Tứ Hải giai huynh đệ

Đông Y - Traditional Medicine => Đông Y khái luận - Traditional Medicine - Introductory Theory => Tác giả chủ đề:: tuhaibajai trong Tháng Sáu 16, 2017, 03:58:26 PM



Tiêu đề: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 16, 2017, 03:58:26 PM
Thiên 34. Ngũ loạn (Năm cái loạn)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Nội dung: Nói về 5 cái loạn của khí: Loạn ở tâm, ở phế, ở trường vị, ở tay chân, ở đầu. Loạn này là do khí của kinh mạch loạn, âm dương tương phản, dinh vệ bất hòa, thanh trọc hỗn tạp ảnh hưởng nhau gây nên. Cũng nói về cách chữa, cách lấy huyệt để chữa các chứng này.

Hoàng Đế: 12 kinh mạch chia ra bằng ngũ hành, phân ra thành tứ thời.  Chúng mất như thế nào để thành loạn? Chúng được như thế nào để được trị?

Kỳ Bá đáp: Ngũ hành có trình tự của chúng (Khí hậu) bốn mùa thay đổi (theo quy luật âm dương hàn nhiệt). Công năng của kinh mạch tạng phủ trong người tương thuận (hợp với trình tự của ngũ hành và quy luật biến hóa của khí hậu bốn mùa) là trị (an hòa), nếu tương nghịch là (náo) loạn (không an).

Hoàng Đế hỏi: Thế nào gọi là sống tương thuận?

Kỳ Bá: 12 kinh mạch là để ứng với 12 tháng, 12 tháng chia làm bốn mùa. Bốn mùa gồm xuân hạ thu đông có các khí khác nhau, dinh vệ tương tùy (khí vận hành điều hòa với nhau) âm dương đã điều hòa, thanh (thăng), trọc (giáng) theo quy luật không cản trở nhau, đó là (kinh mạch tạng phủ) thuận mà được trị.

Hoàng Đế: Thế nào là nghịch và loạn?

Kỳ Bá : Khi thanh khí (giáng xuống) ở Âm, trọc khí (thăng lê) ở Dương, doanh khí (thuộc âm) đi thuận mạch, vệ khí (thuộc dương) đi ngược (tuần hoàn bình thường của nó), làm cho thanh và trọc cùng cản trở và ảnh hưởng lẫn nhau, gây loạn ở trong ngực gọi là đại muộn (bồn chồn). Nếu khí loạn ở Tâm, thì Tâm phiền, trầm lặng không nói, nằm che đầu, yên tĩnh. Nếu khí loạn ở Phế, khi thở phải nghển cổ, cúi đầu và thở kêu lục cục, thở ra phải ép ngực. Nếu loạn ở Trường Vị thì thượng thổ hạ tả. Nếu loạn tay chân và cẳng chân thì tứ chi quyết lãnh. Nếu loạn ở đầu thì khí quyết nghịch lên, đầu sẽ nặng, chóng mặt và ngã ngất.

Hoàng Đế: Châm chữa năm cái loạn này có quy luật gì không?

Kỳ Bá đáp: Bệnh phát sinh có diễn biến quy luật của nó, và thầy thuốc cũng phải chữa bệnh theo quy luật. Ai hiểu rõ quy luật của bệnh và có cách trị thích hợp thì dễ đem lại kết quả, đó có thể gọi là phép báu để giữ gìn sức khỏe.

Hoàng Đế: Vậy con đường ấy (nguyên tắc điều trị) là gì?

Kỳ Bá: khí loạn ở Tâm lấy huyệt Du của kinh thủ Thiếu âm và thủ quyết âm (Thần môn, Đại lăng). Khí loạn ở Phế, lấy huyệt du của túc thiếu âm và huỳnh của thủ thái âm (Thái khê, Ngư tế). Khí loạn ở Trường Vị, lấy túc Thái âm, Dương minh, nếu không có hiệu quả lấy Túc tam lý. Khí loạn ở đầu lấy Thiên Trụ, Đại Trữ, nếu không kết quả, lấy huyệt huỳnh du của túc thái dương (Thông cốc, Thúc cốt). Khí loạn ở tay chân, chích nặn máu tại chỗ trước, rồi các huyệt huỳnh du, của thủ túc dương minh, thiếu dương (Nhị gian, Tam gian, Dịch môn, Trung chữ - Nội đình, Hãm cốc - Hiệp khê, Lâm khấp).

Hoàng Đế hỏi: Bổ tả phải thế nào?

Kỳ Bá đáp : Tiến kim và rút kim từ từ để đạo (dẫn) khí (phục hồi trạng thái bình thường là đạo khí). Hình thức bổ tả là vô hình (không cố định), và đều nhằm mục đích bảo dưỡng tinh khí làm chính, gọi là "đồng tinh". Bổ tả ở đây không phải là để giải quyết cái thừa cái thiếu, mà chỉ là để dẫn đạo khí, hồi phục lại trạng thái khí loạn tương nghịch mà thôi.

Đấy là tiêu chuẩn và quy tắc chữa bệnh.


Tiêu đề: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Sáu 17, 2017, 04:37:09 PM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Hoàng Đế Châm Kinh nói:

- "Thượng khí bất túc (nguyên khí bên trên không được đầy đủ) sẽ khiến cho não không được đầy, tai sẽ khổ vì ù, đầu sẽ khổ vì yếu đuối nghiêng ngả không vững, mắt sẽ xây xẩm tối tăm không nhìn được rõ. Trung khí bất túc (nguyên khí của Tỳ Vị không được đầy đủ) thì đại tiểu tiện sẽ không được bình thường, người bệnh sẽ khổ vì chứng sôi bụng. Hạ khí bất túc (nguyên khí bên dưới không được đầy đủ) tất người bệnh sẽ bị tê liệt hai chân và chứng phiền muộn bứt dứt, nên châm bổ tại Túc ngoại khỏa".

Những lời như trên là nói về "Chân nguyên khí" của ba vị trí thượng, trung, hạ trong thân thể con người mà bị suy yếu đều do Tỳ Vị vốn đã bị hư yếu từ trước, khiến cho nguyên khí không đi lên được mà sinh ra bệnh, lại cộng thêm những tình chí như vui, giận, buồn, lo và sợ hãi càng khiến cho sự nguy vong của người bệnh đến nhanh chóng hơn!


Tiêu đề: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 15, 2017, 04:24:38 PM
Cách chữa bệnh kiêm cả tạng và phủ

(https://suythan.net/wp-content/uploads/2015/12/benh-suy-than-do-1-co-nguy-hiem-khong-500x500_c.jpg)

 Tâm thông với đởm, ví như bệnh Tâm hồi hộp nên dùng Ôn đởm thang làm chủ, nếu bệnh Đởm làm run sợ, thì phải bổ Tâm là chính.

 Phế thông với Bàng quang, nếu Phế bị bệnh thì nên khơi thông Bàng quang, rồi sau dùng phép lọc chất trong đục. Nếu Bàng quang bị bệnh, thì nên thanh Phế khí làm chủ, kiêm dùng thêm phép thổ. Nếu Phế bị bênh ọe khan, thì chữa ở Bàng quang làm cho tiểu tiện thông lợi là chính, nghĩa là làm cho Phế khí giáng xuống thì khí không nghịch. Nếu Bàng quang bị bế tắc thì bổ phế khí, làm cho tiểu tiện thông, bởi vì Phế chủ việc điều hòa tiết chế.

 Thận thông với Tam tiêu. Nếu bệnh Thận thì nên điều hòa Tam tiêu là chính. Nếu bệnh Tam tiêu thì nên bổ Thận là chính.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 15, 2017, 04:46:06 PM
Hàn nhiệt

(http://www.xaluan.com/images/news/Image/2014/09/07/7540c796378c8b.img.jpg)

Hàn là đồng loại với âm, hoặc hàn ở trong, hoặc hàn ở ngoài. Hàn phần nhiều là hư. Nhiệt là đồng loại với dương, hoặc nhiệt ở trong, hoặc nhiệt ở ngoài. Nhiệt phần nhiều là thực. Hàn thì làm tổn thương hình thể, hình là chỉ về phần biểu. Nhiệt thì làm tổn thương khí, khí là chỉ về lý. Hàn thì vệ khí không thông lợi, nhiệt thì vinh khí ở trong bị tiêu hao. Hỏa vượng về mùa hạ, dương khí có thừa sinh ra bệnh nhiệt, thủy vượng về mùa đông, dương khí không đủ, thì phát sinh bệnh hàn.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 20, 2017, 06:21:10 PM
(http://www.phuctamduong.com/uploads/news/2014_05/tuc-thai-am-ty.jpg)

Thủ thông túc, Thiếu âm thông Thiếu dương, Thái âm thông Thái dương, Dương minh thông Quyết âm.

- Thủ thiếu âm tâm thông Túc thiếu dương đởm.
 
- Thủ thái âm phế thông Túc thái dương bàng quang.

- Thủ quyết âm tâm bào lạc thông Túc dương minh vị.

- Thủ dương minh đại tràng thông Túc quyết âm can.

- Thủ thiếu dương tam tiêu thông Túc thiếu âm thận.

- Thủ thái dương tiểu trường thông Túc thái âm tỳ.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 27, 2017, 10:04:45 PM
Ngũ uất

(https://www.tindachieu.com/news/wp-content/uploads/2015/04/ngu-hanh.jpg)

Mộc uất thì cho "thông đạt" đi, hỏa uất thì cho "phát ra", thổ uất thì "đoạt" đi, kim uất thì cho "tiết", thủy uất thì nên "chiết", rồi sau điều hòa vào phần khí.

"Đạt" tức là làm cho mửa ra khiến cho nó được buông nới. "Phát" là cho ra mồ hôi, khiến cho sơ tán. "Đoạt" tức là cho công hạ khiến cho khỏi vướng tắc. "Tiết" tức là làm cho thấm rỉ như cách giải biểu lợi tiểu. "Chiết" là chặn nén, ức chế cái khí thế bốc lên. Thông hiểu 5 phép đó thì khí sẽ bình hòa rồi sau lại tìm nào chỗ hư thịnh để mà điều chỉnh.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 10, 2017, 08:23:24 AM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Bệnh Tỳ nếu không thắng nổi khí mộc buổi sớm thì bổ Tỳ tả Can, bệnh Phế nếu không thắng nổi khí hỏa buổi trưa thì bổ Phế tả Tâm. Bệnh Can nếu không thắng nổi khí kim lúc mặt trời lặn thì bổ Can tả Phế, bệnh Tâm nếu không thắng nổi khí kim thủy của đêm thì bổ Tâm tả Thận...


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 24, 2017, 06:28:33 PM
Thiên 61

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

- Đến ngày Giáp Ất không châm vùng đầu, không dùng phép "Phát mông" (châm huyệt Thính cung vào giờ Ngọ khi điếc, mù), để châm ở tai.

- Đến ngày Bính Đinh không được dùng cách châm "Chấn si" (châm Thiên dung, Liêm tuyền là chính để chữa chứng dương khí nghịch lên ngực, ho suyễn ngực đầy, sợ nhìn khói) để châm ở vai hầu, Liêm tuyền.

- Đến ngày Mậu Kỷ (Canh và tứ quý) Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (chí) không châm ở vùng bụng, cũng không dùng cách châm "Khứ chảo" (dùng phi châm để làm ra nước ở các chứng khớp tứ chi, lưng gối không lợi, âm nang có nước) để tả thủy.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2017, 04:40:04 PM
71. Tà khí lưu lại ở người (Tà khách)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Phép gõ trên da để khai thấu lý:

Tùy vị trí nhóm cơ bị bệnh, trước hết dùng tay trái sờ để phân rõ cơ phu, sau đó dùng tay phải tiến kim rất nhẹ và làm cho kim thẳng góc với da, rồi tiến từ từ vào phần nông của da. Cách châm đó an toàn làm thần thoải mái, không làm hao tán mà khí tà vẫn bị trừ đi. Gần như cách châm ở da (bì phu châm hiện nay).

Tám cái hư:

Phế Tâm có tà, khí của nó lưu ở hai khuỷu tay; Can có tà, khí của nó lưu ở hai nách; Tỳ có tà, khí của nó lưu ở hai háng hông; Thận có tà, khí của nó lưu ở hai khoeo, 8 cái hư đó (khuỷu, nách, hông háng, khoeo) là những nơi khớp vận động, chân khí đi qua, huyết lạc tuần hoàn. Tà khí và huyết xấu, đương nhiên không được lưu trú ở đó. Nếu chúng lưu lại thì sẽ làm tổn thương kinh lạc, khớp xương, khớp không vận động được, hình thành chứng co cứng khớp. (Phế, khí lưu ở Xích trạch; Tâm, khí lưu hành ở Thiếu hải; Can, khí lưu hành ở Kỳ môn, Uyên dịch; Tỳ, khí lưu hành ở Xung môn, Khí xung; Thận, khí lưu hành ở Âm cốc, Ủy trung - Trương Cảnh Nhạc - Loại kinh)


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 06, 2017, 04:25:58 PM
Thiên 21. Hàn nhiệt bệnh

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Răng sợ uống nước lạnh

Nơi Thủ dương minh lên má vào răng là Đại nghinh. Khi răng hàm dưới sâu thì lấy kinh ở tay, dùng huyệt Hợp cốc, nếu sợ uống nước lạnh thì bổ, nếu không sợ uống nước lạnh thì tả. Nơi Túc thái dương vào má vào răng là túc Giác tôn (thực ra thái dương không vào má (Địa thương, Cự liêu - Mã Nguyên Đài).



Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 12, 2017, 07:58:03 AM
74. Luận tật chẩn xích

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Vào mùa Đông bị hàn làm tổn thương thì mùa Xuân dễ bị bệnh ôn. Vào mùa Xuân bị phong làm tổn thương thì mùa Hè dễ sinh chứng ỉa chảy, lị. Vào mùa Hè bị thử làm tổn thương thì mùa Thu dễ sinh bệnh ngược (sốt rét). Vào mùa Thu bị táo làm tổn thương thì mùa Đông dễ sinh ho. Đó là tình hình bệnh bốn mùa.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 18, 2017, 07:11:56 AM
75. Thích tiết chân tà

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Khí Âm bất túc thì sinh nhiệt ở bên trong, khí Dương thừa thì nhiệt ở bên ngoài, nhiệt và tà ở trong đánh nhau, như trong lòng có than lửa vậy, ngoài nóng lắm sợ đắp thêm vào người, sợ mặc quần áo, sợ cả nằm chiếu, sợ cả người đến gần. Tấu lý lại đóng mồ hôi không ra được, nhiệt chứng làm môi khô lưỡi rộp, thịt khô, họng táo, rất khát nên ăn uống bất kể thứ tốt xấu gì để giải cái khát. Lúc đó chữa bằng huyệt Thiên phủ (Thái âm tay) Đại trữ (Thái dương bàng quang) [Thiên phủ chữa bạo đơn nội nghịch, Can Phế tương bác, huyết dật tỵ khẩu, Đại trữ chữa sốt rét, thương hàn hãn bất xuất, ngực có uất, sốt) châm mỗi huyệt 3 lần, rồi châm Trung lữ du (kinh Bàng quang) chữa kinh giật, hàn nhiệt, uốn ván] để khử nhiệt, bổ Thái âm tay chân [Tỳ chủ cốc khí, Phế chủ khí (trời) hai khí âm này thiếu, thì dương sẽ thừa thắng, khí âm không tiết thì thành bệnh nhiệt, nên phải tả dương thịnh, bổ 2 âm, dương khứ, 2 âm thực, khí âm thông) cho ra mồ hôi, khi nhiệt đã thoái hư, mồ hôi giảm dần bệnh sẽ khỏi, hiệu quả rất nhanh như cởi áo (Triệt y) vậy.

........

- Nếu trên hàn dưới nhiệt (từ thắt lưng trở lên = trên, từ thắt lưng trở xuống = dưới) thì châm kinh Thái dương ở gáy trước (Đại trữ, Thiên trụ - Cảnh Nhạc) lưu kim lâu, châm rồi cứu ở gáy và vai (hai huyệt trên), khi thấy hơi ấm xuống hợp với ở dưới thì thôi châm, đó là cách đẩy phần dưới bằng dùng phần trên của kinh (thôi nhi thượng chi).

 - Nếu trên nhiệt dưới hàn, xem kỹ ở phần dưới của kinh, nếu mạch hư lõm xuống thì bổ mạch đó, làm cho khí dương ở trên đi xuống mới thôi. Đó là cách châm dẫn nhiệt ở trên xuống (dẫn nhi hạ chi).

 - Bệnh mà khắp thân mình sốt cao, nhiệt làm cho cuồng, thấy bậy bạ, nghe bậy bạ, nói bậy bạ, trước hết nên quan sát để thấy và biết được những nơi bệnh thuộc lạc mạch hay kinh mạch của túc Dương minh vị, nếu hư, ta thủ huyệt để châm bổ, nếu như có huyết lạc thực thì ta thủ huyệt để châm tả loại trừ huyết ứ trệ. Nhân lúc bệnh nhân đang nằm ngửa, người thầy thuốc nên đứng trước đầu của bệnh nhân, dùng 4 ngón tay (2 ngón cái và 2 ngón trỏ) đè lên vùng huyệt Nhân nghinh và Đại nghinh nơi cổ trước của bệnh nhân, giữ yên như vậy cho lâu, chúng ta nên vừa day vừa ấn, kéo dài xuống đến giữa vùng huyệt Khuyết bồn, xong ta lại tiếp tục làm trở lại như cũ, làm cho đến khi nào nhiệt lui thì ngưng. Đây được gọi là phương pháp "Thôi nhi tán chi" (đẩy lui và làm thoát ra).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 22, 2017, 04:55:49 PM
77. Chín cung tám phong (Cửu cung bát phong)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)


Nội dung: Nói về "Thái nhất" trong một năm, cả trung ương 8 phương thành 9 cung, chúng đổi chỗ theo tuần tự, mỗi phương lại chia 3 thời tiết, cộng tiết ước 46 ngày, 8 phương toàn năm cộng 24 tiết, 365 ngày quá một tý. Ngày mà khí "Thái nhất" chuyển từ cung này sang cung khác cũng là ngày đổi tiết trời, như tình hình biến đổi khí tượng của ngày đó và mấy ngày trước sau đó, và có thể dựa vào đó để dự báo mưa gió có thuận hòa hay không, có sinh ra hạn lụt không, và sẽ lưu hành những bệnh gì. 8 loại gió thổi từ 8 phương, nếu hợp với thời tiết sẽ thúc đẩy vạn vật sinh trưởng, nếu trái thời tiết là hư phong, sẽ khu sát vạn vật. 8 hư phong có 8 tên khác nhau, tác động vào cơ thể cũng ở vị trí khác nhau. Ở người hư gặp năm hư thì bị hư phong, 3 hư đánh nhau thì rất là nguy hiểm.
.......

(Thực phong: mùa Xuân gió đông, mùa Hạ gió nam, mùa Thu gió tây, mùa Đông gió bắc. Nguyệt kiến ở Tý, gió bắc là khí mùa Đông; nguyệt kiến ở Mão, gió đông, là khí mùa Xuân; nguyện kiến ở Ngọ, gió nam là khí mùa hè; nguyệt kiến ở Dậu, gió tây là gió mùa Thu. Bốn ngẫu 12 kiến, các khí đều có riêng, đúng với mắt chính của nó, chính khí vượng là thực phong - Cảnh Nhạc).

 (Hư phong: Tháng 11 (Tý) có gió nồm (Nam ở Ngọ hỏa phản thắng thủy), TÝ Ngọ tương xung (Kim thắng Mộc), tháng 2 (Mão), có gió Tây (Tây ở Dậu) Mão Dậu tương xung. Thái nhất (tháng 5) ở Ngọ có gió bấc (thủy thắng hỏa). Thái nhất ở Dậu (tháng tám) có gió Đông (Mộc phản thắng Kim).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 03, 2017, 10:35:13 PM
Tích ở trên: Nhân nghinh, Thiên đột, Liêm tuyền.

Tích ở dưới: Túc tam lý, Khí xung (Khúc cốt sang 2 thốn), Chương môn.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: Đom Đóm trong Tháng Mười Hai 03, 2017, 10:38:33 PM
Co mà không duỗi: Bệnh ở gân.

Duỗi mà không co: Bệnh ở xương.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: Đom Đóm trong Tháng Mười Hai 03, 2017, 10:41:33 PM
Đốt sống lưng trên: 1,4 thốn 1 ly (7 đốt)

Đốt sống lưng giữa: 1,6 thốn 1 ly (7 đốt)

Đốt sống lưng dưới: 1,2 thốn 6 ly (7 đốt)


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 09, 2017, 01:48:16 AM
80. Luận về sự mê hoặc (Đại hoặc luận)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Tinh khí của 5 tạng 6 phủ đều lên tụ ở mắt để thành tinh (nên mắt nhìn thấy), nơi tinh đó hội tụ là mắt, trong đó tinh của xương đổ vào đồng tử, tinh của cân đổ vào lòng đen, tinh của huyết đổ vào huyết lạc của mắt, tinh của khí đổ vào lòng trắng, tinh của cơ nhục đổ vào tròng mắt. Tinh của gân xương, khí huyết và lạc mạch hợp lại với nhau thành mục hệ. Phần trên của nó thuộc về não, phần sau liên thông với gáy. Cho nên nếu tà khí trúng vào gáy, vừa gặp lúc thân thể hư, tà khí vào sâu, theo hệ mắt để vào não. Tà khí vào não sẽ gây ra đầu óc quay cuồng và kéo theo hệ mắt căng thẳng, hệ mắt căng thẳng sẽ gây chóng mặt hoa mắt, nhìn thấy quay cuồng. Đồng thời tà khí vào tinh (ngũ tạng ở mắt) làm tinh của 5 tạng mất điều hòa với nhau gây nên tinh hao tán. Vì tinh hao tán nên xuất hiện song thi (nhìn 1 thành 2 vật). Tóm lại mắt của người là nơi hội tụ thành tinh của 5 tạng 6 phủ, nơi đi qua của dinh, vệ, hồn, phách, cũng là nơi sinh ra thần khí (để nhìn thấy vật). Nếu thần mệt mỏi sẽ gây hồn phách tán, ý chí loạn. Do tinh của xương đổ vào con ngươi ở mắt thuộc Thận, tinh của Can ở lòng đen mắt thuộc Can, cả hai đều là tạng Âm, nên lấy Âm làm chuẩn, tinh của khí ở lòng trắng thuộc Phế, tinh huyết ở mạch máu của mắt thuộc Tâm, cả hai đều là tạng Dương, nên lấy Dương làm chuẩn.

 Khí (4 tinh) Âm Dương trên dưới điều hòa, và chuyển đổ lên trên để thành tinh và nhìn rõ. Đặc biệt mắt là sứ giả của Tâm (bị Tâm sai khiến), Tâm là nơi ở của thần (nguồn gốc của tinh thần ý thức), do đó khi thần tinh bị loạn, thì tinh sẽ không chuyển lên mắt được. Trèo cao nhìn lên bốn phía, đột nhiên thấy cảnh tượng rất khác, thường đó là tinh thần hồn phách bị tán loạn không hợp với nhau (làm cho thần hồn đầu váng mắt hoa). Đó là trạng thái mê hoặc.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 11, 2017, 10:43:00 AM
81. Ung nhọt (Ung thư)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

- Ung phát ở họng gọi là Mãnh thư (ung ở hầu họng - phát triển mãnh liệt). Nếu chữa không kịp thời thì dễ hóa mủ, nếu không tháo được mủ sẽ làm tắc họng, và sau 1/2 ngày thì chết. Khi đã có mủ, thì phải tháo mủ rồi uống mỡ lợn lạnh sau 3 ngày sẽ khỏi.

 - Ung phát ở cổ gọi là Yêu thư (rất nguy hiểm - ít người lành nên gọi là yêu (quái)). Ung này to màu đỏ đen, nếu không chữa gấp thì khí nhiệt xuống Uyên dịch (nách), ở trước nó xâm phạm mạch Nhâm, ở trong nó hun đốt Can Phế. Khi vào đến Can Phế rồi thì 10 ngày sẽ chết.

 - Dương khí lưu ở trong (tà nhiệt) phát ra ở gáy làm cho não như bị tiêu lạc (nung đốt) gọi là Não lạo. Thần xác của người bệnh không vui, gáy đau như bị kim đâm. Nếu (nhiệt độc vào trong, sẽ có) trong tâm phiền táo, là chứng chết không chữa được.

 (Lạc là tiêu lạc, là lửa to nung chảy kim loại).

 - Ung phát ra ở vai và cánh tay, gọi là Từ ung (ung ở vai). Nó có mầu đỏ đen cần phải chữa gấp, và làm ra mồ hôi cho đến bàn chân mới có thể không làm hại ngũ tạng. Nếu đã phát 4, 5 ngày, cần dùng cách cứu ngay.

 - Ung phát ở dưới nách, đỏ cứng, gọi là Mễ thư (mễ có ý nhỏ như hạt gạo), dùng biếm thạch để chữa, dùng loại dài nhỏ, chích rải rác và bôi mỡ lợn 6 ngày thì khỏi và không cần băng. Ung nào cứng mà không vỡ là Mã đao hiệp anh, cần chữa gấp.

 - Ung phát ra ở ngực gọi là Tỉnh thư (sâu và nguy hiểm). Nó giống hạt đậu to, trong vòng 3, 4 ngày đầu, nếu không chữa sớm thì sẽ lan xuống bụng, không chữa thì 7 ngày sẽ chết.

 (Chú: Nó là ung nhọt ở gần vùng Tim, và còn gọi là Xuyên tâm lãnh hậu, Tâm lậu thư, Xuyên tâm độc - rất khó chữa).

 - Ung phát ra ở ngực (ưng song) là Cam thư (kinh Dương minh nên thuộc Thổ - ngọt), màu nó xanh, dáng như hình hoàn đan, hạt quá lâu, thường sốt, rét run, cần chữa gấp để trừ hàn nhiệt, nhưng 10 năm sau vẫn chết, và sau khi chết mới vỡ mủ.

 - Ung phát ở sườn gọi là Bại tử, là bệnh của nữ, nếu dùng cứu thì sẽ làm mủ nhiều lên. Trong điều trị, cần chú ý ở trong có sinh cơ như hạt đậu đỏ, dùng Lên kiều (thảo và rễ) mỗi thứ 1 thăng, cho vào 1 đấu 6 thăng nước đun kỹ còn 3 thăng, uống lúc nóng, uống xong mặc nhiều quần áo ngồi trên nồi đang nóng để xông cho ra mồ hôi đến bàn chân, sẽ khỏi.

 - Ung phát ở đùi, cẳng chân, gọi là Cổ kinh thư. Tuy nhiên không có thay đổi nhiều, nhưng ở trong mủ lại nhiều làm thối xương, nếu không chữa gấp thì 30 ngày sẽ chết.

 - Ung phát ở vùng cùng cụt gọi là Nhuệ thư (vì ở chỗ cuối cùng của xương cụt gọi là nhuệ). Dáng của nó đỏ cứng to, cần chữa gấp, nếu không sẽ chết trong vòng 30 ngày.

 - Ung phát ở mặt trong đùi gọi là Xích thư (vì nó ở vùng kinh Âm nên) nếu không chữa gấp sẽ chết trong vòng 16 ngày. Nếu cả hai bên đều bị mà không chữa gấp sẽ chết trong vòng 10 ngày.

 - Ung phát ở gối, gọi là Từ ung. Dáng ung to, màu không đổi, sốt rét, cứng như đá, mới mắc không được dùng biếm thạch để chích, nếu chích sẽ chết, đợi nó mềm ra mới được chích tháo mủ và sẽ sống.

 - Các ung nhọt phát ra ở khớp và đối xứng theo trên dưới, phải trái đều là chứng khó chữa. Ung phát ra ở phần Dương 100 ngày sẽ chết. Ung phát ra ở phần Âm 30 ngày sẽ chết.

 - Ung phát ở cẳng chân là "Thỏ gặm", mầu đỏ, vào đến xương cần chữa gấp, nếu không chữa sẽ làm hại người.

 - Ung phát ở mắt cá trong gọi là Tẩu tùy (tức ung nhọt ở mắt cá trong). Bên ngoài giống ung, sắc không thay đổi, dùng biếm thạch để chích chỗ sưng (số thạch kỳ du), sẽ làm hết hàn nhiệt của nó và không chết.

 - Ung phát ở trên dưới bàn chân gọi là Tứ (2 bàn chân trên và dưới) dâm (tà độc thịnh). Nó giống loại ung to, cần chữa sớm nếu không sẽ chết trong 100 ngày.

 - Ung phát ở cạnh bàn chân gọi là Lệ ung. Nó không to, mới đầu như ngón út (do tà khí ở kinh lạc), nếu phát bệnh phải chữa ngay, lấy đi phần đen trong đó. Nếu không lấy được, bệnh sẽ nặng, nếu kéo dài không chữa sẽ chết trong 100 ngày.

 - Ung phát ở ngón chân gọi là Thoát ung (thoát thư) nó mầu đỏ đen, chứng chết không chữa được. Nếu chưa có mầu đỏ đen thì chưa chết. Nếu tà khí không suy, phải cắt bỏ ngón chân, nếu không khó tránh khỏi chết.

 (Ngoại khoa chính tông viết: "Thoát thư là ngoài thối trong hoại...thường phát ở chân tay...mới đầu như hạt kê, đầu có phỏng nhỏ mầu vàng, da như tái đỏ luộc chín, mầu đen lan dần ra 5 ngón, lên bàn chân, đau như bị bỏng nước, bỏng lửa, xương khô gân róc, mùi hôi rất khó ngửi, tính mệnh dù là phương thuốc tiên cũng khó chữa).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 20, 2017, 10:37:08 PM
Chương bốn

KIM QUỸ CHÂN NGÔN LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)


 Về xuân khí, thường phát bệnh tại đầu; về hạ khí, thường phát tại Tàng; về thu khí, thường phát bệnh tại kiên bối; về đông khí, thường phát bệnh tại tứ chi.

***

 Mùa Xuân thường hay sinh bệnh tỵ nục; tháng trọng hạ (tháng 5) thường hay sinh bệnh đỗng tiết, hàn trung (đi tả và lạnh ở bên trong); mùa Thu thường hay sinh bệnh phong ngược; mùa Đông thường hay sinh bệnh tý, quyết (tê đau và lạnh giá tay chân).

 Đông phương sắc xanh, thông vào với Can khai khiếu lên mắt, tàng tinh ở Can. Phát ra bệnh thành chứng kinh sợ. Về vị là chua, thuộc về loài thảo mộc. Thuộc về lục súc là gà. Thuộc về ngũ cốc là lúa mạch Thuộc về bốn mùa, trên ứng với sao Tuế tinh. Xuân khí thuộc bộ phận đầu. Thuộc về âm là tiếng Giác. Thuộc về số là số tám. Thuộc về sú (mùi, hơi ngửi thấy) là mùi hôi. Do đó, biết là thường phát sinh bệnh ở gân.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 23, 2017, 10:51:59 AM
Chương năm

ÂM DƯƠNG ỨNG TƯỢNG ĐẠI LUẬN (1)

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Nam phương sinh nhiệt (nóng), nhiệt sinh Hỏa (42), Hỏa sinh khổ, khổ sinh Tâm, Tâm chủ huyết (44), huyết sinh Tỳ (45), Tâm chủ về lưỡi (46).

 Theo lẽ đó, ở trời là nhiệt, ở đất là hành Hỏa, ở thể là mạch, ở Tàng là Tâm (47).

 Ở sắc là xích (đỏ), ở âm là âm Chủy, ở tiếng là tiếng cười, ở sự biến động là ưu (lo) (48), ở khiếu là lưỡi, ở vị là khổ, ở chí là hỷ.

 Hỷ quá thì thương Tâm, khủng sẽ thắng hỷ (khủng là Thận chí và là thủy thắng hỏa); nhiệt quá thì thương khí, hàn sẽ thắng nhiệt; khổ làm thương khí (khổ là hỏa vị, nên cũng thương khí), hàn sẽ thắng khổ (Thủy khắc Hỏa).

***

 Dương thắng thì mình nóng, tấu lý vít lấp, thở mạnh và khó cúi hoặc ngửa, hãn không ra mà nhiệt, răng se; do đó thành phiền oán (bực dọc, nóng nảy), bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa Đông, không qua được mù Hạ (72).

 Âm thắng thì mình lạnh, hãn ra, mình thường mát, thường run và rét. Rét thì quyết, quyết thì bụng đầy, thuộc chứng chết, chỉ qua được mùa Hạ, không qua được mùa Đông. Đó là sự biến của Âm Dương "thiên thắng" và là chứng trạng phát hiện vậy.

***

 Phương Đông thuộc Dương. Vì là Dương, nên tinh khí dồn lên trên thì trên sáng mà dưới hư, cho nên khiến tai mắt sáng tỏ mà tay chân không mạnh. Phương Tây thuộc Âm. Vì là Âm, nên tinh khí dồn ở dưới; dồn ở dưới thì dưới thịnh mà trên hư, cho nên khiến tai mắt không sáng tỏ, mà tay chân được mạnh (83).

 Cho nên, đều là cảm phải tà khí, mà về bộ phận trên thì bên hữu nặng hơn, về bộ phận dưới thì bên tả nặng hơn. Đó chính vì thiên địa Âm Dương không thể toàn vẹn được, nên tà khí cũng do chỗ thiếu hụt ấy để mà xâm lấn (84).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 03, 2018, 11:55:50 PM
(https://i.imgur.com/Usno5Zb.jpg)


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 10, 2018, 06:14:10 AM
Chương mười bảy

MẠCH YẾU TINH VI LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Năm sắc hiện ra ngoài mặt, đó là cái tinh hoa của khí.

 - Sắc xích muốn được như lụa bọc Chu sa, không muốn như cục son.

 - Sắc trắng muốn được màu lông ngỗng, không muốn như hạt muối.

 - Sắc xanh muốn được như màu ngọc bích, không muốn như sắc chàm.

 - Sắc vàng muốn được như the trắng bọc Hồng hoàng, không muốn như Hoàng thổ.

 - Sắc đen muốn được như màu sơn đen, không muốn như nhọ nồi.

 Nếu cái tinh hoa của năm sắc hiện cả ra ngoài, thì không thể thọ được.

***

 - Phàm người trung thịnh, Tàng mãn, do khí thắng mà lại bị thương về sự “khủng” (thuộc Thận), nghe tiếng nói văng vẳng như ở trong nhà nói “vọng” ra; đó là trung khí bị thấp khí xâm lấn.

 - Nếu giọng nói nhè nhẹ, nói vài tiếng cách quãng, lúc lâu rồi mới lại nói tiếp… đó là mắc chứng đoạt khí (khí bị hao mất).

***

Con người cường kiện là nhờ năm Tàng. Đầu là một cái kho để chứa thần khí của năm Tàng. Nếu bệnh nhân đầu lệch đi, mắt lõm vào, đó là tinh thần sắp bị mất.

 Vai với lưng là Phủ của bộ phận hung (TTTg ngực). Nếu bệnh nhân lưng gù xuống, vai lệch đi, đó là bộ phận hung đã bị hỏng.

 Yêu (chỗ ngang thắt lưng), nó là Phủ của Thận. Nếu bệnh nhân không uốn đi lật lại được, đó là Thận sắp bị hỏng.

 Đầu gối là Phủ của cân. Nếu bệnh nhân không co vào duỗi ra được, lúc đi thì cứ phải lom khom… đó là cân sắp bị bại.

 Cốt (xương) nó là Phủ của tủy. Nếu bệnh nhân không đứng lâu được, hoặc đi thì lảo đảo… đó là xương sắp bị bại. Vậy con người được Phủ khí mạnh thì sống, trái lại, nếu mất thì chết.

***

Vậy nên người: Âm thịnh thì mộng lội sông nước và sợ hãi; Dương thịnh thì mộng lửa cháy bốc to; Âm Dương cùng thịnh thì mộng giết hại lẫn nhau. Thượng thịnh thì mộng bay; Hạ thịnh thì mộng ngã (từ trên cao lăn xuống). No quá thì mộng cho; Đói quá thì mộng lấy. Can khí thịnh thì mộng nộ; Phế khí thịnh thì mộng khóc. Đoản trùng (sán sơ mít) nhiều thì mộng hội họp đông người; trường trùng (giun, sán) nhiều thì mộng đánh nhau xây xát.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 11, 2018, 09:17:34 AM
Chương mười tám

BÌNH NHÂN KHÍ TƯỢNG LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)
...

 Đại lạc của Vị, tên là Hư lý, nó suốt lên cách, chằng ngang vào Phế, vòng xuống phía dưới tả nhũ (vú bên trái), lúc nó động có thể "ứng y" (áo mặc sát vào mình, khi mạch động, chạm lên áo = hình dung sự động mạnh). Mạch đó để nghe Tông khí (tức Vị khí).

Nếu suyễn nhiều (Phế), mà mạch ở Hư lý thường bị tuyệt, đó là bệnh tại Chiên trung và Hoành lạc bị tích trệ; nếu tuyệt hẳn không "chí", sẽ chết; nếu động quá đến nỗi "ứng y", đó là Tông khí muốn tiết ra ngoài (tức là mạch chết).

...

Phàm thấy mạch ở cổ động lên bần bật, thở suyễn và khái, chứng thuộc về Thủy. Mi mắt hơi thũng phồng lên như ngọa tàm (con tàm nằm), chứng thuộc về Thủy. Nước tiểu vàng đỏ, ưa nằm, là chứng hoàng đản. Ăn rồi mà bụng vẫn như đói, là chứng Vị đản. Mặt sưng phù ra, là chứng phong. Bọng chân sưng nặng là chứng Thủy,. Lòng trắng mắt vàng… cũng là chứng hoàng đản.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 11, 2018, 10:28:58 AM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Phong là một thứ đứng đầu của trăm bệnh. Giờ phong hàn phạm vào người, khiến người hào mao đều đứng thẳng, bì phu bị vít lại mà thành chứng nhiệt (sốt nóng). Gặp trường hợp đó, nên dùng làm phát hãn để phong tà tiết ra ngoài.

 Hoặc tý, bất nhân (ngoài da tê dại cấu không biết đau), sưng đau… Gặp trường hợp đó, nên dùng nước nóng để chườm, hoặc dùng lửa cứu, hoặc dùng châm thích cho tiết bỏ huyết độc.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 12, 2018, 11:51:57 AM
Chương mười sáu

CHẨN YẾU KINH CHUNG LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)
...

Hoàng Đế hỏi rằng:

- Chứng trạng lúc cuối cùng của mười hai kinh mạch như thế nào?

Kỳ Bá thưa rằng:

Mạch của kinh Thái dương tới khi cuối cùng, thì chứng trạng phát hiện: mắt trợn ngược, tay chân uốn lật trái lại, hoặc co quắp không duỗi ra được, sắc mặt trắng bợt, mồ hôi ra đầm đìa, lúc đó sẽ chết.

Mạch của kinh Thiếu dương tới lúc cuối cùng, các khớp xương đều rã rời, con ngươi mắt trông lệch sang một bên. Trong vòng một ngày rỡi thì chết. Hễ lúc nào thấy sắc mặt đương tái xanh bỗng chuyển ra trắng bợt, tức là lúc thần chết đã đến.

Mạch của kinh Dương minh tới lúc cuối cùng, miệng và tai thường méo lại hoặc vạy đi, hay sợ, nói càn, mạch ở tay và chân đều bật lên rất mạnh, ngoài da thịt không biết đau ngứa. Đó là lúc sắp chết.

Mạch ở kinh Thiếu âm tới lúc cuối cùng, sắc mặt đen sạm, răng khô và bợn bẩn, bụng trướng lên và vít lấp cả trên dưới không thông. Đó là thời kỳ chết.

Mạch ở kinh Thái âm tới lúc cuối cùng, bụng trướng bế, khó thở, hay ợ, hay ọe; ọe thì khí nghịch, khí nghịch thì mặt đỏ lên; khí không nghịch thì trên dưới không thông; không thông thì sinh ra mặt đen sạm, bì mao khô đét đi… Đó là thời kỳ chết.

Mạch của kinh Quyết âm tới thời kỳ cuối cùng, bệnh nhân nóng ruột, cổ khô, hay đi tiểu, trong lòng buồn bực; quá lắm thì lưỡi rụt, thận nang co rúm lại… Đó là thời kỳ chết.

Trở lên là bại chứng của mười hai kinh.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 18, 2018, 02:17:17 PM
Chương hai mươi

TAM BỘ, CỬU HẬU LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

...

 - Mạch của chín hậu đều trầm, tế cách tuyệt nhau thế là âm, thuộc đông, nên chết về khoảng nửa đêm; nếu mạch thịnh, táo, sác và suyễn. Thế là dương, thuộc hạ, nên chết về đúng trưa. Phàm bệnh hàn nhiệt, thường chết về lúc sáng rõ; chứng nhiệt trung với bệnh nhiệt cũng chết về lúc đúng trưa; bệnh phong, chết về lúc mặt trời lặn; bệnh thủy chết về nửa đêm; mạch lúc xơ, lúc sác, lúc tật, lúc trì... tới ngày tứ quý sẽ chết.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 28, 2018, 12:45:14 AM
TÀNG KHÍ THỜI PHÁP LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

...

 Bệnh ở Can, sáng sớm tỉnh táo, chập tối nặng, nửa đêm yên.

 Bệnh về Tâm, đúng trưa tỉnh táo, nửa đêm nặng, sáng sớm yên.

 Bệnh về Tỳ, lúc xế chiều tỉnh táo, lúc mặt trời mọc nặng, chập tối yên.

 Bệnh về Phế, chập tối tỉnh táo, đúng trưa nặng, nửa đêm yên.

 Bệnh về Thận, nửa đêm tỉnh táo, gặp giờ tứ quý (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) nặng, xế chiều yên.

***

 - Bệnh về Can, đau ở hai bên sườn, dẫn xuống Thiếu phúc khiến người hay nộ. Can hư thì mắt lờ mờ trông không rõ, tai nghe không tỏ, hay sợ như sắp bị người bắt. Nên lấy ở hai kinh mạch Quyết âm và Thiếu dương.

 Khí nghịch thì đầu nhức, tai điếc, mà sưng, nên bớt huyết đi (hoặc tả bớt).

 - Bệnh về Tâm, trong hung đau; chi lạc ở hiếp đầy, dưới hiếp đau; khắp khoảng xương ở vai, lưng đều đau, hai cánh tay cũng đau.

 Tâm hư thì hung phúc to ra, dưới hiếp và yêu cũng rút mà đau.

 Lấy ở hai kinh mạch Thiếu âm, Thái dương và trích huyết dưới lưỡi.

 Nếu bệnh biến, lại phải thích thêm huyệt Âm khích cho ra huyết.

 - Bệnh về Tỳ, mình nặng, cơ nhục nhão nát tê dại, chân không co lại được; lúc đi, đau trong xương, dưới chân cũng đau.

 Tỳ hư thì bụng đầy, ruột sôi, xôn tiết, thức ăn không tiêu. Nên lấy huyết ở các kinh mạch Thái âm, Dương minh và Thiếu âm.

 - Bệnh về Phế, suyễn, khái, nghịch khí; vai, lưng đau, hãn ra; cầu âm (xương khu), vế, đầu gối, xương ống đều đau.

 Phế hư thì không thở được dài, tai điếc, cuống họng khô.

 Lấy huyết ở ngoài kinh mạch Thái âm, túc Thái dương và bên trong Quyết âm.

 - Bệnh  về Thận, bụng to, ống chân sưng, suyễn và khái, mình nặng; lúc ngủ toát mồ hôi, ghê gió.

 Thận hư thì trong bụng đau, đại phúc, tiểu phúc đều đau; quyết lãnh; ý tứ không vui.

 Nên lấy huyết ở kinh mạch Thiếu âm và Thái âm.

 Can sắc xanh, nên ăn vị ngọt; ngạnh mễ, thịt bò, quả táo quỳ... đều thuộc vị ngọt.

 Tâm sắc xích, nên ăn vị toan; tiểu đậu, thịt chó, quả mận, rau cửu... đều thuộc vị toan.

 Phế sắc bạch, nên ăn vị khổ; lúa mạch, thịt dê, quả hạnh, rau giới (củ kiệu), đều thuộc về vị khổ.

 Tỳ sắc vàng, nên ăn vị hàm; đại đậu, thịt lợn, quả lật, rau hoắc... đều thuộc vị hàm.

 Thận sắc hắc, nên ăn vị tân; hoàng thử, thịt gà, quả đào, củ hành... đều thuộc vị tân.

 - Vị tân thì tán, vị toan thì thâu, vị cam thì hoãn, vị khổ thì kiên, vị hàm thì nhuyễn.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 30, 2018, 11:10:36 AM
Chương hai mươi ba

TUYÊN MINH NGŨ KHÍ THIÊN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 ... Năm sự ghét của năm Tàng: Tâm ghét nhiệt; Phế ghét hàn; Can ghét phong; Tỳ ghét thấp; Thận ghét táo.

 Năm Tàng hóa ra chất lỏng: Tâm hóa ra hãn; Phế hóa ra thế (nước mũi); Can hóa ra lệ (nước mắt); Tỳ hóa ra diên (nước dãi); Thận hóa ra thóa (nước miếng).

 Sự cấm kỵ của năm vị: vị tân dẫn vào khí, khí mắc bệnh không nên ăn nhiều vị tân; vị hàm dẫn vào huyết, huyết mắc bệnh không nên ăn nhiều vị hàm; vị khổ dẫn vào xương, xương mắc bệnh không nên ăn nhiều vị khổ; vị cam dẫn ra thịt, thịt mắc bệnh không nên ăn nhiều vị cam; vị toan dẫn vào cân, cân mắc bệnh không nên ăn nhiều vị toan.

...

Năm sự thái quá (lao, nhọc) làm thương đến năm Tàng. Trông lâu là thương đến huyết; nằm lâu làm thương đến khí; ngồi lâu làm thương đến nhục; đứng lâu làm thương đến cốt; đi lâu làm thương đến cân...


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 30, 2018, 11:53:12 AM
Lấy huyệt du của ngũ Tạng

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Muốn biết huyệt Phế du, lấy một cái dây, đo từ đầu vú bên nọ sang đầu vú bên kia rồi gấp đôi lại, lại lấy một đoạn khác, cắt bằng cái dây gấp đôi nọ. Tức là có ba đoạn bằng nhau. Rồi đem ra sau lưng, để một đầu vào giữa xương Đại chùy (tức huyệt Bạch lao, một cục xương nó liền với cổ), buông đầu kia xuống dọc đường xương sống, còn hai đầu dây kia chẽ ra hai bên. (Đầu dây nọ cách đầu dây kia ba tấc, tức từ đường xương sống ra đến đầu dây kia, mỗi bên một tấc năm phân). Tại nơi đầu dây hai bên đó, là huyệt Phế du. Cứ để in đầu dây giữa thế, quặt xuống đo một lần nữa, chỗ chỉ của hai đầu dây hai bên sẽ là Tâm du; lại đo xuống lần nữa, tại hai đầu dây hai bên, bên tả là Can du, bên hữu là Tỳ du; lại đo quặt xuống một lần nữa, tại hai đầu dây hai bên là Thận du. Đó là du huyệt của năm Tàng, muốn dùng phương pháp "cứu, thích" phải theo phương pháp đo thế.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Tư 30, 2018, 11:54:56 AM
Châm và lấy huyết ở các kinh

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Thích ở huyệt kinh Dương minh, cho tiết bớt khí huyết, thích ở huyệt kinh Thái dương, cho tiết bớt huyết, không nên để cho tiết khí; thích huyệt ở kinh Thiếu dương cho tiết bớt khí, không nên để cho tiết huyết; thích huyệt ở kinh Thái âm cho tiết bớt khí, không nên để cho tiết huyết; thích huyệt ở kinh Thiếu âm cho tiết bớt khí, không nên để cho tiết huyết; thích ở huyệt kinh Quyết âm cho tiết bớt huyết, không nên để cho tiết khí.



Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Năm 04, 2018, 07:16:48 AM
Thần của con người

(http://chinesehoroscop-e.com/face-reading/pictures/fa%20ling%20lines%20meaning.jpg)

 Thần của thân người, cần phải được dấu kín mà tác dụng ngầm ở trong, nếu hiện ra ngoài thời trong phải hư. Sách tướng nói: "Mặt mơn mởn như hoa đào, mắt long lanh như nước mùa thu, ấy là thần không giấu kín, phần nhiều chết non. Lại nói: hình dung kỳ quái, bộ mặt gân guốc, mới thấy đáng khinh đáng ghét, trông lâu nghiễm nhiên có thần, ấy là tướng thượng cách quý thọ". Cho nên có thể biết rằng thần sắc của con người không nên lộ ra ngoài. Ba thứ báu của người ta là tinh, khí, thần, làm chúa tể cho thân thể, nó ở trong tâm, hiện ra ở mắt. Nội kinh nói: "Quân chủ không sáng suốt, thời 12 cơ quan đều nguy", đó là thần không giữ được chỗ ở.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Năm 09, 2018, 03:18:46 PM
KHÁI LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

  - Chứng trạng của Phế khái, khái mà thở suyễn thành tiếng, quá lắm thời nhổ ra huyết. Chứng trạng của Tâm khái, khái thời Tâm thống, trong cuống họng vướng mắc như nghẹn, quá lắm thời yết thũng, hầu tý. Chứng trạng của Can khái, khái thời hai hiếp đau, quá lắm thời không thể trở mình, trở mình thời dưới khư (dưới hiếp, tức lá lách) đầy. Chứng trạng của Tỳ khái, khái thời hữu hiếp đau, đau âm ỷ lên cả vai và lưng, quá lắm thời không thể cử động, cử động thời khái. Chứng trạng của Thận khái, khái thời đau nhức cả vai lưng, quá lắm thời khái ra dãi dây.

  - Năm Tàng mắc khái lâu, sẽ đi sang sáu Phủ. Tỳ khái không dứt, thời di sang Vị. Chứng trạng của Vị khái, lúc khái thường nôn, quá lắm nôn cả ra giun. Can khái không dứt, thời di sang Đởm. Chứng trạng của Đởm khái, lúc khái nôn cả đởm chấp (chua, đắng). Tâm khái không dứt, thời di xuống Tiểu trường. Chứng trạng của Tiểu trường khái, lúc khái thời thất khí (trung tiện), khí với khái đều mất. Thận khái không dứt, di sang Bàng quang. Chứng trang của Bàng quang khái, lúc khái thời di niệu (són đái). Khái lâu không dứt thới di tới Tam tiêu. Chứng trạng của Tam tiêu khái, lúc khái thời phúc mãn, không muốn uống ăn. Chứng đó đều tụ ở Vị, liên quan lên Phế, khiến bệnh nhân sinh nhiều nước mũi, nước dãi, mặt phù thũng, do khí nghịch gây nên...

 - Trị Tàng thời trị ở Du, trị Phủ thời trị ở Hợp, nếu phù thũng thời trị ở Kinh.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Năm 12, 2018, 10:46:40 AM
Cử thống

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Hàn khí ký túc ở ngoài mạch thời mạch hàn, mạch hàn thời co quắp, co quắp thời cân cấp, do đó bên ngoài dẫn tới các tiểu lạc, cho nên thốt nhiên đau. Được hơi nóng thời đau khỏi ngay. Nếu lại phạm thêm khí hàn, thời chứng đau sẽ phải lâu.

Hàn khí ký túc ở trong kinh mạch, cùng khí nóng xung đột lẫn nhau, khiến cho mạch đầy ràn. Vì đầy ràn nên đau không thể đấm bóp.

Hàn khí ngưng trệ, khí nóng ngược lên, do đó mạch đầy lớn mà khí huyết loạn, cho nên đau không thể đấm bóp.
Hàn khí ký túc ở khoảng Trường vị, phía dưới mạch nguyên, huyết không dẫn đi được, các tiểu lạc co rút, cho nên đau, đấm bóp thời khí huyết tan rã đi, nên đỡ đau.

Hàn khí ký túc ấy ở mạch xương sống, cho nên án mạnh tay xuống cũng không tới, nên dù có đấm bóp cũng vô ích.
Hàn khí ký túc ở Xung mạch, Xung mạch khởi Quan nguyên, theo "phúc bộ" dẫn lên. Hàn khí ký túc thời mạch không thông, mạch không thông khiến cho khí nghẽn lên ở hung nên suyễn và mạch động bật lên tay.

Hàn khí ký túc ở mạch Bối du, khiến cho mạch xáp (dịt), mạch xáp thời huyết hư, huyết hư thời đau. Du đó rót vào Tâm, cho nên cùng rút mà đau. Đấm bóp thời hơi nóng dẫn được đến, nên khỏi đau.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Năm 26, 2018, 10:43:22 AM
...
 
 Bối với Tâm cùng rút nhau vào mà đau, nên trị ở Thiên đột, Thập trùy với Thượng ký. Thượng ký tức là Vị quản; Hạ ký tức là Quan nguyên.

... "Lưỡng hài" và "Áp trung" hai huyệt, tức là huyệt Dương lăng toàn của túc Thiếu dương. Phàm khí của mười một Tàng, Phủ đều "thủ quyết" ở Đởm, vì Thiếu dương chủ về cái khí sơ sinh. Cho nên về khí hàn nhiệt, chuyên "lấy" ở Lưỡng hài và Áp trung... Đủ chứng tỏ rằng: Dù ở Tàng, dù ở Phủ, cái tà hàn nhiệt đều theo khí của Thiếu dương để thăng giáng.



Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Năm 26, 2018, 05:30:39 PM
...

 Chứng thử lậu, phát hàn nhiệt, thích ở Hàn phủ. Huyệt Hàn phủ tại gần huyệt Giải vinh ở đầu gối.... muốn lấy ở túc Tâm thì bảo quỳ (Túc tâm tức là huyệt Dũng toàn)

... Nếu thượng khí trở thành tiếng, trị ở giữa hầu, hoặc tại giữa Khuyết bồn. Nếu bệnh xung lên hầu, nên trị ở Tiệm. Tiệm là nơi phân chi của Đốc mạch, ở gần mép.

... Đầu gối như bận bịu khó co duỗi, nên trị ở “Kiền”; ngồi mà đầu gối đau, nên trị ở “Cơ” (Kiền với Cơ là chỗ cơ quan, khớp xương). Đứng mà thấy nóng ở trong xương, nên trị ở Hành gian. Đầu gối đau, đau suốt xuống ngón chân cái, nên trị ở Quắc trung. Ngồi mà đầu gối đau như vật gì bám vào nên trị ở Quan. Đầu gối đau không thể co duỗi nên trị ở Bối nội. Đầu gối đau suốt xương ống như muốn gãy, trị ở Dương minh, Trung du dao. Nếu muốn trị sang nơi khác thì trị ở Cự dương, Thiếu âm doanh. Ống chân đau nhức không thể đứng lâu, trị ở Duy của Thiếu dương, huyệt này tại trên ngoại khỏa 5 tấc.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 07, 2018, 08:17:36 AM
CHÂN YẾU ĐẠI LUẬN

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

... Các chứng hàn thâu dẫn (co rút) đều thuộc về Thận; các chứng khí phẫn uất đều thuộc về Phế; các chứng thấp sinh ra thũng mãn đều thuộc về Tỳ; các chứng nhiệt sinh ra mâu muộn, khiết túng đều thuộc về Hỏa; các chứng đau ngứa, lở láy đều thuộc về Tâm; các chứng quyết gây nên cố, tiết đều thuộc bộ phận dưới; các chứng nuy và suyễn, ẩu đều thuộc bộ phận trên; các chứng cấm khẩu, run rẩy, như mất tinh thần đều thuộc về Hỏa; các chứng kinh hạng cường (cổ cứng đờ) thuộc về thấp; các chứng nghịch xung lên đều thuộc về Hỏa; các chứng trướng, bụng to vượt đều thuộc về nhiệt; các chứng táo cuồng dại đều thuộc về Hỏa; các chứng bạo cường trực (người nằm thẳng đờ) đều thuộc về phong; các chứng trong bụng réo thành tiếng, vỗ vào như trống, đều thuộc về nhiệt; các chứng xương đau, nhức nhối âm ỷ, kinh hãi, đều thuộc về Hỏa; các chứng chuyển bào, phản lệ (tức là chứng lệch bóng đái), nước tiểu đục, lầm, đều thuộc về nhiệt; các chứng thủy dịch trong vắt, lạnh lẽo, đều thuộc về hàn; các chứng nôn ọe, thổ ra nước chua; bạo chú, hạ bách (dồn gấp xuống, tức kiết lỵ) đều thuộc về nhiệt. Cho nên nói: Cần giữ bệnh cơ, đều "tư" về liên thuộc với nó; có, thời cầu ở có; không, thời cầu ở không; thịnh, trách ở thịnh; hư, trách ở hư. Phải được ở thắng của năm Tàng, sơ thông khí huyết cho được điều đạt, để đưa đến mực hòa bình... Đó là chính đạo.

 ...

 - Quân một, thần hai, là chế nhỏ; quân một, thần ba, tá năm, là chế hạng trung; quân một, thần ba, tá chín, là chế hạng đại.

 Bệnh hàn thời trị bằng nhiệt, bệnh nhiệt thời trị bằng hàn; bệnh vi thời dùng phép nghịch, bệnh thậm thời dùng phép tùng, bệnh kiên thời tước (như đẽo, xén) đi; là khách thời trừ đi; lao thời dùng phép để ôn, kết thời dùng phép để tán, lưu thời dùng phép để công, táo thời dùng phép để nhuận (như cũng thế); cấp thời làm cho hoãn, tán thời làm cho thâu, tổn thời làm cho ích, giật thời làm cho hành, kinh thời làm cho bình... Hoặc làm cho thượng (dẫn lên), hoặc làm cho hạ (dẫn xuống), hoặc ma (xoa bóp), hoặc dục (tắm, ngâm), hoặc bách (dồn vào), hoặc hiếp (cướp bỏ bệnh đi, một phương pháp mãnh liệt), hoặc khái, hoặc phát. Đều làm cho đúng "mực" thì thôi.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 11, 2018, 11:14:36 AM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Trăm bệnh sinh ra, không vượt ra ngoài sự hóa của sáu khí. Như cảm phải phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa... mà sinh ra bệnh, tức là bệnh sinh ra bởi sáu khí của trời. Sáu khí của trời, gây nên bệnh ở người, mà trong thân con người, lại có cái hóa của sáu khí. Như chứng trúng phong thuộc về Dương tà của trời. Phạm vào cơ biểu của con người thì sinh ra các chứng phát nhiệt, khái, xị; tại gân xương thì thành chứng câu loan; tại trường, vị thì thành chứng hạ lỵ, xôn tiết, hoặc thành chứng táo kiết, bế long; hoặc trực trúng vào trong thì thành chứng hoắc loạn, ẩu nghịch, hoặc là quyết lãnh âm hàn. Đó là khí hóa của biểu, lý, âm, dương. Như cảm vào khí dương nhiệt của con người, thì thành bệnh nhiệt, cảm vào khí âm hàn của con người, thì thành bệnh hàn; cảm vào khí thủy thấp của con người, thì thành đàm, suyễn; cảm vào táo khí của con người, thì thành chứng tiện nan.
 
 ... Lý Đông Viên cũng nói: Những vị chủ bệnh là quân dược. Tỷ như: trị chứng phong, dùng Phòng phong làm quân; trị nhiệt ở thượng tiêu, Hoàng cầm làm quân; trị nhiệt ở Trung tiêu, Hòang liên làm quân; trị thấp, Phòng kỷ làm quân; trị hàn, Phụ tử làm quân v.v... Rồi nhận xem kiêm kiến những chứng gì, thì dùng các vị thuộc về chứng ấy làm tá, sứ...

 Như trúng vào Phủ, thì bạo hóa mà "vụt" không biết gì; trúng vào Tàng thời lưỡi rụt mà nói ra không được, miệng xì bọt dãi... Lại như thương hàn, thuộc về Âm tà của trời; hoặc trúng vào âm, hoặc trúng vào dương; có khi trúng vào dương mà bệnh lại hàn; có khi trúng vào âm mà bệnh lại nhiệt. Thế là trong con người, trong âm có dương, trong dương có âm và có cả khí hóa của tiêu, bản, âm, dương vậy.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 12, 2018, 06:07:01 PM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Phế khí hư thời khiến người mộng thấy bạch vật (các vật trắng, thuộc loài kim), thấy chém người máu chảy; nếu đắc thời, thời mộng thấy chiến binh.

 Thận khí hư thời khiến người mộng thấy thuyền và người bị đắm đuối; nếu đắc thời, thời mộng nằm trong nước, như bị sợ hãi.

 Can khí hư thời mộng thấy cỏ cây nảy nở; nếu đắc thời, thời mộng tựa dưới gốc cây không dám đứng dậy.

 Tâm khí hư mộng thấy đi cứu đám cháy; nếu đắc thời, thời mộng thấy lửa sáng rực trời.

 Tỳ khí hư thời mộng thấy uống ăn không đủ; nếu đắc thời, thời mộng đắp tường, lợp nhà.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 16, 2018, 07:55:19 AM
Tượng

(https://i.imgur.com/xiqik8Z.png)

 Ở đất hành Thủy thì ở trời là khí hàn; ở đất là hành Hỏa, ở trời là khí thử; ở đất là hành Kim, ở trời là khí táo; ở đất là hành Thổ, ở trời là khí thấp; ở đất là hành Mộc, ở trời là khí phong… Đó là sự ứng tượng vậy.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 16, 2018, 07:56:46 AM
Ngũ vị

(https://i.imgur.com/xiqik8Z.png)

 Dùng vị toan khổ mà đến thái quá thì âm sẽ thắng. Âm thắng thì về dương phận ở trong con người không địch được với âm hàn, do đó dương sẽ mắc bệnh. Dùng vị tân cam mà đến thái quá thì dương sẽ thắng. Dương thắng thì âm phận ở trong con người không địch nổi với dương nhiệt, do đó âm sẽ mắc bệnh.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 16, 2018, 07:57:40 AM
Bốn mùa trong một ngày

(https://i.imgur.com/xiqik8Z.png)

 Từ gà gáy tới sáng sớm, Dương khí mới phát triển, ứng với cái khí xuân sinh, cho nên thuộc về dương ở trong âm; từ sáng sớm đến đúng trưa, Dương khí đương lúc thịnh ứng với cái khí Trưởng hạ, cho nên thuộc về dương ở trong dương; từ đúng trưa đến hoàng hôn, Dương khí mới bắt đầu suy, ứng với cái khí mùa thu, cho nên thuộc về âm ở trong dương; từ chập tối đến gà gáy, Dương khí thu về bên trong, ứng với khí mùa đông, cho nên thuộc về âm ở trong âm. Cho nên nói rằng: trong một ngày có bốn mùa vậy.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 19, 2018, 08:20:19 AM
Mười hai kinh mạch ứng với mười hai giáp

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 “Bốn kinh” là tượng mạch chính của bốn mùa, như: mạch mùa xuân thời huyền, mạch mùa hạ thời câu, mạch mùa thu thời mao, mạch mùa đông thời thạch. Bốn thứ kinh mạch đó để ứng theo với khí của bốn mùa. Mười hai “tùng” là chỉ về cái khí ba kinh dương, ba kinh âm của thủ và túc (tùng nghĩa là theo). Bắt đầu từ thủ Thái âm thuận hành đến Quyết âm, để ứng với 12 tháng. Tỷ như: Thủ Thái âm ứng với tháng giêng, là tháng Dần; Thủ Dương minh ứng với tháng hai,là tháng Mão; Túc Dương minh ứng với tháng ba, là tháng Thần (Thìn); Túc Thái âm ứng với tháng tư, là tháng Tỵ; Thủ Thiếu âm ứng với tháng năm, là tháng Ngọ; Thủ Thái dương ứng với tháng sáu, là tháng Vị (Mùi); Túc Bàng quang ứng với tháng bảy, là tháng Thân; Túc Thiếu âm ứng với tháng tám, là tháng Dậu; Thủ Quyết âm ứng với tháng chín, là tháng Tuất; Thủ Thiếu dương ứng với tháng mười, là tháng Hợi; Túc Thiếu dương ứng với tháng mười một, là tháng Tý,; Túc Quyết âm ứng với tháng mười hai, là tháng Sửu. Mười hai mạch là kinh mạch của sáu Tàng sáu Phủ. Cái khí của ba kinh âm, ba kinh dương ứng với mười hai tháng; Mười hai tháng lại ứng với mười hai mạch.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 23, 2018, 06:03:57 PM
Năm khí tức là: Tảo (hôi), tiêu (hắc), hương (thơm), tinh (tanh), hủ (húc, mục nát).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 23, 2018, 06:10:37 PM
Tiết khí

(https://i.imgur.com/NxE4rbP.png)

Tháng Mạnh xuân về tiết Lập xuân: Năm ngày lúc bắt đầu, gió Đông làm tan nước đóng váng. Năm ngày thứ hai, chập trùng mới cưa quậy. Năm ngày cuối, cá nhảy lên khỏi mặt nước băng.

 Tiết Vũ thủy: Năm ngày lúc bắt đầu, rái cá tế cá. Năm ngày thứ hai, chim hồng nhạn về, từ phương Nam bay sang phương Bắc. Năm ngày cuối, cỏ cây mới nảy mầm.

 Về Trọng xuân: Năm ngày lúc bắt đầu, đào mới nở hoa. Năm ngày thứ hai, chim thương canh (tu hú) kêu. Năm ngày cuối, chim ưng hóa thành chim kíu.

 Tiết Xuân phân: Năm ngày lúc bắt đầu, chim "huyền điểu" (tức là chim én) đến. Năm ngày thứ hai, sấm mới động, cây thược dược tốt. Năm ngày cuối, mới có chớp.

 Tháng Quý xuân, tiết Thanh minh: Năm ngày lúc bắt đầu, ngô đồng (tức cây vông) mới nở hoa. Năm ngày thứ hai, chuột đồng hóa làm chim dẽ, mẫu đơn nở hoa. Năm ngày cuối, cầu vồng mới phát hiện.

 Về tiết Cốc vũ: Năm ngày lúc bắt đầu, bèo mới nở. Năm ngày thứ hai, chim minh cưu vỗ cánh bay. Năm ngày cuối chim đái thắng tới làm tổ ở cây dâu.

 Về tháng Mạnh hạ, tiết Lập hạ: Năm ngày lúc bắt đầu, giun đất kêu. Năm ngày thứ hai, giun ở dưới đất mới bò lên. Năm ngày cuối, dây bầu mới mọc.

 Về tiết khí Tiểu mãn: Năm ngày lúc bắt đầu, rau khổ thái mới tốt. Năm ngày thứ hai, các loài cỏ lá mềm chết dần. Năm ngày cuối cùng lúa chín dần.

 Tháng Trọng hạ, tiết Mang chủng (tức là măng mọc): Năm ngày lúc bắt đầu, sâu bọ ngựa mới nở. Năm ngày thứ hai, chim khuyến cốc kêu. Năm ngày cuối, chim bách thiệt thôi không hót.

 Về khí Hạ chí: Năm ngày lúc bắt đầu, sừng hươu mới rụng. Năm ngày thứ hai, ve mới kêu. Năm ngày cuối cùng, cây bán hạ mọc, cây mộc cận tốt (tức ta gọi là cây ông bụt hay dâm bụt).

 Về tháng Quý hạ, tiết Tiểu thử: Năm ngày lúc bắt đầu, ôn phong (tức gió ấm) thổi đến. Năm ngày thứ hai, dế làm tổ ở dưới vách. Năm ngày cuối cùng, chim ưng mới tập lượn.

 Về khí Đại thử: Năm ngày lúc bắt đầu, cỏ nát hóa làm đom đóm. Năm ngày thứ hai, đất ẩm, oi bức. Năm ngày cuối thường có mưa to.

 Về tháng Mạnh thu, tiết Lập thu: Năm ngày lúc bắt đầu, gió mát thổi lên. Năm ngày thứ hai, bạch lộ (tức là móc trắng mới nhỏ xuống). Năm ngày cuối hàn thuyền mới kêu.

 Về khí Xử thử: Năm ngày lúc bắt đầu, chim ưng mới tế cá. Năm ngày thứ hai, trời đất mới trong sáng và “hanh”. Năm ngày cuối, lúa đã phơi khô.

 Về tháng Trọng thu, tiết Bạch lộ: Năm ngày lúc bắt đầu, gió mạnh thường thổi đến, chim hồng nhạn bay lại. Năm ngày thứ hai, chim huyền điều bay về. Năm ngày cuối, các loài chim để dành thức ăn.

 Về khí Thu phân: Năm ngày lúc bắt đầu, sấm mới thôi không động. Năm ngày thứ hai, các loài sâu đất mới chui vào tổ, trấn hỏa thảo mới nở hoa. Năm ngày cuối, nước khan dần.

 Tháng Quý thu, tiết Hàn lộ: Năm ngày lúc bắt đầu, chim hồng nhạn lai tân (tân tức là khách, về tháng Trọng thu đã có một loài chim hồng nhạn đến rồi, đến tháng này chim hồng nhạn lại đến. Vậy loạt đến trước là chủ mà loạt đến sau này là khách, nên gọi là lai tân). Năm ngày thứ hai, chim tước vào nước hóa làm con trai. Năm ngày cuối, cúc mới nở hoa.

 Về khí sương giáng: Năm ngày lúc bắt đầu, giống sài (chó sói) mới tế loài thú. Năm ngày thứ hai, cỏ cây rụng lá. Năm ngày cuối, giống chập trùng đều ẩn nấp.

 Tháng Mạnh đông, tiết Lập đông: Năm ngày lúc bắt đầu, nước mới thành băng. Năm ngày thứ hai, đất mới nứt nẻ, chim trĩ bay xuống biến hóa làm loại Thận (tức Thận khí, giải nghĩa quá dài, xin để về đoạn khác).

 Về khí Tiểu tuyết: Năm ngày lúc bắt đầu, cầu vồng thôi không xuất hiện. Năm ngày thứ hai, khí đất bốc lên, khí trời giáng xuống. Năm ngày cuối, mọi sự đều vít lấp mà thành mùa đông.

 Tháng Trọng đông, tiết Đại tuyết: Năm ngày lúc bắt đầu, nước băng càng cứng thêm, đất mới nứt to, chim hạt đám kêu thâu đêm. Năm ngày thứ hai, hổ mới giao cấu. Năm ngày cuối, rau vân (tức là rau mần tưới) mới mọc, lệ chi (tức là quả vải), mới nở hoa.
 
 Về khí Đông chí: Năm ngày lúc bắt đầu, loài giun mới lẩn sâu. Năm ngày thứ hai, sừng nai rụng. Năm ngày cuối, nước suối mới đông.

 Tháng Quý đông, tiết Tiểu hàn: Năm ngày lúc bắt đầu, chim nhạn bay về phương Bắc. Năm ngày thứ hai, chim thước (tức bồ các, lành khách) mới làm tổ. Năm ngày cuối, chim trĩ mới kêu.

 Về khí Đại hàn: Năm ngày lúc bắt đầu, gà mới ấp. Năm ngày thứ hai, chim mới bay vụt nhanh. Năm ngày cuối, nước đóng đặc xuống tận đáy…


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Bảy 25, 2018, 11:02:56 PM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

 Ăn nhiều vị mặn thì Thủy vị thái quá mà làm thương đến Tâm, do đó mạch sẽ đọng xít mà sắc biến. Ăn nhiều vị đắng thì vị Hỏa thái quá mà làm thương Phế, do đó bì sẽ khô mà mao rụng. Ăn nhiều vị cay thì Kim vị thái quá mà làm thương đến Can, do đó cân sẽ co rút mà trảo khô khan. Ăn nhiều vị chua thì Mộc vị thái quá mà làm thương đến Tỳ, do đó thịt sẽ dồn xúc lại mà môi rộp lên. Ăn nhiều vị ngọt thì Thổ vị thái quá mà làm thương đến Thận, do đó xương sẽ đau mà tóc rụng… Năm vị cốt để nuôi năm Tàng, Tàng này có sự “thiên thắng”, thì cái Tàng không thắng kia sẽ bị thương… Vậy nên cái sự “thừa, chế” ta không nên để cho có lúc thái quá.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Chín 13, 2018, 11:12:37 AM
(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Mặt là nơi hội tụ của các kinh dương. Tà khí thường thừa hư như vừa làm mệt, hoặc ăn uống ra mồ hôi hoặc tấu lý khai (Vệ khí yếu) để tấn công cơ thể. Trúng ở mặt là vào kinh Dương minh ở chân. Trúng ở gáy là vào kinh Thái dương ở chân. Trúng ở má là vào kinh Thiếu dương ở chân, nếu trúng vào lưng ngực cạnh sườn thì (tùy vị trí) vào (từng đường) kinh (khác nhau trong 3 kinh dương ở chân).

........

Bệnh ở Đại trường, đau trong ruột và sôi bụng, mùa đông lạnh nếu lại bị lạnh sẽ ỉa chảy, đau vùng rốn không thể đứng lâu được. Đại trường đồng khí với Vị, nên lấy huyệt (du ở dưới) Thượng cự hư để chữa.

Bệnh của Vị, ngực bụng đầy tức, đau ở vị quản, cạnh sườn hoành, họng bị tắc không thông, ăn uống không được, lấy huyệt Túc tam lý để chữa.

Bệnh của Tiểu trường, đau bụng dưới, đau xuyên lưng, tinh hoàn, có lúc ỉa đái không lợi, trước tai nóng hoặc chỉ có vai rất nóng và nóng ở giữa ngón út và đeo nhẫn, hoặc kinh mạch suy lõm xuống. Đó là những chứng của tiểu trường, có thể lấy huyệt Hạ cự hư (hợp dưới) để chữa.

Bệnh của tam tiêu: Bụng đầy khí (trệ), bụng dưới cứng, không đái được làm người bệnh mót đái quẫn bách, nước tràn ra nên bị phù làm thành trướng, nó biểu hiện ra ở đại lạc của túc Thái dương, đại lạc nằm ở giữa Thái dương và Thiếu dương, có thể thấy phản ứng của kinh mạch, phải dùng huyệt Ủy dương để chữa.

Bệnh của Bàng quang, bụng dưới hơi thũng (phù) và đau, ấn chỗ đau thì muốn đái nhưng không đái được, nóng ở tai, có thể mạch lõm xuống; dùng huyệt Ủy trung để chữa.

Bệnh của Đởm, hay thở dài, mồm đắng, nôn ra mật đắng, tâm thần bất an ủy mị, lo sợ người ta đến bắt mình, họng như vướng cái gì luôn muốn khạc ra. Ở huyệt gốc của kinh túc Thiếu dương nếu thấy mạch lõm xuống thì dùng cứu. Còn nếu thấy chứng hàn nhiệt vãng lại thì dùng huyệt (hợp của kinh) Dương lăng tuyền để chữa.

Hoàng đế: Cách châm các huyệt đó như thế nào?

Kỳ Bá: Trước hết phải châm trúng huyệt, không châm vào nhục tiết (cơ khớp). Châm trúng huyệt thì dọc kinh sẽ có cảm giác. Còn châm vào cơ khớp thì da bị đau. Nếu bổ tả ngược với bệnh thì bệnh sẽ nặng lên. Nếu châm trúng gân sẽ làm thương gân, vận động khó, tà khí không ra ngược lại, lại đấu tranh với chân khí và vào sâu thêm. Nếu dùng châm không cẩn thận, thì đã biến thuận thành nghịch vậy. Đó là hậu quả của châm sai.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 02, 2018, 10:15:42 AM
Huyệt không phổ thông

* Huyệt Quỷ lục: ở chính giữa trong môi trên, trên sợi dây đàn ở đó, dùng dao thép cắt đứt ra càng tốt.

* Huyệt Thừa mệnh: ở phía sau mắt cá trong đi lên 3 thốn, trên chỗ mạch đập.

* Huyệt Lý lặc ở sườn 11.

* Huyệt Tạng du: Ở mỏm gai đốt sống lưng thứ 5.

* Huyệt Giáp xa còn có tên là Cơ quan.

* Thượng môn, huyệt ở cạnh Cự khuyết, hai bên cách đều nửa thốn (Nhất nói 1 thốn).

* Biển cốt (tức Kiên ngung).

* Bàng đình: Ở khe sườn 4 dưới nách, cao thấp ngang bằng với vú, sau vú hai thốn, giữa chỗ lõm, tên tục là Chú thị (Giơ nách lên mà lấy huyệt).

* Cửu húc trung phủ: Tại Bàng đình, Chú thị xuống 3 thốn.

* Huyệt Lã tiêm: Ở đầu khớp gốc ngón giữa tay.

* Huyệt Thận giao: Huyệt ở giữa nếp ngang dưới rốn.

* Huyệt Ngọc tuyền: Là huyệt Trung cực.

* Huyệt Long môn (Hạ Khúc Cốt, Ngọc Môn, Tiền Âm, Tiền Hội Âm, Tuyền Môn): Bờ dưới điểm giữa của xương mu.

* Huyệt Bào môn: Ở bên trái Quan nguyên 2 thốn là huyệt.

* Huyệt Khí môn: Cách quan nguyên 3 thốn là huyệt.

* Huyệt Lậu âm: Ở mắt cá trong xuống 5 phân trên động mạch nhẹ.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười 26, 2018, 10:28:50 AM
Chữa ho

(https://i.imgur.com/XhxttT8.jpg)

Phép chữa ho ngược lên lâu ngày, dưới vú hơn một bề ngang ngón tay, ở trong khe lõm gian sườn thẳng ngang với vú. Đàn bà thì gập đầu vú lại làm mức đo, ngang đầu vú là huyệt, mồi lớn hơn hạt đậu xanh một ít, cứu 3 mồi, trai thì bên trái, gái thì bên phải, chỉ một chỗ, lửa đến thịt là khỏi ngay.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 01, 2018, 10:08:25 AM
Đau bụng

(https://hregulator.net/wp-content/uploads/2016/05/dau-bung-kinh.jpg)

Tiểu kiến trung thang trị bụng đau như thần “Phương lương”.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 02, 2018, 06:42:45 AM
Huyệt Ốc ế

(https://www.phuctamduong.com/uploads/news/2015_12/oc-e_01.jpg)

Chủ mình sưng, da đau không thể đụng được vào áo, động kinh, tê bại (bất nhân).


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 12, 2018, 03:35:07 PM
(http://cafefcdn.com/thumb_w/640/2017/photo-0-1513822875247.jpg)

- Trị ngón tay, chân xiết đau không chịu được: Cứu đầu chót ngón 7 mồi, khỏi ngay.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 18, 2018, 10:53:55 AM
Tạp bệnh ở chân

(https://top10meohay.com/wp-content/uploads/2017/05/10-1.png)

* Phàm đau trong khu hông, không giơ lên được, lấy hào kim để lạnh mà lưu, lấy mặt trăng sinh tử làm số, khỏi ngay.

* Khâu khư: Chủ khu hông và bàn chân đau.

* Dương phụ: Chủ khu hông không hoạt động được (xem: Chân tê bại).

* Bệnh đầu gối trở lên nên cứu Hoàn khiêu, Phong thị.

* Bệnh đầu gối và dưới đầu gối, nên cứu Độc tỵ, Tất quan, Tam lý, Dương lăng tuyền.

* Bệnh từ mắt cá chân trở lên, nên cứu Tam âm giao, Tuyệt cốt, Côn lôn.          .

* Bệnh từ mắt cá chân trở xuống, nên cứu Chiếu hải, Thân mạch, nhưng cần ấn chỗ nào buốt đau chỗ đó mới hiệu quả.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 22, 2018, 10:10:07 AM
(https://media.alobacsi.com/Images/Uploaded/Share/2016/11/29/a99Dau-dau-goi-co-chan-di-lai-kho-khan.jpg)

Chữa chân bại, ống chân đầu gối đau, thắt lưng và chân co gấp, chân lạnh, không thể đứng lên được, chân tay chìm nặng, ngày càng thấy gầy còm, đó gọi tên là bệnh Phục liên, nên cứu Huyền chung (Tuyệt cốt). Xem thêm: Thấp bại ở “Thiên kim”.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 23, 2018, 09:19:18 AM
(https://www.phuctamduong.com/uploads/news/2014_08/an-mon_01.jpg)

Ủy dương, Ân môn chủ lưng dưới đau, cúi được mà không ngửa được.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 29, 2018, 10:02:55 AM
(https://nld.mediacdn.vn/zoom/700_438/2014/bi-cuom-mat-nen-uong-thuoc-hay-bat-buoc-phau-thuat-1406520025894.jpg)

* Mắt hơi rít đau, hoặc hai bên sinh hạt châu nhỏ như hạt gạo, nhổ ngay lông mí đi, tự nó khỏi, không cần châm cứu.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Hai 14, 2018, 10:04:40 AM
Phong môn:  Hay khịt mũi

Thiếu xung: Bàn tay co không duỗi

Ngư tế: Lưng trên đau không thở được.

Phục thỏ: Chữa mọi bệnh tật ở 8 bộ của người đàn bà.

Kiên tỉnh: Đàn bà sẩy thai xong, đờ người ra, quyết nghịch, châm  khỏi ngay, cứu càng thắng châm, có thể cứu 7 mồi.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: Đom Đóm trong Tháng Một 17, 2019, 11:04:09 AM
Khổ tửu: là dấm

(https://ameovat.com/wp-content/uploads/2017/12/cach-lam-dam-chuoi-4-600x374.png)



Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Hai 09, 2019, 05:54:03 PM
(https://vinmec-prod.s3.amazonaws.com/images/20190606_103006_158542_benh-dau-mua.max-800x800.jpg)

Hoa trái: tức bệnh Đậu mùa.


Tiêu đề: Re: Nhặt nhạnh
Gửi bởi: tuhaibajai trong Tháng Mười Một 08, 2022, 05:20:17 PM
Ngũ khí thiên

(http://thegioihoanmy.vn/home/Uploads/PW2/Image/Baochi/gamek/2013/game-online-3d-big-update-linhmach6.jpg)

Sự dẫn vào Tàng của năm vị: Toan vào Can, Tân vào phế, Khổ vào Tâm, Hàm vào Thận, Cam vào Tỳ.

Năm khí gây bệnh: Tâm phát ra chứng nấc; Phế đưa ra chứng khái; Can đưa ra chứng nộ, muốn nói luôn; Tỳ phát ra chứng miệng thường phải nuốt nước miếng; Thận phát ra chứng hay vươn vai và hắt hơi; Vị phát ra chứng khí nghịch, chứng ọe (ợ) và chứng khủng (sợ); Đại trường, Tiểu trường phát ra chứng tiết (tả); Hạ tiêu ràn thành chứng thủy; Bàng quang không lợi thành chứng long (tiểu tiện vít, đau), hoặc bất cước (tức tiểu tiện bất cấm) và di niệu (són đái); Đởm phát ra chứng nộ. Đó là năm bệnh của năm Tàng, hợp với khí của năm hành.