đau, các khớp ra mồ hôi.

- Giác tôn: Chủ cổ gáy tức mãi mãi.

- Phù bạch: Chữa cổ gáy ung thũng “Đồng” cũng thế, không nói được, vai không giơ lên được và bướu “Minh”.

- Khúc sai: Chữa tâm phiền tức, mồ hôi không ra, đầu gáy đau, mình nóng mắt nhìn không rõ.

- Thông thiên: Chữa gáy đầu nặng, dần dần dấy lên cứng ngã.

- Á môn: Chữa gáy cứng, không quay được.

- Ngọc chẩm (xem: Mắt đau), Hoàn cốt (xem: Phong choáng váng): Chữa gáy đau.

- Phong phủ: Chữa đầu có đau gáy cấp, không thể nghiêng sang bên cạnh “Minh”.

- Dương cốc: Chữa sườn đau, cổ sưng nóng rét.

- Thiên đột: Chữa mình nóng rét, cổ sưng, trong hầu kêu hấp hấp, trong ngực khí hóc hóc. “Hạ”.

- Thiên tỉnh: Chữa cổ gáy cứng, vai lưng trên đau “Thiên” (xem: Khuỷu tay).

- Khúc tân: Chữa cổ gáy cứng, không thể quay, dẫn vào răng lưỡi đau, miệng ngậm mím không nói được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 12, 2018, 10:03:56 AM
33.  Đầu choáng - Đầu phong

- Ngũ xứ: Chữa đầu choáng, phong bứt dứt “Minh”.

- Bách hội (xem: Giản), Não không (xem: Mắt choáng), Thiên trụ (xem: Não đau) chữa đầu phong.

- Thần thông: Chữa đầu phong mắt hoa, cuồng loạn, phong giản, bên trái chủ như hoa, bên phải chủ như quả (?).

- Tiền đỉnh: Chữa đầu phong nóng, đau, đầu sưng, phong giản.

- Hậu đỉnh: Chữa phong choáng váng, mắt mờ mờ, trên sọ, trán đau.

- Thượng tinh: Chữa đầu phong mắt hoa “Hạ”.

- Tiền đỉnh: Chữa đầu phong mắt hoa, mặt đỏ “Minh hạ” chép là da sưng “Đồng”.

- Hạ liêm, Ngũ xứ (xem: Mắt hoa), Thần đình (xem: Nước mũi).

- Thần đình: Chủ đầu phong choáng váng, hay nôn, phiền tức “Thiên”.

- Thiên dũ, Phong môn “Minh hạ” cũng thế, Côn lôn, Quan nguyên, Quan xung: Chủ phong choáng váng, đầu đau.

- Tiền đỉnh, Hậu đỉnh, Hàm yếm: Chủ phong choáng váng, đau một bên đầu.

- Thượng tinh: Chủ phong đầu choáng váng, mặt mát.

- Tín hội: Chủ phong đầu choáng váng, đầu đau, mặt mát.

- Hoàn cốt: Chủ phong đầu, sau tai (Khế mạch: Cũng thế), phiền tâm “Đồng” cũng thế.

- Phụ dương: Chủ mềm quyết, phong đầu nặng đau.

- Hiệp khê: Chủ trong ngực giống như phong, đầu choáng hai má đau.

- Thận du, Tán trúc, Thừa quang, Ty trúc không, Khế mạch, Hòa liêu: Chủ phong đầu.

- Thượng tinh: Chủ phong đầu, dẫn vào hàm đau.

- Hợp cốc, Ngũ xứ: Chủ phong đầu nóng.

- Thiên dũ: Chữa đầu phong, mặt sưng “Hạ” chép là mắt hoa, gáy sưng không thể xoay “Minh”.

- Tín hội: Trị đầu phong, sinh gầu trắng, hay nhổ bọt (“Minh” cũng thế), châm xong lấy dầu muối bôi vào chân tóc, đầu phong trừ vĩnh viễn “Đồng”.

* Đầu phong, sưng ngứa, châm My xung “Hứa”.

- Thông lý, Bách hội: Chữa đầu mắt choáng đau “Minh”.

- Dương cốc: Chữa đầu choáng (xem: Cuồng).

“Tố Vấn” luận: Đầu đau gốc là do đại hàn ở trong tận xương tủy, thì đầu phong cũng gốc là ở phong hàn vào não tủy.

“Bản Sự Phương” bàn: Đàn bà nạn đầu phong cứ 10 thì chiếm quá mức nửa, hoặc là đàn bà không có khăn để ngăn gió lạnh. Ở đàn ông có nạn đó, không phải là do trên đầu ít tóc thì do Tín hội, Tiền đình trọc tóc. Muốn cứu đầu phong trước hết ở các huyệt: Tín hội, Bách hội, Tiền đỉnh. Nếu là đầu phong đau liền đến mắt, giáng cứu các huyệt: Thượng tinh, Thần thông, Hậu đỉnh, tôi thường tự cứu thấy nghiệm.

“Bản Sự Phương” nói: Hạ hư là Thận hư, Thận quyết thì đầu đau nên dùng Ngọc Châu Viên, thượng hư là Can hư, Can quyết thì đầu vận nên dùng Câu Tần Tán.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 12, 2018, 05:42:30 PM
34. Đầu đau – Đầu thống (xem thêm: Thương hàn đau đầu)

- Giải khê (xem: Trúng gió), Thừa quang (“Minh” cũng thế): Trị phong choáng váng, đau đầu “Đồng”.

- Đảm du: Trị  đầu đau, rét run, mồ hôi không ra.

- Đại trữ: Trị đầu đau, rét run (xem: Sốt rét).

- Á môn: Trị phong đầu đau, không ra mồ hôi.

- Hợp cốc, Thiên trì (xem: Cách), Ty trúc không (xem: Mắt hoa), Ngư tế (xem: Nóng rét), Tứ bạch (xem: Mắt hoa), Thiên xung, Tam tiêu du (xem: Bụng trướng), Phong trì (xem: Thương hàn không có mồ hôi): Trị đau đầu.

- Thần đạo: Trị hàn “Minh" chép là thân nhiệt, đau đầu, sốt rét, tiến lui lâu ngày, buồn rầu “Minh” cũng thế, hay quên, hồi hộp.

- Dương khê: Trị quyết nghịch, đau đầu, ngực tức không thở được.

- Phong long: Trị quyết đầu đau, mặt sưng phù, phong nghịch tứ chi sưng, mình thấp.

- Chí âm: Trị mũi tắc, đầu nặng, phong hàn. Bắt đầu từ ngón chân út, mạch bại lên xuống, vòng quanh ngực sườn đau không nhất định, chuột rút, nóng rét mồ hôi không ra, phiền tâm.

- Thanh linh: Trị đầu đau, rét run, măt vàng, sườn đau.

- Cường gian: Trị não xoay, mắt chuyển, đầu đau không thể chịu được, phiền tâm, nôn, mửa ra bọt dãi, phát không kể giờ giấc, gáy cứng không thể ngoái lại được.

- Côn lôn: Chữa đầu đau vai và lưng trên cấp.

- Phong phủ: Trị đầu đau, cổ gáy cấp không thể quay, mắt hoa.

- Khúc sai: Trị đầu gáy đau.

- Lư tức: Chữa mình nóng đầu đau, không nghiêng lại “Minh”.

- Ngư tế: Chữa đầu đau quá lắm, mồ hôi không ra.

- Não hộ (xem: Mặt sưng): Chữa đầu đau.

- Bách hội, Thông lý: Chữa đầu mắt choáng đau “Hạ”.

- Trung xung (xem: Thương hàn), Mệnh môn “Minh thượng” cũng thế: Chữa mình nóng như lửa, đầu đau như phá “Minh hạ”.

- Ôn lưu: Chữa nóng, rét, đau đầu, hay ọe, chảy máu cam, vai không nhấc được.

- Suất cốc: Chữa sau khi say rượu phát phong, đầu nặng, da dẻ sưng, hai gốc choáng đau (?).

* Trẻ em khi ăn đau đầu (Thiên” cũng thế) và ngũ tâm phiền nhiệt, cứu Y hy một mồi.

- Thiên trụ, Đào đạo, Đại trữ ("Nhất” chép là Bản thần), Khổng tối, Hậu khê: Chủ đầu đau “Thiên”.

- Não hộ, Não không, Thông thiên: Chủ đầu nặng đau.

- Đầu duy, Đại lăng: Chủ đầu đau như phá, mắt đau như lòi ra “Giáp” nói: Suyễn nghịch, phiền đau, nôn mửa chảy mồ hôi.

- Thiếu âm, Cường gian “Minh” cũng thế: Chủ đầu đau như dùi đâm, không thể động đậy.

- Mục song, Trung trữ, Hoàn cốt, Mệnh môn, Phong long, Thái bạch, Ngoại khâu, Thông cốc, Kinh cốt, Lâm khấp, Tiểu hải, Thừa cân, Dương lăng tuyền: Chủ đau đầu, nóng rét mồ hôi không ra, ác hàn.

- Thần đình, Thủy câu: Chủ nóng, rét đau đầu, suyễn khát, mắt không thể nhìn.

- Tiêu lạc: Chủ nóng, rét, bại, đau đầu.

- Ngũ xứ: Chủ đầu đau (xem: Điên, động kinh).

- Côn lôn, Giải khê, Khúc tuyền, Phi dương, Tiền cốc, Thiếu trạch, Thông lý: Chủ đầu váng đau.

* Nếu như đau đầu, gân co, xương nặng, ít hơi, ụa, nấc, đầy tức, có khi co giật, không muốn nằm, lo lắng phiền oan. Nếu như mạch thấy huyền, ấn thấy rắn như đá là do Thận khí bất túc mà ở trong thì khí đi ngược lên, gọi là Thận quyết, nên cứu Quan nguyên 100 mồi, uống Ngọc Châu Nguyên “Chí”.

* Nếu như đầu đau liền xuống răng lợi, khi phát thì dừng, mấy năm không khỏi, đó là phong hàn lưu ở trong xương tủy, tủy lấy não làm chủ, não nghịch làm cho đầu đau, răng cũng đau. Nên dùng Bạch Phụ Tử tán, cứu Khúc tân 7 mồi. Đau bên trái cứu bên phải, đau bên phải cứu bên trái.

- Thiếu hải (xem: Răng sâu), Hoàn cốt: Trị đau đầu “Đồng” (xem: Tâm phiền). “Thiên” nói: Chủ phong, đầu đau sau tai…

-Não không, Thiên xung: Chủ bệnh điên đau đầu “Thiên” (xem: Điên).

“Tố Vấn” thường bàn: Có nhiều tạng đau đầu không dứt. Đại hàn ở trong đến xương tủy, Tủy lấy não làm chủ. Não nghịch làm cho đầu đau, răng cũng đau, tên là Quyết nghịch đầu thống.

* Lại cũng có Thận quyết, Can quyết đau đầu. Như vậy Bản Sự Phương đã gọi hạ hư là Thận hư, Thận quyết thì đau đầu. Thượng hư là Can hư, Can quyết thì đầu choáng là thế. Đều phải tùy chứng mà chữa. Nếu là chân đầu động thì chiều phát đêm chết, đêm phát chiều chết (xem rõ ở Nạn Kinh Sớ).

Người ta mắc nạn đó cũng chữa biết ra sao, cần thiết cũng có ở tự mình, đó là gốc rễ chữa chắc.

* Nếu muốn dùng Ngải, cần trước hết lấy Bách hội, Tín hội, rồi Đan điền, Khí hải, tốt nhất là cứu ở đó để bổ dưỡng. Khộng nên làm cho ở đó phát triển đến hết mức của nó.

- Tiền đỉnh: Chủ phong choáng váng, đau một bên đầu “Thiên” (xem: Đầu phong).

- Huyền ly: Trị đầu bị đau một bên, dẫn vào khóe ngoài mắt (xem: Thương hàn đau đầu), tâm buồn bằn không muốn ăn “Đồng”.

- Hàm yếm: Chữa phong (“Đồng” nói: Đầu phong), mắt hoa không thấy, đau một bên đầu, bắt đến khóe mắt ngoài cấp, tai ù, hay tiệp (?) (…kêu ục ục) cổ đau “Minh”. Kỳ Bá dùng để cứu phong đau một bên đầu (xem: Mắt hoa).

- Hậu đỉnh: Trị đau một bên đầu “Đồng”.

- Ngọc trẩm: Chủ nửa đầu lạnh đau “Thiên”. “Giáp” nói: Đầu choáng mắt đau, lạnh nửa đầu.

- Chính doanh: Trị một bên đầu, gáy đau.

- Huyền lư: Trị bệnh nhiệt, bứt dứt, tức tối, mồ hôi không ra, đau một bên đầu, dẫn vào làm khóe mắt ngoài đỏ, mình nóng, răng đau “Minh” cũng thế.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 10:14:32 AM
35. Đau não – Não thống (Não phong)

- Cường gian: Trị não quay tít “Đồng” (xem: Đau đầu).

- Thiên trụ: Trị đầu quay tít, não đau. “Minh hạ” nói: Chữa đầu phong, não nặng, mắt như lòi ra, gáy như bị đập, gáy cứng không thể ngoái lại được.

- Ngọc trẩm: Trị não phong đau không chịu được.

- Thừa linh: Chữa não phong, đầu đau, ghê gió lạnh.

- Não không: Chữa não phong, đầu đau không thể chịu được, mắt mờ tim hồi hộp. Khi phát thì làm điên, phong dẫn vào mắt chột đi (hỏng một mắt).

- Thượng liêm: Trị não phong đau đầu.

- Suất cốc: Trị đau cứng hai bên góc não (xem: Đàm).

- Á môn: Chữa đầu phong não đau.

- Phong trì: Chữa não đau (xem: Mặt sưng).

* Trẻ em thóp thở không kín, cứu trên và dưới rốn 5 phân, 2 huyệt đều 3 mồi, vết cứu bỏng chưa kín trên thóp đã kín trước “Hạ”.

- Thiếu hải: Trị não phong “Đồng” (xem: Răng sâu).

* Phàm miệng mũi ra máu không dứt là não nục, cứu Thượng tinh 50 mồi “Thiên”.

* Có một người học trò bị nạn não nóng, đau dữ dội tới mức từ giường lao đầu xuống đất, hoặc được nước lạnh thì vồ lấy, đau đầu không dứt, uống mọi thứ thuốc không khỏi. Sau nghe người ta bảo cứu Tín hội mà khỏi. Đau nóng mà có thể cứu huống hồ đau lạnh.

* Phàm não đau, não quay tít, não tả, trước hết nên cứu Tín hội mà huyệt Cường gian là thứ vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 10:31:40 AM
36. Đầu quay tít – Não toàn (đầu nặng)

- Não song: Tự nhiên đầu xoay tít “Đồng” (xem: Mắt đau).

- Lạc khước: Trị đầu xoay tít, tai ù.

- Thiên trụ: Đầu xoay tít (xem: Đau não). Kỳ Bá cứu đầu xoay tít (xem: Mắt hoa).

- Thân mạch: Trị ngồi mà như ở giữa xe một bánh “Đồng” (xem: Lưng chân).

* Mẹ đẻ Chấp Trung đi nhận chức, bị gió sông thổi, tự thấy đầu động, lắc lư như ngồi trên chiếc xe một bánh. Bị như vậy nửa năm và mửa ra đờm, uống mọi thứ thuốc và cứu thêm huyệt đầu phong mới khỏi.

* Chữa đầu phong giao động, cứu ở giữa hai huyệt Ngọc chẩm phía sau đầu 7 mồi “Thiên dực”.

- Ngọc chẩm: Chữa không (mất) gối (?) và đầu nặng đau “Minh” (xem: Đau mắt) “Hạ” nói: Chữa đầu nặng như đá.

- Bách hội: Chữa đầu nặng, chữa não nặng, mũi tắc, đầu choáng váng đau “Hạ” (xem thêm: Phong giản).

- Đào đạo: Chữa đầu nặng, mắt hoa.

- Suất cốc: Chữa đầu nặng (xem: Đầu đau).

- Phụ dương (xem: Đầu phong), Não hộ: Chủ đầu nặng đau “Thiên” (xem: Đầu đau).

- Chí âm: Trị đầu nặng “Đồng” (xem: Đầu đau).

- Á môn (xem: Điên), Thông thiên (xem: Mũi chảy máu cam), Phụ dương (xem: Phong bại): Trị đầu nặng “Đồng”.

- Thiên trụ: Trị não nặng “Minh hạ” (xem: Não).

- Thân trụ: Trị đầu nặng (xem: Lao).

- Đầu nặng phong lao, cứu Não hộ 5 mồi.

- Đầu nặng không thể vượt qua, cứu phía dưới Não hộ 1,5 thốn “Thiên dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 10:48:50 AM
37. Đầu sưng – Đầu thũng

- Não hộ: Trị đầu thũng “Đồng”.

- Tiền đỉnh: Chữa đầu phong nóng đau, đầu sưng to, thũng hết mức, tức thì lấy kim 3 cạnh châm chích vòng quanh khoảng gần 1 thốn, thì đầu sưng khỏi ngay.

- Thượng tinh: Chữa đầu phong, đầu sưng, da sưng, mặt hư, mũi tắc, đầu đau.

- Tín hội: Chữa da đầu sưng, sinh gầu trắng.

- Hoàn cốt: Trị đầu, mặt sưng “Đồng” (xem: Điên).

- Não hộ: Trị đầu sưng.

- Công tôn: Chủ đầu mặt sưng

- Hoàn cốt: Chủ đầu, mặt khí thũng (phù hơi) (xem thêm: Thủy thũng).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 11:00:16 AM
38. Đỉnh đầu sưng đau – Đỉnh đầu thũng thống

- Khúc sai: Trị đỉnh đầu đau “Đồng”.

- Tiền đỉnh: Trị trẻ em kinh giản đỉnh đầu sưng (xem: Kinh giản)

* Ở Phong Dương có con một người học trò, sau khi kinh phong thì đầu sưng, thầy thuốc lấy Nam tinh, Bá hạ giã cho nhỏ, thêm nước trộn đều, đắp lên mà khỏi. Nếu như cứu thì cứu huyệt Tiền đỉnh.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 04:29:22 PM
39. Mặt sưng – Diện thũng

- Cự liêu: Chủ mặt ác phong hàn, má sưng đau “Thiên”.

- Thượng tinh, Thiên dũ: Trị phong đầu, mặt hư thũng “Đồng”.

- Tín hội: Trị mắt hoa, mặt sưng “Minh hạ” nói: Mặt đỏ bạo thũng.

- Tiền đỉnh: Trị mặt sưng.

- Mục song: Trị đầu mặt phù thũng, đau dẫn đến phía trên khóe mắt, mắt ngoài đỏ đau.

- Hoàn cốt: Trị đầu mặt phù thũng.

- Thủy câu: Trị mặt sưng môi động, giống như giun bò, lại nói Phong thủy mặt sưng, châm huyệt đó nước ra khỏi ngay.

- Nghinh hương: Chữa mặt ngứa sưng (xen: Phong một bên).

- Đại nghinh: Trị phong ứ tắc, mặt phù thũng, mắt không nhắm được, chung quanh môi mép động không ngừng. Châm đó khỏi ngay.

- Hợp cốc: Trị mặt sưng, môi mép không gọn, câm không nói được, miệng ngậm không mở.

- Ôn lưu: Chữa mặt hư thũng.

- Phong long (xem: Đầu đau), Thừa tương, Dương giao (xem: Đau đầu gối): Trị mặt sưng.

- Lệ đoài: Trị sốt rét thể lạnh, mặt sưng, ống chân lạnh (hàn ngược).

- Hãm cốc (xem: Thủy thũng): Chữa mặt mắt phù thũng.

- Bách hội: Chữa uống rượu mặt đỏ “Minh” (xem: Phong giản).

- Giải khê: Trị đầu phong đỏ mặt.

- Não hộ: Chữa mặt đỏ sưng đầu đau “Minh”.

- Lệ đoài: Chữa mặt phù thũng.

- Thủy câu (xem: Phế phong), Thiên dũ: Chữa mặt sưng.

- Hãm cốc: Chữa đầu mặt hư thũng.

- Phong trì: Chữa phế phong, mặt đỏ, mắt nhìn mờ mờ, gáy cứng không thể  ngoái lại được, mặt sưng, da mềm, não đau.

- Thượng tinh, Tín hội, Tiền đỉnh, Não hộ, Phong trì: Chủ mặt đỏ sưng “Minh”.

- Hãm cốc, Dương lăng tuyền, Thiên khu, Trung phủ, Giải khê: Chủ mặt sưng (xem: Thủy thũng).

* Có người do ngâm nước bị thủy thũng, tứ chi đều sưng, mặt sưng đỏ, người ta đã cứu Thủy phân và Khí hải, chiều hôm thứ hai, nhìn đã thấy mặt như tiêu đi hết. Sợ mặt sưng, cũng có thế cứu Thủy phân được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 04:37:46 PM
40. Mặt đau – Diện thống (Mặt đỏ, mặt đen)

- Tán trúc, Ngận giao, Ngọc chẩm: Chủ mặt đỏ, đau trong má “Thiên”.

- Trung trữ: Chủ thái dương đau, hàm sọ nóng đau, mặt đỏ.

- Huyền ly: Chủ da mặt đỏ đau.

- Thận du, Nội quan: Chủ mặt nóng đỏ.

- Thiên song, Thiên đột: Chủ da mặt nóng.

- Não hộ: Chủ mặt đỏ mắt vàng “Đồng”.

- Huyền lư: Chữa da mặt đỏ đau.

- Hành gian: Chủ mặt từng đám đen như rêu “Thiên”.

- Thái xung: Chủ mặt có lấm tấm đen.

- Chi câu (xem: Ho), Giản sử (xem: Cuồng), Dịch môn (xem: Kinh): Chủ mặt đỏ.

- Giải khê: Chủ mặt đỏ (xem: Phong).

- Khí hải: Chữa bệnh lãnh, mặt đen “Minh hạ”.

- Thận du: Chữa mặt vàng đen (xem thêm: Lao)

- Quan xung: Chủ mặt đen (xem: Phong).

Hết quyển VI


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 13, 2018, 05:56:23 PM
Châm cứu Tư Sinh Kinh - Vương Chấp Trung

Quyển VII

Mục lục quyển VII

1. Thương hàn
2. Vàng da
3. Thương hàn đầu đau
4. Thương hàn nóng rét
5. Nóng rét
6. Khí nóng rét ở bụng
7. Thân hàn bại
8. Tự ra mồ hôi
9. Mồ hôi không ra
10. Thương hàn không có mồ hôi
11. Phát bối
12. Bướu ở cổ
13. Tràng nhạc
14. Dị ứng gió mẩn ngứa
15. Đau các khớp
16. Mụn nhọt
17. Mụn ghẻ
18. Ăn phải thứ độc
19. Chó dại cắn
20. Ung ở vú
21. Vú sưng đau
22. Đàn bà khí huyết
23. Đàn bà không có con
24. Máu hòn
25. Băng huyết
26. Các chứng khác sau đẻ
27. Khó đẻ
28. Kinh nguyệt
29. Khí hư trắng đỏ
30. Mục lục


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 14, 2018, 09:37:33 AM
1. Thương hàn (Bệnh nhiệt, Âm chứng, Dương chứng)

- Phàm bệnh nhiệt đâm Hãm cốc, châm lạnh trước, lạnh đến đầu gối thì rút kim, thân bại, tẩy trừ rét run nhè nhẹ, sườn cụt và tứ chi tức đau.

- Bệnh nhiệt trước hết thắt lưng và ống chân buốt đau, hay khát, uống nhiều, mình xanh, xanh thì gáy đau mà lạnh buốt, chân nóng, không muốn nói, đầu đau đỉnh chóp, trước lấy Dũng tuyền và Thái dương tỉnh, vinh.

- Nhiệt ở trong ít hơi, quyết hàn, cứu ở đó. Nhiệt đã đi, cứu Dũng tuyền 3 mồi.

- Bứt dứt trong Tâm, không muốn ăn, cứu Dũng tuyền 3 mồi.

- Nhiệt đã đi, bốn thứ khí suyễn nghịch, phong một bên người, mình ra mồ hôi mà mát đều lấy Hiệp khê.

- Phàm ôn bệnh, mình nóng trên 5 ngày mồ hôi không ra châm Thái tuyền, lưu kim 1 giờ mới lấy kim, nếu chưa đủ 5 ngày cấm châm.

- Phàm hay thở dài, không muốn ăn, thường nóng rét, ra mồ hôi, bệnh đến thì hay nôn, nôn xong thì mệt, lấy Côn lôn và Tỉnh du. Thực thì trong ruột quyết đau như cắt, đầu mặt sưng, phiền tâm, hay cuồng, hay uống không hay ăn.

- Hư thì cổ trướng, khí ở trong bụng đầy to, nóng đau, không muốn ăn, quặn bụng nôn nao (hoắc loạn), Công tôn chủ các chứng đó.

- Phàm bệnh nhiệt ở tâm, chân lạnh nhiều mồ hôi, trước lấy Nhiên cốc, sau lấy Thái khê, động mạch ở khe ngón cái, đều bổ trước ở đó.

- Phàm ôn bệnh có thể châm chích ở 59 huyệt. Số huyệt ở mình có 655, trong đó có 36 huyệt cứu là có hại, 79 huyệt châm vào là có tai nạn. Các thầy thuốc ở Giang Nam giữ kín yếu phương của Trọng Cảnh mà không truyền. Huyệt Nhiếp nhu châm cứu để chữa ôn bệnh (xem: Hoàng thư).

* Chỉ Mê Phương: Cứu âm độc thương hàn pháp, là giống như thao mà không khát, môi xanh mà thắt lưng trên nặng, hầu họng và tròng mắt đau, bụng ngực buồn bằn đau, lưỡi co, mặt xanh và nuốt nấc. Khí suyễn, nôn ngược, ra mồ hôi lạnh, không nói được. Phép cứu: lấy khoảng hơn chục cây hành, bỏ rễ, bóc vỏ, ngắt ống đi, vò miếng giấy rộng 2 thốn, vò là muốn để cho thông hơi, lấy dao cắt mồi khoanh cao nửa thốn, đặt lên giữa rốn, dùng cái bàn là đã hơ lửa là lên đó, hành rất dễ mềm, không quá 10 lần, người bệnh sẽ sống lại ngay, sau đó cho uống thuốc chính khí.

* Cứu kết hung thương hàn pháp là giống như tức ngực, ngắn hơi, ấn thì đau hoặc mửa ngược lên, tức buồn bằn hoặc ỉa không thông, mọi thứ thuốc không thể cứu. Lấy 7 hạt Ba đậu để cả vỏ, Hoàng liên mập to 7 thốn bỏ râu, cùng giã nát làm thành một viên đặt ở giữa rốn, lấy tay ấn xuống để tiêu cái thực tụ, sau vê mồi ngải to bằng hạt Bồ kết, cứu ở trên thuốc. Quá lắm cũng chỉ 3 lần 5 = 15 mồi thì khỏi ngay. Tiếp đó dùng thuốc bổ một vài ngày, nếu như bệnh đã nửa tháng, có hơi khí (vi hữu khí) đều chữa được.

* Trị khí hư dương thoát, tay chân lạnh, không có mạch, hơi thở muốn dứt, bất tỉnh nhân sự, thương hàn âm quyết, trăm thứ thuốc đều vô hiệu, dùng cách là Hành sống.

* Hành lấy giấy cuộn lại to như cái chén, bỏ rễ, lá giữ lại phần trắng dài khoảng 2 thốn, như cái bánh nướng, trước hết lấy lửa làm nóng một mặt, làm cho cái nóng đều khắp (Ngải không làm cho hun đốt người ta), rồi đem chỗ nóng bắc lên rốn và sát rốn bệnh nhân, sau lấy bàn là đủ độ nóng mà là, làm cho hơi bánh hành chạy vào trong cơ thịt. Cần có sẵn 3 đến 4 bánh hành để thay nhau, lâu lâu bệnh nhân tỉnh dần, tay chân ấm có mồ hôi thì khỏi. Sau cho uống Tứ nghịch thang bổ thêm, cái ốm ở trong vạn lần không lo.

* Anh con ông bác tôi bệnh thương hàn, mê man không biết gì đã 8 ngày, chân tay rắn lạnh như đá, thuốc đổ không vào được, dùng phép đó mà khỏi. Tập Hiền Hiệu Lý Hồ Toàn Phu dùng phép đó cứu người đã nguy, không thể kể hết số được “Lương”.

* Mới bị bệnh hoặc trước hết đau đầu, mình nóng rét hoặc ngây ngấy, muốn lấy lửa hơ, hoặc thắt lưng và lưng trên cứng đơ, mặt và mắt giống như uống rượu. Đó là thương hàn mới bị một vài ngày, có thể cứu một hàng lửa ở dưới Tâm gồm 3 chỗ, chỗ thứ nhất cách dưới tâm 1 thốn tên là Cự khuyết, chỗ thứ hai tên là Thượng quản cách tâm 2 thốn, chỗ thứ ba cách tâm 3 thốn tên là Vị quản. Cứu mỗi chỗ 50 mồi, trẻ em 3 mồi, cũng tùy tuổi mà chữa, lớn nhỏ lấy ý mà chia số “Thiên”.

- Nếu bệnh đã từ 3, 4 ngày trở lên, nên cứu trên ngực 20 mồi, lấy dây đo giữa mũi lên đến mép tóc, gập đôi sợi dây cắt bỏ đi ½, lại lấy dây đó đo từ mép tóc thẳng lên vào trong tóc, cứu ở đầu dây, tên là Thiên thông. Lại cứu hai Chiếp nhu (Thái dương),lại cứu 2 Phong trì, Can du 10 mồi, còn lại các chỗ 20 mồi. Lại cứu Thái xung 30 mồi. Thần nghiệm.

- Phàm trị thương hàn chỉ có âm chứng là cứu, ngoài ra đều phải châm. Theo như Thiên Kim Phương Chi nói: Lấy châm, mà Tố Vấn cũng nói: Bệnh quá nặng làm 59 lần châm, do đó tả chư dương ở trong ngực, trong dạ và nhiệt ở tứ chi, ngũ tạng, xem “Thiên” bàn về nhiệt.

- Nếu ôn nhiệt mình nóng đã trên 5 ngày, mồ hôi không ra được, có thể châm Đại tuyền, chưa đủ 5 ngày thì cấm châm “Thiên kim”, mà ở “Thiên kim” bệnh đau đầu, mình nóng rét lại cứu Cự khuyết, Thượng quản, Trung quản là 3 chỗ. Tại sao cũng là âm chứng, nếu giống như đã nói: Hoặc ngây ngấy muốn lấy lửa hơ, người thầy thuốc phải phân biệt vậy.

- Thông lý: Trị bệnh nhiệt, tự nhiên trong tim hối tiếc (…) nhiều lần duỗi ra đều đều (?) buồn sợ mắt hoa, đầu đau, mặt đỏ, mặt nóng, tim hồi hộp, khuỷu tay, bắp tay, cánh tay mỏi đau, thực thì chi sưng, hư thì không nói được, nôn đắng, hầu bại, ít hơi, đái dầm dề “Đồng”.

- Kỳ môn: Trị đàn bà quá kinh không giải, gặp châm Kỳ môn làm cho kinh không chuyển (tức là bệnh qua thời  hạn của kinh tuần hành mà chưa thoát ra hết, còn lưu ở kinh lạc, châm Kỳ môn làm cho bệnh không chuyển từ kinh này qua kinh khác – ND).

- Trung quản: Chữa đi ngoài trời bị thương hàn “Minh”.

- Khúc trạch: Chữa bệnh thương hàn thấp ôn, mình nóng, miệng khát.

- Cách du: Chủ thương hàn hay nằm, mệt mỏi, không muốn động lắc, mình ấm, không ăn được “Thiên”.

- Thiếu xung: Trị bệnh nhiệt buồn bằn, tức tối, khí lên đau tim, đờm lạnh, ít hơi, buồn hãi, hay co giật “Minh” chép là thích co giật. Lòng bàn tay nóng ngực đau, miệng nóng họng buốt, tự nhiên nóng, tự nhiên rét, bàn tay co không duỗi, dẫn vào mắt đau “Đồng”.

- Khúc trì: Trị thương hàn để lại các chứng da dẻ khô khan.

- Thông lý: Chủ bệnh nhiệt, đầu tiên mấy ngày không có thuốc “Thiên”.

- Ngư tế, Dương cốc: Chủ bệnh nhiệt run rẩy, gõ hàm, bụng tức, dương vật co lại mà da không đẹp.

- Xích trạch: Chủ khí ở cách hay nôn, gõ hàm, không có mồ hôi.

- Thận du: Chủ đầu mình nóng đỏ, run rẩy, trong thắt lưng và tứ chi khó chịu, muốn nôn.

- Tam gian: Chủ khí nhiệt, mình nóng, suyễn "Giáp” nói: Nóng rét miệng khô, mình nóng thở suyễn, mắt cấp đau, hay co giật.

- Ngư tế: Chủ bệnh nhiệt rét run, khua hàm, bụng đầy, dương vật co rụt lại, màu da không đẹp.

- Trung xung, Thiếu xung, Quan xung, Lao cung, Đại lăng, Dương khê, Thiên liêu: Chủ bệnh nhiệt, phiền tâm, tâm bứt dứt, mồ hôi không ra, trong lòng bàn tay nóng, đau tim, mình nóng như lửa, cuống lưỡi đau.

- Gian sử: Chủ bệnh nhiệt, phiền tâm, hay ụa, trong ngực bâng khuâng hay động mà nóng.

- Cự khuyết: Chủ phiền tâm, hay ụa.

- Khúc trạch: Chủ thương hàn ôn bệnh, mình nóng phiền tâm, miệng khô.

- Chi chính, Thiếu hải: Chủ bệnh nhiệt, trước hết là thắt lưng, ống chân buốt, hay khát, ăng uống nhiều lần, mình nóng, gáy cứng đau.

- Thiên tỉnh: Chủ rét run, cổ gáy đau.

- Ủy trung: Chủ bệnh nhiệt đau kẹt hai bên cột sống.

- Phong môn: Trị thương hàn cổ gáy cứng, mắt mờ (“Minh” nói: mũi tắc), hay khịt mũi, chảy máu cam, ra nước mũi trong “Đồng”.

* Âm độc trầm khốn (chứng chỉ riêng lạnh nguy hại – ND), thuốc uống vào khó làm công hiệu, nếu như cứu ở giữa rốn 300 mồi Ngải (mồi như quả táo) mà chân tay không ấm lên được là không thể chữa (xem: Bản sự phương). Hoặc tâm mê, tai ù, gọi không thưa, do ăn lạnh mà bị như thế. Tôi đem Lý Trung Thang cứu được nhiều người. Nếu uống thuốc sắc thì sắc Ngũ Linh Tán cùng uống, hoặc sắc Nhân Sâm Thang mà uống đều khỏi. (“Thiên Kim” nói: Thương hàn từ phong hàn mà bị, như biểu trúng phong hàn, nhập lý thì không tiêu mất vậy. Chưa có uống ôn thì không mất được).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 15, 2018, 10:42:40 AM
2. Vàng da – Hoàng đản

- Tỳ du, Vị quản, Thái khê: Chủ hoàng đản “Thiên”.

- Nhiên cốc: Chủ hoàng đản, một chân lạnh một chân nóng, hay khát.

- Thái xung: Chủ hoàng đản, nhiệt ở trong hay khát.

- Trung phong, Ngũ lý: Chủ mình vàng có khi hơi nhiệt “Giáp - Ất” nói: Không muốn ăn, ít hơi, mình mẩy nặng.

- Tích trung: Chủ hoàng đản, bụng đầy, không ăn được.

- Tỳ du: Chủ hoàng đản, hay gục xuống, ăn nuốt không xuống, dưới sườn đầy, muốn nôn, mình nặng không muốn động.

- Lao cung: Chủ hoàng đản, vàng mắt.

- Trung quản, Đại lăng: Chủ mắt vàng, rét run.

- Tỳ du: Trị hoàng đản “Đồng” (xem: Bụng trướng). Chữa thắt lưng và mình vàng, trướng tức, bụng dưới ỉa lỵ, mình nặng, tứ chi không gọn, hoàng đản khí tích tụ, bụng đau nóng rét “Minh”.

- Chướng môn: Chữa mình vàng gầy mòn “Minh hạ” (xem: Cổ trướng).

- Huyệt Dần môn (Thần môn?) trị mã hoàng, hoàng đản.

- Huyệt trong lợi trên (Thượng ngân lý huyệt): Châm 3 lượt (tam trình) trị mã hoàng, hoàng đản.

- Thượng ngạc: Châm 3 lượt trị mã hoàng, hoàng đản, bệnh bốn mùa.

- Huyệt dưới lưỡi (Kẹp hai bên lưỡi): Trị hoàng đản.

- Huyệt trong môi: Châm 3 lần trị mã hoàng, hoàng đản, dịch ôn, hàn thử.

- Nhiếp nhu: Châm cứu chữa 4 mùa khổ vì nóng rét, khí đản của ôn bệnh.

- Hiệp nhân trung: Dùng hào châm trị mã hoàng, hoàng đản (dịch viêm gan siêu vi trùng), khắp người đều vàng, tiếng nói đã chẳng chuyển.

- Hiệp Thừa tương: Trị dịch cấp mã hoàng.

- Cự khuyết: Cứu 7 mồi trị bệnh cấp mã hoàng, hoàng đản.

- Thượng quản: Cứu 7 mồi trị bệnh mã hoàng, hoàng đản.

- Âm phùng: Nếu là đàn ông lật ngược bìu dái lên mà cứu, trị mã hoàng, hoàng đản.

- Nhiệt phủ:Châm cứu trị mã hoàng, hoàng đản.

- Phong phủ: Châm chữa trăm thứ bệnh trong đầu và mã hoàng, hoàng đản.

- Phế du: Cứu trị hoàng đản, thông trị trăm thứ độc.

- Tâm du, Can du, Thận du, Tỳ du: Gót chân sau, châm cứu trị mã hoàng, hoàng đản, mọi thứ độc nóng rét.

- Hỷ trung: Cứu trị mã hoàng, hoàng đản, dịch độc nóng rét.

- Huyệt trong má: Châm trị mã hoàng, hoàng đản, ôn dịch nóng rét, cả hai bên má cùng một phép.

- Thủ thái dương cứu số mồi theo tuổi, trị hoàng đản tích.

- Thạch đầu tử: Cứu 7 mồi, trị mã hoàng, hoàng đản.

- Lỗ tiền (khổng tiền) cứu 100 mồi trị hoàng đản.

- Thái xung: Châm cứu trị dịch mã hoàng “Thiên”.

* Ngũ Linh Tán: Trị bệnh vàng da phát khát, khỏi ngay. Ủ nhiệt ở trong lý, thân vàng mà sưng, uống Nhân trần thì hạ (uống các thứ này không hiệu quả mới nên châm cứu).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 15, 2018, 10:57:59 AM
3. Thương hàn đau đầu – Thương hàn đầu thống (xem thêm: Đau đầu)

- Ôn lưu: Chủ thương hàn nóng rét, đau đầu, ụa ngược, chảy máu cam, vai không nâng lên được “Thiên”.

- Huyền lư: Chủ bệnh nhiệt, đầu đau, mình nóng.

- Huyền lư, Cưu vỹ: Chủ bệnh nhiệt đau một bên đầu, dẫn vào khóe mắt ngoài.

- Thiếu trạch: Chủ rét run, ngón tay út không sử dụng được, đầu đau.

- Thần đạo, Quan nguyên: Chủ mình nóng đầu đau, lúc tăng lúc giảm.

- Tam tiêu du: Chủ đầu đau ăn uống không xuống.

- Thái bạch: Chủ bệnh nhiệt, trước hết là mặt nặng, đầu đau, phiền muộn trong tâm, mình nóng. Nhiệt tranh thì thắt lưng đau không thể cúi ngửa. Lại bệnh nhiệt tức, buồn bằn, không thể nằm, mình nặng xương đau không thể phân biệt.

- Phong trì: Trị đầu đau.

- Ngư tế, Dịch môn, Trung trữ, Thông lý: Chủ đầu đau “Thiên”.

- Thiên trì: Chữa đầu đau.

* Đầu đau điên đảo, trước hết lấy Dũng tuyền.

- Ngư tế: Chữa đầu đau mồ hôi không ra (xem: Nóng rét).

* Chữa thương hàn đầu đau, thuốc thì có nhiều loại, chỉ có nước sắc đặc của Ngũ Linh Tán mà uống thì sẽ có hiệu, không cần phải châm cứu. Tôi thường chữa cho người ta đều có kết quả như thế.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 15, 2018, 11:15:49 AM
4. Thương hàn nóng rét – Thương hàn hàn nhiệt (xem thêm: Tự ra mồ hôi, thương hàn không có mồ hôi)

- Chi chính, Thiếu hải: Chủ bệnh nhiệt, trước hết thắt lưng, ống chân buốt, hay khát, mình nóng, cổ sưng rét run, nóng rét “Giáp” nói: Chủ rét run, nóng rét, cổ gáy sưng, thực thì khuỷu tay co, đầu choáng đau, hư thì sinh hạt cơm, ghẻ “Thiên”.

- Khúc trạch: Chủ thương hàn, ôn bệnh, mình nóng, phiền tâm, miệng khô. “Giáp” nói: Chủ tâm bâng khuâng, hay sợ, mình nóng, phiền tâm, miệng khô, tay mát, nghịch khí, nôn, nhổ bọt, khuỷu tay điên dại, hay lắc đầu, mặt xanh, mồ hôi ra không quá vai.

- Tam gian: Chủ khí nhiệt, thân nhiệt, suyễn. “Giáp” nói: Nóng rét, miệng khô, mình nóng thở suyễn, miệng cấp đau hay co giật.

- Kiên trinh: Chủ nóng rét, gáy tê dại. “Giáp” nói: Tai kêu không nghe được dẫn vào hố đòn và trong vai đau tê, ít cũng chẳng nâng lên được.

- Ôn lưu: Chủ thương hàn nóng rét, đau đầu.

- Thương khâu: Chủ nóng rét ụa nôn.

- Đại chùy: Chủ thương hàn thịnh, phiền nôn.

- Cách du, Trung phủ: Chủ nóng rét, da thịt xương đau, ít hơi, không nằm được.

- Kiên tỉnh, Quan xung: Chủ nóng rét lạnh lẽo, khí lên không nằm được.

- Liệt khuyết: Chủ nóng rét, trong lòng bàn tay nóng.

- Khúc trì: Chủ thương hàn, nóng còn vương vất không dứt.

- Thiên tỉnh: Chủ thương hàn, rét run, cổ gáy đau.

- Xung dương: Chủ rét run mà cúi gục xuống.

- Hậu khê: Chủ mình nóng, ác hàn.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 16, 2018, 10:50:46 AM
5. Nóng rét – Hàn nhiệt (xem: Thương hàn nóng rét, trúng gió)

- Phục lưu: Trị xương lạnh, nóng, mồ hôi không dứt “Đồng”.

- Chí dương: Trị nóng rét, ống chân buốt, tứ chi nặng đau, ít hơi khó nói “Minh” cũng thế.

- Quang minh: Trị mình lạnh, giải khó chịu, ống chân buốt không thể đứng lâu được.

- Á môn: Trị nóng rét, phong co giật, cột sống cứng, gẫy ngược lại “Đồng”.

- Đào đạo, Thần đường (xem: Vai đau), Phong trì: Chữa nóng rét lai rai.

- Âm khích: Trị lai rai bị lạnh, quyết nghịch.

- Ngư tế: Chữa lại rai sợ gió lạnh, hư nhiệt lưỡi vàng, mình nóng, đầu đau, ho hắng, mồ hôi không ra, bại chạy ở ngực và lưng trên đau không thở được.

- Phù bạch: Chữa phát nóng rét.

- Thận du: Chữa đầu nặng, mình nóng (xem: Lao khái).

- Lư tức: Trị mình nhiệt, đầu nặng, sườn đau, không thể xoay nghiêng.

- Thái bạch, Dương cương: Trị mình nóng (xem thêm: Bụng trướng).

- Khúc sai: Trị thân thể nóng, bứt dứt.

- Não không: Trị bệnh lao, gầy mòn mà chi trên và chi dưới nóng.

- Phế du: Trị nóng rét suyễn tức (xem: Lao khái).

- Thiên trì: Trị nóng rét, ngực cách đầy tức (xem: Cách đầy tức).

- Thiếu xung: Trị thoắt nóng, thoắt rét (xem: Thương hàn).

- Thần đạo (xem: Đầu đau), Thiếu hải: Trị nóng rét.

- Đảm du: Trị rét run (xem: Đầu đau).

- Lâm khấp: Trị rét run (xem: Nách sưng).

- Ngư tế: Chữa hư nhiệt, từ từ dựng đứng lông lên, sợ gió lạnh (ác phong hàn), trên lưỡi vàng, mình nóng, ho hắng, hen, bại, chạy lên ngực và lưng trên, đầu rất đau, mồ hôi không ra, nóng bứt dứt trong tim, ít hơi “Minh”.

- Cách du: Chữa nóng rét đau xương (xem: Đàm).

- Thiên đột (xem: Cổ sưng): Chữa mình nóng rét “Thiên”.

- Não không: Chữa mình nóng rét, dẫn vào gáy cứng cấp.

- Phi dương, Quang minh: Chủ nóng rét “Thiên” (xem: Thương hàn không có mồ hôi).

* Tạng phủ tích tụ, bụng trên trướng, thắt lưng và lưng trên đau, ăn uống không tiêu, nôn ngược, nóng rét qua lại, đi đái khó, gầy mòn, ít hơi, cứu Tam tiêu du theo tuổi (xem: Lao khái), lại cứu Vị quản 100 mồi (càng tốt nếu đến 1000 mồi).

- Tiểu trường du: Chủ Tam tiêu nóng rét (như phép cứu Thận), cứu số mồi theo tuổi. Lại như Bàng quang, Tam tiêu, tân dịch xuống đại, tiểu trường, nóng rét, đái đỏ, lị như tháo cống, cột sống sưng đau. Lại như đái khó, đàn bà ra khí hư, cứu 50 mồi.

* Tứ chi nóng, rét, thắt lưng đau không thể cúi ngửa, mình vàng, bụng đầy tức, ăn vào thì nôn, cuống lưỡi cứng đơ, cứu Tỳ du thêm huyệt Chùy thứ 3, mỗi chỗ 7 mồi.

* Mồ hôi trộm, nóng rét, sợ lạnh, cứu Phế du số mồi theo tuổi, châm 5 phân, lại cứu Âm đô 100 mồi.

- Nhiều mồ hôi mà nóng rét cứu Ngọc chẩm 50 mồi “Thiên dực”.

- Dũng tuyền:Chủ mình mẩy, thắt lưng và cột sống như rời ra (xem: Hư tổn).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 17, 2018, 09:27:47 AM
6. Khí nóng rét ở bụng – Phúc hàn nhiệt khí (xem” Lao)

- Hành gian: Chủ bụng đau mà nóng “Thiên”.

- Trung cực: Chủ trong bụng nóng (xem thêm: Bụng đau).

* Năm tạng và thân thể nhiệt, cứu Chùy 14, ngang với rốn 50 mồi, theo già trẻ tăng hoặc bớt cho vừa phải, nếu là hư hàn thì cứu tới 100 mồi. Cứu bề ngang rộng tới 3 thốn (hoành tam giác thốn).

- Khí xung: Chủ mình nóng (bụng đau).

* Phàm bụng nóng hay khát, ra nước dãi là có giun đũa, lấy tay ấn giữ chẳng làm cho chuyển rời, rồi châm chích ở Trung quản.

- Khí xung: Chủ trong bụng đại nhiệt không yên (xem: Bụng trướng).

- Quan nguyên: Chủ khí hàn vào bụng.

* Lạnh lâu ngày cứu Thiên khu 100 mồi (xem: Chưng giả).

- Âm lăng tuyền (xem: Thũng), Tam âm giao (xem: Hàn bạch): Trị bụng lạnh.

- Ẩn bạch: Chủ trong bụng lạnh nóng “Minh” (xem: Bụng trướng).

- Hạ liêm: Chữa nhiệt phong, lãnh bại.

- Thượng quản: Chủ nóng rét “Thiên” (xem: Điên dại, động kinh).

- Phi dương: Trị nóng rét (xem: Các chứng bệnh điên “Đồng”).

- Á môn: Trị nóng rét (xem: Điên, động kinh).

- Thiếu xung: Trị thoắtt nóng, thoắt rét (xem: Thương hàn).

* Kỳ Bá nói: Nếu là bệnh hư yếu, tích lãnh đều nên cứu Quan nguyên “Minh hạ”.

- Tam lý: Chủ tạng phủ tích lâu dài thành khí lạnh, bụng trên trướng đầy.

- Thiên khu: Lãnh khí tích lâu dài, quanh rốn đau như cắt, có khí xông lên tim “Đồng” cũng thế.

- Trung cực: Chữa khí lạnh (xem: Tích tụ).

- Lậu cốc (xem: Hòn hạch), Hội dương: Trị khí lạnh “Đồng” (xem: Ỉa chảy).

- Hạ quản: Trị khí hàn ở lục phủ, không muốn ăn.

- Khí hải: Trị khí lạnh xông lên tim.

- Ẩn bạch: Chủ khí lạnh rét ở trong bụng, trướng tức “Thiên”.

- Thái xung: Chủ khí lên, phát lạnh, trong bụng kêu như sấm (xem: Khí lên).

* Khí kết rét lạnh, cứu Thái dương 100 mồi (xem: Khí kết).

* Phàm dưới cắn đau, chạy vào âm bộ làm thành cơn không kể giờ giấc, đó là khí lạnh cứu Quan nguyên 100 mồi.

- Thương khâu: Chủ rét ở dưới vùng tim (xem: Bụng tức).

- Cưu vỹ, Thiếu xung, Thương khâu: Chủ rét ở tim.

* Khí lạnh và đau tim nên cứu Long hàm 100 mồi.

- Dương giao: Chủ hàn quyết, kinh, cuồng.

- Xung môn: Chủ bụng lạnh, khí tức đầy “Đồng” (xem: Tích tụ).

* Thiên Kim Dực nói: Ngũ lao, lục cực lại sinh thất thương, biến sinh thất khí, tích tụ, rắn chắc lưu như cái chén ở trong bụng, tim đau phiền can không thể ăn, có khi thấy bệnh đến có khi mất, bệnh phát không thường. Khí hàn gây bệnh thì nôn ngược, tâm đầy tức, khí nhiệt làm bệnh thì hoảng hốt, muộn loạn dài, như hoa mắt, chóng mặt, lại trở lại mất tích v.v… nên uống Cục Phương Thất Khí Thang. Nếu như bị khí lạnh mà thuốc và cứu không tới, thì cần hỏa châm, đâm nhẹ các huyệt và chỗ đau một chốc lát là yên. Thần hiệu!


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 17, 2018, 10:03:20 AM
7. Thân hàn bại – Thấp bại không tự điều khiển được (xem: Tay chân bại)

- Cách du “Minh” cũng thế: Trị mình thường thấp “Đồng” (xem: Hạch hòn).

- Phong long: Chủ thân thấp “Thiên”.

- Khúc trì, Liệt khuyết: Chủ thân thấp đu đưa.

- Trung phong: Chủ ủy quyết (đờ ra mà mềm), mình mẩy tay chân không tự điều khiển được, ít hơi, thấp nặng.

- Hợp dương: Chủ đầu gối và đùi nặng.

- Lậu cốc: Chủ thấp bại lâu ngày, không đi được “Đồng” nói: Không thế đứng được lâu.

- Huyền chung: Chủ thấp bại không sưng, gân ở hông co giật cấp, ống chân đau, khu hông đau, xương đầu gối và ống chân đu đưa lúc lắc, buốt dại không tự điều khiển được, gân co rút, các khớp buốt như gẫy.

- Lâm khấp: Chủ thân bại rả rich, rét run.

- Thương khâu: Chủ xương bại phiền tức (tức bứt dứt).

* Phàm thân thể không tự điều khiển được, trước hết lấy Kinh cốt, sau lấy Trung phong, Tuyệt cốt đều tả cả.

- Trung phong: Chủ quyết mà mềm, thân thể không tự điều khiển được, ít hơi, thấp nặng, đầu gối sưng.

- Phong thị: Chủ thũng, nhẽo , mềm, bại, đầu chót ruột không tự điều khiển được.

- Trung độc: Chủ khí lạnh ở trong khe các bắp thịt, đau bại không chịu được.

- Dương quan: Chủ cạnh ngoài đầu gối đau, không thể co duỗi, ống chân bại không tự điểu khiển được.

- Tuyệt cốt: Chủ buốt bại, không tự điều khiển được, lại chủ mình nặng (xem ở trên).

- Hoàn khiêu: Trị phong lạnh thấp bại “Đồng” (xem: Thắt lưng đau).

- Điều khẩu: Trị thấp bại (xem: Đầu gối bại).

- Hạ liêu: Trị hàn thấp nội thương (xem: Kinh nguyệt).

- Ủy trung: Chữa phong thấp bại “Minh” (xem: Chân yếu).

- Hạ liêm: Chữa phong một bên người, phong nóng, phong lạnh, bại bất toại, phong thấp bại, khỏi vết bỏng cứu, bại lạnh hết ngay.

- Ngư tế: Chữa bại chạy ở ngực và lưng trên “Minh” (xem: Nóng rét), “Đồng” cũng thế.

* Trị bại lạnh, ống chân đầu gối đau, thắt lưng và gót chân co cấp, khí lạnh ở chân nên không thể đứng lâu, có khi chán chán muốn nằm, tay chân nặng nề, ngày càng thấy gầy mòn. Đó gọi là bệnh phục liên, làm cho người ta đến chỗ không còn tình cảm (cực vô tình), thường rầu rĩ không vui, hay quên, giận, mừng. Có chứng bệnh như thế phải cứu ngay Huyền chung (Tuyệt cốt) số mồi theo tuổi, một lần cứu thì khỏi ngay, không được cứu lại như thế. Nếu như qua nhiều năm tháng phát lại, theo đúng phép lại cứu. Nếu như ý tiện muốn nhiều thì sau 7 ngày lại cứu 7 mồi “Thiên dực”.

* Hư tổn luận nói rằng: Chỗ để dấy bệnh sinh ở từ ngũ lao, ngũ lao thì dùng hai tạng tổ trước. Tâm, Thận thụ tà thì sinh lục cực, thứ nhất là khí cực làm cho người ta hư tổn bên trong.

- Ngũ tạng bất túc thì bên ngoài thụ tà khí, thường là hàn, thấp bại v.v…

* Lại nói: Ngũ lao, lục cực, thất thương, thất khí, tích tụ biến thành bệnh. Quá lắm thì làm cho người ta đại phong hoãn cấp, thấp bại không tự điều khiển được, khô một bên, gân co rút, tứ chi cong co, làm cho người ta không có con.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 18, 2018, 09:55:08 AM
8. Tự ra mồ hôi – Tự hãn

- Ngọc chẩm: Chữa nhiều mồ hôi (xem: Đau mắt).

- Cách du: Chữa ra mồ hôi (xem: Đờm).

- Âm kiều: Chủ mồ hôi ra “Thiên” (xem: Đau bụng).

- Phi dương, Dũng tuyền, Hàm yếm, Hậu đỉnh: Chủ cổ gáy đau, các khớp ra mồ hôi.

- Côn lôn: Chủ sốt rét, nhiều mồ hôi “Thiên”.

- Nhiên cốc: Chủ sốt rét ôn chứng ra mồ hôi.

- Phục lưu: Trị xương nóng rét, mồ hôi chảy không dứt “Đồng”.

- Đại đôn: Trị tim đau ra mồ hôi (xem: Tự nhiên sán).

- Khuyết bồn: Trị ra mồ hôi (xem: Tràng nhạc).

- Trung phủ: Trị phong ra mồ hôi (xem: Phế khí).

- Thiếu thương: Trị hay ra mồ hôi mà lạnh (xem: Hay ợ).

- Xung dương: Chủ ra mồ hôi, cứu lòng bàn tay, bàn chân nóng, mồ hôi trộm (xem: Sốt rét).

* Mẫu lệ tán: Trị nằm thì ra mồ hôi trộm, phong hư đau đầu. Mẫu lệ nung vàng, Bạch truật, Phòng phong, mỗi thứ 3 lạng, uống với rượu chừng một thìa canh, ngày hai lần (Dứt mồ hôi phương này rất nghiệm). Các chứng ra mồ hôi, uống 3 ngày đều khỏi - Bài đó ở Thiên Kim Phương.

Bản Sự Phương nói: Như sợ gió thêm Phòng phong gấp đôi, khí hư gia Truật, mặt sưng gia Mẫu lệ.

* Cũng có Mẫu Lệ Tán trị hư lao, mồ hôi trộm không dứt: Mẫu lệ nung đỏ, Ma hoàng căn, Hoàng kỳ, các vị đều bằng nhau tán nhỏ, mỗi lần dùng 2 đồng, một chén nước sắc còn 7 phần, uống lúc ấm. Tôi dùng đều thấy nghiệm cả, cho nên chép phụ vào đây (Bản sự có 2 phương).

- Liệt khuyết, Khúc trì: Chủ bệnh nhiệt phiền tâm. Tâm buồn bằn, trước hết cánh tay, bàn tay, mình nóng điên dại, rung giật, môi miệng chum lại, mũi phồng lên, dưới mắt mồ hôi ra như giọt ngọc “Thiên”.

- Ngũ sứ, Tán trúc, Chính doanh, Thượng quản, Khuyết bồn, Trung phủ: Chủ ra mồ hôi mà nóng rét.

- Thừa tương: Chủ ra mồ hôi, ra máu cam không dứt.

- Bách hội: Chủ mồ hôi ra mà nôn, động kinh.

- Đại đô: Chủ bệnh nhiệt ra mồ hôi, mắt quyết, chân mát, “Ngoại đài” lại nói: Không ra mồ hôi, chân tay mát, quyết.

- Phục lưu: Chủ nóng rét không chỗ nào yên, mồ hôi ra không dứt, phong nghịch, tứ chi sưng.

- Phàm bệnh nhiệt phiền tâm, chân mát lạnh, nhiều mồ hôi, trước lấy Nhiên cốc, sau lấy Thái khê, động mạch ở khe ngón cái (?), tất cả đều bổ trước.

- Liệt khuyết (xem: Thủy thũng), Phế du, Tâm du: Chủ ra mồ hôi (xem: Trúng gió).

- Thương hàn tự ra mồ hôi đúng là âm chứng, chỉ có Lý Trung Thang là tốt nhất. Tôi thường bảo người ta uống, rất nghiệm.

* Nếu chỉ có từ trán trở lên là có một ít mồ hôi, và trên phu một khớp có mồ hôi, rất nên sắc Ngũ Linh Tán mà uống (nhiều mồ hôi, cũng có do dụng tâm mà bị, nên cứu Tâm du, uống Trấn Tâm Đan đều khỏi).

* Bệnh sốt rét nhiều mồ hôi, cứu Y hy 50 mồi. Nhiều mồ hôi, tứ chi không nhấc lên được, ít sức, cứu Hoành văn 50 mồi, Trường bình 50 mồi, nhiều mồ hôi, mồ hôi trộm xem thêm: Nóng rét.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 19, 2018, 09:02:54 AM
9. Mồ hôi không ra – Hãn bất xuất

* Phàm tức ngực ngắn hơi, mồ hôi không ra, đều châm bổ Thủ thái âm để lấy mồ hôi “Thiên”.

- Thiếu trạch, Phục lưu, Côn lôn: Chủ sốt rét thể lạnh, mồ hôi không ra.

- Thiên lịch: Chủ phong ngược (sốt rét do phong), mồ hôi không ra.

- Thiếu trạch: Chủ sốt rét, nóng rét, mồ hôi không ra “Đồng”.

- Thượng tinh: Chủ sốt rét lâu dài, rét run nóng, mồ hôi không ra.

- Á môn: Chủ đau đầu gió, mồ hôi không ra.

- Tâm du (xem: Cuồng) “Minh” cũng thế. Khúc sai: Trị trong tim phiền, tức, mồ hôi không ra “Minh” cũng thế.

- Đào đạo: Trị nóng rét rả rich, xương sống cứng, mồ hôi không ra “Minh” cũng thế.

- Đảm du: Trị rét run, mồ hôi không ra (xem: Đầu đau).

- Mệnh môn: Trị đầu đau như phá, thân nóng như lửa, mồ hôi không ra.

-Thượng quản: Trị thân nhiệt, mồ hôi không ra (xem: Hoắc loạn).

- Chí âm (xem: Đầu đau), Ngư tế (xem: Nóng rét), Khúc tuyền (xem: Sán), Hiệp khê (xem: Ngực sườn tức), Trung lữ du: Trị mồ hôi không ra (xem: Tiêu khát).

- Thiên lịch: Trị phong, mồ hôi không ra.

- Khiếu âm: Chữa chân tay nóng, bứt dứt, mồ hôi không ra, chuột rút.

- Mệnh môn (xem: Đau đầu), Phế du (xem: Mồ hôi): Chữa mồ hôi không ra “Minh”.

- Khúc trạch: Chủ mồ hôi ra không quá vai (xem: Nhổ ra máu) “Giáp” (xem: Thương hàn nóng rét).

- Ngư tế: Chữa mồ hôi không ra (xem: Nóng rét).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 20, 2018, 08:52:22 AM
10. Thương hàn không có mồ hôi – Thương hàn vô hãn

- Đại đô: Chủ thương hàn mồ hôi không ra, chân tay nghịch lạnh, bụng đầy muốn nôn, mắt hoa, tim bứt dứt, tứ chi sưng “Minh hạ”.

* Phàm ôn bệnh trên 5 ngày, mồ hôi không ra, châm Thái tuyền lưu kim 1 giờ, nếu chưa đủ 5 ngày cấm châm.

- Lao cung: Chủ bênh nhiệt đã 3 ngày chẳng có mồ hôi, sợ hãi.

“Giáp - Ất” nói: Chủ bệnh nhiệt đầy tức, bứt dứt muốn nôn ọe, 3 ngày trở xuống không được châm. Sợ hãi, ngực sườn không thể nghiêng lại. Ho đầy, nước đái đỏ, đái ra máu, chảy máu cam không dứt, nôn mửa ra máu, khí nghịch, ợ không dứt, đau trong họng, ăn không xuống, hay khát, loét trong miệng, trong lòng bàn tay nóng, muốn nôn “Thiên”

- Khổng tối: Chủ cánh tay quyết, nóng đau, mồ hôi không ra “Minh” nói: Bệnh nhiệt mồ hôi không ra đều châm cứu ở đó, huyệt đó có thể ra mồ hôi.

- Kinh cừ, Dương trì, Dương cốc, Hợp cốc “Minh hạ” cũng thế. TiềN cốc, Nội đình, Hậu khê, Uyển cốt, Chi câu “Minh hạ” cũng thế. Lệ đoài, Xung dương, Giải khê: Chủ bệnh nhiệt mồ hôi không ra.

- Trung xung: Chủ bệnh nhiệt mồ hôi không ra (xem các bệnh của thương hàn).

- Mệnh môn, Bàng quang du, Thượng quản, Khúc sai, Thượng tinh, Đào đạo, Thiên trụ, Thượng liêu, Huyền lý, Phong trì: Chủ đầy tức, bứt dứt, mồ hôi không ra.

- Phi dương: Chủ phần dưới nóng rét, mồ hôi không ra, chi thể nặng.

- Ngọc chẩm, Đại trữ, Can du, Tâm du, Cách du, Đào đạo: Chủ mồ hôi không ra, đau quyết, sợ lạnh, ác hàn.

- Quang minh: Chủ bụng và chân mát, nóng rét mồ hôi không ra.

- Khúc tuyền: Chủ mình nóng, đầu đau, mồ hôi không ra.

- Ngư tế: Chủ đầu đau, quá lắm mà mồ hôi không ra.

- Xích trạch: Chủ khí ở cách, hay nôn, hàm khua gõ, không có mồ hôi, tâm bứt dứt, mình đau.

- Dịch môn, Trung trữ, Thông lý: Chủ bệnh nhiệt, không vui, đau đầu, mặt nóng, không có mồ hôi.

* Thương hàn, ôn bệnh, hay lắc đầu, mặt mát, mồ hôi ra không quá vai, Khúc trạch chủ chứng đó “Giáp”.

- Ủy trung: Chủ trị bênh nhiệt mồ hôi chẳng ra v.v… lấy máu ở kinh đó khỏi ngay “Đồng”.

- Khổng tối: Trị nhiệt bệnh, mồ hôi không ra, có thể cứu 3 mồi thì ra mồ hôi “Minh hạ” cũng thế.

- Hãm cốc, Lệ đoài, Cách du, Trung trữ, Đại đô (xem: Bụng đầy), Chi câu, Dương cốc “Minh” cũng thế. Uyển cốt, Tiền cốc: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra.

- Huyền lư: Trị bệnh nhiệt, đầy tức, bứt dứt, mồ hôi không ra “Minh” cũng thế.

- Huyền ly: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, đau một bên đầu, tâm bứt dứt không muốn ăn.

- Y hy: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra.

- Đại trữ: Trị thương hàn mồ hôi không ra, cột sống cứng.

- Kinh cừ: Trị bênh nhiệt mồ hôi không ra, bạo bại suyễn, đau ở giữa gầm bàn chân (túc tâm), nôn mửa.

- Thương dương: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, bạo bại suyễn “Minh hạ” cũng thế.

- Trung xung: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, bàn tay nóng, mình như lửa, tim đau tức, bứt dứt, lưỡi cứng.

- Thái khê:Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, chán ngán, muốn nằm, nước đái vàng, khó ỉa.

- Phong trì: Trị ôn bệnh, mồ hôi không ra, mắt hoa, khổ sở vì đau đầu.

- Thái lăng: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, cánh tay co, nách sưng, hay cười không dứt, tim bâng khuâng, nếu đói hay buồn khóc, sợ hãi mắt đỏ, đái như máu, nôn ngược, nói cuồng không vui.

- Lao cung: Trị bệnh nhiệt, 3 ngày mồ hôi không ra, sợ lạ lùng, ngực sườn đau không thể xoay, đái ỉa ra máu, chảy máu cam không dứt, hơi ngược lên, nôn ọe, phiền khát, ăn uống không xuống.

- Quang minh: Trị bệnh nhiệt mồ hôi không ra, tự nhiên cuồng, hư thì bại mềm yếu, ngồi không đứng dậy được, thực thì ống chân nóng, đầu đau, mình mẩy, chân tay không tự điều khiển được, hay cắn vào má.

- Trung xung: Chủ bệnh nhiệt, buồn bằn, bứt dứt, mồ hôi không ra, bàn tay nóng, mình như lửa, tim đau, lưỡi cứng “Minh hạ” nói: Thân nhiệt như hỏa, đau đầu như phá.

- Thiên trì: Chữa bệnh nhiệt mồ hôi không ra, ngực tức, cổ đau, tứ chi không nhấc lên được, dưới nách sưng, khí lên trong ngực có tiếng kêu, hầu khát (“Minh hạ” tương tự nạn thương hàn âm chứng, tứ chi lạnh cứng đơ, bất tỉnh), tôi đem Lý Trung Thang cho uống, uống đến lần thứ hai mồ hôi ra như mưa vậy. Thần thay!


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 20, 2018, 10:20:23 AM
11. Phát bối (Ung thư, ghẻ lở, xem thêm: Trĩ dò)

- Đâm vào Phong môn đều đều để tiết nhiệt khí ở chư dương, mãi mãi lưng không phát ung thư “Đồng”.

* Cách cứu phát bối, hoặc không thấy đầu mụn, lấy giấy ẩm đắp lên, chỗ nào khô trước thì đó là đầu mụn. Lấy tỏi bóc vỏ, cắt sống thành khoanh như đồng tiền, đặt khoanh tỏi lên chỗ đó, sau đó cứu 3 mồi, thay tỏi lại cứu 3 mồi, như thế thay nhiều lần. Nếu đau thì cứu cho tới khi mất đau, nếu không đau thì cứu cho tới khi đau mới dừng. Nếu như ngày thứ nhất cứu bớt được còn 9 phần, ngày thứ hai cứu bớt còn 8 phần… đến ngày thứ 7 tạm gọi là được, tự nó sẽ khỏi.
Khi đã cứu đủ, cứu xong, lấy cây Vẩy rồng trên đá, cây Ba lộ rửa sạch, giã lấy nước đun nóng mà đắp vào thì ra ác vật để trừ tận gốc.

* Phàm mụn đanh, mụn đầu cũng như mụn rốn cá và tất cả các loại không tên đều chữa tất “Tập hiệu”.

 Phàm phát sưng lên đến rắn, có gốc tên là Thạch ung, cách chữa thường cứu ở trên là 100 mồi, hòn đá đó phải nát đi, nếu chưa tan tăng thêm mồi càng tốt “Thiên”.

* Lời bàn rằng: Phàm phát bồi đều do uống năm thứ đá, ăn lạnh và đồ sống gây ra. Cũng do việc uống sữa mà thành, lại có thể tự nhiên mà phát bối. Thường mọc ở lưng trên giữa hai xương bả vai, mới đầu to như hạt lúa, hoặc đau, hoặc ngứa có màu đỏ. Người ta thường bỏ qua, càng ngày càng lớn, có khi không quá 10 ngày có thể chết. Gặp khi khốn thấy mụn rộng 3 thốn, cao 1 thốn và có đến 10 lỗ, lấy tay ấn thấy trong lỗ đều có mủ ra, khi tìm thì câm mất. Do đó về mặt dưỡng sinh thấy dù nhỏ, có cảm giác ngứa, đau lạ ở trên lưng thì kịp thời lấy ngay đất sạch hòa với nước thành sữa, vê thành bánh dầy 2 phân, rộng 1,5 thốn, lấy Ngải thô làm thành mồi cứu trên bánh đất đặt đúng trên mụn mà cứu, mỗi một mồi thay môt bánh, nếu mụn to bằng hạt lúa có thể cứu 7 bánh thì khỏi. Nếu to như quả dâu da thì cứu 7 x 7 = 49 mồi thì khỏi, nếu to như đồng tiền thì có thể cứu suốt đêm, không hạn chế số mồi, uống thêm Ngũ Hương Liên Kiều Thang và nước sắt mài và các thuốc công nữa thì khỏi.

* Phàm sưng ở hai xương bả vai, đầu trắng như hạt thóc nếp, bốn chung quanh liền đó sưng đỏ đen, làm cho người ta bực bội luẩn quẩn thì tên là phát bối (cấm phòng sự, rượu, thịt, tỏi, miến). Nếu như không phòng và chữa, nó chạy vào trong thì giết chết người, có người không biết thường trị theo tạp sưng khác đều chết cả.

 Quách Hộ nói với tôi: Trong làng có người chữa giỏi về phát bối, ung thư, đều cứu ở trên mụn 200 – 300 mồi, không có trường hợp nào không khỏi. Nhưng làm mồi ngải nhỏ, mồi ngải nhỏ thì người ta không sợ cứu, cứu nhiều sẽ khỏi, phép đó hiển nhiên như vậy.

 Gần đây có thầy thuốc chữa ngoại khoa có tiếng, chữa  một người phát bối, mụn to như cái bát, có nhiều lỗ, thầy này cũng không dùng thuốc, chỉ lấy Ngải đắp kín trên khắp cả mụn, cứu lâu thì hết đau, lúc đó trên mụn đều là thịt chết. Rồi lúc vừa mới thấy hết đau, xoay sang dùng thuốc điều trị mà khỏi, ra ngoài sức tưởng tượng (cáo xuất vu ý biểu dã).

 Vương Cừ bị ung thư phát ở trên lưng, Trương Sinh làm ngải đốt ở trên từ sáng đến đêm 150 mồi, biết đau mới thôi. Hôm sau gắp những vẩy đen đi, máu mủ ra hết trong da đều đỏ tươi mà không đau lại. Bắt đầu lấy thuốc riêng phụ vào, ngày một đổi thay, hơn một tháng sau thì mụn đã khỏi. Năm đó vào khoảng giữa Hạ và Thu, ở kinh sư, giới nhân sỹ bị ung thư có đến 7 người, môn sinh tôi vì biết phép đó mà đã chữa khỏi cả (xem: Vương Cừ phát bối phương tự).

- Dương phù: Trị nách ung thư mã đao (xem: Thắt lưng chân đau).

- Độc tỵ: Trị bánh chè đầu gối sưng ung (xem: Đầu gối đau).

- Khiếu âm: Chủ đinh, thư phát lện, gáy đau dẫn lên đầu (“Minh” cũng thế), mắt đau “Đồng” nói: Trị ung thư đau đầu , tim bứt dứt).

* Phàm tự nhiên ở 5 đầu ngón tay gân co không gập duỗi được, cứu giữa xương mắt cá 10 mồi, hoặc đến 100 mồi.

- Phụ cốt thư cứu ở sau Gian sử 1 thốn, số mồi theo tuổi, khỏi ngay!

- Thiên đột: Chữa Phế ung, nhổ ra máu mủ, khí nghẽn không thông.

- Chiên trung: Chữa Phế ung, ho hắng, khí lên, nhổ ra mủ, ăn không xuống, trong ngực khí đầy như tắc.

- Tiểu hải: Trị nhọt sưng, rét run.

- Thái xung, Lâm khấp (xem: Nách sưng): Trị nhọt mã đao dò.

 “Đơn Phương” có nói: Ác nạn là Thạch ung, không châm phải lấy thuốc, cứu trên mụn 100 mồi thì mụn nát ra.

 “Phương” nói: Phải lấy độc dược công ở trong để dẹp tận gốc, lại cứu ngải ở ngoài để tuyên cái độc, phép đến cùng là như thế. Ung thư mới bắtt đầu, đốt ngải và uống thuốc Đại hoàng không thể khỏi (Đại hoàng nên tùy ngời hư thực mà uống).

 Vương Tử Cao bị bối thư, thầy thuốc ngoại khoa ở kinh sư cho là bất khả trị. Sau được một người bảo lấy ngải đốt, mồi to bằng quả táo, gần 1000 mồi.

 Lỗ Thực cũng bị nhiều nhọt ở lưng, cũng cứu ngải mà khỏi, cứu là phép thứ nhất vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 21, 2018, 10:59:08 AM
12. Bướu cổ - Anh lựu, nhục lựu

- Thiên phủ (“Giáp - Ất” chép là Thiên song), Nhu hội, Khí xá: Chủ khí bướu, cổ họng sưng.

- Thông thiên: Chủ bướu, cứu 50 mồi, Hung đường, Dương khí: Cứu 100 mồi.

- Não hộ, Thông thiên, Tiêu lạc, Thiên đột: Chủ cổ có đại khí.

- Nhu hội: Trị gáy lưu khí bướu “Minh hạ” nói: Chữa bướu và khí ở cánh tay sưng.

- Khí xá: Chữa bướu cổ (xem: Ho ngược khí lên), Phù bạch: Chữa khí bướu, vai không nâng lên được “Đồng” nói: Trị ảnh khí.

- Phế du: Chữa bướu hơi (ảnh khí).

- Bướu mà hơi lên, ngắn hơi, cứu Phế du 100 mồi.

- Bướu mà hơi lên, tức ngực, cứu Vân môn 50 mồi.

- Bướu ác khí cứu Thiên phủ 50 mồi. “Thiên Kim Dực” nói: Lại cứu Hung đường 100 mồi.

- Bướu lao khí, cứu Xung dương số mồi theo tuổi.

- Bướu, cứu Thiên cù (Thiên đột) 300 mồi, cứu bề ngang rộng 3 thốn.

- Bướu hơi mặt sưng, cứu Thông thiên 50 mồi.

- Bướu, cứu Trung phong, số mồi theo tuổi.

- Mọi thứ bướu, cứu Kiên ngung, bên phải bên trái đối nhau, chỗ vào trong một ít, con trai bên trái 18 mồi, bên phải 17 mồi, con gái bên phải 18 mồi, bên trái 17 mồi, làm 3 lần thì khỏi dứt.

Lại Phong trì 100 mồi.

Lại phía sau hai tai, vào trong mép tóc 100 mồi.

Lại Đầu xung (một chỗ là Cảnh xung), cứu ở đó, các chỗ đều theo tuổi. “Thiên Kim Dực” nói: Một bên là Tý nhu.

- Bướu ác khí, cứu Đại chùy, rộng khoảng 3 thốn.

- Phong trì, mép tóc trên tai, Đại chùy, mỗi chỗ 100 mồi, hai bên Đại chùy 1,5 thốn thẳng xuống dưới một ít 30 mồi, lại Tý nhu số mồi theo tuổi. Phàm 5 nơi cộng lại là 9 huyệt. Lại xuôi hai tay trên đầu, cứu chỗ nếp gấp nách mỗi chỗ 300 mồi. Châm cũng hay “Thiên Dực”.

* Đại Chí Thiền Sư nói: Da dẻ ở đầu mặt sinh bướu, to như nắm tay, nhỏ như hạt dẻ, hoặc mềm hoặc cứng, không đau, không thể (…) cũng châm cứu (?). Dùng Thiên Nam Tinh (tươi khô đều được, nhỏ thêm ít dấm giã nghiền thành cao, trước hết nên châm kim vào chỗ bệnh làm cho hơi thấm vào. Lấy thuốc cao bôi mỏng ra giấy, dán lên, thay dăm ba lần thì khỏi. Đó cũng là một phép, chép thêm vào để giữ lại.

- Trị não dò, phương chữa mụn nhọt, các ung thũng vững chắc. Bóc Phụ tử như lá cờ dây, lấy ít nước bọt thấm ẩm Phụ tử đặt lên chỗ sưng, cứu Ngải cách Phụ tử làm Phụ tử nóng khắp, Phụ tử khô thì thấm thêm nước bọt, không trường hợp nào không khỏi. Phép này tuyệt diệu, bất truyền “Thiên Dực”.

Phàm bướu thịt không chữa, chữa là giết người “Trửu Hậu Phương” nói: Không được châm cứu.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 24, 2018, 09:21:34 AM
13. Tràng nhạc – Loa dịch

- Đại nghinh, Ngũ lý, Tý nhu: Chủ nóng rét, cổ có tràng nhạc “Thiên”.

- Đại nghinh: Trị nóng rét, cổ đau tràng nhạc “Đồng”.

- Khuyết bồn: Trị nóng rét, tràng nhạc, sưng trong hố đòn, vỡ ở ngoài thì sinh ra trong ngực nóng tức, bụng to, có hơi nước, đau trong hố đòn, ra mồ hôi “Minh” cũng thế.

- Ngũ lý: Trị nóng rét, tràng nhạc, ho hắng.

- Tý nhu: Trị nóng rét, cổ gáy co, tràng nhạc, lưng trên và vai đau không nâng lên được.

- Thiếu hải: Chữa dưới nách có tràng nhạc, cánh tay đau không co duỗi được, phong bại đau.

- Thiên dũ: Chữa tràng nhạc, nóng rét, cổ có khí tích, bạo điếc vai đau “Hạ”.

* Cứu các loại tràng nhạc trên gáy, sờ vào như có thịt kết ngưng, tựa như làm dò và ung nhọt. Lấy tỏi độc (một củ một tép), cắt hai đầu, lấy ở giữa, làm mồi ngải to nhỏ theo khoanh tỏi dán lên trên cái mụn mà cứu, cứu tới mức nóng thì thôi. Cứ 7 mồi một lần thay tỏi, ngày nào cũng cứu, thấy tiêu đi mới thôi.

* Tất cả các loại tràng nhạc, cứu hai khoa chỗ bệnh tràng nhạc trong giữa vùng, ngày một mồi thì dứt. Thần nghiệm!

- Lại lấy ở Ngũ lý, Nhân nghinh mỗi chỗ 30 mồi, lại ở hai bên lưng trên của bệnh nhân, chỗ trên đầu nếp gấp dưới nách, số mồi theo tuổi. Lại cứu ở chỗ mạch thẳng đứng ở mép tóc sau tai là 7 mồi.

* Có người cùng dãy nhà, trên gáy có bệnh tràng nhạc, người ta bảo dùng Nhẫn Đông Thảo nghiền nhỏ, sắc với rượu và nước mà uống, lấy bã đắp mà khỏi (xem ở Lương phương), năm sau lại bị lại, dùng thuốc trước không khỏi, lấy ngải cứu mà trừ được tận gốc.

* Có một em bé bị tràng nhạc ở sau tai, dùng thuốc đắp không khỏi, sau cứu mà khỏi.

- Tràng nhạc mới sinh như mơ, như mận, rất kỵ dùng thuốc độc dán cho gậm đi và dùng dao kéo cắt. Lao hạch làm dữ đã qua cắt bỏ đi, sau không có trường hợp nào tránh khỏi chết.

- Mụn tràng nhạc ở trước ngực và cổ, cứu Nhũ gian (xem: Bạch bác).

- Tràng nhạc có lỗ dưới nách, cánh tay đau không gập duỗi được, phong bại có lỗ có bọ, châm Tiểu hải 3 phân, lưu 7 lần thở ra, tả 5 lần hít vào.

- Châm tràng nhạc, trước tiên dừng kim trên da 36 nhịp thở, dúi kim vào, ở trong thì tùy theo cái hạch to nhỏ, không ra khỏi hạch, 3 lần lên, 3 lần xuống rồi rút kim.

- Cổ có lỗ dò, cứu Thiên trì 100 mồi, lại lấy giữa Cưu vỹ xuống chính giữa vùng đó 70 mồi.

- Lại Chương môn, Lâm khấp, Chi câu, Dương phù 100 mồi.

- Lại Thiên tỉnh số mồi theo tuổi.

- Lại lấy số mồi ngải vòng khắp xung quanh cứu 7 lần thì dừng.

* Trong các lỗ dò ác thịt thở lạnh ra, cứu trên mắt cá chân trong mỗi chỗ 3 mồi, 2 năm thì 6 mồi “Thiên Dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 24, 2018, 09:47:06 AM
14. Dị ứng gió mẩn ngứa – Phong chẩn, ẩn chẩn

- Khúc trạch: Trị phong chẩn, cánh tay, khuỷu tay, cổ tay hay lắc động “Đồng”.

- Kiên ngung: Trị phong nhiệt ẩn chẩn “Minh” nói: Châm phong, phong hư.

- Dũng tuyền: “Minh” cũng thế, Hoàn khiêu (xem: Đầu gối): Trị phong chẩn.

- Hạ côn lôn: Chữa châm phong chẩn, phong nhiệt, phong lãnh bại “Minh”.

- Khúc trì: Chữa phong ẩn chẩn, châm phong chẩn đau đớn (xem: Phong một bên).

- Phục thỏ: Chữa ẩn chẩn (xem: Phong lao).

- Hợp cốc, Khúc trì: Chữa người lớn, trẻ em khắp người phong chẩn.

"Thiên Kim Phương" nói: Người có phong chẩn thường tất có mắt mờ, trước lấy ở phong là mắt tất khỏi. Vì vậy người bị mắt mờ lại cũng do phong chẩn nhiều mà bị. Phong chẩn có lẽ nào lại không trị trước vậy.

"Thiên Kim Dực" cứu phong trị nhiệt, nổi chẩn đỏ mà ngứa, gãi sướng tay là cách làm nó loét. Lấy một cành ngải khao dài, lấy hai tay tìm chỗ ý cuối cùng làm bức tường đứng. Hai tay xòe ra giữa cái cần khao trong vách, duỗi 10 ngón tay để cần đúng chỗ đầu ngón tay giữa, lấy mồi ngải lớn cứu trên cái cần khao làm cho cái cần khao đứt thì thôi. Cứu 10 thì khỏi cả 10, sau khi khỏi mà phát lại, làm đúng theo cách cứu đó, khỏi vĩnh viễn.

- Ẩn chẩn: Cứu Khúc trì số mồi theo tuổi.

- Đầu đau có ăn chân, cứu Thiên song 7 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 24, 2018, 10:03:43 AM
15. Đau các khớp – Lịch tiết phong

- Phi dương, Dũng tuyền, Hàm yếm, Hậu đỉnh: Chủ các khớp ra mồ hôi “Thiên” (xem thêm: Cổ gáy).

- Phi dương: Trừ lịch tiết phong, đầu ngón chân không co duỗi được, đầu mắt choáng váng, khí nghịch “Đồng”.

- Xạ hương hoàn: Tốt nhất là trị bạch hổ lịch tiết, mọi thứ phong đau đớn, di chuyển không nhất định một chỗ, giống như giun bò, ngày yên đêm kịch liệt.

* Nơi Thúc Vi ở Kích Xuyên, có một người đàn bà nhà giầu sang bị đau đớn chạy khắp mình, cứ đến đêm thì phát, như sâu cắn ở thịt, thường là chữa quỷ tà, tôi nói rằng đó chính là bệnh lịch tiết vậy. Tam phục thì khỏi (xem: Bản sự phương).

- Tay chân đau ngứa như sâu cắn, gãi thì rách ra làm mụn, cứu Khúc trì (xem: Mụn đầu đanh).

- Lương phương uống chữa bệnh hủi, uống thuốc nửa tháng, cứu Tất nhãn 2 x 7 = 14 mồi (một đoạn vô nghĩa). Tôi thường cho không người ta. Hiệu như thần!

- Nên cứu thêm Khúc trì, Hợp cốc, Tam lý, Tuyệt cốt thì tốt nhất. Tôi ấn những huyệt ở đó người ta đều thấy buốt cả.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 24, 2018, 10:53:40 AM
16. Mụn nhọt – Đinh sang (Mụn dò, mụn rốn, mụn lõm xuống, mụn cam)

- Sưng đầu đanh, cứu trên nếp ngang cổ tay phía sau bằng 5 ngón tay, con trai bên trái, con gái bên phải, cứu 7 mồi thì khỏi, đã dùng thì được kết quả. Phép cứu đầu đanh tuy nhiều nhưng phép đó rất nghiệm, ngoài sức tưởng tượng.

“Thiên”: Cạo trên ống trúc, lấy tinh tre làm mồi, cứu trên chỗ sưng đầu đanh 14 mồi thì tiêu ngay.

- Cách cứu đinh sang “Thiên kim” đã là thần nghiệm.

- Cũng có cách: Trước hết lấy kim đâm trên bốn bờ mụn rốn cá làm thành lỗ, vắt nước rau diếp đắng trắng nhỏ vào lỗ mụn.

- Có phương khác: Châm đầu mụn và bốn bờ làm nước ra, giã hạt dẻ vàng còn sống đắp lên (lấy miến vây lấy không cho vàng ra), từ sáng sớm đến giữa trưa cái góc nó lồi ra.

- Lại một phương: Dùng cả gốc, thân cây thương nhĩ, lấy một loại đốt than, giấm, nước vo gạo hòa như bùn mà đắp, khô thì thay, chẳng quá 10 lần, nhổ gốc ra.

* Phương khác:

- Dùng hạt bồ kết giã nhỏ mà đắp, trong 5 ngày thì khỏi cả.

- Dùng nước cứt con dái cá đắp lên rất là tốt.

* Có đạo nhân truyền: Miếng ngói úp con bọ hung, bỏ vào chén nước gạo đặc, lấy lửa mà hơ, con trùng nóng uống nước gạo mà chết. Lấy thịt trắng trong đầu (là nước gạo đó), sấy khô trên ngói mới rồi tán nhỏ, hòa quấy 2 đồng cân với rượu nóng mà uống, lại lấy một ít đắp là khỏi.. Mẹ Hồ Thiên bị nạn đó, đau như chiếc đanh sắt đóng vào, chữa đúng như thế mà khỏi.

- Thiếu hải: Trị mụn sưng rét run.

- Thiếu xung, Lâm khấp: Trị mã đao dò “Đồng” (xem: Nách sưng).
 
* Tất cả các mụn lõm xuống, cứu ở ngón chân cái, khoảng thứ nhất (lẻ) 2 x 7 = 14 mồi, cứu đầu ngón chân cái cũng tốt “Thiên”.

* Tôi khi còn nhỏ mọc một cái mụn ở giữa mắt cá chân trong và ngoài ở sâu mà đau. Đó là mụn âm chứng, bất ngờ xem sách âm dương cổ, thấy dùng nhựa dâu xanh trị khổ khẩu sang, tôi dùng theo thì khỏi. Sau mắt cá trong mọc mụn, sang tháng sau lại sinh một mụn, tôi sai người đi Giang Hạ lấy được nhựa dâu vàng, chỉ bôi có một lần, chiều hôm sau khỏi rồi. Tôi vẫn thường bảo người ta dùng, đều nghiệm. Em gái tôi sinh mụn ở đùi không đi lại được, em trai họ tôi lấy vỏ của rễ cây dâu giã thành cao đắp cũng khỏi.

- Nâng chân tay, đau ngứa như sâu cắn, ngứa gãi rách da, làm mụn, cứu hai huyệt Khúc trì số mồi theo tuổi, phát lại lại cứu, hay như thần “Thiên”.

- Phàm đinh sưng, nhọt, mụn, rốn cá, tất cả các loại không tên v.v… đều chữa (xem: Phát bối).

- Phàm nhọt độc lâu ngày không kín miệng, cứu Hợp cốc 7 x 7 = 49 mồi, rất nghiệm, có thể uống thêm Nộn Thác Tán.

- Trẻ em mụn cam thấp, cứu hai bên đốt sống lưng thứ 15 là 7 mồi, chưa khỏi thêm 7 mồi “Thiên”.

- Đinh sưng tại bên trái, cứu ở phía trước nếp ngang khuỷu tay, lấy 3 ngón tay người bệnh ở ngoài cánh tay trên chỗ giữa mà cứu ở khe 2 gân, từ không đau đến đau, sưng ở bên phải cứu từ bên phải, không quá 3 ngày thì khỏi “Thiên Dực”.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 09:21:29 AM
17. Mụn ghẻ - Tiên giới sang [phong bạch điến, nốt ruồi (vưu mặc)]

- Khi giữa trưa, cứu trên ảnh 3 mồi chỗ bệnh. Lời trú rằng: Trùng trong ghẻ, lông nhung nhung, nếu muốn chữa, lấy giữa trưa (tiên trùng trùng, mao nhung nhung, nhược dục trị, trì nhật trung “Thiên”).

- Lại có cách: Khi mặt trời mọc ngày 8/8, bảo người bệnh quỳ dài đúng chỗ cửa hướng đông, giơ ngang hai tay nắm hai bên cửa, lấy đầu nhỏ vai, thẳng mép xương rời ra, trong giữa chỗ lõm, cứu hai lửa cùng đốt một lúc, mỗi chỗ 3 mồi, có thể cứu 7 mồi, 10 ngày thì khỏi.

- “Thiên Kim Dực” viết: Mụn lõm, ghẻ ngứa đều có các thứ trùng, 3 năm không khỏi càng làm ác tật.

- Cách chữa ghẻ lâu ngày không khỏi: Nghiền nhỏ Thủy ngân thành như phấn, trộn với mỡ ở màng ruột con lợn. Trước hết lấy nước gạo mát rửa mụn lở, chùi khô, đắp một lần khỏi, đắp lại khỏi mãi mãi.

- Đại lăng, Chi câu, Dương cốc, Hậu khê: Chủ ghẻ ngứa “Thiên”.

- Dương khê: Trị ghẻ ngứa “Đồng”.

- Hợp cốc, Khúc trì: Chữa da dẻ có ghẻ ngứa “Minh hạ”.

* Tôi còn bé bị ghẻ, phàm 15 năm, cứ qua mùa đông thì làm mụn, người ta mách dùng rễ cây rau Móng dê (tức là cây Xà sàng tử) đem cắt mỏng như đồng tiền, ngâm vào nước gạo vài ba đêm, bỏ gừng sống và phèn vào giã nhỏ, bọc trong vải mộc, khi tắm thì sát. Dùng như thế vài bốn lần thì trừ tận gốc. Sau mấy năm lại mọc, dùng phép trước mà khỏi. Thần hiệu! Như thế tại sao phải cứu?

- Bạch điến phong (bệnh tự nhiên gặp gió, lỗ chân lông ngưng trệ, trên da nổi những nốt trắng), cứu 3 mồi ở khớp ngón tay giữa, cả hai tay cách ra bên ngoài trong chỗ lõm, chưa khỏi thì làm lại.

- Chí Đạo Đơn Phương chữa Tử điến phong (phong nổi nốt tím), dùng Lưu hoàng bỏ trên thuyền tán mà nghiền nhỏ, lấy vải bọc lại, lấy nửa chén nước gừng sống ngâm vào, đem bọc đó đắp trên chỗ bị bệnh, khô thì lại thay. Bệnh đó thường phát vào mùa hạ. Xin mời làm thử, tôi chưa thử nhưng nghĩ rằng cũng là một phương lạ.

- “Thiên Kim Dực” cứu Bạch điến, Bạch bác… Trùng giờ Ngọ, ngày Ngọ cứu ở cạnh ngoài đầu gối, gập chân cứu ở đúng đầu nếp gấp, số mồi theo tuổi. Khi đã đốt lửa, không được động đậy, lại lấy nước nóng thấm ướt tất cả các chỗ Bạch điến, bạch bác, các chỗ ở đầu, cổ, ngực, cứu ở giữa hai vú số mồi theo tuổi, khỏi ngay tức thời.

- Mắt ruồi: Làm mồi ngải cứu ở giữa mắt ruồi, 3 mồi thì trừ được.

- Chi chính: Trị mọc mắt ruồi. “Đồng”.

- Mắt ruồi tuy có thể cứu “Thiên Kim Phương” cũng có.

- Dùng Hạnh nhân đốt thành tro đen, nghiền thành cao đắp lên.

- Dùng mỡ của trùng, bách trộn với nhau mà đắp, một đêm là khỏi hẳn.

- Dùng nước dãi miệng trâu đắp nhiều lần, tự nó rụng đi.

- Dùng rượu đắng, ngâm than đá 6, 7 ngày, chắt lấy nước chấm lên nốt ruồi, chẳng mấy chốc nốt ruồi tự rụng.

- Lấy mỡ lợn chùi chỗ ngứa làm cho hơi rớm máu ra thì khỏi. Thần nghiệm không gì hơn, chẳng cần phải chuyên dựa vào cứu vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 09:39:57 AM
18. Ăn phải thứ độc

- Cự khuyết: Trị ăn phải chất độc “Đồng”.

- Trong dân gian cũng có phép cứu: Mới trúng độc thức ăn, nặn mồi ngải to cứu ở dưới tim, cứu 100 mồi và chủ quỷ mèo (?) cũng cứu được. Lại cứu đúng trên đầu nhọn ngón chân út 3 mồi, sẽ nôn ra vật độc. Rượu ở trên, có rượu ra, cơm ở trên có cơm ra, rau thịt ở trên, có rau thịt ra thì khỏi. Thần nghiệm!

- Mai Sư trị trúng đôc thức ăn, ỉa máu như gan gà, tạng phủ bại hoại, Cát cánh giã nát lấy nước uống 7 phần cáp (7gr) thì tốt.

“Lục nghiệm phương” cũng nói: Tự nhiên trúng độc, ỉa máu như gan gà, ngày đêm ra máu, Cát cánh giã nát uống với rượu một thìa canh, 3 ngày, thuốc không xuống, cậy miệng ra mà đổ.

- Lại dùng rễ cỏ Mã lan giã nhỏ uống với nước 1 thìa canh, thức độc sẽ nôn ra, cực thần đó.

- “Trửu lại phương” nói: Phàm trúng độc thức ăn làm cho người ta bụng trên đau như dao cắt, như có con vật cắn, hoặc nôn, ỉa ra máu, không chữa ngay đụng tới tất cả 5 tạng thì chết. Tỳ ma 1 cành bỏ vỏ, Phác tiêu 1 đồng cân, cùng giã nát với nước uống, uống vài ba lần thì khỏi, cái đó chưa thử nhưng cũng là phương lạ vậy.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 09:58:45 AM
19. Chó dại cắn, rắn cắn

- Ngoại khâu: trị chó dại cắn, chất độc không ra, phát nóng rét, nhanh chóng lấy 3 mồi ngải cứu chỗ vết cắn, khỏi ngay “Đồng”.

- Cuối xuân đầu hạ, chó cuồng cắn người thì làm người ta cuồng. Cần phải kiêng qua 100 ngày và phải hết mình kiêng ăn thịt chó, nhộng, tằm, ăn thì phát ngay không thể cứu được. Trước hết nặn máu độc đi, cứu giữa vết thương 10 mồi, từ hôm sau trở đi mỗi ngày cứu 1 mồi, đủ trăm mồi mới ngừng, kiêng rượu. Cứ 7 ngày 1 lần uống vài bát nước là Hẹ.

- Trong khi ngủ, rắn chui vào thất khiếu, lấy ngải cứu ở đuôi thì rắn rắn ngay. Lại có một cách: Lấy đao rạch đuôi rắn ra cho vào 7 hạt Hạt tiêu, rắn tự ra. Khi rắn ra rồi lấy ngay Hùng hoàng, Chu sa nghiền nhỏ, sắc nước Nhân sâm mà đổ vào để lấy cái độc của rắn.

- Người ở núi hoặc bị rắn cắn thì đái vào đó, rồi chùi khô đi xong lấy ngải cứu thì khỏi.

“Triều Dã Thiên” ghi chép: Mồi ngải cứu chỗ rắn độc cắn, dẫn độc khí ra thì khỏi, cắt một khoanh mỏng ở củ tỏi độc (một củ một tép) dán ở chỗ rắn cắn rồi cứu, nóng khắp thì dừng. Hoặc cứu trên chỗ rắn cắn 3 x 7 = 21 mồi, không có ngải thì lấy ngọn lửa hơ miệng vết thương, to nhỏ tùy mà đốt “Thiên Dực”.

- Chó dại cắn, bảo người ta hút hết máu độc đi, cứu 100 mồi, sau đó hàng ngày cứu, cứu đủ 100 ngày thì dừng, kiêng rượu, thịt lợn “Thiên Dực”


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 03:03:37 PM
20. Ung thư vú - Nhũ ung

- Ưng song: Chủ ung vú, nóng rét, nằm không yên "Đồng".

- Lâm khấp: Trị ung vú (xem: Kinh nguyệt).

- Thần phong: Trị ung vú, sợ gió kéo dài không dứt "Minh Hạ" cũng thế.

- Nhũ căn: Trị ung vú rét thê thảm ("Thiên" có chữ nhiệt), đau không đụng vào được.

- Tam lý: Chủ ung vú ("Đồng" cũng thế), có nóng "Thiên".

- Hạ liêm: Chủ ung vú, co giật, bại ống chân nặng ("Đồng" chép: Hầu bại, ống chân sưng), mu bàn chân không gọn, gót chân đau.

- Thần phong, Ưng song: Chủ ung vú, nóng rét, ngắn hơi, nằm không yên.

- Thiên khê, Hiệp khê: Chủ vú ung sưng vỡ ra. Luận rằng: Sau khi đẻ nên siêng nặng bóp vú, không nên để nước sữa tích lại không tiêu, sữa đó tích ở trong mà thành nhiệt, nóng lâu thành kết rắn kéo đau, không sờ vào được. Thành đố nhũ không phải ung, cứu ngay Ngư tế ở hai tay 14 mồi, dứt mạch vú ngay. Không còn sợ tay đến gần, nước sữa cũng tự nhiên ra, có thể dùng tay giúp thêm thì nước sữa ra nhiều, đều giống như mủ.

* Trong thì uống Liên Kiều Thang, ngoài thì lấy dây đo ngang miệng, lấy dây đó đo từ đầu vú đi lên, cứu ở đầu trên 14 mồi "Thiên Dực". Lại lấy Đậu xanh giã đắp lên càng nhanh khỏi.

"Thiên Kim Phương" bàn rằng: Đàn bà bị bệnh ung vú, dưới 40 tuổi trị thường khỏi, trên 40 tuổi chữa thì thường chết, không chữa tự hết tuổi của trời cho. Tôi có người nhà 70 tuổi, sinh ung vú, không tin lời nói đó, bảo ngoại khoa dùng dao mở, tạm thời tuy sướng, chưa mấy mà chết. Mới hay đáng tin "Thiên Kim".

* Có cách giã Địa hoàng mà đắp. Có giã lá hoặc gốc Man thanh mà đắp, nóng thì thay. Hoặc dùng Bạch chỉ giã nhỏ hòa với nước nóng mà đắp thì khỏi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 03:19:11 PM
21. Vú sưng đau - Nhũ thũng thống (ít sữa, mửa ra sữa)

- Nhũ căn: Chữa vú sưng đau "Minh".

- Hoang môn "Minh" cũng thế: Chữa đàn bà ở vú có thêm tật "Đồng - Thiên" nói: Trung cực: Chủ vú có thêm tật.

- Khí xung: Trị vú khó khăn (nan nhũ), con đâm lên tim (xem: Kinh nguyệt).

- Phủ xá: Chữa quyết khí ở hai vú.

- Đại tuyền: Chủ đố nhũ, trước ngực đau "Thiên".

- Thiên khê: Chủ vú sưng chạy lên sườn trước ngực (xem: Đau ngực).

- Lương khâu (xem: Co giật).

- Địa ngũ hội: Trị vú sưng.

- Thiên dũ: Trị vú sưng, sưng cả trong hố đòn "Thiên".

- Túc lâm khấp: Chủ vú sưng (xem: Kinh nguyệt).

- Chiên trung: Chủ ít sữa "Đồng", "Minh Hạ" nói: Mạch sữa trệ, không có sữa đặt lửa cứu là khỏi ngay.

* Trẻ em mửa ra sữa, cứu Trung đình 1 mồi "Minh Hạ".

* Trẻ em trong hầu kêu, khó ngậm vú, cứu Toàn cơ 3 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 03:27:15 PM
22. Đàn bà đau khí huyết - Phụ nhân huyết khí thống

- Tứ mãn: Chủ trong bào có máu.

- Thạch môn: Chủ trong dạ con có ác huyết nghịch lên tức đau "Thiên".

- Tứ mãn: Chữa đàn bà  huyết tạng chứa lạnh.

- Dương kiều: Chữa bệnh khí huyết đàn bà "Minh".

- Âm giao: Trị sau đẻ nước hôi không dứt, chung quanh rốn lạnh đau, huyết thành cục, bụng đau (xem: Băng huyết - Kinh nguyệt).

- Dũng tuyền: Trị tim đau, không muốn ăn, đàn bà không có con, con gái như bụng chửa, đau hết các đầu ngón (xem: Hư tổn).

* Đàn bà con gái bản tạng khí huyết có hòn chạy, đâm đau (xem: Thận hư).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 25, 2018, 03:42:10 PM
23. Đàn bà không có con - Phụ nhân vô tử

- Âm liêm: Trị đàn bà dứt đẻ, nếu chưa đẻ lần nào, cứu 3 mồi thì có con "Đồng".

- Trung liêu: Trị không có con, khí hư nhiều, kinh nguyệt không đều.

- Thứ liêu, Dũng tuyền, Thương khâu: Trị không có con.

- Trung cực: Trị đàn bà dứt đầu mối tình cảm (xem: Kinh nguyệt) "Minh" cũng thế. "Minh Hạ" nói: Chữa thất tình tuyệt tử, mất tinh khí mà không có con.

- Thạch quan: Trị tuyệt tử, tạng có ác huyết xông lên, bụng khô đau không chịu nổi. "Minh Hạ" nói: Bụng đau cứng như cắn, đâm.

- Khú tuyền: Chủ đàn bà sán giả, ấn vào như có nước ấm vào hai đùi, bụng dưới đau, âm lòi ra đau, nước kinh lại xuống. Cửa mình sưng, ngứa, tiết ra nước xanh như cánh hoa quỳ. Huyết bế không có con, không muốn ăn "Thiên".

- Thủy nguyên, Âm kiều: Chủ con gái không có con, ở âm hộ ra bạo nước nhỏ giọt, kinh nguyệt không về, hay bứt dứt, đau tim.

- Nhiên cốc: Chủ không có con, ở cửa mình ra bạo kinh nguyệt "Thiên".

- Thượng liêu: Chủ dứt con, sốt rét, nóng rét, âm vật lòi ra, giọt trắng ra không cầm, ống chân, cột sống đau như gãy.

- Âm giao: Chủ bụng co, bụng đầy, sán, kinh nguyệt không về, vú có tật thừa, không có con, cửa mình ngứa, bôn đồn chận lên, bụng rắn đau, dẫn xuống giữa cửa mình, không đái được.

- Thạch môn: Chủ bụng đầy, sán tích, dư tật ở vú, tuyệt con, cửa mình ngứa, bôn đồn chận lên, bụng dưới rắn đau dẫn xuống giữa cửa mình, không đái được. Kỵ cứu, cứu sẽ không có con (huyệt này cấm châm với con gái).

- Quan nguyên: Chủ tuyệt tự, ứ máu ở trong không xuống, xoay dạ con không đái được, bụng dưới đầy, đái đau, lại chủ dẫn vào dưới sườn trướng, đầu đau, thân và lưng trên nóng, bôn đồn hàn, đái nhiều lần ra không dứt.

- Trung cực: Chủ dạ con lệch, bụng dưới lạnh, khó chịu, cửa mình ngứa, đau, bôn đồn đâm lên tim. Đói, không ăn được, bụng trướng, kinh bế không thông, đái khó, vú có dị tật. Tuyệt tử, lại chủ cong, co, bụng sán.

- Trúc tân: Chủ đại sán, tuyệt tử.

- Dũng tuyền: Chủ con gái không có con, ho mà ngắn hơi.

- Khí xung: Chủ không đẻ, nếu như chưa qua đẻ.

- Đàn bà không có con cứu Nhiên cốc 50 mồi.

- Đàn bà tuyệt tử, dạ con bị tắc, cứu Quan nguyên 30 mồi, có thể làm lại.

- Đàn bà cái thai không thành, nếu như hỏng rơi ra, bụng đau, nhỏ giọt nước đỏ, cứu Bào môn 50 mồi (ở bên trái Quan nguyên 2 thốn là huyệt).

- Đàn bà tuyệt tử không sinh con cứu Khí môn (cách quan nguyên 3 thốn là huyệt) 100 mồi.

- Đàn bà chỗ chứa con bế tắc, không thụ tinh, đau đớn, cứu Bào môn 50 mồi.

- Đàn bà không sinh, nhỏ ra nước đỏ trắng, cứu Tuyền môn 10 mồi, ba lần báo.

- Kinh nguyệt không lợi, bôn đồn lên xuống không có con, cứu Tứ mãn 30 mồi.

- Đàn bà dạ con sa xuống, cứu Tề trung 300 mồi, lại Thận giao 50 mồi, 3 lần báo, huyệt ở giữa nếp ngang dưới rốn. Lại cột sống ngang lưng rốn 50 mồi, 2 lần báo, lại Ngọc tuyền 50 mồi, 3 lần báo.

- Đàn bà dạ con sa thẳng xuống ra ngoài cửa mình, cứu kẹp 2 bên Ngọc tuyền 3 thốn, số mồi theo tuổi, 3 lần báo.

- Đàn bà cửa mình lạnh sưng, đau, cứu Quy lai 30 mồi, 3 lần báo.

- Trung cực: Là huyệt tối trọng yếu chữa đàn bà dứt đầu mối sinh đẻ.

- Quan nguyên: Chủ dứt đầu mối, âm đạo lạnh, châm 8 phân, lưu 3 hơi thở ra, tả 5 hơi hít vào, cứu cũng tốt, cứu không bằng châm. Hàng ngày cứu 100 mồi thì dừng.

- Thai không thành nhiều lần trụy hỏng, Ngọc tuyền (Trung cực) cứu 50 mồi, 3 lần báo, lại Long môn 20 mồi.

- Đàn bà không con châm Quan nguyên "Thiên Dực - Chân Quân".

- Dũng tuyền: Chủ đàn bà không con (xem: Hư tổn).

- Đàn bà muốn thôi đẻ, cứu mắt cá trong chân bên phải lên 1 thốn, 3 mồi "Thiên".

- Thạch môn: Kỵ cứu, cứu sẽ không có con ("Đồng" nói: Châm ở đó sẽ không có con). "Minh" nói: Mang con trong bụng không châm Quan nguyên, nếu châm thì rụng thai. Thai thường không ra, châm Ngoại côn lôn thì ra ngay. Âm giao cứu nhiều thì không có con. "Thiên Dực" lại nói: Thạch môn, Quan nguyên cách nhau có 1 thốn, châm Quan nguyên chữa đàn bà không có con, châm Thạch môn thì suốt đời không có con, đúng là đạo mù mịt, không thể coi nhẹ được.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 08:33:12 AM
24. Máu hòn - Ứ huyết

- Thạch môn: Trị đàn bà nhân đẻ xong nước hôi không dứt rồi kết thành cục, băng ở trong ("Minh" cũng thế), ra nhỏ giọt "Đồng".

- Thiên khu, Trung cực: Trị huyết kết thành cục (xem thêm: Kinh nguyệt).

- Hạ cực: Chữa nhân đẻ xong, nước hôi không dứt, rồi kết thành sán giả, hoặc do kinh nguyệt không đều, máu kết thành hòn "Minh".

- Lậu cốc, Khúc tuyền: Trị huyết giả "Đồng" (xem: Hạch hòn).

- Khúc cốt: Chủ huyết còng (còng lưng do huyết ứ) "Thiên".

- Phục lưu: Chủ lậu do huyết.

- Lậu do huyết (huyết lâm), cứu Đan điền (xem thêm: Lậu).

- Tam lý: Trị ứ máu trong ngực "Đồng".

- Cửu khúc, Trung phủ: Chủ ở trong có huyết ứ (xem: Thi quyết).


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 09:00:00 AM
25. Băng huyết - Huyết băng (Ra nhỏ giọt, nước hôi không dứt)

- Đại đôn: Chủ máu băng không dứt "Đồng".

- Hợp dương: Trị băng ở trong.

- Khí hải (xem: Kinh nguyệt), Thạch môn: Trị băng ở trong, ra máu nhỏ giọt (xem: Huyết hòn).

- Trung đô: Trị băng ở trong, do đẻ mà nước hôi không dwsrt.

- Giao tín, Âm cốc, Thái xung, Tam âm giao: Chữa con gái ra máu không dứt.

- Thạch môn: Trị băng ở trong ra nhỏ giọt (xem: Huyết cục).

- Huyết hải: Chữa ra nhỏ giọt, máu ác, kinh nguyệt không đều, huyết bế không thông, khí ngược lên, bụng trướng.

- Âm cốc: Chủ máu ra nhỏ giọt, bụng dưới trướng, tứ chi nóng rét, bụng sưng một bên.

- Thái xung (xem: Sán), Nhiên cốc: Chủ ra kinh nhỏ giọt (xem: Không có con).

- Âm kiều: Chủ âm vươn ra, ra máu, âm hộ sưng hoặc ngứa, ứ nước trong như nước hướng dương.

* Băng trắng: Cứu nếp ngang ở bụng dưới, thẳng rốn xuống 100 mồi. Lại ở mắt cá trong lên 3 thốn, cả hai bên trái phải đều 100 mồi.

- Âm giao, Thạch môn: Chữa băng ở trong "Minh".

- Thiên khu: Chữa ra nhỏ giọt, trắng đỏ (Giao nghi, Phục lưu: cũng thế) và bụng rắn to, ăn không hóa, sắc mặt bủng "Hạ".

* Nếu máu kinh quá nhiều mà màu máu ứ đen, quá lắm băng ra, hit hít vào ít hơi, bụng rốn cực lạnh, mồ hôi ra như mưa, mạch xích bộ hơi nhỏ. Do Xung Nhâm hư suy, làm cho khách phong, lạnh ở trong dạ con, khí không thể giữ được, cứu Quan nguyên 100 mồi, nên uống Lộc Nhung Hoàn "Chí".

* Có vợ một người thổ dân bệnh băng huyết đã hai tháng, ăn không tiêu, uống Chấn Linh Đơn dó giảm đi chút ít nhưng bệnh không dứt, do tìm được Kỳ Dực Phương, Như Thánh Tán dùng Tông lư, Ô mai, Can khương, Cây lá nón, Mơ ngâm đen, mỗi thứ một lạng, cùng đốt còn 5 phần thích chất (thiêu tồn tính), rồi giã nhỏ, mỗi lần uống 2 đồng cân, uống trước khi ăn, đun nước Ô mai làm thang mà uống (bệnh rất nặng uống không quá 3 lần). Hợp một tễ tôi cho uống thì bệnh yên.

Lại vợ người tuần hộ, tuổi  quá 50, nhân thương hàn mà băng huyết, tôi thêm Giao Ngải Tức Vật Thang, lần thứ nhất uống khỏi dần. Sau do làm mệt mà bị lại nặng hơn, tôi cho Chấn Linh Đơn 50 viên mà dứt. Hoặc không có thuốc đó, đốt Lộc giác tồn tính giá nhỏ, hòa với rượu uống cũng tốt. Đó là kinh nghiệm của tôi, chép phụ vào đây.

- Âm giao: Trị con gái kinh nguyệt không dứt, khí hư, đẻ xong nước hôi không dứt, quanh rốn lạnh đau "Đồng - Minh" cũng thế.

- Khí hải (xem: Kinh nguyệt), Trung đô: Trị nước hôi không dứt (xem: Băng huyết).

- Quan nguyên: Trị nước hôi không dứt (xem: Khí hư trắng đỏ).

- Trung cực, Thạch môn: Chữa do đẻ nước hôi không dứt.

* Rỉ giọt máu ở dạ con ra không cầm, cứu hai bên Quan nguyên 3 thốn 100 mồi.

* Khó đẻ, máu ra không cầm, đẻ ngang thai động, châm Tam âm giao.

* Thai động, băng ở trong, ỉa lỵ, khí chạy ngược lên, châm Thạch môn 1,4 thốn.

* Rỉ ở dạ con ra thấy đỏ, cứu ở Bào môn (bên trái Quan nguyên 2 thốn) 50 mồi, lại Khí môn 50 mồi.

* Băng ở trong ra khí hư, châm và cứu ở Trung cực.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 09:43:26 AM
26. Các chứng khác sau đẻ - Sản hậu dư tật

- Kỳ môn: Trị các tật sau khi đẻ "Đồng" (xem: Đau tim). "Thiên" nói: Chủ bệnh sau đẻ, ăn không xuống, bôn đồn lên xuống, thương thực bụng đầy.

- Phục thỏ: Chữa mọi bệnh tật ở 8 bộ của người đàn bà "Minh".

* Đàn bà đẻ xong đau khắp mình mẩy, châm huyệt Bách lao, gặp chỗ đau thì châm, tránh gân, xương và các huyệt cấm "Hứa". "Minh Hạ" nói: Sau đẻ chưa đủ 100 ngày kiêng cứu.

* Sau khi đẻ mà huyết vàng, nóng rét qua lại hoặc huyết làm thương tâm, đó là ác tật. Tôi xem Thực Khoa Bản Thảo thấy có dùng Lộc giác (sừng Hươu, Nai) đốt tán nhỏ hòa với rượu mà uống ngày đêm nhiều lần. Uống nghiệm đó.

Ngẫu nhiên ở nhà có người đàn bà bệnh đó, bảo uống như thế mà thần hiệu. Từ đó dậy nhiều người đàn bà khác uống đều nghiệm. Nhưng mà sau khi đẻ thì chưa uống được rượu, lấy ngay nước đái trẻ con hòa  mà uống (tối kỵ uống thuốc lợi).

"Minh Hạ" nói: Phàm mang thai không kể mấy tháng, không nên cứu.

"Đồng" nói: Ngày xưa Tống Thái Tử thích Y thuật, ra vườn gặp một người đàn bà chửa, Thái Tử chẩn nói: Con gái! lệnh cho Từ Văn Bá chẩn, Văn Bá nói: Một trai, một gái. Thái Tử bảo: Châm đi, tả Tam âm giao, bổ Hợp cốc, ứng kim mà ra thai. Quả như Văn Bá nói. Từ đó người có chửa không thể châm.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 10:06:50 AM
27. Khó đẻ - Nan sản (Sót nhau, con đâm lên tim, lạc thai)

- Xung môn: Trị khó đẻ, con đâm lên tim không thở được "Đồng".

* Trương Trọng Văn chữa đẻ ngang, tay ra trước, mọi thứ thuốc phù hợp đều không được, liền cứu đầu nhọn ngón chân út bên phải 3 mồi, mồi nhỏ như hạt lúa, lửa tắt, đẻ ngay!

- Trung phong: Chủ bụng dưới to khó đẻ, họng khô, ham uống, hai bên rốn đau "Thiên".

- Thượng côn lôn: Chủ đẻ khó, nhau thai không ra, tiết phong từ đầu đến chân.

- Khí xung: Chủ nhau không ra (xem: Kinh nguyệt), con đâm lên tim "Thiên" cũng thế.

- Xung môn: Chủ khó có sữa, con xông lên tim, âm sản "Thiên". "Hải Thượng Phong" trị khó đẻ và nhau không ra, lấy 7 hạt Thầu dầu (Tỳ ma tử) bỏ vỏ giã nát như bùn, đắp vào gan bàn chân, khi nhau ra phải lau rửa ngay đi "Bản Sự Phương" nói cực nghiệm.

* Ngày xưa mẹ Hồ Dương Công Chúa đẻ không được, đạo sỹ ở núi Chung Nam dâng Chỉ Xác Tán, hiệu như thần (Chỉ xác sao tán bỏ cọng 4 lạng, Cam thảo nướng 3 lạng tán nhỏ mịn. Mỗi lần uống 1 đồng tiền xu to, uống vào lúc bụng đói bằng nước đun sôi. Sau 5, 6 tháng có thể ngày 1 lần uống, 8 tháng, ngày 3 lần, chửa đẻ gầy bé đi. Mấy tháng sau bình phục.

* Nếu đẻ ngang, đẻ ngược, khó đẻ, nên uống Mực đen tán (Bách thảo sương, dưới đít nồi là than đen, Hương bạch chỉ bằng nhau đem tán. Mỗi lần uống 2 đồng tiền xúc. Giấm, nước tiểu trẻ con, mỗi thứ một chén, trộn đều uống, lại thêm một ít nước đun sôi để nóng ấm mà uống. Lâu lâu sẽ đẻ ngay thẳng, chưa thấy lại làm lại. Chốc lát sống hai mạng người. Tôi mách người ta uống rất nghiệm nên chép phụ vào đây.

* Đàn bà sẩy thai xong, đờ người ra, quyết nghịch, châm Kiên tỉnh khỏi ngay, cứu càng thắng châm, có thể cứu 7 mồi "Đồng".


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 10:38:57 AM
28. Kinh nguyệt:

- Khí xung: Chủ kinh nguyệt bất lợi, mình nóng, bụng đau, đồi sán, sưng cửa mình, đau vú, con đâm lên tim, đau không thở được. Khí xông lên thắt lưng đau, đau không thể cúi ngửa "Đồng".

- Hội âm: Trị con gái kinh nguyệt không thông "Thiên" cũng thế.

- Quan nguyên: Trị mạch máu tháng dứt hẳn (xem: Khí hư).

- Túc lâm khấp: Trị kinh nguyệt không lợi, sườn cụt, chi đầy, tức, ung vú, tim đau, đau bại khắp người, chỗ đau không nhất định, khí ngược lên, suyễn không đi được.

- Trung cực: Trị đàn bà dứt đầu mối con cái, lại bởi nước hôi không dứt, kinh nguyệt không đều, máu kết thành cục.

- Thiên khu: Trị kinh nguyệt không có giờ giấc, máu kết thành cục, ruột kêu, bụng đau, không ham ăn.

- Thủy tuyền: Trị kinh nguyệt không về, về thì nhiều, đau bứt dứt dưới vùng tim, mắt mờ mờ không thể nhìn xa, âm lòi ra, đái dầm dề bụng đau.

- Âm kiều: Chữa không có hành kinh, sợ hãi không vui. Như dạ con sa xuống mà ra nước ("Thiên" chép là không ra). Mặt đen, bụng đói mà không muốn ăn. Đàn bà đái dầm dề, âm lòi ra, tứ chi buồn bằn, tim khó chịu. "Minh Hạ" nói: Chữa kinh nguyệt không đều ham nằm, uể oải, hay sợ không vui. Tay chân khô một bên, không đi được.

- Thái xung: Chữa kinh nguyệt không thông "Hạ".

- Âm giao, Giao nghị: Chữa kinh nguyệt không đều.

- Âm kiều: Chủ kinh nguyệt, tứ chi buồn bằn, âm hộ bạo nhảy, một bên bụng dưới đau, lại chủ con gái đái buốt, âm vật lòi ra, kinh nguyệt không về.

- Hành gian: Chủ kinh nguyệt không lợi, thấy trắng đỏ mà thận bại, cửa mình lạnh.

- Túc lâm khấp: Chủ kinh nguyệt không lợi, thấy có máu mà mình bại, vú sưng.

- Yêu du: Chủ kinh nguyệt bế mà đái đỏ, cột sống cứng, giúp giãn lại thì đau như gãy, mồ hôi không ra.

- Trung cực: Chữa kinh bế không thông (xem: Không có con).

* Chữa con gái từ nhỏ đến lớn, kinh nguyệt không thường đến, uống Hoàng cầm, Mẫu đơn thang hai tễ, xong cứu dưới núm vú 1 thốn, ở bờ vòng tròn đen, mỗi chỗ 50 mồi.

- Khí huyệt: Chủ kinh nguyệt không thông, khí tiết chạy lên xuống, dẫn vào thắt lưng cột sống đau.

- Thiên khu: Chủ đau trong dạ con, ác huyết. Kinh nguyệt chưa hết thời đã ngừng dứt, bụng trướng, khí xung lên ngực.

- Khí xung: Chủ kinh nguyệt không lợi, hoặc bạo bế tắc, bụng trướng đầy, còng, khó chịu, mình nóng, vú đau, con đâm lên tim. Nếu như bào không ra, tất cả mọi thứ khí loạn hết, cắn đau ở trong không thể lại thở, nằm ngửa co một gối duỗi một gối.

* Kinh nguyệt không dứt, cứu mắt cá chân bên trong xuống, trên mạch xanh ở mép thịt trắng, số mồi theo tuổi.

- Đới mạch, Hiệp khê: Chủ bụng dưới rắn đau, kinh nguyệt không thông.

- Thủy đạo: Chủ bụng dưới trướng đầy, đau dẫn vào cửa mình, kinh nguyệt đến thì thắt lưng và lưng trên đau, trong dạ con có hòn cục, âm đạo lạnh, đái ỉa không thông.

- Hạ liêm: Chữa con gái ra nước xanh như rêu không cầm, đau ở trong dẫn vào bụng dưới đau, ỉa khó, hàn thấp, nội thương "Đồng".

- Ẩn bạch: Trị kinh nguyệt quá hạn không dứt, châm đó khỏi ngay.

- Âm giao: Trị kinh nguyệt không dứt.

- Khí hải: Trị kinh nguyệt không đều, ra khí hư. Băng ở trong do đẻ, nước hôi không dứt, bệnh đau quanh rốn.

- Khí huyệt: Trị kinh nguyệt không đều, đái ỉa rễ không dứt, khí chạy lên xuống, dẫn vào thắt lưng, cột sống đau.

- Huyết hải, Đới mạch: Chữa mạch kinh nguyệt không đều.

- Âm giao: Trị kinh nguyệt không dứt "Thiên" nói: Không xuống.

* Kinh nguyệt không lợi cứu Tứ mãn (xem: Không có con).

* Kinh nguyệt không đều, máu kết thành cục, châm Giản sử (xem: Sán giả).

* Sau khi đẻ máu kinh không cầm, đẻ ngang thai động, đều châm Tam âm giao "Thiên Dực".

* Kinh nguyệt không lợi, huyết chạy lên xuống, không có con, cứu Tứ mãn 30 mồi.


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 03:30:45 PM
29. Khí hư trắng đỏ - Xích bạch đới

- Quan nguyên: Trị ra khí hư, có giả tụ, do đẻ nước hôi không dứt, kinh nguyệt không dứt hẳn, ra kinh lạnh "Đồng - Minh" cũng thế.

- Khí hải (xem: Kinh nguyệt), Tiểu trường du: Trị ra khí hư "Thiên - Minh" cũng thế.

- Trung liêu: Trị ra khí hư, kinh nguyệt không đều (xem: Không có con).

- Đới mạch: Trị khí hư trắng đỏ (xem: Bụng dưới đau). "Minh Hạ" nói: Khí ở dưới sườn, chuyển liền sang lưng trên đau không chịu nổi.

- Âm giao: Chữa khí hư "Minh" (xem: Nước hôi).

- Khúc cốt: Chữa khí hư trắng đỏ, sợ giao hợp âm dương ("Đồng" cũng thế), đái bí tắc không thông, hư yếu, lạnh, đều nên cứu.

- Thượng liêu: Chủ rỉ ra nước trắng "Thiên" (xem: Không có con).

- Thứ liêu: Chủ rỉ ra nước trắng đỏ, tâm tích trướng, đau thắt lưng.

- Trung liêu: Chủ nhớt đỏ, có khi khí trắng, còng, máu kinh ít.

- Yêu cực giao: Chủ ra nước xanh không cầm, rỉ ra đỏ, ngứa cửa mình, đau dẫn vào bụng dưới, lôi kéo một ít, không thể cúi ngửa.

-Khúc cốt: Chủ trắng đỏ tươi, trong cửa mình ngứa đau, sợ giao hợp, bụng dưới chặn rắn, bí tiểu tiện.

- Đại hách: Chủ đỏ tươi.

* Tôi thường tìm thuốc khí hư trắng đỏ, tôi dùng Trấn Linh Đơn có thể làm cho hoạt huyết, ôn trung rất nghiệm, nên chép vào sách này, nhưng mà nếu có chửa thì không được dùng. Nếu cứu vào huyệt Đới mạch thì tốt hơn thuốc viên này.

* Có một người đàn bà bị bệnh khí hư trắng đỏ, người quen họ Lân được tôi đã châm cứu, mới đầu cứu Khí hải, chưa hiệu, ngày sau cứu Đới mạch, có quỷ giúp, người bệnh nói: Ngày hôm qua cứu cũng tốt, chỉ cứu tôi chưa hay, ngày hôm nay cứu hay cho tôi, tôi ngày hôm nay đi rồi. Có thể làm rượu thịt cúng tôi, rồi người nhà theo như lời làm rượu thịt cúng, bệnh đó như hết mất. Đó là sự thật vậy, tôi lần đầu tiên thấy sự lạ, do đó nghĩ về Tấn Cảnh Công bệnh tại Cao hoang, đã có hai quỷ, đó là hư lao quá mức, quỷ được thừa hư mà chiếm lấy. Ngày nay bệnh người đàn bà cũng có quỷ. Tại sao dụng tâm mà hư tổn cũng có tật đó, quỷ cũng thừa hư mà chiếm lấy, đã cứu đúng huyệt là quỷ không thể không đi, tuy chẳng cúng cũng vậy. Từ đó hễ có người đến tìm cứu, mỗi lần ấn huyệt đó, không thể không có đau ứng dưới tay. Tôi biết là đúng huyệt, bảo về cứu ở đó, không trường hợp nào là không khỏi. Đó là huyệt ở dưới đầu sườn 11 là 1,8 thốn, có bệnh đó thì nhanh cứu đi. Đàn bà mắc bệnh đó mà tang sống rất nhiểu (?), thật không phải là tự nhiên. Nếu như cứu thêm Bách hội càng tốt. Bệnh đó thường do dụng tâm làm ra như thế (Do suy nghĩ nhiều mà thành).

* Khí hư trắng đỏ cứu Giản sử 30 mồi (xem: Sán giả).

* Tuyệt tự, không đẻ, rỉ ra máu trắng đỏ, cứu Tuyền môn (Bờ dưới điểm giữa của xương mu) 10 mồi, 3 lần báo.

* Ỉa ra máu, ỉa lỵ trắng đỏ, rỉ ra máu, cứu Túc thái âm 50 mồi, tại mắt cá trong chân lên 3 thốn, trong bụng 5 thứ hàn thì cưu 100 mồi.

* Rỉ ra trắng đỏ, cứu Doanh trì 4 huyệt 20 mồi, ở hai bên trước sau mắt cá trong, trên mạch trì, còn một tên là Âm dương.

* Rỉ ra máu trắng đỏ, tứ chi buốt, tiêu đi, cứu Lậu âm 30 mồi, ở mắt cá trong xuống 5 phân trên động mạch nhẹ.

* Rỉ ra máu đỏ, đi ỉa, cứu Âm dương huyệt, số mồi theo tuổi, 3 lần báo, ở đầu ngoài nếp gấp, dưới ngón chân cái chỗ mép trắng.

* Băng ở trong ra khí hư, do đẻ nước hôi không dứt, đàn bà dứt mối con cái, tối yếu huyệt: Châm Trung cực thì có công. Nếu chưa có, châm sâu vào thêm 8 phân, lưu kim 10 hơi thở ra, đắc khí thì tả, cứu cũng tốt. Không châm thì ngày cứu 30 đến 300 mồi thì dừng.

* Ra khí hư, cứu Tiểu trường du 50 mồi.

Hết quyển VII


Tiêu đề: Re: Châm cứu Tư Sinh kinh - Vương Chấp Trung - Lê Văn Sửu soạn dịch
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 26, 2018, 04:02:01 PM
Mục lục quyển III

1. Hư tổn
2. Cứu 20 loại cốt chứng
3. Lao khái
4. Thận hư
5. Tiêu khát
6. Âm mềm rụt
7. Âm vượt ra
8. Chuyển lệnh bàng quang
9. Đau dương vật
10. Bàng quang khí
11. Mồ hôi ở âm hộ
12. Âm hộ sưng
13. Đau bụng dưới
14. Bụng dưới trướng tức
15. Đồi sán
16. Sán giả
17. Lậu còng
18. Đái khó
19. Đái 5 màu
20. Chữa mộng di thất tinh
21. Ỉa không thông
22. Đái không thông
23. Đái không cầm
24. Đại tiện không cầm
25. Ỉa chảy
26. Ỉa như cháo loãng
27. Ỉa lỏng
28. Lỵ
29. Ỉa ra máu
30. Trĩ
31. Trường cường
32. Ruột giãn
33. Đau ruột
34. Sôi ruột
35. Thoát giang
36. Quặn bụng nôn nao
37. Quặn bụng ỉa mửa
38. Nôn mửa
39. Nôn khan
40. Nấc
41. Thương hàn, nôn ựa
42. Thoả nhổ bọt
43. Đau dạ dày
44. Phản vị
45. Ăn không xuống được
46. Không thể ăn được
47. Không muốn ăn
48. Thực khí
49. Ăn nhiều
50. Sốt rét
51. Đau lá lách

Mục lục quyển IV

1. Tâm thống (Đau tim)
2. Tâm hoảng hốt
3. Tâm sợ hãi
4. Tâm hay cười
5. Tâm khí
6. Tâm lo buồn
7. Thở than
8. Tâm bứt dứt
9. Đảm hư
10. Hay nằm
11. Không nằm
12. Mộng mị
13. Điên tà
14. Điên cuồng
15. Động kinh, co giật
16. Điên, động kinh
17. Điên tật
18. Kinh giản
19. Phong giản
20. Phong lao
21. Phong kinh
22. Phong choáng váng
23. Phong bại
24. Trúng phong
25. Trúng gió không nói
26. Phong một bên người
27. Đờm dãi
28. Nhổ ra máu
29. Suyễn
30. Phế khí
31. Ho hắng
32. Ho ngược lên
33. Ho ngược khí lên
34. Ít hơi
35. Bôn đồn khí
36. Bệnh hòn, hạch
37. Chứng có hòn
38. Tích tụ
39. Tích khí
40. Đau bụng
41. BỤng đầy
42. Bụng trướng
43. Bụng trên rắn to
44. Cổ chướng
45. Cổ phù nước.

Mục lục quyển V

1. Đau rốn (Tề thống)
2. Đau mạng sườn trước ngực (Ung thống)
3. Ngực đầy tức (Hung hãm)
4. Ngực sườn đau
5. Cách đau (Cách thống)
6. Lưng trên đau (Bối thống)
7. Vai lưng trên đau buốt (Kiên, bối, toan thống)
8. Vai đau bại (Kiên bại thống)
9. Đau cánh tay
10. Nách đau (Hạ thống)
11. Lao cổ tay (Uyển thống)
12. Đau khuỷu tay
13. Bàn tay tê bại không hoạt động được
14. Ngón tay co (Thủ chi đoan)
15. Bàn tay nóng (Thủ nhiệt)
16. Chân tê bại không hoạt động được (Túc bại bất nhân)
17. Chân không đi được (Túc bất năng hành)
18. Chân nóng rét
19. Tạp bệnh ở chân
20. Cước khí
21. Chân yếu (Cước nhược)
22. Chân sưng (Cước thủy)
23. Tứ chi quyết (Chân tay cứng đơ)
24. Thi quyết
25. Đầu gối đau
26. Vùng thắt lưng và chân đau (Yêu cước thống)
27. Đau lưng dưới (Yêu thống)
28. Thắt lưng cột sống đau (Yêu tích thống)
29. Đau xương sống (Tích thống)
30. Nếp nhăn (Tấu lý)
31. Đau xương (Cốt thống)

Mục lục quyển VI

1. Tai kêu
2. Tai đau
3. Tai điếc
4. Nhọt trong tai
5. Đau mắt
6. Mắt nhìn lên
7.Nước mắt chảy ra
8. Mắt hoa
9. Mắt không sáng
10. Mắt có màng che
11. Mắt đỏ
12. Mù xanh
13. Miệng, mắt méo
14. Miệng câm, mất tiếng
15. Lưỡi cứng
16. Miệng giãn
17. Sâu răng
18. Miệng, lưỡi khô đắng
19. Răng, miệng cam, có mụn
20. Răng cắn
21. Răng đau
22. Mũi tắc không lợi
23. úi có thịt thở
24. Chảy nước mũi
25. Mũi đau
26. Mũi chảy máu cam
27. Hầu họng sưng đau
28. Hầu, họng kêu
29. Hầu, họng khô
30. Hầu bại
31. Môi má sưng đau
32.Cổ, gáy cứng
33. Đầu phong
34. Đầu đau
35. Đau não
36. Đầu quay tít
37. Đầu sưng
38. Đỉnh đầu sưng đau
39. Mắt sưng
40. Mặt đau

Mục lục quyển VII

1. Thương hàn
2. Vàng da
3. Thương hàn đầu đau
4. Thương hàn nóng rét
5. Nóng rét
6. Khí nóng rét ở bụng
7. Thân hàn bại
8. Tự ra mồ hôi
9. Mồ hôi không ra
10. Thương hàn không có mồ hôi
11. Phát bối
12. Bướu ở cổ
13. Tràng nhạc
14. Dị ứng gió mẩn ngứa
15. Đau các khớp
16. Mụn nhọt
17. Mụn ghẻ
18. Ăn phải thứ độc
19. Chó dại cắn
20. Ung ở vú
21. Vú sưng đau
22. Đàn bà khí huyết
23. Đàn bà không có con
24. Máu hòn
25. Băng huyết
26. Các chứng khác sau đẻ
27. Khó đẻ
28. Kinh nguyệt
29. Khí hư trắng đỏ